CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA (*) – Chú giải của Noel Quesson. 6
NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 14
ƠN GIẢI THOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 27
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 44
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 65
TỬ HÌNH HAY CỨU SỐNG– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 69
TRỞ VỀ VỚI NỘI TÂM– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 74
TỘI LỖI VÀ ÂN SỦNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 78
LÒNG NHÂN HẬU – Trích Logos C.. 85
TA KHÔNG KẾT TỘI– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 91
HÃY BỎ HÒN ĐÁ XUỐNG- Lm. PM. Cao Huy Hoàng. 95
AI SẠCH TỘI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 104
LÀM MỚI CON NGƯỜI – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 109
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa là Đấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Đấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Đáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
BÀI ĐỌC II: Pl 3, 8-14
“Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Đức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại. Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Đức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Giêsu Kitô.
Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
PHÚC ÂM: Ga 8, 1-11
“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đó là lời Chúa.
ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA (*) – Chú giải của Noel Quesson
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. “Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình… Chị ta đáng chết… luật lệ đã rõ ràng” (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. “Ông ấy ăn uống với người tội lỗi”. Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là “vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ…Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến “lãnh vực khác”.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê” hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “điếm đàng”. Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ “lần lượt” âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, “không lên án” chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc… Chị ta đã thoát chết… Chị không còn là người “ngoại tình” nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ” đối với “lòng xót thương”, Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,l5). “Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ ” (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: “Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa”. Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi… ” Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
– “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
– “Thưa Ngài, không có ai cả”.
– “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ƠN GIẢI THOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Chủ đề nổi bật của ngày hôm nay là Ơn Giải Thoát
– Trong bài đọc I (Is 43,16-21), ngôn sứ Isaia tiên báo rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để giải thoát dân do thái khỏi cảnh lưu đày.
– Bài đáp ca trích Tv 125 được soạn sau khi cuộc lưu đày đã kết thúc. Tác giả ca tụng công cuộc giải phóng kỷ diệu ấy : “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”.
– Bài Tin Mừng (Ga 8,1-11) kể chuyện Chúa Giêsu giải thoát người phụ nữ ngoại tình khỏi bị ném đá.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng “Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Thiên Chúa thật là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Ngài trong Thánh lễ này với trọn tâm tình tin yêu phó thác.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Mặc dù chúng ta đầy dẫy khuyết điểm, nhưng chúng ta hay bắt bẻ khuyết điểm của người khác.
– Mặc dù chúng ta tội lỗi rất nhiều, nhưng chúng ta hay lên án người khác.
– Chúng ta không đối xử khoan dung với người khác như Chúa đã khoan dung với chúng ta.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 43,16-21)
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân do thái đang bị lưu đày bên Babylon.
Trước hết Isaia nhắc họ nhớ lại chuyện xuất hành ngày xưa : Thiên Chúa là Đấng giải thoát. Để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài đã rẻ đôi Biển đỏ, đã nhận chìm quân đội Pharaon trong Biển cả.
Tiếp đến, ngôn sứ hứa là Thiên Chúa sẽ thực hiện việc giải phóng đó một lần nữa, tức là giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày : “Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”
Đáp ca (Tv 125)
Ca tụng việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày : “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”.
Tin Mừng (Ga 8,1-11)
Câu chuyện về người phụ nữ này giống một bức tranh trong đó các hình ảnh đối chọi nhau nhưng lại làm nổi bật nhau lên :
– Một bên là một con người tội lỗi rõ ràng vì bị bắt quả tang đang phạm tội đáng chết, bên kia là Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng.
– Một bên là thái độ hung hăng của những người biệt phái đòi giết kẻ có tội, bên kia là thái độ nhân từ hiền hậu của Đấng cứu thế.
Bởi đó thánh Augustinô đã tóm ý nghĩa bức tranh này bằng một câu ngắn gọn rất súc tích : “Miseria et misericordia” (Sự cùng khốn và lòng thương xót).
Bài đọc II (Pl 3,8-14)
Thánh Phaolô đề cao sự công chính mà Chúa Giêsu ban. Đây không phải là sự công chính do Luật Môsê đem lại (như các người biệt phái trong bài Tin Mừng) mà nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô (như người phụ nữ ngoại tình).
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tình cảm thứ tám
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có 7 thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm 7 tình cảm, “thất tình”. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là Thương Xót.
Thương xót là gì ? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi ? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và chúng ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy : “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”. Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội : “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ : “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33)
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá !” Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt xấu, là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn (Mt 13,36-43). Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
* 2. Tội bắt quả tang
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói : “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp. Vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo :
– Ta nghe tục ngữ có câu : “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không ? Tổng Hoằng liền quì xuống tâu :
– Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị : “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.
*
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn được Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó : “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tột ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, dấu diếm những hành vi tội lỗi để không bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ là để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng ? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân : “Tôi không lên án chị đâu ? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
*
Lạy Chúa, chúng cơn rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ xét đoán anh em của mình. Amen.(TP)
Cái nhìn
“Tôi đứng dưới chân đồi,
Nhìn xa xa lên ngọn đồi, tôi thấy một cái bóng giống như một con vật.
Tiến lên nhìn gần hơn một chút, tôi nhận ra cái bóng ấy là một con người.
Tiến sát hơn nữa để nhìn cho thật kỹ, tôi nhận ra đó là người anh em của tôi.”
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá về cách nhìn người và nhìn việc : đứng trước một người vừa mới làm một việc gì đó lầm lỗi, ta đừng nhìn bằng cái nhìn của biệt phái mà hãy bằng cái nhìn của Chúa Giêsu :
a/ Đừng nhìn họ như nhìn một con vật mà hãy nhìn như nhìn một con người, hơn nữa, như người anh em của mình.
b/ Đừng chỉ nhìn những hoàn cảnh bên ngoài, mà hãy nhìn thấu những tình tiết, tâm trạng bên trong của người anh em đó.
c/ Và cũng nhìn đến sứ mạng của mình : sứ mạng đối xử nhân bản với một người anh em, sứ mạng cứu vớt người anh em đó.
Chuyện minh họa
Có chuyện kể rằng người ta bắt được một tên trộm cắp đưa đến nhà vua, và nhà vua đã hạ lệnh giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ : “Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua”. Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói : “Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng”. Nhưng hắn nói thêm : “Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được”. Sau đó hắn thú nhận : “Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi”. Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua : “Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được”. Nhưng nhà vua đáp : “Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, Ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần”. Khi đó tên trộm nói : “Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác”. Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
Chuyện minh họa
a/ Lòng thương xót
Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo luật thì con trai bà phải chết. Bà nói :
– Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng tho xót.
– Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận :
– Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận :
– Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng tương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí.
b/ Mù quáng
Từ xưa tới nay người ta vẫn coi vua Salomon là một người có tài xét xử khôn ngoan. Thế nhưng lại có một chuyện sau đây :
Vì đã xử nhiều vụ án quá nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Nói cách khác, nhà vua càng ngày càng khô khan và khe khắt khi xử án.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một chút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng nhà vua bực quá nói với nó : “Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế ?” Chiếc vương miệng trả lời : “Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng : khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế”. Nói cách khác, khi đó người ta sẽ thành mù quáng.
Mảnh suy tư
– Người nào càng thánh thiện thì càng ít xét đoán người khác.
– Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.
– “Chị về đi, và đừng phạm tội nữa” : Chúa Giêsu không phủ nhận chị này có tội, nhưng Ngài muốn cho chị này một cơ hội để sám hối và làm lại cuộc đời. Chúa Giêsu không muốn chị này chối tội, bàu chữa tại sao chị phạm tội, hay đổ tội cho người khác, những cách làm này quá dễ nhưng không ích lợi gì. Ngài muốn chị can đảm nhìn nhận sự thật, không tuyệt vọng và khuyến khích chị sửa đổi. Đó mới là ơn giải thoát.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là vị Thẩm phán công minh đầy lòng từ bi nhân hậu. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
Hội thánh luôn nhắc nhở con cái mình hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / mau mắn thực hiện lời mời gọi tha thiết này.
Trong đời sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích phê bình chỉ trích / thậm chí lên án người khác cho thỏa lòng ganh ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu hiểu rằng / chỉ một mình Thiên Chúa là vị Thẩm phán công bằng / không bao giờ kỳ thị thiên tư.
Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết : / Ai nói rằng mình không có tội / đó là người nói dối / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ : / Tôi cũng vậy / tôi không lên án chị đâu / Thôi chị cứ về đi / và từ nay đừng phạm tội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết lắng nghe lời Chúa dạy / và thực hiện lệnh Chúa truyền.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con : Anh em đừng xét đoán người khác, vì anh em xét đoán thiên hạ làm sao, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán anh em làm vậy. Xin cho chúng con biết cố gắng sống lời Chúa để khỏi bị khiển trách khi ra trình diện trước tòa Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Nếu chúng ta thấy thái độ khắt khe của những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là sai trái, chúng ta hãy sốt sắng khi đọc câu “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
GIẢI TÁN
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta : “Chúng con hãy về, và đừng phạm tội nữa”.
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại câu truyện đứa con hoang đàng để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tuần này chúng ta lại được thánh Gioan tông đồ kể lại câu truyện người phụ nữ bị ném đá vì phạm tội ngoại tình và thái độ của Đức Giêsu trước cảnh tượng này. Tất cả đều nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, các luật sĩ và biệt phái gài bẫy Đức Giêsu để tìm cách bắt Ngài hay ít ra làm cho Ngài mất uy tín hay bớt ảnh hưởng với dân chúng, nhưng Ngài đã xử lý một cách rất khôn ngoan : Ngài không bị mắc kẹt trong việc đòi ném đá hay tha ném đá cho người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, mà còn cho họ một bài học đích đáng : đừng xét đoán, đừng lên án ai, trái lại phải có lòng thương cảm đối với người tội lỗi.
Chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách : một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng mà lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là nghững người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân. Về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 43,16-21.
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do thái đang bị lưu đầy bên Babylon. Vị tiên tri nói với dân bị lưu đầy nhằm khích lệ họ và mở ra cho họ thấy những viễn cảnh tương lai. Cuộc hồi hương sau cuộc lưu đầy sẽ còn phi thường hơn cuộc xuất hành khỏi Ai cập ; cuộc xuất hành mới sẽ còn tuyệt vời hơn lần đầu.
Như vậy, bài đọc 1 chứa đựng một bức thông điệp của niềm hy vọng gửi cho người Do thái đang bị lưu đầy : sẽ có một cuộc xuất hành mới, rất vinh quang, đến nỗi nó sẽ đẩy lùi những sự việc vĩ đại của cuộc xuất hành đầu tiên vào bóng tối. Và tất cả những điều này sẽ xẩy ra, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành với dân của Ngài.
+ Bài đọc 2 : Pl 3,8-14.
Ở đây thánh Phaolô cho thấy đối với ngài việc biết Đức Kitô là thế nào, một khám phá khiến mọi sự còn lại xem ra như không vậy. Biết Đức Kitô là tìm cách chiếm đoạt Ngài sau khi đã được Ngài chiếm đoạt. Là nhờ Ngài mà đạt đến quyền năng phục sinh của Ngài. Bằng cách chấp nhận thông phần vào đau khổ của Ngài.
Thánh nhân được Chúa mời gọi tiếp tục chạy bộ không ngừng trên đường xuất hành. Để được sống lại với Đức Kitô, ông phải chia sẻ với Ngài sự đau khổ và sự chết, bằng cách liên tục vượt qua chính mình và luôn luôn hy vọng.
+ Bài Tin mừng : Ga 8,1-11.
Biết Đức Giêsu thương người tội lỗi, nhóm luật sĩ và biệt phái tìm cách gài bẫy Ngài để Ngài mất uy tín với dân chúng. Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, ai bắt được người phạm tội quả tang, kẻ ấy có quyền xét xử tội nhân. Trước khi ném đá người phụ nữ này, họ hỏi Đức Giêsu :”Theo luật Maisen thì người phụ nữ này phải bị ném đá, vậy theo ý Ngài thì người phụ nữ này sẽ bị xử như thế nào” ?
Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi lại họ, làm cho họ phải thức tỉnh, không dám kết tội người khác :”Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá đi” (Ga 8,7). Đúng là một gáo nước lạnh giội lên đầu họ vì không ai trong bọn họ là người vô tội. Họ lần lượt rút lui trong sự thẹn thùng.
Qua câu trả lời ấy, Đức Giêsu cho chúng ta biết chỉ mình Thiên Chúa là người vô tội, là người có quyền xét xử. Nhưng Chúa đã xét xử theo lòng từ bi thương xót. Thay vì luận phạt, Ngài đã cứu chị ta. Một người tuyệt vọng như người phụ nữ ấy, đã tìm được nguồn hy vọng. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng chẳng làm cho ai tuyệt vọng.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tôi không kết án chị đâu
BA HỒI CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Trong Mùa Chay chúng ta hay đọc câu thánh vịnh :”Thiên Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Người Do thái vẫn đọc câu thánh vịnh này, nhất là những luật sĩ và biệt phái, nhưng họ chưa hiểu được hết nội dung của nó. Lòng thương xót của Chúa quá thẳm sâu, ai hiểu thấu được. Câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay không phải là đề tài chính, không chủ ý nhằm nói lên tội của con người mà chỉ là cơ hội thuận lợi để nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa và khuyên bảo chị ta đừng phạm tội nữa :”Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị đâu” (Ga 8,11).
Đọc câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta coi câu truyện này như một vở kịch được chia làm ba hồi. Tất cả đều nói lên lòng thương xót của Chúa.
*1. Hồi nhất : Xử án người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-5).
Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt 8 ngày sốùng ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu truyện trong bài Tin mừng.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Tình cờ người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Tất nhiên tội ngoại tình bị lên án, nhưng các người tố cáo thời đó, dù họ là luật sĩ cũng không yêu sách lắm về cách áp dụng khoản luật trong sách Lêvi dạy ném đá người ngoại tình (Lv 20,10). Tuy thế, các luật sĩ và biệt phái muốn dựa vào hai đoạn văn của lề luật : ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (Lv 20,10) và dạy ném đá người đàn bà ngoại tình với người tòng phạm (Đnl 22,22-24) , để cố ý ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các luật sĩ và biệt phái dựa vào cơ hội này để thử thách Đức Giêsu (Ga 8,3-6). Họ thật thâm độc, họ đặt Đức Giêsu và thế gọng kìm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ném đá, Ngài sẽ bị kẹt vào hai điều : trước hết, vi phạm luật của chính quyền Rôma, chỉ chính quyền Rôma mới có quyềàn xử tử hình mà thôi. Thứ đến, Ngài mất uy tín, và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Maisen, không ném đá người phụ nữ ngoại tình, tức là Ngài ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một Đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được ?
*2. Hồi hai : Đức Giêsu với việc xử án (Ga 8,6-9).
Đứng trước câu hỏi hóc búa này, Đức Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Ngài không trả lời mà chỉ ngồi mà vẽ xuống đất cái gì đó. Vậy Ngài viết những gì ? Theo thánh Giêrônimô, Đức Giêsu viết tội những kẻ đứng tố cáo. Còn bản Tân ước tiếng Amêri dịch như sau :”Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ trên mặt đất”. Ý ở đây là Đức Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphein” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Đức Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy, các luật sĩ và biệt phái vẫn một mực đòi hỏi Đức Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Ai có thể là người vô tội ? Trong thư thánh Gioan Tông đồ Ngài dạy rằng :”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 8,7). Người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì quá rõ ràng. Còn những luật sĩ và biệt phái đang tố cáo người phụ nữ với hậu ý rất thâm độc và một lòng thù ghét Đức Giêsu, họ đang tìm cách giết Ngài. Tội của họ còn lớn lao hơn tội người phụ nữ ! Nhưng họ lại tự lừa dối mình là những người đạo đức. Chúa đã vạch tội họ ra cho thấy rằng làm sao một người tội lỗi lại lên án một tội nhân khác được ?
Cúi xuống và viết tội là Chúa nhìn thẳng vào quá khứ và cuộc đời tội lỗi của những người đang tố cáo. Chúa hỏi :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ ném đá trước đi”. Câu nói đó chắc là đã khơi động lương tâm các người tố cáo, già thì nhiều tội hơn, lại bị cắn rứt nhiều hơn nên đã tự biết mình rút lui trước, cho đến người cuối cùng.
*3. Hồi ba : Tha án cho người phụ nữ (Ga 8,10-11).
Sau khi họ đã rút lui hết, chỉ còn lại có một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Ngài mới hỏi chị ta :”Không còn ai lên án chị sao” ? Chị ta đáp:”Thưa không”. Ngài phán :”Ta cũng không lên án chị. Hãy đi làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Khi bàn về câu truyện này, thánh Augustinô dùng hai từ bằng tiếng La tinh rất khéo là “Miseria và misericordia” : bây giờ chỉ còn lại một nỗi khổ đau tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại , bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”(Ga 3,17).
BÀI HỌC TỪ MỘT VỞ KỊCH.
*1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót và tha thứ.
Qua câu truyện này, chúng ta mới thấy rõ tâm tình của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là lòng thương xót đối với tội nhân. Đứng trước lỗi lầm của con người, Đức Giêsu luôn có lòng thương cảm. Ngài không hề phạm tội (x. 1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu biết những tình huống đã dẫn chị ta đến cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn lòng kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án càng chứng tỏ mình sạch tội, vô tội.
Vì thế cần phải biết hồi tâm. Bằng chứng: chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lại lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá trước đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình.
Chúng ta đều đã phạm tội nên đáng chịu hình phạt ném đá như người phụ nữ kia, nhưng Chúa luôn thương xót chúng ta, không nỡ đoán phạt chúng ta. Tiên tri Ôsê (2,4-25) đã so sánh dân Israel với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “đáng điếm”. Mọi sự lìa bỏ Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Chúng ta là dân Israel mới, cũng như người phụ nữ ngoại tình đáng bị trừng phạt nhưng Thiên Chúa luôn xót thương và tha thứ.
Truyện : Hoàng đế Napoléon và lòng thương xót.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đãõ rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ :
– Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời :
– Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói :
– Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp :
– Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra. (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 192)
*2. Đừng xét đoán và lên án ai.
Qua câu trả lời của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác. Ngài đã cảnh cáo chúng ta :”Các ngươi đừng đán xét ai, để mình khỏi bị xét đoán”(Mt 7,1). Khi nhìn vào người khác chúng ta chỉ biết được cái vỏ bề ngoài, còn cái ruột người khác thì làm sao biết được. Vì thế người ta mới nói :
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là chúng ta đòi hỏi người khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phải. Không thể dựa trên kiến thức để xét đoán kẻ khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để xét đoán, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, lý do hết sức đơn giản là không ai lành thánh đủ để đoán xét kẻ khác.
Thích xét đoán và kết án người khác là cái chuyện trầm kha của con người. Không ai nghĩ đến cái xấu của mình mà chỉ nghĩ đến cái xấu của người khác. Chính vì thế ông bà tổ tiên chúng ta đã để lại một lời than trách nhắc nhở chúng ta đừng xét đoán người khác vì mình cũng có tội :
Chân mình thì lấm lê mê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Truyện : Không ai là người vô tội.
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với người cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi xử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi anh ta lưỡng lự trong việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói :
– Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.
Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói :
– Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng :
– Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người giữ kho tàng của nhà vua và nói :
– Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ ?
Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối :
– Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ như thế, cuối cùng chỉ còn lại có một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói :
– Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này ?
Nhưng nhà vua nói :
– Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
Sau đó, người ăn trộm nói :
– Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.(Flor McCarthy, sđd, tr 193-194)
*3. Phải biết thông cảm và tha thứ.
Điều khác nhau căn bản giữa Đức Giêsu và nhóm Do thái là họ muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy họ chỉ muốn ném đá người phụ nữ này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Đức Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Đức Giêsu nhìn tội nhân với sự thương cảm phát xuất từ tình yêu thương, còn các luật sĩ và biệt phái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
Đức Giêsu thực sự có lòng thương xót đối với tội nhân. Đây là một thứ tình cảm đặc biệt ngoài “thất tình” mà chúng ta vẫn biết : hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Vậy thương xót là gì ?
Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót) Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy phải làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C , tập 1, tr 198).
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ, tạo điều kiện và khuyến khích họ sống tốt lành hơn.
Truyện : Tha thứ cho người vợ.
Câu truyện xẩy ra ở một hải đảo của nước Ý. Tại đây người ta qui định : Nếu một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người ta sẽ buộc vào cổ người đàn bà này một tảng đá lớn, và quẳng xuống biển cho chết chìm.
Vào một ngày kia, một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội này. Bà đã bị kết án tử hình theo như luật định. Nhưng đến ngày xử mà người chồng vẫn còn đánh bắt cá ngoài khơi, khiến tòa án phải gia hạn thêm mấy ngày nữa. Người ta đã phải gia hạn nhều lần mà vẫn không thấy anh chồng trở về. Cuối cùng họ quyết thi hành án tử hình cho chị vợ, cho dù chồng có mặt hay không. Họ định ngày xử án dùng thuyền đưa chị ra vùng nước sâu, cột một hòn đá vào cổ chị ta, trước khi quăng chị ta xuống biển cho chết chìm.
Nhưng thật lạ lùng, ngày hôm sau mọi người đều kinh ngạc khi thấy chị ta xuất hiện ở trong làng. Thì ra, ngay từ đầu, nhờ được hai người bạn thân giúp đỡ, người chồng đã hay biết mọi sự. Cho dù bị vợ phản bội, nhưng người chồng vẫn luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội bất trung của vợ. Anh và mấy người bạn kia đã đặt ra một kế hoạch hoàn hảo để giải cứu người vợ. Do đó, thay vì sớm xuất đầu lộ diện để tham gia xét xử, anh ta đã lẩn trốn trong rừng một thời gian để làm kế hoãn binh. Đến ngày thi hành án, anh bí mật bơi lặn đến núp dưới một tảng đá ngầm, ngay tại nơi mà người chị vợ sẽ bị quăng xuống biển. Khi chị vợ bị quăng xuống, thì người chồng đã mau tiến lại gần, dùng dao cắt đứt sợi dây cột đá và bí mật đưa vợ đi đường tắt về nhà.
*4. Hãy đi xưng tội.
Mọi người đã phạm tội, cần phải ăn năn sám hối và làm hòa với Chúa. Cách giao hòa với Chúa hay nhất là đi xưng tội, đặc biệt cho những người phạm tội trọng. Những người phạm tội trọng muốn được tha tội, trong những điều kiện bình thường, chỉ còn cách duy nhất là đến tòa giải tội. Những người phạm tội nhẹ, tuy không buộc phải xưng tội, có nhiều cách để được tha, nhưng việc xưng tội sẽ đem lại cho họ được nhiều lợi ích.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi bí tích giải tội là con đường thanh tẩy và kết hợp với Đức Kitô. Ngài nhận định rằng bí tích Giải tội có mục đích không chỉ tha tội nhưng còn và trên hết dẫn đưa người tín hữu vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Kitô.
Khi tiếp kiến với các Linh mục và chủng sinh đang tham dự một khoa học về “internal forum” do tòa Âân giải tổ chức, ngài bầy tỏ suy tư về những phương diện chính yếu của bí tích này :”Hoa trái của việc xưng tội”không những chỉ là tha thứ tội lỗi, điều cần thiết cho bất cứ ai đã phạm tội” nhưng còn mang lại “sự phục sinh thiêng liêng” thực sự, một sự phục hồi phẩm giá và những điều thiện hảo cho sự sống của con cái Thiên Chúa, mà điều quí giá nhất là “Tình bằng hữu với Thiên Chúa”.
Do dó, “sẽ ảo tưởng cho việc nên thánh, tùy theo ơn gọi Chúa ban cho mỗi người, mà không thường xuyên và sốt sắng lãnh nhận bí tích sám hối và thánh hóa này” như Đức Giáo hoàng đã khẳng định.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô với việc xưng tội.
Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhường và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi :
– Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con ?
– Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
– Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
– Không, Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
– Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà ?
– Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalena đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
– Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con ?
– Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi :
– Cha khóc à ? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá ?
– Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép giải tội không phải chỉ là che giấu tội, phủ kín tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
-Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
– Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
– Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
– Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
TỬ HÌNH HAY CỨU SỐNG?– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
TRỞ VỀ VỚI NỘI TÂM– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của những người chung quanh nhưng khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính mình! Một nốt ruồi nhỏ trên khôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân. Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy như thế: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Người thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Người muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.
Rồi Người lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lụp cụp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hi vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
***
Lạy Chúa Giê-su, trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được bao người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người mến yêu.
TỘI LỖI VÀ ÂN SỦNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11).
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe chẳng khác gì một phiên toà. Bị cáo là một người phụ nữ. Nguyên cáo là các kinh sư và những người Pharisiêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách bị ném đá. Thực ra các kinh sư và những người Pharisiêu không cần đến Đức Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môise để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Đức Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Chúa tha cho người phụ nữ họ có cớ để tố cáo Chúa chống lại luật Môisê. Nếu Chúa kết án người phụ nữ họ sẽ rêu rao với mọi người rằng Chúa là Người mâu thuẫn với chính mình vì Chúa vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án dành cho người phụ nữ họ hy vọng sẽ có một bản án khác dành cho Đức Giêsu.
Đứng trước sự việc đó Chúa đã phản ứng thế nào?
Chúa đã im lặng, và Người cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian trở về với cõi lòng của mình và thấy được những gì đang lắng đọng ở trong đó. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để rồi sau đó Người đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Họ mời Đức Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Đức Giêsu kết án người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại ném một hòn đá vào chính lương tâm họ.
Chỉ có điều, họ muốn Đức Giêsu làm quan toà để giết chết, nhưng Đức Giêsu lại là quan toà để cứu sống. Những hòn đá họ mang đến với mục đích ném vào người phụ nữ cho chị ta chết đi, thì hòn đá Đức Giêsu ném vào lương tâm đã giúp họ sống lại. Họ như được bừng tỉnh khỏi cơn mê muội, nhận biết mình tội lỗi, và ngay sau đó họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các kinh sư và những người Pharisiêu rồi, Đức Giêsu mới quay lại xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, với những lời lẽ hiền từ, Đức Giêsu đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11).
Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng và nhân hậu.
Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng và bao dung.
Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần và vỗ về.
Lời phán xét của Chúa không làm sỉ nhục con người tội lỗi nhưng giúp họ phục hồi nhân phẩm của mình.
Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho họ một tương lai.
Ở đây chúng ta thấy Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi tội nhân. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Vâng kính thưa anh chị em. Đó là nội dung câu chuyện qua bài Tin Mừng hôm nay.
Khi chú giải về sự kiện này Thánh Augustinô viết một câu rất vắn nhưng cũng rất hay: “Relicti sunt duo:miseria et misericordia” Chỉ còn lại hai: một bên là sự khốn nạn và bên kia là lòng xót thương” Cha Nil Guillemetre còn viết thêm :”La misericorde en face de la misère. C’ est tout l Évangile “Lòng xót thương giáp mặt với sự khốn cùng đó là tất cả Tin Mừng”.
Phiên tòa bây giờ không có nguyên cáo và cũng không có ai phán xét. Và Chúa Giêsu lại một lần nữa minh chứng cho những gì mà Chúa đã từng tuyên bố :”Con người đến không phải để xét xử thế gian nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu” (Ga 3,17).
Kính thưa anh chị em.
Tới đây thì chắc anh chị em đã thấy được tấm lòng của Chúa như thế nào. Bao nhiêu lần Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chẳng ai trong chung ta trong sạch. Tất cả mọi người chúng ta đều nhận được tình thương tha thứ của Chúa. Rồi cũng lại bao nhiêu lần chúng ta đọc kinh lạy Cha. Thánh lễ nào cũng vậy chúng ta hát hay đọc thật rõ lời của Chúa và tha cho chúng con như chúng con cũng tha.
Thế nhưng thực tế trong cuộc sống sự việc đã thường xẩy ra như thế nào. Hình như tự trong đáy lòng của chúng ta, chúng ta ít nhiều cũng đang là những biệt phái và luật sĩ như trong bài Tin Mừng hôm nay. Lời Kinh Thánh vẫn còn đó: Hãy cẩn thận khi đoán xét người khác.
Để kết thúc tôi xin gửi đến anh chị em câu chuyện rất cảm động và tác giả kể lại câu chuyện này không ngần ngại xếp nó vào loại những câu chuyện lạ lùng nhất của thế giới. Đây là câu chuyện có thật. Chuyện có liên hệ đến một tên tử tù. Anh tên là Demay. Anh bị bắt vì tội giết người. Anh giết tới 5 người trong đó có viên thanh tra cảnh sát tên là Pierre Bréant.
Khi bị đưa ra tòa, Demay bị lãnh án tử hình. Ai cũng cho như thế là đính đáng.
Thế nhưng tổng thống Vicent Auriol đã ân xá cho anh ta. Phải chăng tổng thống quá nhân từ. Không phải thế. Sau khi ân xá cho Demay trong một cuộc phỏng vấn tổng thống đã tâm sự như thế này: “Có những vấn đề đã làm tôi phải thức trắng đêm. Trường hợp của Demay cũng vậy. Tại sao tôi lại không chấp thuận để đưa nó lên đoạn đầu đài? Vì lẽ gì tôi đã bằng lòng ân xá cho nó. Đây là lý do. Lý do này tôi đọc được trong bản báo cáo của phiên tòa xử Demay. Đây là lời của Demay nói trước quan tòa:
“Tôi muốn nói với quí vị một vài lời. Tôi xin thưa với quí vị rằng mẹ tôi thường không cho tôi bú sữa dầu tôi có phải khóc lên vì đói. Mẹ tôi say sưa cả ngày. Cha tôi cũng vậy. Ông thường dùng gậy để đập vào đầu tôi.
Qúi vị là những người được may mắn sinh trưởng trong một gia đình khá giả, đủ ăn đủ mặc, được học hành đầy đủ. Quí vị đâu có biết cái cảnh những đứa trẻ con nghèo đói rách nát phải đi lang thang bới những thứ người ta vất đi ở thùng rác mà sống.
Quí vị đâu có thấy được cái cảnh một bà mẹ say sưa nằm chết sõng sượt trên vũng bùn nhơ, rồi đứa con thơ phải cố lôi xác mẹ vào trong một túp lều ở dưới hầm cầu, tắm rửa, thay quần áo cho mẹ, rồi đợi để đưa mẹ đi chôn. Hình ảnh đứa bé vừa lên chín ấy là tôi.
Tôi sống trong sự cơ hàn. Mãi đến năm 20 tuổi tôi vẫn chưa có được một ly rượu ngọt để uống.
Quí vị là những người tượng trưng cho cái xã hội thượng lưu. Quí vị là những người có nhiệm vụ lo cho đời sống của mọi công dân trong nước… Thế mà quí vị đã để cho tôi đói khát, không chút tình thương, không được học hành, không hiểu thế nào là đạo đức, là luân lý. Vậy mà bây giờ quí vị lại đứng ra buộc tội tôi. Tôi muốn tố cáo ngược lại quí vị, tố cáo cái xã hội đầy bất công là nguyên nhân đã gây ra tội lỗi này.”
Kính thưa anh chị em
Đọc xong câu truyện này tôi tự hỏi không biết Chúa sẽ xử trí như thế nào nếu Chúa phải đứng trước một hoàn cảnh tương tự như thế. Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy những câu chuyện như thế chẳng còn xa lạ gì với chúng ta nhất là trong cái xã hội mà chúng ta đang sống hôm nay.
Công bình mà nói thì chúng ta phải cám ơn Chúa. Dù sao thì chúng ta cũng còn có mái nhà để ở, có bát cơm để ăn. Chúng ta còn được giáo dục cho biết đâu là điều hay lẽ phải. Hơn nữa chúng ta còn được Chúa dạy dỗ.
Nhưng bên cạnh chúng ta, trước mắt chúng ta còn biết bao nhiêu người đang phải quằn quại trong đau khổ vì….nghiện ngập, thiếu tình thương? Tại ai thưa anh chị em? Biết đâu chúng ta chẳng có một phần trách nhiệm trong đó? Đừng đổ tội cho ai nhưng hãy thành tâm xét mình trước mặt Chúa và hãy làm một điều gì đó để sửa lại lỗi lầm của mình. Amen.
LÒNG NHÂN HẬU – Trích Logos C
Trong những năm gần đây, qua các phương tiện truyền thông, người ta Biết đến một số vụ án lớn trong nước được đem ra xét xử : vụ án “Nước Hoa Thanh Hương – Nguyễn Văn Mười Hai”; “Tamexco – Phạm Huy Phước”; “Epco – Minh Phụng”; vụ án “Năm Cam”; và gần đây nhất là vụ án “Lã Thị Kim Oanh” đang được thông tin trên Báo chí.
Người ta mở ra những phiên tòa để xét xử các Bị cáo và đa số các phiên tòa ấy đều dẫn đến Bản án tử hình dành cho kẻ có tội, hoặc ít ra họ cũng phải ngồi tù nhiều năm hay chung thân.
Tuy nhiên, trong tất cả những phiên tòa từ trước đến nay cũng có những phiên tòa không có lời kết tội hoặc được “trắng án”.
Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại một Buổi xét xử không có lời kết án đó.
Phiên tòa không có Bản án :
Khi Chúa Giêsu đang ngồi giảng dạy dân chúng trong đền thờ thì các luật sĩ và Biệt phái dẫn đến một thiếu phụ Bị Bắt quả tang phạm tội ngoại tình và xin Chúa xét xử.
Đây là một cái “Bẫy” các luật sĩ và Biệt phái giăng ra để Bắt lỗi Chúa. Nếu Chúa kết tội theo “luật Môisen” thì người thiếu phụ này sẽ Bị ném đá. Như vậy, Chúa sẽ vi phạm “luật Roma” vì người Do thái không có quyền xét xử phạm nhân. Hơn nữa, nếu kết án người có tội thì trái với “luật yêu thương” mà Chúa giảng dạy. Còn nếu không kết án người thiếu phụ thì Chúa không tuân thủ luật Môisen. Như thế, những luật sĩ và Biệt phái có lý do để tố cáo Chúa chống lại lề luật.
Chúa Giêsu xử trí thế nào ? Chúa Giêsu cúi xuống dùng ngón tay viết trên đất, như muốn người ta im lặng để suy nghĩ và tự vấn lương tâm mình. Họ thúc giục Chúa trả lời. Chúa đứng lên và nói: “Ai sạch tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Nghe nói thế họ Bỏ đi từng người một, Bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất.
Chúa Giêsu không Bênh vực tội lỗi, nhưng chống lại điều xấu. Chúa không kết án, nhưng để cho những luật sĩ và Biệt phái kết án chính mình. Chúa không muốn ném đá người phụ nữ phạm tội, nhưng muốn những người tố cáo chị ta hãy ném đá chính mình.
Khi chỉ còn Chúa Giêsu và người thiếu phụ, Chúa đã nói với chị : “Ta không kết tội chị, hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Chúa lên án tội lỗi,nhưng không kết án kẻ tội lỗi. Chúa tha thứ cho họ Bằng tấm lòng đầy tình thương xót.
Phiên tòa cho chính mình :
Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi, nhưng con người lại kết án Thiên Chúa vô tội.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả có quyền xét xử người tội lỗi, nhưng vì lòng nhân hậu vô Biên, Ngài không kết án con người, trái lại tha thứ cho con người là những tội nhân đáng phải chết. Ngược lại, con người kết án Chúa là Đấng vô tội. Trước tòa án Philatô, tiếng gào thét của dân chúng : “Đóng đinh nó vào thập giá” vẫn tiếp tục vang vọng trên giòng lịch sử chứng minh sự thật : con người đã kết án và đóng đinh một Thiên Chúa chí thánh. Lời lên án ấy vẫn tiếp tục vang vọng trong cuộc đời chúng ta mỗi khi sa ngã phạm tội. Lúc ấy, chúng ta lại kết án và đóng đinh Chúa một lần nữa.
Thiên Chúa tha thứ cho con người, nhưng con người lại kết án nhau.
Khi các luật sĩ và Biệt phái dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa, chắc hẳn họ đắc thắng trong lòng vì đã Bắt quả tang người phạm tội. Họ muốn lên án người tội lỗi theo đúng luật dạy. Họ trở thành những quan tòa nghiêm khắc trước tội nhân. Nhưng Chúa lại muốn họ tự xét xử và lên án chính mình. Đó cũng là thái độ chúng ta phải có để thay vì xét xử người khác, trước hết chúng ta hãy xét xử chính mình. Mỗi ngày chúng ta hãy mở ra phiên tòa cho mình và kết án “cái tôi” với Bao khuyết điểm, lỗi lầm. Trước khi “ném đá” kẻ khác, hãy “ném đá” vào Bản thân và tuyên án tử cho con người cũ để mặc lấy con người mới là Đức Kitô. Hãy ném “viên đá sám hối” vào mặt nước hồ phẳng lặng của tâm hồn để thức tỉnh và đối diện với chính mình trong cuộc hoán cải và canh tân.
Vào năm 1990, tại Việt Nam người ta chiếu Bộ phim nổi tiếng mang tên “Sám Hối”. Bộ phim này do đạo diễn người Nga tên ABuladze thực hiện và đoạt giải đặc Biệt trong Liên Hoan Phim Cannes tại Pháp. Bộ phim đã gây ra một chấn động lớn khắp thế giới và đặc Biệt tại Liên Xô cũ. Vì Bộ phim đã đặt ra vấn đề đổi mới (Perestroika) tại Liên Xô. Muốn canh tân, tất cả mọi người phải “sám hối” về những khuyết điểm và sai lầm của mình (thời Stalin).
Cũng thế, chúng ta hãy nhìn vào chính mình, nhận ra những yếu đuối và lầm lỡ để sám hối và sửa chữa. Có như vậy, chúng ta mới trở thành con người hoàn thiện. Con đường sám hối là con đường ngắn nhất dẫn chúng ta về với Thiên Chúa và canh tân cuộc sống.
Trong một cuộc hành quyết, người ta sắp xử tử một tên sát nhân cướp của giết người. Trước mặt đức vua và Bá quan văn võ, tên tử tội đứng run rẩy vì khiếp sợ. Chỉ một lát nữa thôi, đầu hắn sẽ lìa khỏi cổ !
Trước khi chém đầu hắn, đức vua cho hắn một ân huệ cuối cùng: “Ngươi muốn xin ta điều gì ?”, hắn đáp : “Tôi xin được uống nước”. Người ta đưa đến cho hắn một ly nước. Nhưng vì sợ hãi run rẩy nên hắn không sao cầm ly nước để uống được.
Thấy thế, đức vua nói : “Đừng sợ ! Nếu ngươi chưa uống nước, thì mạng sống ngươi vẫn toàn vẹn. Ta sẽ đợi đến khi ngươi uống nước xong mới chém đầu ngươi”.
Nghe vậy, tên tử tội liền Buông rơi ly nước xuống đất Bể tan tành. Hắn không uống chút nước nào, nghĩa là mạng sống hắn mãi mãi toàn vẹn.
Tên tử tội nói với đức vua : “Xin Ngài hãy giữ lời hứa !”, Đức vua mỉm cười đáp : “Phải, ngươi đã thắng ta. Ta không thể phản Bội lời hứa, dù ngươi là một tên sát nhân! Ta tha chết cho ngươi !”.
Hôm nay, Chúa nói với người thiếu phụ ngoại tình cũng là nói với chúng ta: “Ta không kết án con, hãy về và đừng phạm tội nữa”. Chúa luôn luôn giữ lời hứa và chờ đợi chúng ta trở về với Ngài. Vì Ngài là Đấng đầy lòng khoan dung và nhân hậu.
Tiên Tri Isaia (trong Bài đọc I) nhắc lại việc Thiên Chúa đã mở đường giữa Biển Đỏ cho dân Do thái đi qua để về Đất Hứa. Thiên Chúa tiếp tục mở một con đường mới để dẫn đưa dân tới đời sống thịnh vượng và hạnh phúc. Trên con đường mới đó, Thánh Phaolô (trong Bài đọc II) cũng đang đuổi theo đích đến là sự hoàn hảo trong Đức Kitô.
Con đường mới cũng là con đường tình yêu Chúa mời gọi chúng ta Bước đi. Con đường đó dẫn chúng ta đến với Chúa Bằng tâm hồn sám hối ăn năn và đến với tha nhân Bằng trái tim Bao dung đầy tình nhân ái.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM C
TA KHÔNG KẾT TỘI– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Chúa nhật tuần trước chúng ta chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa được minh họa qua dụ ngôn người cha nhân hậu. Tuần này, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục chiêm ngắm dung mạo lòng thương xót tha thứ của Chúa Giêsu qua câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình.
Bài Tin mừng trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các luật sĩ và những người Pharisiêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môisen để thi hành án. Thế nhưng, giới lãnh đạo Do thái muốn đặt câu hỏi với vị thẩm phán Giêsu, họ có ý gài bẫy Ngài: “Thưa Thầy! Thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môisê thì hạng phụ nữ này phải ném đá cho chết; còn Thầy, Thầy dạy sao?” (Ga 8, 4-5). Và rồi họ chờ xem Chúa Giêsu sẽ xét xử như thế nào. Nhìn thoáng qua là như thế.
Thế nhưng mà, suy niệm sâu xa hơn, chúng ta thấy đây không chỉ là vụ án người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà đúng hơn là vụ án Giêsu. Tại sao vậy! Bởi vì bị cáo ở đây là chính Chúa Giêsu khi giới lãnh đạo Do thái lập mưu đặt ra câu hỏi: Còn Thầy, Thầy dạy sao! Ném đá hay là không ném đá?.
Giả như Chúa Giêsu bảo cứ ném đá thì ngay lập tức, Tin mừng về lòng thương xót mà Chúa Giêsu rao giảng sẽ sụp đổ tan tành; Hình ảnh của một Giêsu có lòng từ tâm, nhân hậu, cảm thông và tha thứ cho những người tội lỗi sẽ trở nên vô nghĩa. Còn ngược lại, nếu Chúa bảo không ném đá, thì họ cho rằng: Chúa Giêsu phá bỏ luật Môisê. Trả lời cách nào cũng chết.
Nhưng không ngờ câu trả lời của Chúa Giêsu không còn là vụ án người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng không phải là vụ án Giêsu mà làø trở thành vụ án lương tâm của mỗi người.
Khi Chúa Giêsu lên tiếng rằng: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”(Ga 8,7). Với câu nói này, Chúa Giêsu biến tất cả những nguyên cáo trở thành những người bị cáo. Bởi vì nhìn lại lương tâm người nào cũng thấy mình có tội cả. Vua Đavít đã cảm nghiệm được điều này nên đã thưa lên cùng Chúa:
“Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50,7).
Thánh sử Gioan ghi nhận từ người lớn tuổi cho đến người nhỏ tuổi đều rút lui hết. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì những người tố cáo này cứ tưởng là mình vô tội, cho nên trong tay họ cầm hòn đá sẵn sàng ném người khác, nhưng bây giờ khi được mời gọi nhìn lại chính mình, thấy tâm hồn mình đầy tội nhơ, cho nên đâu còn dám ném đá ai nữa. Vì nếu tôi ném đá người khác, cũng có nghĩa là tôi tự ném đá chính mình, tôi tự lên án chính mình.
Bởi tất cả chúng ta đều là tội nhân, mà đã là tội nhân thì đâu có quyền lên án buộc tội ai. Tất cả chúng ta chỉ trông cậy vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa mà thôi. Giống như Chúa nói với người phụ nữ ngoại tình: “Ta không kết tội chị đâu …”(Ga 8, 11). Ngày nay, Chúa cũng nói với mỗi chúng ta như vậy, ước gì chúng ta cũng nói với nhau những lời tha thứ như thế.
Thánh Philipphê-Nêri ngày xưa, khi chứng kiến người ta dẫn một phạm nhân ra pháp trường xử tử, đang khi mọi người hò la lên án, thì Ngài gục đầu xuống thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Giả như con ở trong hoàn cảnh như phạm nhân kia, chắc là con phạm tội gấp đôi”.
Vì thế, thỉnh thoảng chúng ta cũng nên nhìn lại chính mình. Nếu tôi sinh ra trong một gia đình quá đỗi nghèo khó; hay là trong một gia đình mà cha mẹ ly thân ly dị. Hay tôi sinh ra trong một gia đình mà lớn lên trong nền giáo dục không được lành mạnh, thì ngày hôm nay liệu tôi có được như thế này không? Khi đặt cho mình câu hỏi như thế, thì có lẽ chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn, biết thông cảm và tha thứ cho nhau hơn.
Qua câu chuyện người phụ nữ ngoại tình hôm nay, như là một lời nhắc nhở chúng ta nhìn lại con người thật của mình trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là tội nhân.
Vì không ai trong chúng ta là người vô tội, cho nên xin đừng lên án, xin đừng buộc tội làm khổ cho nhau. Vì không ai trong chúng ta là người vô tội, giờ đây, xin cùng ăn năn, xin cùng thống hối lỗi lầm đã qua. Amen.
HÃY BỎ HÒN ĐÁ XUỐNG- Lm. PM. Cao Huy Hoàng
Càng gần đến tuần kỷ niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu, lời mời gọi sám hối càng trở nên khẩn thiết hơn, tích cực hơn. Lời Chúa Chúa Nhật 5 Mùa Chay đặt tôi trong tình trạng tự trải lòng mình ra trước Tình Yêu của Thiên Chúa và nhờ Tình Yêu thiêng liêng ấy chiếu vào cõi thâm sâu thầm kín để thấy mình còn lắm điều tồi tệ.
Sự im lặng của tội nhân
Các Kinh Sư và Pharisêu đem đến cho Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đặt cô ấy đứng giữa và yêu cầu cho ý kiến. Họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu phạm luật Môsê. Vì theo luật Môsê thì người đàn bà tội lỗi này phải bị ném đá cho đến chết ( Lv 20, 10; Đnl 22, 22 – 24 ).
Tôi đang hình dung ra một tòa án cộng đồng, diễn ra ngay trong Đền Thờ, công tố viên không ai khác là các Kinh Sư và Pharisêu, vị thẩm phán và còn là luật sư bào chữa, khách mời hôm nay là Chúa Giêsu, còn người tham dự phiên tòa là dân chúng đang nắm trong tay những hòn đá, khoái chí, hăm he chờ ném vào người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo lời kể của phóng viên tại tòa, Thánh Gioan, thì trong suốt phiên tòa, “người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình” ấy, chị chỉ nói mỗi một câu “họ đã về cả rồi”. Chị hoàn toàn im lặng trong khi chờ bị ném đá, một sự im lặng đáng chú ý.
Dẫu biết rằng “im lặng là đồng lõa”, “im lặng là chấp nhận”, nhưng tôi muốn nghĩ đến trong cái im lặng ấy, có thể, còn có bao điều chị muốn nói, nhưng không thể nói được, vì “văn bản luật” đã rõ ràng và tội trạng đã đành rành. Đã nói đến luật pháp trần gian, thì phải hiểu luật pháp luôn là một “cây thước” cứng ngắc. Tôi muốn đặt mình vào tình thế của “người nữ công khai phạm tội ngoại tình” để thêm được một người hiểu cho chị, vì trong sân ai cũng không hiểu, chỉ mỗi một người hiểu chị, là Chúa Giêsu. Trong cái im lặng ấy, có thể chị đang xấu hổ và có thể có nhiều tâm sự thầm kín, nhưng không là lý do để có thể bào chữa, rằng thì là:
“Nhà em nghèo, chồng em bệnh, ba đứa con phải được lo cho học hành”.
“Em cần tiền để sửa lại nhà cửa. Nhà em rách nát, nắng mưa gió cát rác rưởi đều có lối vào”.
“Em không cưỡng lại được số phận, vì trời ban cho em cái hồng nhan “khuynh nước, khuynh thành” làm cho bao “đấng mày râu” chao đảo, như “sắc bất ba đào dị nịch nhân”.
“Em đã lỡ tự trau chuốt cho mình quá mức cần thiết, tưởng để cho đẹp mặt với người ta, có ai ngờ… trở thành món mồi ngon cho những người có lòng tham khoái lạc”.
“Em không thể sống trong cảnh cô đơn khi hãy còn quá trẻ. Em cần có anh ấy !”
“Anh ấy cần có em, đến với anh ấy vì em muốn giải thoát anh ấy khỏi những bi lụy…”
“Em đang cần một đứa con để giải tỏa những u ám trong gia đình em”…
… Và hàng chục lý do khác nữa để tự biện hộ.
Vâng, có thể chị không có cơ hội để giải bày những tâm sự với bao nhiêu là lý do chủ quan, khách quan…, có thể chị hiểu là dù có nói gì đi nữa, thì trước mắt người đời, chị cũng không thoát tội chết, không khỏi bị ném đá. Có thể chị hiểu: ý hướng tốt khi thực hiện một điều xấu không đủ biện minh hay chạy tội thành trắng án – cũng như, mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu – ấy là luật. Biết như thế, nhưng Chúa Giêsu, Đấng hiểu thấu mọi nỗi lòng, hiểu thấu mọi sự im lặng, mọi nỗi đau thầm kín nhất trong lòng, Ngài hiểu chị và thương xót chị.
Nhìn lại chính mình
Chúa Giêsu không chỉ muốn nói cho đám đông tố cáo rằng “hãy thông cảm cho tội nhân” mà còn điều quan trọng là cảnh cáo họ “hãy nhìn lại chính mình”. Chúa nói: “Ai trong các người vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
– Hãy nhìn lại chính mình, đúng thế, nếu người đời chưa phát hiện ra tôi đang sống trong tình trạng tội lỗi, để tôi trở thành tội nhân công khai, đáng phải bị ném đá, thì lòng tôi ơi, hãy nhớ rằng, nhà ngươi đã bị Thiên Chúa “bắt quả tang” từ trong ý nghĩ, trong tư tưởng đến hành động… không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng Ngài vẫn im lặng, đợi chờ. Tôi có thể tránh được ánh mắt của người đời, nhưng không thể tránh được ánh mắt của Thiên Chúa.
– Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, có đôi khi, người ta chưa phạm tội, thì mình đã phạm tội rồi. Thấy một người có khả năng làm việc trong Giáo Xứ, họ đóng góp được nhiều việc, còn tôi, tôi chẳng có tài gì, tôi lại nói: “Ông ấy, bà ấy, con mẹ ấy nó kiêu ngạo lắm”. Thế nghĩa là gì ? Có phải họ chưa kịp kiêu ngạo thì tôi đã kiêu ngạo rồi chăng ? Nghe chuyện thường xuyên ai đó vẫn gặp nhau, tôi thêu dệt thành chuyện tình ly kỳ hấp dẫn nhất để mọi người có thể tin rằng họ đã phạm tội điều răn thứ 9. Thế có phải chính tôi đã phạm tội trước họ chăng ?
– Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, mình đang tội lỗi nhiều hơn người khác, nhất là khi mình đang có được những vỏ bọc bên ngoài có vẻ như là đạo đức lắm: trí thức Công Giáo chẳng hạn, thành viên Hội Đồng Mục Vụ, Ban Trị Sự, Ban Giáo Lý, hay trong các ban ngành đoàn thể khác chẳng hạn. Những vỏ bọc ấy không là bằng chứng vô tội của tôi, và càng không phải là cái thẩm quyền xét đoán hay kết tội anh em.
– Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, những công việc, kể cả việc đạo đức của tôi hằng ngày nơi cộng đoàn Dân Chúa, nếu không vì Lòng Mến chân thành, và vì vinh danh Chúa, thì cũng hãy coi chừng, chưa chắc đó là bảo chứng cho lòng trong sạch của mình. Càng không phải đó là giấy xác nhận tôi có quyền thẩm định tư cách của người này, xếp hạng đạo đức cho người kia, và loại trừ người nọ vì lý do họ phạm tội. Chính từ những xét đoán, kết án, phân biệt, loại trừ đã dẫn đến sự mất hiệp nhất trong cộng đoàn Dân Chúa, làm giảm sút sự phát triển của một Giáo Xứ, một cộng đoàn, thậm chí khiến cho tất cả phải giậm chân tại chỗ, tụt dốc hay rệu rã.
Hãy bỏ hòn đá xuống
Khi đã nhìn lại chính mình, người ta đã bỏ hòn đá xuống, rồi lẳng lặng ra về. Chúa Giêsu hỏi người đàn bà ngoại tình: “Này chị, họ đâu cả rồi, không ai lên án chị sao ?” – “Thưa Ông, không có ai cả” – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8, 10 – 11 ).
Phàm ai sống trên đời cũng “thích” xét đoán và kết án, và không hề thích chính mình “bị xét đoán và bị kết án”. Nhưng ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói: “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán” ( Mt 7, 1 ). Và cụ thể nhất, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã thể hiện tinh thần ấy. Mặc dù điều luật về tội ngoại tình của Chúa Giêsu còn ngặt hơn nhiều “Các ngươi đã nghe bảo: ‘Chớ ngoại tình’. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” ( Mt 5, 27 – 28 ). Nhưng trước một tội nhân công khai, ở đây là người đàn bà đã được nNgài hiểu thấu nỗi lòng, Ngài cũng không lên án, ngược lại, Ngài tha thứ và vạch ra một hướng đi tích cực hơn cho chị: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”. Đúng như tinh thần Ngài đã nêu nơi Lc 17, 3 – 4: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy răn bảo nó; nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó. Cho dẫu nó xúc phạm đến ngươi bảy lần một ngày, và bảy lần nó trở lại với ngươi và nói “tôi xin chừa cải” thì ngươi cũng phải tha thứ cho nó”.
Tôi xin trích đoạn bài thơ “Càng yêu em hơn” trong tập “Nhật Ký Yêu” của tác giả T.G, một người bạn của tôi:
Nàng gục đầu khóc trong vai tôi
Khóc sụt sùi, nghẹn từng tiếng, rồi òa lên nức nở
“Anh ơi !“Hãy tha thứ cho em
cuộc lao đao trong chiến trận tình đời
Em đã dối gian anh và em là người chiến bại
Ôi một thời đoan trang và hồng nhan con gái
Đã bay xa theo gió lộng phù hoa
Em tưởng mình sẽ hạnh phúc bao la
Có ngờ đâu lối về xa vạn dặm…
Cảm ơn anh không vì say vì đắm
Nhưng vì yêu, đã tha thứ cho em
Đón em về, dù rã nát trái tim
Tình yêu anh, cho em con đường mới….”
Tác giả T.G. đã bỏ hòn đá xuống, và viết vào nhật ký những dòng thơ đầy nước mắt với tựa đề “Càng Yêu Em Hơn”. Tôi nghĩ anh bạn tôi cũng thấm tinh thần Tha Thứ của Chúa Giêsu hôm nay đối với chính người bạn đời của mình.
Trong khi viết những dòng suy niệm này, tôi nhận được Email của anh tôi, Laogiacali, chuyển cho tôi mấy dòng của ngài Jim Lawhon:
“I remember there are 4 things that we cannot recover: The stone… after… the throw ! The word… after… it’s said ! The occasion… after… the loss ! The time… after… it’s gone”
“Tôi nhớ, có 4 điều mà chúng ta không thể thu hồi lại được: Hòn đá đã ném đi. Lời đã nói ra. Cơ hội đã vuột mất. Và thời gian đã qua đi”.
Cảm ơn anh Laogiacali, cảm ơn ngài Jim Lawhon, em mượn ý tưởng này để kết.
Xin hãy bỏ hòn đá xuống. Xin khoan hãy nói lời buộc tội… Hòn đá đã ném đi không thu hồi lại được. Lời đã buông…
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng xót thương, xin thương tha cho con là người tội lỗi nhất – những tội trong tư tưởng, trong lòng trí, và những tội chưa công khai mà Ngài đã “bắt quả tang”. Xin ban cho con lòng thương xót cảm thông và tha thứ, để mở cho anh em con một lối về với bình an và thiện hảo. Amen.
AI SẠCH TỘI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
LÀM MỚI CON NGƯỜI – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.
Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát”. Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.
“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức Giêsu Kitô.
Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời, tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Phục Sinh”. Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi. Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.
Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc. Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đức Giêsu Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an bình hạnh phúc.
Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và biệt phái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
- Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin chia sẻ nếu được.