CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY (*) – Chú giải của Noel Quession. 6
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG- Chú giải của Fiches Dominicales 13
NIỀM TIN VÀO ĐỨC KITÔ PHỤC SINH (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 19
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 33
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 52
ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 55
CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 60
NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 64
NHỮNG BƯỚC CHÂN LOAN BÁO TI MỪNG PHỤC SINH – Trích Logos C 71
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 76
CÁC NHÂN CHỨNG PHỤC SINH- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 81
TIN MỪNG PHUC SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 86
ÁNH LỬA PHỤC SINH – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 92
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: “Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được tha tội”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
BÀI ĐỌC II: Cl 3, 1-4
“Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
CA TIẾP LIÊN
Các Kitô hữu hãy tiến dâng/ lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua./ Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:/ Đức Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha./ Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,/ tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị./ Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe/ bà đã thấy gì trên quãng đường đi?/ Tôi đã thấy mồ Đức Kitô đang sống/ và vinh quang của Đấng Phục Sinh,/ thấy các thiên thần làm chứng,/ thấy khăn liệm và y phục./ Đức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,/ Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa./ Chúng tôi biết Đức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!/ Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
ALLELUIA: 1 Cr 5, 7b-8a
All. All. – Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa – All.
PHÚC ÂM: Ga 20, 1-9
“Người phải sống lại từ cõi chết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”. Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó là lời Chúa.
ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY (*) – Chú giải của Noel Quession
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, “ngày thứ nhất” trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ “dựng nên” công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố”. Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta “chạy”. Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho “môn đệ” không nêu rõ danh tánh: “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ “ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: “ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”.
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, “ông đã thấy và đã tin”.
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau “quyền bính”, trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong “trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy “băng vải tuột ra” và “khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ”, nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng “trao ban đức tin” cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới “điều tin nhận”. Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: “Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?” Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống” và “những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: “Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết”.
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! “Ngôi mộ trống” chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình “tiệm tiến gây ấn tượng”.
– Trước tiên đó là những “di chuyển” rất nhiều và rất nhanh: động từ “chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
– Kế đó là những “dấu chỉ” ngày càng rõ nét (với những động từ “nhìn”, “thấy”), và “lời giải thích” về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
– Maria Madalêna “thấy” phiến đá lập cửa mồ “được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã “bị lật đi”. Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, “cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó”.
– Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. “Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra”. Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự “kinh ngạc” của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: “Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết”.
– Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó “ông đã thấy và ông đã tin”.
Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, “Môn đệ kia” được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; “Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; Người trong bữa Tiệc ly đã “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu”, với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người” (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan”. Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã “thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: “tin dù không thấy” (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
*1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài (‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: “Tin dù không thấy” và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: “Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu”. Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý “đã thấy và đã tin”.
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
*2. Tại ngôi mộ để ngỏ (G. Boucher trong “Thiên đường tại thế”)
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.
NIỀM TIN VÀO ĐỨC KITÔ PHỤC SINH (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ lễ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.
Cv 10: 34a, 37-43
Đoạn sách Công Vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn sách Công Vụ nầy.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, khởi điểm đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng Thứ Ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, một Ki-tô hữu trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng cũng có thể là một nhân vật hư cấu biểu tượng “người Chúa thương mến” mà bất kỳ tên người Ki-tô hữu nào có thể điền tên mình vào đây.
Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), nay sóng gió đã qua đi. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ lắng dịu nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
Thánh Phê-rô lần đầu tiên đến nhà một người ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô đang ở nhà tại Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Thánh Phê-rô đến nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm của thế giới ngoại giáo vào dân Chúa, nhưng dần dần lệnh cấm nầy phổ biến và tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.
Bài diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ đã minh chứng cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những người chứng kiến những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là cuộc Phục Sinh của Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử cả người sống lẫn kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến độ Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải tuyên xưng biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô phục sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn. Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên. Chính kinh nghiệm này đã mở mắt họ và đã khai lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh.
Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác vẫn in dấu những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm củng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tận mức nầy cho đến phải hy sinh mạng sống của mình.
Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng Gioan dâng hiến cho chúng ta một bài trình thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, một bài trình thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong số các người phụ nữ đã cũng đi với Đức Giê-su và nhóm Mười Hai trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài khắp miền Ga-li-lê (Lc 8: 1-3); “các bà đã chứng kiến” cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su (Lc 23: 49); các bà cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, kiên vững bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25); và “các bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào” (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, các bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng các bà đến mộ “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà thúc đẩy bước chân dạn dĩ của bà ra đi càng sớm chừng nào có thể để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
Ở đây, Tin Mừng Thứ Tư chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, chính bản văn làm chứng rằng còn có các người phụ nữ khác cùng đi với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20: 2). Thật ra, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), riêng thánh Lu-ca còn kể ra nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24 : 1). Nhưng trong số những người phụ nữ đó, bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh đầu tiên.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó). Bà là người được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật, và bà cũng là người đầu tiên được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ; vì thế, chẳng lạ gì truyền thống Giáo Hội gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, theo kiểu nói tuyệt đối của người Do thái, nghĩa là bà là “người được sai đi tuyệt hảo”.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình, nhất là cuộc phục sinh của anh La-da-rô, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy.
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế thánh nhân không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng bên ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước tiên. Ở nơi sự kiện này, thánh ký hàm ý rằng thánh Gioan nhận ra quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô. Thật ra, theo Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội sẽ được công bố chỉ sau khi Đấng Phục Sinh gặp gỡ các ông bên bờ hồ Ti-bê-ri-a vào bữa ăn mà chính Ngài đã dọn sẵn cho các ông trong sương mờ sáng sớm (Ga 21: 15-17), tuy nhiên đã được hàm chứa rồi ở nơi cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô khi Ngài long trọng đổi tên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha, tức là Phê-rô” (Ga 1: 42) và ở nơi sự kiện trước ngôi mộ này.
Như vậy, cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
Những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi.
Một mặt, hai ông không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng còn thấy những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này được lập lại đến hai lần (20: 5 và 6-7) đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm và khăn che đầu có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44)? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị những băng vải liệm buộc chặt thân thể của Ngài, biểu tượng xích xiềng của tử thần. Như vậy, La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của tử thần nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi tử thần từ nay không có quyền hành gì trên Chúa Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại tử thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và xao động đến mức thánh nhân đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến “gắn bó trọn vẹn” với Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống cùng với những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại gọn gàng và xếp riêng ra một nơi. Dù trước đây niềm tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy, tình yêu của thánh nhân đã không hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi bước theo từng bước chân của Thầy lên đến tận đỉnh đồi Sọ và chứng kiến giây phút đau thương sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này giờ đây dẫn đưa thánh nhân đến niềm tin vào sự Phục Sinh của Thầy ngay tức khắc. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân sẽ là người đầu tiên nhận ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên lại tin cái tối đa. Độ nhạy bén của con tim hỗ trợ cho thánh nhân rất nhiều để hiểu biết con người và sự vật. Quả thật, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của nó mà lý trí không sao hiểu được”.
Theo lời Kinh Thánh.
Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần đến ánh sáng của lý trí: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”. Lời này ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng khai lòng mở trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (x. Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí hai ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Thánh Vịnh 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh 16 những hàng nầy :
“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).
Vì thế, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo.
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN NHẬP.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI:
Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Cv 10,34.37-43)
Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết: việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người: “Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội”. Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.
*2. Đáp ca (Tv 117)
Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường”
*3. Tin Mừng (Ga 20,1-9)
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này: Maria Mađalêna, Phêrô và “người môn đệ kia” (tức tông đồ Gioan).
– Khi ấy là “sáng sớm khi trời còn tối”: họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
– “Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”: “địa chỉ” của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (1,38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi “Thầy ở đâu?” lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết “địa chỉ” của Ngài.
– Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều “chạy”: Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan “cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn”. Họ “chạy” để làm chi? Để tìm đến “địa chỉ” Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
– Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình “môn đệ kia” đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên “đã thấy và đã tin”. Gioan đã tìm được “địa chỉ” của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến “địa chỉ” này (“Thầy về cùng Cha Thầy”: xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.
*4. Bài đọc II (Cl 3,1-4; hoặc 1 Cr 5,6-8)
Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
*1. “Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô”
Đức tin của chúng ta thường có tính cách “quy thần”, nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.
Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào?
Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô:
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn: Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành “Đức Chúa”, “Thiên Chúa của sự sống”, luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người: cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta: nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, “và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa” (Bài đọc II), vì thế chúng ta “hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới”.
*2. Đi thăm mộ
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
– Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.
Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật: Thầy của họ đã chết thật rồi!
Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo “Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại”. Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.
– Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự: Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)
*3. Kỷ nguyên cứu rỗi
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ…
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo:
– Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích:
– Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
*
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ “đang “tập họp trong nhà cửa đóng kín,” – trên bờ biển Tibêria. Và Người” vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ “tin vào” Người,” ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo?” (Rm 8,35).
Vì thế,
Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết: Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)
*4. Mầu nhiệm Vượt qua
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.
Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc:
- Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
- Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
- Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.
Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.
Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.
Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng “Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy” (1Pr.1,3-9).
Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng: “Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa” (Pl.3,1).
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.
Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.
Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.
*5. Lăn tảng đá ra khỏi mộ
Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây?”
Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.
Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)
*6. Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ
Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân.
Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.
Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an.
Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời.
Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.
Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.
*7. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu (+ 407)
Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.
Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.
“Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ” (Mt 28,6), nghĩa là: Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.
“Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy” (Mt 28,10), nghĩa là “Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng”.
Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng “Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng”
Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.
- Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.
- Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.
- Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
– Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần là Đấng cho chúng ta được tham dự vào sự sống và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Vậy chúng ta hãy kết hợp với Chúa Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha những lời cầu nguyện do chính Chúa Giêsu dạy.
– Sau Kinh Lạy Cha: “… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Chúa Giêsu phục sinh luôn chúc cho các môn đệ…”
*VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong thế giới. Chúng ta hãy làm chứng cho Ngài, làm chứng về niềm vui và sự bình an của Ngài. Alleluia, alleluia.
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
*1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
*2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện xảy ra vào ngày thứ hai sau biến cố Chúa Phục sinh.
*1. Sự kiện ngôi mộ trống:
Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa. Ngài đã để lại ngôi mộ trống.
Chúng ta thử hỏi có phải Ngài đã sống lại thật rồi không? Ngôi mộ trống phải chăng là một bằng chứng?
Không ai dám quả quyết một cách chính xác một trăm phần trăm rằng đây đúng là một bằng chứng chứng minh Chúa đả sống lại thật.
Thế nhưng sự thật về ngôi mộ trống là một sự thật không thể chối cãi.
Ngày 27.2.1973 một tin phát ra làm xôn xao cả nước Pháp: đó là tin thi hài Thống Chế Pétain bị đánh cắp nhưng chỉ sau đó mấy ngày người ta lại tìm lại được và cho dù trong cuộc trưng cầu dân ý, 72% nhân dân Pháp muốn phục hồi danh dự cho cố Thống Chế, nhưng ông Pompidou Tổng Thống Pháp vẫn ra lệnh đem chôn lại trong ngôi mộ cũ và cho lính canh gác ngày đêm.
Như vậy ngôi mộ chỉ trống rỗng có mấy ngày, xác mất đi đã tìm lại được.
Bên Ai Cập hiện nay nhiều ngôi mộ cũng trống rỗng, như các ngôi mộ của các Pharaông trong các Kim tự tháp. Tại sao lại có sự trống rỗng như thế? Thưa vì xác của các vị đó đã được đem về bảo tàng viện Le Caire, để những ai đến đây còn có dịp nhìn thấy rõ ràng thi hài các vị Pharaông đã trị vì Ai Cập xưa.
Rồi cách đây không lâu, người ta loan báo là đã tìm ra được những mảnh xương (cũng gọi là xá lợi) của Đức Phật Thích Ca. Những mảnh xương ấy đã được đưa về một trong các thành phố gọi là thánh địa của Ấn. Người ta tổ chức những cuộc lễ vô cùng long trọng để cung nghinh và chiêm bái. Trước quang cảnh ấy một giáo sĩ công giáo đã phát biểu với một người bạn cùng đi tham quan: “Nếu người ta tìm được một mảnh xương của Chúa Giêsu thì Kitô giáo sẽ phải sụp đổ mất.”
Như vậy trong thế giới cho tới ngày nay chỉ duy có một ngôi mộ trống mà người ta đã tìm kiếm suốt 2.000 năm di hài chôn trong đó nhưng không thấy và sẽ không bao giờ thấy vì một lẽ rất dễ hiểu là người đó đã sống lại thực sự.
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giêsu”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Talpiot, phía đông Giêrusalem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Giêsu con ông Giuse. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giêsu thành Nagiaréth? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?
Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Giêsu; mười bốn phần trăm mang tên Giuse. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giêsu con ông Giuse được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giêsu chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa.
Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và đang sống.
Vâng, câu chuyện “Ngôi Mộ trống”, ”Đức Kitô phục sinh” mãi mãi, muôn đời, khắp nơi, là câu chuyện của niềm tin căn bản của Kitô giáo. Bởi vì câu chuyện nầy, biến cố nầy lại không là một sự kiện đột xuất, tình cờ của lịch sử, nhưng là một công trình vĩ đại trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và sự cứu độ là gì nếu không phải là đem lại cho chúng ta niềm hy vọng nơi một Thiên Chúa luôn trung tín với tình yêu của Người?
*2. Việc Chúa Phục sinh với những nhân chứng đầu tiên.
Sau ngày Chúa Phục sinh, người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống là Maria Mađalêna. Cảm giác đầu tiên của bà khi không thấy xác Chúa trong ngôi mộ đã an táng Ngài nữa là “người ta đã lấy mất xác Thầy rồi” và việc phải làm ngay là đi báo cho môn đệ của Chúa. Vừa được báo, Phêrô và Gioan đã chạy ngay ra mộ, và khi thấy ngôi mộ đã mở toang, Phêrô và Gioan lúc dầu hơi thấy choáng váng. Rồi bình tĩnh lại nhìn vào trong, thấy khăm liệm còn đó, Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan đã thấy và tin.
Tại sao cả ba, đứng trước cùng một sự kiện, mà kẻ tin, người lại không tin?
Đó chính là tâm trạng của mỗi người đối với Chúa Giêsu.
* Maria Mađalêna.
Khi ra viếng mộ, Maria Mađalêna chỉ muốn cho vơi đi nỗi nhớ, chứ đâu có ngờ được rằng một người đã chết có thể sống lại. Quả thật, đối với Maria Mađalêna, chết là nằm sâu trong lòng đất, chết là khép lại tất cả, chết là chấm dứt tất cả và đàng sau cái chết là một bóng đêm dày đặc.
* Tâm trạng của Phêrô và Gioan.
Còn đối với Phêrô, chúng ta có thể thấy ông là con người đang sợ hãi. Ông sợ bị liên lụy. Ông sợ bị bắt bớ. Ông chạy ra ngôi mộ với tâm trạng đối phó. Với tâm trạng đó như thế, làm sao ông có thể nghĩ đến việc Chúa sống lại được.
Chính vì vậy, Phêrô và Gioan, cả hai đều vào trong mộ, cả hai đều thấy khăn liệm, nhưng Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan “ông đã thấy và tin”.
Phêrô đã thấy nhưng chẳng hiểu gì, còn Gioan thì” đã thấy và tin”.
Ngôi mộ trống đối với Phêrô chẳng khác gì các ngôi mộ khác. Nhưng đối với Gioan thì ngôi mộ trống là một dấu chỉ thật lớn. Ngôi mộ trống làm cho Gioan nhớ lại bao lần Thấy đã nói về sự sống lại của Ngài. Bởi thế ông thấy và ông tin.
Tại nhà ga Verona, bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.
Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tụy bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để thốt lên tiếng “Mẹ”. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ già xót xa: “Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ?”. Người lính mù ấy đáp: “Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con”.
Gioan trong câu chuyện hôm nay cũng như thế. Đôi mắt của Gioan và Phêrô chẳng có gì khác nhau nhưng trái tim của Phêrô và của Gioan thì khác. Chính trái tim của Gioan đã mách bảo cho Gioan những gì ngôi mộ trống đã muốn nói với ông.
NHỮNG BƯỚC CHÂN LOAN BÁO TI MỪNG PHỤC SINH – Trích Logos C
Vào năm 1984 một Bộ phim đã làm cho cả thế giới phải Bàng hoàng. Đó là Bộ phim “Những Cánh Đồng Chết” (The Killings Fields) do đạo diễn Roland Joffe người Anh thực hiện. Bộ phim đã đoạt 3 giải Oscar và nhiều giải thưởng khác.
Bộ phim “Những Cánh Đồng Chết” tái hiện lại một cách trung thực nạn diệt chủng của Khơ-Me Đỏ tại Campuchia cách đây gần 30 năm (1975).
Khi Khơ-Me Đỏ tràn vào thủ đô Phnôm Pênh, đất nước “Chùa Tháp” Bắt đầu trải qua cơn ác mộng kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại : hàng triệu người đã Bị sát hại trên “những cánh đồng chết” – địa ngục trần gian.
Dân chúng trong đó có nhiều nhà trí thức : kỹ sư, giáo sư, Bác sỹ đã Bị lùa ra những cánh đồng và Bị giết một cách rất dã man dưới tay những “đồ tể” của chế độ Pôn Pốt.
Kết quả là chỉ lên cầm quyền trong vòng 4 năm (1975 – 1979), chế độ Khơ-Me Đỏ đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người (trên tổng số 7 triệu dân lúc ấy) trên những cánh đồng rải rác khắp Campuchia.
Năm 1998, Pôn Pốt – thủ lĩnh của Khơ – Me Đỏ đã chết trong rừng sâu gần Biên giới Thái Lan, kết thúc một giai đoạn đẫm máu trong lịch sử Campuchia.
“Những cánh đồng chết” năm xưa giờ đây là những cánh đồng lúa xanh hiền hòa. Cây cối mọc tươi tốt Báo hiệu những ngày tháng thanh Bình. Một quá khứ đau thương đã lùi vào dĩ vãng, một đất nước lụi tàn được hồi sinh.
Hôm nay, Ngày Lễ Phục Sinh, Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết và cũng đang làm hồi sinh “những tâm hồn chết” để cùng Ngài Bước vào ánh sáng vinh quang.
Tin Mừng thánh Gioan kể lại ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm và Bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ không thấy xác Chúa đâu. Bà liền chạy về Báo tin cho các tông đồ. Thánh Phêrô và Gioan chạy ra mồ Chúa để xem thì cũng thấy như vậy. Thánh Gioan “đã thấy và đã tin”.
Có một điều đáng nói là cả Ba nhân vật trong Tin Mừng đều đã “chạy” trên đường diễn tả một trạng thái đầy hối hả, được thúc đẩy Bởi sự phấn khởi trước Biến cố Chúa sống lại. Maria Mađalêna chạy về Báo tin cho các tông đồ, Phêrô và Gioan chạy ra mồ để chứng kiến ngôi mộ trống. Có thể gọi họ là những “sứ giả” rất hăng hái trên con đường khám phá và loan Báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh. Họ xứng đáng được ca ngợi : “Đẹp thay Bước chân những sứ giả loan Báo Tin Mừng” (Isaia).
Trên cuộc hành trình thương khó của Chúa họ đã từng là những môn đệ nhát đảm với những Bước chân run rẩy sợ hãi, thậm chí là “những Bước chân chạy trốn”.
Sau Bữa Tiệc Ly, Thánh Phêrô đã đi theo Thầy Bằng những Bước chân rụt rè từ đàng xa, không dám đến gần Thầy. Vì sự hèn nhát, Phêrô đã chối Thầy Ba lần.
Còn các môn đệ khác đã Bỏ chạy khi Thầy mình Bị Bắt. Giuđa đã Bước vào đêm tối của lòng tham lam để rồi lê Bước đến vực thẳm của nỗi tuyệt vọng.
Nhưng trên con đường khổ giá của Chúa Giêsu, Bên cạnh Bước chân xiêu té của Chúa, Bên cạnh những đôi giày hung Bạo của những người lính giày đạp lên thân xác của Chúa, Bên cạnh những Bước chân rầm rập của dân chúng, vẫn còn những Bước chân trung kiên đi theo Chúa. Nhất là Bước chân của những người phụ nữ : những Bước chân âm thầm của Mẹ Maria, những Bước chân tuy run rẩy nhưng can đảm của những người phụ nữ đi theo Chúa : không những trên đường thập giá đến đỉnh núi sọ mà còn đến tận mồ Chúa.
Cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở chân thập giá hay tại ngôi mộ được đóng kín Bằng tảng đá, nhưng cuộc hành trình ấy vẫn nối dài với mầu nhiệm Phục Sinh. Những Bước chân của các tông đồ không chỉ dừng lại ở cái chết của Thầy mình, nhưng tiếp tục cất Bước vào con đường Phục Sinh, vẫn tiếp tục lên đường trên cuộc hành trình rao giảng Đức Kitô sống lại.
Những đôi chân nặng trĩu nỗi thất vọng, chán chường của các tông đồ khi Chúa chết được thay thế Bằng những đôi chân can đảm, với những Bước chân hối hả lên đường loan Báo Tin Mừng Phục Sinh. Không phải những tông đồ là những người đầu tiên loan Báo Tin Mừng Chúa sống lại, mà lại là những người phụ nữ. Họ đã đi Bước trước với những đôi chân yếu đuối nhưng mạnh mẽ can trường, những Bước chân vội vã đi tới không e ngại.
Điều đó nhắc cho Hội Thánh hôm nay nhớ rằng : những Bước chân loan Báo Tin Mừng không thể chậm trễ trong thế giới hôm nay. Bước chân loan Báo Tin Mừng không thể đi sau thời đại đang có những “Bước nhảy vọt” về khoa học kỹ thuật.
Những Bước chân loan Báo Tin Mừng không thể Bị cầm giữ, trói chặt trong sự ích kỷ ươn lười, nhưng phải luôn đi tới đầy can trường. Những Bước chân loan Báo Tin Mừng có thể Bị vấp ngã trên đường nhưng vẫn là những Bước chân reo vui trên cuộc hành trình rao giảng Đức Kitô Phục Sinh cho mọi người.
Hôm nay, Maria Mađalêna đi tìm kiếm Chúa nơi ngôi mộ thanh vắng. Bà là người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh. Dĩ nhiên, Bà không đi tìm Chúa sống lại, nhưng đi tìm Chúa đã chết với lòng thương nhớ. Bà đi tìm sự chết và đã gặp sự sống. Chúa đã thưởng công cho lòng yêu mến của Bà dành cho Ngài.
Cuộc đời chúng ta có nhiều thử thách và đau khổ. Chúng ta hãy đón nhận thập giá để gặp gỡ Chúa Phục Sinh.
Bên cạnh chúng ta cũng có nhiều người đau khổ và cô đơn đang mang dung mạo của Chúa Giêsu tử nạn, chúng ta hãy đi ra khỏi con người ích kỷ của mình để đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho họ và chúng ta sẽ gặp được khuôn mặt vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- NĂM C
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: “Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối” (Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong”(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh” (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!
CÁC NHÂN CHỨNG PHỤC SINH- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.
Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này: phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp lại?
Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
TIN MỪNG PHUC SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chúa Kitô từ cõi chết sống lại là nền tảng đức tin của đạo Công giáo. Vì theo lời Thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền và lời rao giảng của chúng tôi cũng trở nên vô ích”(1Cor 15,14).
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài không phải là con Thiên Chúa hằng sống. Toàn bộ tin mừng Ngài rao giảng đều sụp đổ. Các bí tích Ngài thiết lập đều vô hiệu hóa, và những phép lạ Ngài làm chỉ là phù phép giả tạo.
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài chẳng hơn gì chúng ta, cùng lắm thì như các vị đạo sư, chết là hết.
Chuyện kể rằng: Trong một cơ hội tình cờ, có ba người đại diện cho ba tôn giáo lớn gặp nhau, và ai cũng tự hào về đấng lập đạo của mình.
Một Phật tử nói: Khi Đức Phật Thích Ca chết, ngài được mai táng và hài cốt được lưu giữ trong chùa Xá Lợi bên Ấn Độ, đó là bằng chứng đích thật Phật Thích Ca của chúng tôi
Tiếp đến, môn đồ Hồi giáo lên tiếng:
Khi đức giáo chủ Mahomét chết, ngài để lại nắm tóc và bộ râu, được bảo vệ kỹ lưỡng trong đền thờ bên Árập(Trung Đông), điều đó chứng minh Giáo Chủ chúng tôi có mặt trên trần gian này.
Rồi hai người hỏi tín hữu Kitô: Khi Đức Giêsu chết, Ngài có để lại gì để làm bằng chứng không?
Người tín hữu trả lời:
“Khi Chúa chúng tôi chết, Ngài không để lại cái gì cả, vì Ngài không chết luôn như Giáo Chủ các anh, nhưng Ngài đã sống lại, bằng chứng là ngôi mộ trống, và Ngài đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ của Ngài. Do đó, chúng tôi không có hài cốt như Phật Thích Ca, hay nắm tóc, bộ râu như Giáo Chủ Mahomét.
Thật vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không sống lại thì chúng tôi không tin thờ Ngài, những vị tử đạo dại gì mà đổ máu mình ra làm chứng; các nhà truyền giáo dấn thân rao giảng Tin mừng làm chi, hay những người Công giáo sống đạo làm gì cho khổ, nếu Đức Kitô chết mà không sống lại.
Đức Kitô chết và sống lại, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm chủ sự sống và sự chết, như lời Ngài nói: “Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại”. Bởi đó, chúng ta tin vào Ngài mới có nền tảng, và Chúa có quyền cho chúng ta sống lại với Ngài trên Nước trời mai sau.
Thế thì, Đức Kitô sống lại Ngài mang lại cho chúng ta những gì?
Trước nhất, Ngài mang lại cho chúng ta niềm vui. Niềm vui này khởi đi từ các tông đồ, “các ông vui mừng vì xem thấy Chúa” (Ga 20, 20), và cũng là niềm vui cho toàn thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng tử thần” Ngài không bao giờ chết nữa” (Rm 6, 9). Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô.
Chúa sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng ngày mai đây khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng được sống lại với Chúa, lúc đó sẽ gặp lại những người thân đi trước chúng ta.
Chúa sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi, vì Chúa đã vượt qua cái chết bởi những đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi tiến đến vinh quang.
Như vậy, mọi việc lành chúng ta làm ở đời này đều sinh công ích. Mọi đau khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa.
Chớ gì mỗi năm mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, là dịp nhắc nhở chúng ta sống lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Nếu anh em muốn sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời…” (Cl. 3,1).
Tìm kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết công ăn việc làm để rồi chỉ đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện liên lỉ, không phải như thế, nhưng tìm kiếm những sự trên trời, theo như lời thánh Phaolô khuyên nhủ đó là: “Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh Chúa”(1Cr 10,31).
Ví dụ: Mỗi sáng khi thức dậy, người mà chúng ta nhớ đầu tiên phải là Chúa. Việc lo lắng tìm kiếm trước tiên phải là “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước…” (Mt 6, 33). Rồi trước khi đi ngủ đêm, chúng ta đọc một vài kinh để nhớ Chúa. Đồng thời dành phút hồi tâm nhớ lại trong ngày sống, những lời mình nói, những việc ta làm, nếu có gì lầm lỗi ta xin Chúa thứ tha. Nếu ngày nào cũng sống gắn bó với Chúa như thế, là chúng ta đang sống Tin mừng Phục Sinh.
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền phép chúng ta đồng thanh tung hô: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26).
Thế nào là loan truyền và tuyên xưng việc Chúa sống lại?
Loan truyền bằng đời sống chứng nhân như thánh Phanxicô nói đó là: đem yêu thương vào nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Tuyên xưng việc Chúa sống lại không phải bằng “đầu môi chót lưỡi” nhưng bằng cách thay đổi lối sống của mình, như các tông đồ, họ không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho “Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta”. Vì thế, các ngài sẵn sàng chịu mọi đau khổ, trăm bề, để làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh.
Ngày xưa, trong cuộc thương khó Chúa, các tông đồ hoảng sợ, đức tin lung lay tận gốc rễ, nhưng nhờ Mẹ Maria nâng đỡ mà niềm tin của các ông được vững mạnh. Thì bây giờ, giữa một thế giới có nhiều biến động và nhiều thách đố, nhiều khi làm cho đức tin chúng ta bị lung lay chao đảo, thì hãy bắt chước các tông đồ mau chạy đến với Mẹ Maria, cậy nhờ Đức Mẹ ra tay nâng đỡ, giúp chúng ta vững tin vào Chúa.
Xin Đức Kitô phục sinh thương chúc lành và ban cho chúng ta có một đức tin mạnh mẽ sống động, để làm chứng cho Tin mừng phục sinh của Chúa giữa lòng thế giới có nhiều thách đố hôm nay. Alleluia.
ÁNH LỬA PHỤC SINH – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Ông cũng còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18:31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26:31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên khi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.