CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
MỌI NGƯỜI SẼ NHẬN BIẾT ANH EM… (*) – Chú giải của Noel Quession 6
NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG- Chú giải của Fiches Dominicales. 15
HUẤN LỆNH YÊU THƯƠNG (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 19
GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 30
ĐIỀU RĂN MỚI- Chú giải của Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt 55
YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 67
XIN HIỆP NHẤT CHÚNG CON (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 71
ĐIỀU RĂN MỚI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 78
ĐỂ NHẬN RA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 83
TRỜI MỚI ĐẤT MỚI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 87
YÊU NHƯ THẦY- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 92
ĐIỀU RĂN MỚI – Trích Logos C.. 97
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Các ngài thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa”. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 144, 8-9. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
Xướng: Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
Xướng: Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
BÀI ÐỌC II: Kh 21, 1-5a
“Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: “Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi”. Và Ðấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự”.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 13, 34
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 13, 31-33a. 34-35
“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
“Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
Ðó là lời Chúa.
MỌI NGƯỜI SẼ NHẬN BIẾT ANH EM… (*) – Chú giải của Noel Quession
Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người “ra đi”: đó là di chúc tinh thần của Ngài.
Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự… như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.
Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì’ cần phải diễn tả… lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.
Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm… chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài… để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ “không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.
Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.
Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây… sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của “các vật chưa hoàn tất”), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.
Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào “nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của “kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính “Đấng chịu đóng đinh” đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? “Không có tình yêu nào lớn hơn” (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.
Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi
Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”
Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể… nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1 Ga 4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một “sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế! Nếu thực là “Thiên Chúa đã chết”, thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết”. Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi “tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, “tình yêu bản thân” hay “tình yêu kẻ khác”? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: “Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó… nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
-Éros: Yêu mình… đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.
-Agapé: Yêu tha nhân… đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ một từ “như” đơn giản… nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là “hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương” (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.
Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: “Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa”. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự “khác biệt” của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, “kẻ khác” đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!
Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
-Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
-Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
-Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là “thể thức” thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng “Thời gian cuối cùng”, mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân ” và trao ban “giới răn mới quan trọng” như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn”. Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra”. Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: “Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện” có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.
Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà “mọi người” có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ “dẫn” chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
*1. Tiếng hô thắng trận.
Nằm ở giữa việc Đức Giêsu rửa chân và diễn từ sau tiệc ly, trong đó, nhiều ý tưởng lớn được Đức Giêsu đề cập đến, đoạn Tin Mừng này bắt đầu, ngay khi Giuđa vừa đi khỏi, bằng tiếng hô thắng trận của Đức Giêsu: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”. X. Léon-dufour chú giải: “Từ lúc này trở đi, Đức Giêsu thấy cái chết đã theo ngay sau Người, Người cảm thấy được Thiên Chúa tôn vinh độc giả cũng phải sống viễn cảnh và lắng nghe Đức Kitô vinh quang lên tiếng”
Tác giả đoạn chú giải vừa rồi viết tiếp: Từ “giờ đây” đánh dấu một thời điểm. Nó diễn tả một xác tín thuở đầu. Phục sinh xác nhận một giai đoạn mới. Vượt qua cái chết, “Giờ đây”, Đức Giêsu bước vào một khúc rẽ nhiệm mầu, bỏ lại sau những điều kiện bình thường của con người bị lệ thuộc vào thời gian, nghĩa là hiện tại chỉ phát xuất từ một quá khứ và hướng tới một tương lai mờ mịt. Từ giờ trở đi, hiện tại của Đức Giêsu là một hiện diện vĩnh cửu trong vinh quang Thiên Chúa”. (“Lecture de L’Evangile se lon saint Jean, quyển III, Seuil, trg 50-51)
*2. Từ “như” chỉ một cội nguồn.
Người ta thường trích lời Đức Giêsu: “Các con hãy thương yêu nhau”, nhưng lại hay bỏ nửa sau “như Thầy đã yêu thương các con”. Và nhiều người coi từ “như” này như một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi để bắt chước sự xử thế của Thầy mình.
Nhưng, liên từ “như” này của bản văn Tin Mừng không chỉ biểu thị sự so sánh, mà còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ mình. Có thể diễn dịch: “Các con hãy yêu thương nhau, theo như Thầy đã yêu thương các con”, hoặc… “Các con hãy yêu thương nhau… vì Thầy đã yêu thương các con để các con yêu thương nhau như Thầy”. Hoặc “Các con hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã yêu thương các con.” X. Léon-dufour chú giải: “Tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các ông. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ làm cho họ yêu thương anh em, và họ được mến yêu. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha”. (sđd, trg 82-83).
*3. Tính cách mới mẻ của giới luật yêu thương.
Yêu đồng loại. Cựu ước đã biết đến đòi hỏi này. Các triết gia ngoại giao trước Đức Giêsu đã rao giảng tình yêu tha nhân, cả đến tình yêu đối với thù địch.
Thế thì, tính cách mới mẻ trong giới răn yêu thương huynh đệ của Đức Giêsu là gì? điều mới mẻ này chính là nơi bản chất của tình yêu huynh đệ mà các môn đệ Đức Giêsu thể hiện: đó là tình yêu của chính đức Giêsu thể hiện nơi họ. X. Léon-dufour kết luận: “Một kỷ nguyên mới đã khởi đầu. Qua các môn đệ của Chúa Con mà tình yêu mạc khải từ nay hiện diện trong nhân loại… tình yêu nhau giữa các môn đệ sẽ tỏ bày cho mọi người, nghĩa là cho cả những người lân cận chưa tin – họ thuộc về Đức Kitô và nhờ Người mà nhân loại vượt qua cái chết để tới sự sống” (Sđd, trg 84-85).
BÀI ĐỌC THÊM:
*1. Hãy làm cho giới luật yêu thương sáng lên
Từ nay, qua việc chăm sóc người bất hạnh, người nghèo, Giáo Hội và các cộng đoàn tỏ bày tình thương của Thiên Chúa đối với con người và đồng thời tỏ bày ý hướng cứu rỗi họ. Phải, Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mệnh đem vào hiện hữu và lịch sử con người một luật có khả năng làm sống động nhân loại bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Luật ấy là thế này: Hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thiên Chúa biết thời đại chúng ta đang kêu gào lớn tiếng một luật sống khác với luật sống của máu lửa, sắt thép đang huỷ diệt khắp chốn. Hãy biết khiêm tốn để làm sáng lên trong đời chúng ta, trong nhiệm vụ của chúng ta, trong gia đình, cơ quan, nơi vui chơi giải trí, trong lãnh vực kinh tế, chính trị, một chút gì đó của giới luật yêu thương.
*2. Tình yêu-bác ái. lời giảng đầu tiên của việc Phúc Âm hoá
Chỉ vương quyền bác ái mới có thể thay đổi thế giới, mới biến hận thù thành yêu thương, chiến tranh thành hoà bình. Chỉ “hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con” mới có thể tạo lập một mẫu người và xã hội huynh đệ. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ cảm tính hay sùng mộ. Olivier Clément viết: Bác ái “không phải là đường mà là muối “. Ngôn từ của bác ái “không phải là bạc nhược, nhưng là tự chủ và dũng cảm”. Thế giới này nghĩ bác ái là điều khó và thậm chí không thể thực hiện được. Bác ái đích thực không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành sự phấn đấu trong cuộc sống, là tạo lập Công bình và Thẩm Mỹ.
Tình yêu, bác ái là công trình của lòng tin, là dấu chỉ hữu hình và cần thiết để chứng tỏ sự thuộc về Đức Kitô Phục sinh. Nó là lời giảng đầu tiên của việc Phúc âm hoá, là sự hiện diện trước tiên có thể cảm nhận được của Đức Kitô.
Nền văn minh tình yêu là một mầm cây được trồng nơi thửa đất gọi là Giáo Hội, là đầu cầu dẫn vào vương quốc, với điều kiện là trước hết, các Kitô hữu phải tập và có kinh nghiệm yêu thương nhau, rồi mới có thể yêu thương mọi người.
Tình yêu, bác ái là năng lực vô song làm cho con người và xã hội có được sức sống mới. Cuộc viếng thăm một hội đường Do Thái ở Rôma của Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng ta điều này. Công cuộc giải phóng của Kitô giáo phải hoàn toàn được hướng dẫn bởi tính năng động của giới luật yêu thương vĩ đại này.
HUẤN LỆNH YÊU THƯƠNG (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh đều làm chứng theo cách riêng của mình cái mới mẻ tận căn mà mầu nhiệm Phục Sinh đem lại.
Cv 14: 21-27
Bài Đọc I, trích từ sách Công Vụ, kể lại phần cuối cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô. Dân Thiên Chúa mặc lấy một diện mạo mới qua việc lương dân gia nhập Giáo Hội.
Kh 21: 1-5
Chủ đề lớn của sách Khải Huyền sắp đến hồi kết thúc: cuộc khải hoàn của Con Chiên Vượt Qua đã làm biến mất trời cũ đất cũ, thế giới tội lỗi. Thiên Chúa sáng tạo trời mới đất mới. Một Thành Thánh Giê-ru-sa-lem mới từ trời xuống để là nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại.
Ga 13: 31-35
Tin Mừng là phần đầu Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly, trong đó Chúa Giê-su ban cho họ một điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, nghĩa là, yêu thương nhau cho đến mức hiến dâng mạng sống mình cho nhau như Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì nhân loại. Điều răn mới này làm chứng Chúa Giê-su vẫn hiện diện ở giữa loài người.
BÀI ĐỌC I (Cv 14: 21-27)
Vào Chúa Nhật trước, sách Công Vụ kể lại phần đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô ở miền Tiểu Á (ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a); bản văn hôm nay kể lại phần cuối cuộc hành trình này.
Vì bận lòng củng cố những Hội Thánh còn non trẻ mà hai ông đã thiết lập, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba quyết định trở lại những thành phố ở đó họ đã bị bắt, trước khi trở về An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a, điểm khởi hành của họ. Hai ngài không còn rao giảng trong các hội đường, nhưng chỉ trong các cộng đoàn Ki-tô hữu, củng cố niềm tin của các tân tòng và khuyến khích họ can đảm và kiên vững.
*1.Những quấy nhiễu và bách hại:
Cả hai ngài nói bằng cung giọng nghiêm trọng. Thánh Phao-lô cho các thính giả hiểu rằng sự thù hận chống đối họ chưa chịu lùi bước, nhưng “Ta phải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa”. Chính thánh nhân mới đây đã có kinh nghiệm về sự tàn bạo này: ở Lýt-ra, thánh nhân đã bị ném đá, rồi bị lôi ra ngoài thành, vì tưởng ngài đã chết (Cv 14: 19). Sau này, thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê: “Anh đã biết những cơn bắt bớ, nhũng sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-a, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả” (2Tm 3: 11). Khi viết những dòng này, thánh Lu-ca biết những cộng đoàn miền Tiểu Á này đã phải chịu và còn đang chịu biết bao những quấy nhiễu và bách hại.
*2.Thiết lập các Kỳ Mục:
“Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục…”. Về phương diện lịch sử, bản văn này rất quý; cơ cấu Giáo Hội đang bắt đầu hình thành. Hội Thánh Giê-ru-sa-lem có các kỳ mục rồi; các Hội Thánh khác cũng sẽ có những kỳ mục của mình. Sau này, thánh Phao-lô viết cho Ti-tô, cộng tác viên của mình, mà thánh nhân đã giao phó cho ông Hội Thánh Cơ-rê-ta: “Tôi đã để anh ở lại đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh” (Tt 1: 5).
Chắc chắn cơ cấu Giáo Hội được gợi hứng từ định chế của các cộng đoàn Do thái, theo đó mỗi cộng đoàn đều có các kỳ mục chủ trì. Đoạn văn Công Vụ chúng ta đọc là đoạn văn duy nhất cho chúng ta biết cách thức chỉ định các Kỳ Mục: “Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin”.
Những phận sự của các kỳ mục này là gì? Thánh Phao-lô tóm tắt như sau, khi thánh nhân giả biệt các kỳ mục ở Ê-phê-xô: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng giá máu của chính mình” (Cv 20: 28).
*3.Trở về từ sứ vụ:
Chính cộng đoàn An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đã cử thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba ra đi thi hành sứ vụ. Chính ở cộng đoàn này mà hai ông trở về tường thuật mọi sự việc và những thành quả các ông đã đạt được: “Thiên Chúa đã thực hiện với hai ông, và nhất là Người đã mở đường cho các dân ngoại đón nhận đức tin thế nào”. Chúng ta ghi nhận rằng những lời này thánh Lu-ca đặt chính xác vào giữa tác phẩm của mình.
BÀI ĐỌC II (Kh 21: 1-5)
Sau khi đã mô tả một cách biểu tượng những cuộc chiến đấu của Giáo Hội, thánh Gioan phác họa cũng một cách biểu tượng thị kiến về Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời, tức là thị kiến về cuộc khải hoàn đang chờ đón Giáo Hội khi Giáo Hội đã trải qua những gian nan thử thách ở dưới thế. Những chương cuối cùng sách Khải Huyền (20, 21, 22) toan tính diễn tả bằng những từ ngữ và hình ảnh thường lấy lại giáo huấn của các ngôn sứ, dự định lớn lao của Thiên Chúa là ở với loài người, trong một thế giới được giải thoát khỏi mọi tội lỗi.
*1.Trời mới đất mới:
Cuộc xử án đã xảy ra; sự ác đã bị tiêu diệt; trời cũ đất cũ chứng kiến tội lỗi đã biến mất để nhường chỗ cho trời mới đất mới. Sự Dữ không còn nữa trong cuộc tạo dựng mới này được chỉ ra: “không còn biển nữa”; theo quan niệm thời xưa, biển là nơi cư ngụ của các quyền lực sự dữ.
Đề tài về cuộc tạo dựng mới vào thời cánh chung thường hằng trong các sách khải huyền Do thái. Đề tài này xuất xứ từ các ngôn sứ, nhất là ngôn sứ I-sai-a đệ tam: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa… Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-a-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng… Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng khóc kêu la” (Is 65: 17-19).
Vị ngôn sứ viết sấm ngôn này chẳng bao lâu sau năm 538 trước Công Nguyên, năm đã chứng kiến một đoàn người lưu đày đông đảo hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, vào lúc đó, Giê-ru-sa-lem không còn Đền Thờ, Đền Thờ đã bị tàn phá bởi các đạo quân Ba-by-lon vào năm 587 trước Công Nguyên. Vị ngôn sứ đọc thấy ở đây một dấu chỉ: Thiên Chúa dự định đổi mới và ông mô tả một thành thánh Giê-ru-sa-lem lý tưởng. Trong viễn cảnh cận kề, vị ngôn sứ nghĩ đến cuộc tái thiết Thành Thánh từ những hoang tàn đổ nát; nhưng lời sấm vượt qua bên kia lịch sử hiện thời mà trở thành sứ điệp cánh chung. Đây là nét đặc trưng của ơn linh hứng ngôn sứ.
Khi thánh Gioan viết sách Khải Huyền của mình, hoàn cảnh cũng tương tự: Giê-ru-sa-lem đã bị các đạo quân Rô-ma triệt hạ và Đền Thờ bị tàn phá (năm 70 sau Công Nguyên). Lịch sử ở đây vẫn còn là dấu chỉ.
*2.Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem mới:
Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem mới xuống từ trời, vì Thánh Thánh là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như thánh thánh Giê-ru-sa-lem lịch sử trên trần thế đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài. Thiên Chúa sắp canh tân Giao Ước của Ngài với dân Ngài: Giê-ru-sa-lem trang điểm như tân nương sửa soạn đón tân lang, nhưng lần này, trong niềm vui vĩnh viễn: “Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất!”.
Thành Đô Giê-ru-sa-lem tương lai sẽ là Thành Đô của Thiên Chúa và Thánh Đô của con người: “Đây là nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Người sẽ ở cùng họ. Họ sẽ là dân riêng của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ”. Đây là kiểu nói Giao Ước được mượn ở Lv 26: 11-12: “Ta sẽ đặt chỗ ở của Ta ở giữa các ngươi… Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta”. Chúng ta cũng gặp thấy ở Dcr 8: 8: “Ta sẽ dẫn chúng về, cho cư ngụ ở giữa Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng”. Thành Đô Giê-ru-a-lem tương lai sẽ là Giáo Hội hoàn vũ.
*3.Thiên Chúa ở cùng nhân loại:
“Thiên Chúa ở cùng họ” là danh xưng “Em-ma-nu-en”. Đó là hoàn tất Lịch Sử Cứu Độ, đó là dự định của Thiên Chúa khi sáng tạo con người, đó là hình ảnh về thiên đàng hạ giới ở đó Thiên Chúa đàm đạo với con người. Cái trở ngại là tội lỗi. Nhưng Con Chiên bị sát tế đã chiến thắng Xa-tan, ý định của Thiên Chúa được thực hiện vĩnh viễn. Kinh Thánh bắt đầu với thị kiến về vườn Địa Đàng và kết thúc với thị kiến về Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới; như vậy, Kinh Thánh được hoàn tất ở nơi khởi điểm của mình.
TIN MỪNG (Ga 13: 31-35)
Các nhà chú giải chia sách Tin Mừng Gioan thành hai phần: phần thứ nhất (từ chương 1 đến chương 12) được gọi “Sách về Các Dấu Chỉ”, phần thứ hai (từ chương 13 đến chương 21) được gọi “Sách về Vinh Quang”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích dẫn từ Sách về Vinh Quang.
Vinh quang của Đức Giê-su chính là Giờ Ngài “phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” và Giờ Ngài sắp làm chứng cho những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian là “Ngài yêu thương họ cho đến cùng” (Ga 13: 1). Giờ Tử Nạn của Ngài khởi sự với sự phản bội của Giu-đa. Đoạn văn này được trích từ phần đầu của bài Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su cho các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó và Tử Nạn của mình.
*1.Bữa Tiệc Ly. Giu-đa ra đi:
Chúa Giê-su đồng bàn với các môn đệ lần sau cùng, trong đó Ngài báo trước cho họ “một người trong họ sẽ phản bội Ngài”. Bữa ăn chưa chấm dứt thì Giu-đa ra đi. Chúa Giê-su sắp nói những lời từ biệt với các môn đệ Ngài và trao gởi những lời tâm huyết của Ngài cho các ông mà không có sự hiện diện của Giu-đa.
Việc Giu-đa ra đi báo hiệu cho Đức Giê-su biết Giờ Tử Nạn của Ngài sắp đến gần, nhưng đó cũng là giờ vinh quang: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh ở nơi Ngài”. Từ “tôn vinh” được lập đi lập lại nhiều lần trong hai câu này đem lại cho lời nói của Chúa Giê-su một dấu nhấn của sự chiến thắng. Những đối thủ của Ngài và kẻ tòng phạm của họ tưởng rằng mình chiến thắng, trái lại, Thiên Chúa sắp “được tôn vinh nơi Con Một của Người và đến phiên mình Thiên Chúa sẽ tôn vinh Con của Người”.
Chúng ta đang ở giữa lòng “Thần Học Vinh Quang” của Tin Mừng Gioan mà đỉnh điểm là thập giá: kế hoạch của Thiên Chúa là cứu độ con người mà Chúa Giê-su thực hiện qua cuộc Tử Nạn của Ngài. Trong Tin Mừng Gioan, thập giá là nơi vinh quang của Chúa Con và vinh quang của Chúa Cha đồng nhất với nhau trong một tình yêu tận hiến cho nhân loại.
*2.Huấn lệnh yêu thương:
Chúa Giê-su sắp làm chứng về tình yêu, yêu cho đến cùng này. Ngài làm cho tình yêu tận mức này thành di chúc của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi”. Lời xưng hô đầy trìu mến thân thương này là độc nhất trong Tin Mừng Gioan. Mối cảm xúc dâng trào tận đáy lòng của Chúa Giê-su, tâm tình yêu mến này nối kết Ngài với các môn đệ Ngài, tất cả đều được bộc lộ ở nơi những lời trìu mến này. Chúa Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài như người cha trước khi nhắm mắt lìa đời trao gởi những ước nguyện sau cùng của mình cho các con và chỉ ra những quy luật xử thế mà ông muốn thấy các con thân yêu của mình cư xử với nhau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn mới này cốt là điều gì? Từ lâu người ta đọc trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Luật yêu thương của sách Lê-vi đã được các kinh sư Do thái khai triển, như kinh sư Hillel dạy: “Điều gì con không muốn người khác làm cho mình, đừng làm cho người khác. Phần còn lại là phần giải thích. Hãy đi và làm như vậy”, hay kinh sư Akiba dạy: “Hãy yêu thương người thân cận như bạn thân, đó là nguyên tắc tổng quát và quan trọng nhất của lề luật”. Nhưng Chúa Giê-su cho các môn đệ Ngài một điều răn mới, mới đến mức không thể nào đo lường được, tình yêu không còn quy chiếu đến chính mình, nhưng đến tình yêu vô tận của Thiên Chúa, Đấng sắp hiến dâng trọn vẹn mạng sống mình: “như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn này còn mới theo cách khác nữa, vì nó làm thay đổi cuộc sống xã hội: thực hành luật yêu thương này làm chứng trước thiên hạ biết rằng người Ki-tô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô. Đức ái rạng ngời này sẽ là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su vẫn tiếp tục hiện diện ở giữa loài người.
GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
– Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
– Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Tin Mừng cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là “tái truyền giáo”.
Tái truyền giáo của hai vị gồm : (1) Củng cố tinh thần kitô hữu ; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
*2. Tin Mừng (Ga 13,31-35)
Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý :
-Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
-Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài : “Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau”.
*4. Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới :
– Thành này từ trời xuống
– Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại
– Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp : Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo : Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình : tình của Alexsndre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn, : còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét, : thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn : đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa : không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa :
Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi” : Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy” : nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới : yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn ” Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ? có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau :
là làm hòa với những kẻ ghét mình
là cầu nguyện cho kẻ ghét mình
là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Như thầy đã yêu
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống : Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ :
– Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?
Chị đáp :
– Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa ?
– Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ?
– Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
*
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như “Bạn hữu thân tình”.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu”.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám quên mình, “bắt chước” Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng “mức độ” như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu “Như Thầy đã yêu” không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi ; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
*
Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP)
* 3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này : “Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề !” Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày !
Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương : ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung… Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng : “Người mà tôi thù ghét nhất, đó là… chị tôi !”. Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là : Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất : ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét : Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn… khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này : bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm… Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý : là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau : một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau ? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu “Chị ngã em nâng”. Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì “Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí !
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào ?
– Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
– Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than : “Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi”. Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét : Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì ? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói “Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác”. Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
* 4. “Cứ dấu này mà người ta nhận biết…”
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác.
Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi :
– Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá !
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại :
– Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…
– Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
– Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích :
– Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả !
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau !
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói : “Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla”. Mẹ Têrêsa đáp : “Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa” (FM)
* 5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói : những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại : người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết : “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống”.
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao ? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu ? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết : lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền… Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)
* 6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại :
– Thứ nhất là tình yêu vụ lợi : ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
– Thứ hai là tình yêu lãng mạn : chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
– Thứ ba là tình yêu “dân chủ”, dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.
– Thứ tư là tình yêu nhân bản : đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể : tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
– Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong “được người yêu” hơn là “yêu người”. Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta “yêu người” thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.
Có 3 tình trạng yêu thương : (1) Không yêu và không được yêu : tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này ; (2) Yêu mà không được yêu lại : tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất ; (3) Yêu và được yêu : đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu :”Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con”.
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia : người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què ; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay : “Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ”. Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi :
– Bà làm gì thế ?
Phù thuỷ đáp :
– Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
– Không thể được.
– Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ : “Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa.”
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, di chúc của Chúa Giêsu gồm tóm trong một câu : Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Với quyết tâm sống theo điều răn mới của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin :
- Hội thánh có một bí quyết hết sức hữu hiệu để phản đối sự độc ác của con người / đó là bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết cố gắng tận dụng bí quyết này trong đời sống chứng nhân của mình.
- Hiện nay / chiến tranh / hận thù / khủng bố / kỳ thị chủng tộc / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Thánh thần Tình yêu tác động đến lòng trí con người hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
- Lòng bác ái thì nhẫn nhục / hiền hậu / không ghen tương / không vênh vang / không tự đắc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết sống theo lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.
- Lòng bác ái tha thứ tất cả / tin tưởng tất cả / hy vọng tất cả / chịu đựng tất cả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cố gắng thực hiện lời khuyên nhủ của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế : Lạy Chúa, thánh Phaolô đã dạy chúng con : Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái ; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mến Chúa yêu người. Chúng con cầu xin
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta là con
của cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta biết yêu thương nhau như những người anh chị em ruột thịt.
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ lời Chúa dạy hôm nay : “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
ĐIỀU RĂN MỚI- Chú giải của Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt
– Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ con người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37), vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1; Dt 10,3-7; Lc 13,3-33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
Nghĩ đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài (3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy hài lòng đến nỗi – coi cuộc khổ nạn như một thoáng qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun) vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh” (glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34; 12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất: “Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.
Có lẽ đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16; 8,38.40-47.55…) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28; 9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ” bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn – phục sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28). Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).
Chính Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”. Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người” đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4 lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28; 12,23; 13,31).
Nếu Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người phụng sự Thiên Chúa sẽ trở lại với con người dưới dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Ngài (Đức Kitô) trong chính mình Người (Thiên Chúa)”. Nghĩa là gì? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “Thiên Chúa” thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được cho nhân tính mình, Thiên Chúa đã nâng con người lên chính Ngai của Thiên Chúa. Chính đấy là nơi mà từ nay các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,56).
Khi loan báo “Thiên Chúa sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.
-Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt, điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới luật của Ngài” (15,12).
Chính nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ cần phải sống an hoà với, không thì sẽ bất an khi cùng đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải” (Chabbath, f.31).
Để xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19; 22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).
Với “giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm (Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạng vì anh em mình” (1Ga 3,16).
Giao ước mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước (1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài yêu chúng ta như là tạo vật và Con Thiên Chúa (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy yêu thương nhau như chính Thiên Chúa đã yêu Ta”.
Một khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo gương Thiên Chúa: “Để hết thảy chúng được nên một, cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một” (10,30).
Ngoài ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn, phải yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn sư đã đặt tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân một cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô, hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10-11.14-16; Rm 13,9-10).
“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần nữa, giới luật là giới luật “mới”.
Lịch sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào” (Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv 11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết, đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình, Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).
KẾT LUẬN
Trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp hành tốt.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1. Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng, trong thánh kinh, vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa: nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc về Thiên Chúa, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn. Trong mức độ thực hiện chương trình Thiên Chúa, mỗi người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên trong vinh quang.
*2. Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán triệt ý nghĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc Người nhiệt tâm yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời khi minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.
*3. Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta (“như thày đã yêu mến các con”) và tiếp nối tình yêu chúng ta đối với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thày…). Lòng thương cảm tự nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu thương họ trong Thiên Chúa và trong Đức Kitô. Và ngược lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành… nhưng là vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu siêu nhiên.
*4. Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu, họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người hằng mơ ước.
YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.
Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.
Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.
Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.
Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
- Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
- Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
XIN HIỆP NHẤT CHÚNG CON (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Bài Tin Mừng hôm nay quá quen thuộc, tuy nhiên vẫn có nhiều điều chúng ta có thể nói với nhau.
*1. Chúa ban điều răn mới: Phải chăng luật yêu thương bây giờ mới có?
– Không! Luật yêu thương đã có từ lâu, có ngay từ trong Cựu Ước.
Nhưng tại sao hôm nay Chúa lại nói về một giới răn mà Chúa bảo là mới?
– Giới luật yêu thương trong Cựu Ước theo ý của Chúa là giới răn yêu thương “cũ”. Giới răn này cũ không phải bởi hình thức nhưng là cũ trong nội dung. Sở dĩ tôi dám nói như thế là vì giới răn yêu thương trong Cựu Ước mới chỉ có tính cách tiêu cực và rất giới hạn, không những giới hạn trong cách thực hiện mà còn giới hạn trong đối tượng phải thực hiện tình yêu thương: Chẳng hạn như chỉ yêu thương những người yêu thương mình hoặc chỉ yêu thương những người cùng đạo với mình, cùng một tôn giáo với mình v.v..
Trái lại giới răn yêu thương mà Chúa gọi là mới thì có một nội dung sâu xa hơn. Đối tượng của luật đó cũng được mở rộng ra đối với tất cả mọi người kể cả những kẻ thù địch với mình. Đàng khác cách thức thực luật yêu thương thương cũng tích cực và quyết liệt hơn. Phải yêu thương như Chúa yêu. “Yêu như Thày yêu chúng con”. Mức độ Chúa đòi hỏi rất cao, nó không còn nằm ở trong phạm vi lòai người nữa mà phải vươn lên đến Thiên Chúa. “Yêu như Thầy”
*2. Thế nào là yêu như Chúa?
Chúa không định nghĩa về Tình yêu như Ngài chỉ cho chúng ta cách thức để thực hiện, cách thức để sống luật yêu thương.
Chúng ta hãy chú ý một chút đến hoàn cảnh khi Chúa dậy về luật yêu thương. Lúc đó Chúa đang ở với các môn đệ trong nhà Tiệc ly. Tôi thấy Chúa đã làm ba việc rất đặc biệt có thể nói là khác thường, để tạo nên một ấn tượng làm cho các môn đệ của Chúa sau này hễ nhớ đến Chúa là phải nhớ đến những việc này:
* Việc khác thường thứ nhất: Chúa quì xuống rửa chân cho các môn đệ.
Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy được đây là một việc làm thật khó hiểu.
Ông Phêrô một trong những môn đệ thân tín của Chúa hầu như đã không còn làm chủ được sự xúc động của mình, nên ông đã phải lên tiếng công khai xin Chúa đừng làm như thế đối với ông. Thế nhưng không những Chúa không thuận theo đề nghị của ông mà ngược lại Chúa còn làm cho ông hoảng sợ khi Chúa đe doạ cắt đứt mối dây thân tình đối với ông nếu ông không để cho Ngài làm những việc Ngài muốn.
Thế là tất cả các môn đệ đã được chính Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho. Đây là việc khác thường thứ nhất.
* Việc khác thường thứ hai là Chúa chọn đúng lúc các môn đệ đang ngỡ ngàng về việc Chúa vừa làm cho mình để tuyên bố cho họ biết về một sự việc làm cho các ông cảm thấy choáng váng. Chúa nói: “Một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Tin Mừng cho chúng ta biết ngay sau khi Chúa nói những lời đó thì tất cả môn đệ đều hoang mang không biết Chúa nói về ai.
* Việc khác thường thứ ba: “Chúa mời cho các môn đệ ăn chính mình và uống Máu của Ngài”.
Chúa cầm lấy bánh đã biến thành Mình Chúa và Rượu đã trở thành Máu của Chúa rồi Chúa bảo các môn đệ của Ngài: “Hãy cầm lấy mà ăn – Hãy lãnh nhận mà uống”. Xưa nay chẳng có ai có thể lấy thịt mình mà cho người khác ăn, lấy máu mình mà cho người khác uống. Vậy mà hôm nay chính Chúa đã làm như thế.
*b. Chúng ta tự hỏi: Chúa làm như thế để làm gì?
Thưa để cắt nghĩa một phần nào về giới răn yêu thương mới của Ngài .
* Yêu thương trước hết là phục vụ. Khi đã yêu thương thì người ta sẽ chẳng quản ngại bất cứ một công việc nào dù công việc đó là công việc có tính thấp hèn đến như thế nào đi nữa.
* Yêu thương là hy sinh biết quên mình vì người khác. Khi chịu chết trên Thập giá Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình để đền tội cho cả lòai người chúng ta. Thánh Phao-lô còn quả quyết thêm: “Ngài – Chúa Giêsu – phận là phận Thiên Chúa nhưng Ngài đã quên mình, tự hủy ra như không vì phần rỗi thế gian”
* Và cuối cùng “Yêu thương còn là ban tặng, là dâng hiến” Chúa Giêsu đã ban tặng cho chúng ta không phải chỉ là một phẩm vật mà là chính mình. “Đây là mình Thầy chúng con cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy chúng con hãy cầm lấy mà uống.” Yêu là cho đi. Cho đi ít là dấu chỉ yêu thương ít. Cho đi nhiều là dấu chỉ yêu thương nhiều. Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu thương không bờ không bến”
Đó là bài học Chúa muốn dạy cho chúng ta. Yêu thương là phục vụ trong hy sinh với tinh thần tự hiến. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người đã hiến thân vì người mình yêu.
*3. Chúng ta có thể yêu như Chúa không?
Có. Xin minh họa bằng một thí dụ.
Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu.
Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông nói với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.
Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, sau đó bỏ mặc nó.
Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên phát hiện nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những cái cây mà anh chị em cậu trồng, nó dường như tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.
Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.
Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cái cây cậu trồng. Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.
Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy mặc dù không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.
Tình yêu chính là chất dinh dưỡng tốt nhất của cuộc đời. Chỉ cần một gáo nhỏ, nhưng nó cũng có thể làm cho cái cây của cuộc đời trở nên tươi tốt, cành lá xum xuê. Có thể cái cây đó rất bình thường, có thể cái cây đó rất nhỏ bé, thậm chí còn héo úa, nhưng chỉ cần được chăm bón bởi chất dinh dưỡng này, thì nó vẫn có thể trở thành những thân cây tươi tốt, thậm chí còn cao lớn chọc trời.
ĐIỀU RĂN MỚI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất, nghĩa là tình yêu có từ khi có trái đất hay trái đất xưa bao nhiêu thì tình yêu lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi! Ở đấy, Đức Giêsu không nói đến thời gian có tình yêu. Người chỉ nói phải đổi mới tình yêu.
Tình yêu đã bị hủ hoá, tha hóa vì nó chứa quá nhiều các thứ trần tục, nó bị ô nhiễm bởi tội tổ tông, làm mất giá trị cao quý của con người siêu việt là con Thiên Chúa.
Nó nghiền những thứ: nghiền rượu, nghiền thuốc, nghiền ma túy, mê tiền, mê của, say đắm tình dục xác thịt. Nó bị lôi cuốn, đắm chìm, nô lệ cho những thứ đồ vật. Nó bị sai khiến bởi vật chất, vật chất đã làm chủ con người. Nó hạ giá con người xuống dưới hàng vô tri vô giác. Trong khi đó giá trị con người hơn: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì?”
Dầu yêu người khác như chính mình, như yêu quê hương, yêu tổ chức, yêu đồng bào, yêu nhân loại, thường được diễn tả bằng những câu ca dao như:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người chung một nước phải thương nhau cùng”
Ngay thời kỳ Vua Nghiêu, Vua Thuấn đã đề cao:
“Tứ hải giai huyng đệ”: Bốn bể đều là anh em.
“Lấy dân làm gốc”: Dân là quý, xã hội là thứ yếu.
Hay câu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: Mình không muốn cho mình, thì đừng làm cho người. Luật Cựu Ước cũng dậy: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi, nhưng ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình” (Lev. 19, 18). Tất cả những điều hô hào như thế đều là điều răn cũ, vì một là ta yêu đồ vật thì giá trị con người của ta bị đánh giá bằng đồ vật, hai là ta yêu người thì ta ngang hàng với người mà thôi.
Đồ vật và loài người chỉ có giá trị tạm thời, chóng tàn. Còn Đức Giêsu, Người ban cho ta điều răn mới là để nâng cao con người lên bậc con Thiên Chúa, một giá trị siêu việt trường tồn vinh quang. Cho nên, Người kêu gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Yêu như Thầy yêu anh em: Thầy là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống hòa mình với mọi người, nhất là những người đau khổ. Thầy là Đấng Cứu thế, đến phục vụ và cứu chữa những người bệnh tật, tội lỗi, trộm cướp và quỷ ám. Thầy là Đấng thượng phẩm đời đời, đến hiến mạng sống chịu chết làm lễ vật hy sinh tế lễ giao hoà loài người với Thiên Chúa. Thầy là Đấng hằng sống đã sống lại, để cho người ta được sống đời đời. Thầy là Con Thiên Chúa để cho con người được làm con Thiên Chúa vinh phúc muôn đời. Đó là tình yêu của Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau như vậy. Chính vì hiểu như thế, Thánh Augustinô đã giải thích: “Sau khi lột bỏ con người cũ, nó mặc cho ta con người mới… Kẻ vâng theo giới răn mới này được canh tân, không phải nhờ một thứ tình yêu nào, nhưng chỉ nhờ tình yêu mà Chúa đã phân biệt với tình yêu xác thịt khi Người nói thêm rằng: “Như Thầy đã yêu chúng con”. Tình yêu ấy đổi mới chúng ta, những kẻ hát khúc ca mới. Tình yêu ấy đã canh tân tất cả những người công chính ngày xưa, các thánh tổ phụ, các tiên tri thời trước, cũng như đã đổi mới các dân tộc và toàn thể nhân loại sống rải rác khắp mặt địa cầu. Nó đang kết hợp lại thành một dân mới, làm thành thân thể người bạn trăm năm mới của con Thiên Chúa (Bài đọc II, thứ năm sau Chúa nhật hai Phục sinh: Kinh nguyện).
Hội Thánh là bạn trăm năm của Đức Kitô đặt lệnh truyền điều răn mới này vào những ngày Đức Kitô chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và đang chuẩn bị khải hoàn về trời.
Trong hoàn cảnh này, điều răn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là trong những lúc càng nhiều nguy biến, gặp nhiều âm mưu hãm hại, càng phải triệt để thương yêu nhau để chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết thì mới được khải hoàn về trời với Đức Kitô Phục sinh vinh hiển.
Thương yêu nhau là dấu chắc chắn chiến thắng. Chúng ta chiến thắng không phải bằng tiêu diệt kẻ thù, mà bằng làm cho kẻ thù được trở về với tình yêu của Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng thương yêu nhau”. Họ nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa tức là họ đã nhận biết Chúa, nhận biết tình yêu cứu độ của Chúa. Họ phục thiẹn, tất nhiên họ đã trở về với Thiên Chúa rồi đó.
Họ trở về với Thiên Chúa là ta đã làm Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Kitô, làm Thiên Chúa được tôn vinh chính là thực hiện công cuộc cứu thế của Đức Giêsu.
Khi chúng ta thực hiện điều răn mới của Chúa, chúng ta sẽ được, như Thánh Gioan, thấy trời cũ đất cũ biến thành trời mới đất mới, thấy thành Giêrusalem cũ biến thành Giêrusalem mới, thấy mọi người mọi nơi, như đồi Canvê biến thành nơi sáng láng vinh hiển như núi Tabor, sẽ thấy mọi nơi mọi lúc có Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, sẽ không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất! (Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim sắt đá của con nên trái tim thương yêu, thông cảm. Xin đổi mới con tim thịt máu xác phàm nên trái tim giống Thánh Tâm chan hoà tình thương yêu Chúa, để con biết thực thi điều răn mới của Chúa và làm cho thế giới khô cằn trở thành Nước Trời xanh tốt phì nhiêu.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM C
ĐỂ NHẬN RA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi sắp từ giã cõi đời, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và tận dụng chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất, đồng thời cũng để trối lại những gì được xem là gia bảo.
Chúa Giê-su cũng thế. Khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Người trao cho họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.” Rồi Chúa Giê-su trối lại cho các môn đệ yêu dấu phần gia bảo quan trọng nhất, đó là Điều Răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau… ”
Tuy nhiên, Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau bằng thứ tình yêu hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương nhau thật đậm đà nên Người nói thêm: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Như thế, tình yêu Chúa Giê-su dành cho các môn đệ phải trở thành chuẩn mực cho tình yêu của các môn đệ đối với nhau.
Rồi Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”
Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân thực lòng, người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giê-su.
Trên thị trường ngày nay, có rất nhiều đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả xen lẫn với hàng thật khó mà phân biệt rạch ròi.
Trong đạo thánh Chúa cũng vậy. Có nhiều kitô hữu giả trà trộn giữa các kitô hữu thật như cỏ lùng mọc chung với lúa; muốn phân biệt ai giả, ai thật, đâu phải chuyện dễ dàng.
Muốn thử vàng, người ta phải dùng đến lửa. Muốn biết ai là môn đệ thật của Chúa, người ta phải nại đến tình yêu. Thế nên, Chúa Giê-su dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết anh em là môn đệ (thật) của Thầy, là anh em yêu thương nhau.” Thế thì, nếu ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
***
Có người nằm mơ thấy mình lìa bỏ đời nầy sang thế giới bên kia. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.
Vừa gặp thánh Phê-rô, anh liền xuất trình đủ mọi thứ giấy tờ để chứng minh mình là người công giáo, từ chứng thư rửa tội, thêm sức cho đến hôn phối… Anh hy vọng với những chứng từ nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối.
“Ngài còn đòi gì nữa? Con cũng xin thưa là ngày nào con cũng có đọc kinh lần hạt; con không bỏ lễ chúa nhật bao giờ, không gian tham trộm cắp của ai, không mê muốn vợ chồng người… Bấy nhiêu không đủ để được vào thiên đàng sao?”
Thánh Phê-rô trả lời:
“Thiên đàng chỉ đón nhận những môn đệ thật của Chúa Giê-su. Ai không mang phù hiệu người môn đệ Chúa Giê-su thì không được vào thiên đàng.”
“Phù hiệu nào vậy, thưa Ngài?”
“Thế con không nhớ lời Chúa phán dạy sao: “Người ta căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng thương mến nhau.” (Ga 13, 35) Chưa có lòng thương mến nhau thì con chưa phải là người môn đệ thật của Chúa.”
Qua dụ ngôn phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy: Ai có lòng yêu thương giúp đỡ người khác, kẻ ấy mới được đón nhận vào thiên đàng.
“Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.
Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 34-46)
Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ thật của Chúa Giê-su và trên vương quốc thiên đàng không có chỗ dành cho chúng ta.
TRỜI MỚI ĐẤT MỚI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta làm mới tất cả”
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”
Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.
Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.
Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.
Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.
Yêu nhau như Thầy yêu anh em
“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.
Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.
Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.
Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian
Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.
Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.
Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?
Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.
YÊU NHƯ THẦY- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn, nhưng tóm lại 2 điều: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Yêu người như mình ta vậy đó là điều răn cũ. Còn điều răn mới mà Đức Giêsu ban cho các môn đệ trong đêm tiệc ly đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”(Ga. 13, 34). Vậy thế nào là yêu thương như Thầy?
*1. Yêu thương như Thầy là hạ mình
Đức Giêsu là Đức Chúa Trời quyền năng làm được mọi sự, nhưng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã hạ mình xuống sống với chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn.
Ngài là Thiên Chúa giàu có, nhưng vì yêu thương nên hạ mình xuống sống nghèo khó. Sinh vô gia cư tử vô địa táng.
Ngài là Đấng thánh thiện, nhưng vì yêu thương nên hạ mình xuống sống với chúng ta là những kẻ tội lỗi. Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ nhưng là bạn hữu”(Ga. 15, 15). Thế nhưng, Đức Giêsu còn hạ mình hơn là bạn hữu nữa, bằng chứng là Ngài hạ mình rửa chân cho các môn đệ như một người tôi tớ.
Thánh Gioan tả lại trong bối cảnh bữa Tiệc ly: Đang khi ăn, Đức Giêsu chỗi dậy rời bàn tiệc, cởi áo choàng ra, nghĩa là Ngài cởi bỏ địa vị Thiên Chúa. Lấy khăn thắt lưng là đóng vai đầy tớ.
Tiếp đến, Ngài lấy nước đổ vào chậu, quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Ngài biết trước Giuđa sẽ phản bội; Phêrô sẽ chối bỏ, nhưng Ngài rửa hết tất cả những bàn chân còn vương lấm bụi trần. Ngài rửa hết những tính hư tật xấu, để các ông xứng đáng dự phần với Thầy.
Vậy để thực thi điều răn mới, muốn yêu thương như Chúa, thái độ đầu tiên hãy khiêm tốn hạ mình, hãy từ bỏ tính ích kỷ của mình. Hay nói cách khác là đừng nghĩ đến địa vị của mình, nhưng hãy quên mình phục vụ người khác theo gương Chúa.
*2 Yêu thương như Thầy là hiến mình
Ngày nay, Thánh giá không chỉ hiện diện trên tháp chuông nhà thờ, ở ngoài nghĩa trang Công giáo, nhưng Thánh giá còn hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau nữa. Riêng đối với người Kitô hữu, Thánh giá là phương thế Chúa Kitô dùng để hiến mình chịu chết đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Có thể nói cuộc đời Chúa Kitô gắn liền với Thánh giá, hướng về Thánh giá. Do đó, không thể nói về Đức Giêsu mà không nói đến Thánh giá. Cuộc đời của Ngài trải qua nhiều đau khổ, nhưng đỉnh cao là Thánh giá. Ngài không chỉ vác một lần lên núi Sọ, nhưng vác suốt cuộc đời để làm đẹp thánh ý Chúa Cha.
Là môn đệ Đức Kitô, muốn thi hành giới răn mới, chúng ta không đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi qua, đó là con đường Thánh giá, nhưng nếu chúng ta biết liên kết Thánh giá đời mình với Thánh giá của Đức Kitô, thì đau khổ đó sẽ mang lại giá trị vĩnh cửu cho chúng ta.
Chúng ta không đi tìm Thánh giá, nhưng mỗi người một Thánh giá, mỗi ngày mỗi Thánh giá, nếu can đảm đón nhận Thánh giá, vì ý thức rằng: Thánh giá hằng ngày là phương thế Chúa dùng để thánh hoá chúng ta. Chính “Thánh giá sẽ làm chúng ta nên giống Chúa hơn” (Pl.3,18).
*3.Yêu thương như Thầy là hủy mình
Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng hạ mình xuống mặc lấy thân phận con người, nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, như vậy khiêm nhường lắm rồi.
Để minh chứng tình yêu, Ngài đã tự hiến mình chết trên cây Thánh giá, như một tội nhân, nhưng vẫn còn là con người. Vậy mà bây giờ Đức Giêsu lại huỷ mình ra không, ngự trong tấm bánh làm lương thực cho con người, thì không thể nào hiểu thấu được. Thật đúng là mầu nhiệm tình thương ngàn đời ai hiểu thấu.
Vì thế, khi suy niệm về Bí tích Thánh Thể, Thánh Augustinô nói rằng: “Mặc dầu Đức Chúa Trời quyền phép vô cùng, làm được mọi sự, cũng không làm gì hơn nữa cho con người. Đức Chúa Trời khôn ngoan, thông biết mọi sự, cũng không nghĩ gì hơn nữa cho con người. Và Đức Chúa Trời giàu có vô cùng, cũng không biết lấy gì hơn nữa cho con người, bằng cách Ngài lập nên Bí tích Thánh thể, để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Cho nên, Bí tích Thánh Thể là giới hạn cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau”(Ga.13,35). Vậy người môn đệ của Chúa không phải là người thường làm phép lạ. Cũng không phải là người đi rao giảng Tin mừng. Càng không phải là người chữa lành nhiều bệnh nhân… Nhưng người môn đệ của Chúa là người có lòng yêu thương nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta cố gắng thực thi giới răn mới theo gương Chúa trong mọi hoàn cảnh, đó là hạ mình, hiến mình và hủy mình vì tha nhân, hầu sớm trở thành những môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
ĐIỀU RĂN MỚI – Trích Logos C
ĐIỀU RĂN MỚI
Tác phẩm đầu tay của nhà văn Khái Hưng được xuất Bản vào năm 1932 mang tựa đề : “Hồn Bướm Mơ Tiên”. Đây là tác phẩm viết về một câu chuyện tình yêu rất thơ mộng và lý tưởng. Câu chuyện như sau :
Vào dịp nghỉ hè, chàng sinh viên canh nông tên Ngọc đến thăm ông Bác của mình là một vị sư già đang trụ trì tại chùa Long Giáng (thuộc Bắc Việt). Trong thời gian nghỉ tại ngôi chùa này, Ngọc quen với chú tiểu tên Lan : chú tiểu có khuôn mặt trắng hồng và đôi tay mềm mại. Sau một thời gian, chàng sinh viên đã khám phá ra một điều Bất ngờ : chú tiểu Lan là “gái giả trai”. Cũng vừa lúc đó, Ngọc yêu Lan với một mối tình cao đẹp. Lúc ấy, Ngọc mới Biết Lan Bị gia đình ép duyên nên mới cải trang vào tu trong chùa để mọi người không Biết và để có thể tìm được sự Bình an nơi cửa Phật. Đôi trai gái yêu nhau Bằng một tình yêu thật cao thượng. Vì Lan không thể Bỏ con đường tu hành, từ Bỏ lời thề qui y trước tòa Phật. Vì thế, họ chấp nhận một tình yêu lý tưởng : yêu nhau không phải Bằng thân xác nhưng yêu nhau Bằng tâm hồn.
Người ta thường nói : “Tình yêu cũ như trái đất, nhưng vẫn mới như mỗi mùa xuân”. Tình yêu được tạo dựng cùng với con người và luôn gắn liền với con người. Tình yêu cổ xưa như trái đất, nhưng luôn mới mẻ qua cách thế con người yêu nhau.
Tình yêu của Ngọc và Lan trong “Hồn Bướm Mơ Tiên” không phải là tình yêu chiếm đoạt, nhưng là tình yêu hiến dâng, tình yêu vượt lên trên những đam mê nhục dục. Đó không phải là tình yêu vị kỷ, nhưng là tình yêu vị tha : tình yêu Biết cho đi hơn là giữ lại cho mình.
Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu cao cả nhất : Chúa yêu chúng ta vì chúng ta và cho chúng ta. Trong suốt 3 năm của cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng nhiều lần về tình yêu thương. Nhưng chỉ đến lúc Chúa sắp đi vào cuộc tử nạn, Ngài nói đến tình yêu thương lần cuối cùng như một lời trăn trối : “Thầy Ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”.
Điều răn mới
Có thể nói nội dung chính trong những lời rao giảng của Chúa Giêsu là tình yêu thương. Nhưng lần này Chúa gọi đó là điều răn mới. Chúa gọi là điều răn mới để phân Biệt với lề luật cũ của Môisen : yêu thương những người yêu thương mình. “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều răn mới của Chúa hệ tại ở cách thế yêu thương : Yêu thương như Chúa yêu thương.
Chúa yêu thương và tha thứ cho những người tội lỗi và cả những kẻ hành hạ và giết chết Chúa.
Chúa yêu thương chúng ta Bằng tình yêu tận hiến khi chịu treo trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Chúa yêu thương chúng ta dù nhiều lần chúng ta phản Bội và Bất trung với Chúa.
Đó chính là Bài học yêu thương mà Chúa dạy chúng ta để chúng ta cũng Biết yêu thương nhau giống như vậy. Khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Chúa muốn dạy chúng ta cũng hãy Biết rửa chân cho nhau.
Dấu hiệu của người môn đệ Chúa Kitô
Chúa không chọn cho các môn đệ một Bộ đồng phục, cũng không chọn một huy hiệu riêng cho các môn đệ. Chúa không chọn một Biểu tượng dành cho những người theo Chúa để mọi người nhận ra họ là môn đệ của Ngài, nhưng Chúa muốn tình yêu thương là dấu hiệu để mọi người nhận ra các môn đệ Chúa : “Cứ dấu này người ta nhận Biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau”. Trong xã hội hôm nay, giữa những muôn ngàn những dấu hiệu và Biểu tượng được trưng Bày khắp nơi, “dấu hiệu tinh thần” của những môn đệ Chúa phải chăng vẫn còn chìm khuất ? Đã đến lúc chúng ta Biểu lộ dấu hiệu ấy qua những việc làm yêu thương và phục vụ hàng ngày.
Hiện nay, Báo Tuổi Trẻ đang tổ chức cuộc thi viết về đề tài “người mẹ”. Tác giả Đức Kha đã viết một Bài về người mẹ rất cảm động mang tựa đề “Người đã Sống Cùng Tôi Trong Lồng”. Câu chuyện như sau :
Trong một gia đình khá giả kia, người con trai độc nhất vì được cưng chiều nên đã trở nên hư hỏng. Anh ta theo chúng Bạn chơi Bời lêu lổng đến nỗi nghiện ma tuý. Từ đó, anh ta sinh tật ăn cắp, ăn trộm để có tiền chích ma tuý. Nhiều lần Bị Bắt và cải tạo, cai nghiện nhưng cũng không làm cho anh ta từ Bỏ con đường nghiện ngập.
Cuối cùng, trong một đợt truy quét tệ nạn xã hội, anh ta Bị công an Bắt. Người mẹ đã chạy ngược chạy xuôi làm giấy Bảo lãnh cho anh ta cai nghiện tại nhà. Bà đi đặt làm một cái lồng sắt để anh ta sống trong đó suốt thời gian cai nghiện. Khi đã cho anh ta vào lồng sắt, người mẹ cũng chui vào đó cùng với con của mình, rồi nhờ người khoá lại Bên ngoài.
Trong suốt thời gian cai nghiện, người mẹ lúc nào cũng ở Bên cạnh con để vỗ về, an ủi, khích lệ. Khó khăn rồi cũng trôi qua, anh ta hoàn toàn cắt được cơn nghiện và ra khỏi lồng. Về sau, nhờ tình thương của người mẹ, anh ta Bỏ được ma tuý và trở thành người tốt.
Thiên Chúa cũng yêu thương chúng ta Bằng một tình yêu cao cả. Ngài đã cùng chung với chúng ta một con đường, cùng chung với chúng ta một thân phận để yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta.