CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC YÊU THƯƠNG (*) – Chú giải của Noel Quesson 7
TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA NGƯỜI CHA(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 15
THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 26
DỤ NGÔN NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 43
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 64
ĂN MỪNG VÌ CON TA SỐNG LẠI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 71
HÃY MAU TRỞ VỀ CÙNG CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 76
MÙA HOÁN CẢI VÀ TRỞ VỀ (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 80
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU – Trích Logos C.. 87
ƠN CHA– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 94
VỀ VỚI TÌNH YÊU CHÚA- Lm. PM. Cao Huy Hoàng. 98
SÁM HỐI LÀ TRỞ VỀ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 104
TÌNH CHA HẬU HỈ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 113
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua”.
Trích sách Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!” Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
BÀI ÐỌC II: 2 Cr 5, 17-21
“Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-3. 11-32
“Em con đã chết nay sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu… Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Ðó là lời Chúa.
MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC YÊU THƯƠNG (*) – Chú giải của Noel Quesson
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này.
Những câu này dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”. Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ – ôi! Chiếc “bàn” kỳ diệu biết bao.
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: “Một người kia có hai đứa con trai”. Đó là dụ ngôn “người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người “con út”.
Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực – khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.
a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải” của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “’Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào”. Thái độ này không phải ngày nay mới có.
b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: “Nhét cho đầy bụng”. Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tiùnh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa”, “ông chạnh lòng thương”, “ông chay đến, ông ôm hôn”. Có lẽ việc “chạy đến” là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương “hoán cải”. Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ “ăn năn” của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung”. Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: “Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!” Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta” thành “em con”. Chết – sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng” của Thiên Chúa! “Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con cả”.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’ Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: “Ông bước ra năn nỉ”. Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, “những người thợ giờ chót” sẽ thay chỗ những người đầu tiên “làm vườn nho” (Mt 20,18). Cũng như thế, “người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy “dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. “Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?” (Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.
Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: “Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu – Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11,17). “Không dành đặc ân, cho ai cả”. Mọi người đều được thương yêu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA NGƯỜI CHA(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Theo truyền thống phụng vụ, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui. Chúa Nhật này đặt một thời gian tạm nghỉ trong thời kỳ chay tịnh và tham dự trước niềm hân hoan của biến cố Phục Sinh.
Gs 5: 9-12
Hãy vui lên vì Thiên Chúa đã giữ lời hứa. Dân Do thái đã tiến vào Đất Hứa và cử hành lễ Vượt Qua ở đây. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với họ.
2Cr 5: 17-21
Hãy vui lên vì nhờ Đức Ki-tô, con người đã đạt được ơn hòa giải với Thiên Chúa; nhờ đó người Ki-tô hữu trở nên những con người được đổi mới.
Lc 15: 1-3, 11-32
Hãy vui lên với Chúa Cha, Đấng đón tiếp đứa con hoang đàng trở về trong niềm vui vỡ tràn.
BÀI ĐỌC I (Gs 5: 9-12)
Sách Giô-suê, sách được đặt nhan đề theo tên nhân vật chính của sách, kể việc dân Do thái vào Đất Hứa và chinh phục dần dần miền đất này của dân bản địa Ca-na-an. Sách Đệ Nhị Luật đã được hoàn tất với chuyện tích về cái chết của ông Mô-sê, sách Giô-suê tường thuật các biến cố tiếp theo sau. Ông Mô-sê đã trao phó sự nghiệp của mình cho ông Giô-suê tiếp nối. Thời kỳ hoang địa được tiếp nối với thời kỳ chinh phục. Thời nô lệ bên Ai-cập và thời túng thiếu trong hoang địa được tiếp nối với kỷ nguyên của cuộc đời tự do và an cư lạc nghiệp. Lịch sử đã sang trang. Việc dân Do thái vào xứ sở Ca-na-an được định vị vào cuối thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên. Cuộc chinh phục thật sự chỉ được hoàn tất dưới triều đại vua Đa-vít, hai thế kỷ sau đó.
Chuyện tích này được viết theo thể loại “sử thi”, bao gồm những yếu tố kỳ diệu. Ngoài ra, lịch sử của dân Ít-ra-en là lịch sử của dân Thiên Chúa, một kỳ tích lịch sử thường được nối kết với một kỳ tích phụng vụ. Sự kiện này hiển hiện rất rõ nét trong chuyện tích chúng ta đọc hôm nay.
Lễ Vượt Qua ở Ghin-gan:
Dân Do thái đã vượt qua sông Gio-đan vào lúc nước sông dâng cao. Vì thế, họ không thể vượt qua sông nếu Thiên Chúa đã không can thiệp bằng cách ngăn dòng nước thành chỗ khô cạn cho dân băng qua (Gs 3: 14-17). Như thế, tái diễn lại phép lạ Biển Đỏ (Xh 14: 21-22). Rõ ràng tác giả đã muốn đối chiếu cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc xuất hành ra khỏi hoang địa; cuộc vượt qua sông Gio-đan họa lại cuộc vượt qua Biển Đỏ; lễ Vượt Qua tiến vào Đất Hứa đối xứng với lễ Vượt Qua giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập.
Tuy nhiên, nhiều yếu tố cổ xưa chứng thực nền tảng lịch sử của câu chuyện. Về phương diện truyền thống, lễ Vượt Qua ở Ghin-gan được kể ra trong văn chương Do thái; tuy nhiên, việc cử hành lễ Vượt Qua được xác định vào ngày mười bốn trong tháng là phần thêm vào sau khi lịch phụng vụ được quy định. Ghin-gan được định vị không xa thành Giê-ri-cô. Địa danh Ghin-gan theo tiếng Híp-ri có nghĩa “vòng tròn”. Truyền thống nối kết địa danh này với cử chỉ của ông Gio-suê: để tưởng niệm mãi mãi cuộc tiến vào Đất Hứa, ông Gio-suê truyền lệnh dựng mười hai tảng đá thành một vòng tròn, đại diện mười hai chi tộc của dân Ít-ra-en (Gs 4: 1-9). Vào thiên niên kỷ thứ hai, người ta vẫn còn ở trong nền văn minh đồ đá. Miền Pa-lét-tin còn lưu lại nhiều dấu vết của nơi cúng tế được dựng bởi những tảng đá.
Một giai đoạn mới:
“Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang”. Đây là lần đầu tiên kể ra mối liên hệ giữa lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, hai ngày lễ tự nguồn gốc vốn biệt phân. Nhưng nhà biên soạn không nhằm nhấn mạnh mối liên hệ này; khi kể thêm “hạt lúa rang”, ông muốn đọc giả lưu ý đến lương thực được thay đổi tận căn, điều này đối với dân Do thái đánh dấu việc tiến vào Đất Hứa, vì miền Giê-ri-cô vốn nổi tiếng về thổ sản của mình, nhờ thời tiết thuận hòa.
“Không còn man-na nữa”. Man-na, thức ăn rất đạm bạc giúp dân Do thái sống còn trong hoang địa, từ nay không còn cần thiết nữa. Dân Do thái đã đặt chân lên xứ sở của các tổ phụ, mà lòng nhân ái của Đức Chúa đã cho họ trở lại khi “cất khỏi họ cái ô nhục của người Ai-cập”. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về đứa con hoang đàng. Chán ngấy cơm thừa canh cặn, cậu trở về nhà cha, ở đó cậu nhận được mọi ân huệ đổi đời của cậu; vì thế, cậu cũng được “cất khỏi cái ô nhục” của quá khứ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 17-21)
Giáo Đoàn Cô-rin-tô, mà thánh Phao-lô đã sáng lập vào những năm 50-52, bị chao đảo bởi nhiều cuộc khủng hoảng giữa những năm 54 và 57. Do những khủng hoảng này mà thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thơ gởi tín hữu Cô-rin-tô này. Thư thứ nhất và thư thứ ba đã bị thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ nhất”, thực ra là thư thứ hai và bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ hai”, thực ra là thư thứ tư. Thư thứ hai này gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô được viết trong tâm trạng bình an; nhưng để hiệu đính mọi việc và trả lời dứt khoát cho những công kích mà thánh nhân đã là đối tượng, thánh Phao-lô buộc phải biện minh sứ vụ của mình mà thánh nhân nâng lên cho đến mức định nghĩa sứ vụ của mình là sứ vụ Tông Đồ đích thật.
Tông Đồ và cộng tác viên của Chúa Ki-tô:
Tâm tình sâu kín nâng đỡ vị tông đồ: xác tín mình là cộng tác viên của Chúa Ki-tô, có sứ mạng “hòa giải” giữa Thiên Chúa và loài người, sứ mạng mà Đức Ki-tô đã thiết lập theo ý định của Chúa Cha. Chính ở nơi Chúa Cha mà công trình cứu độ loài người phải được quy hướng về, tức là một “cuộc tạo dựng mới”: “Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Người Ki-tô hữu là một “thọ tạo mới”, vì họ đã được tha thứ mọi tội lỗi của mình.
Thánh Phao-lô xúc động về sự cao cả của sứ mạng hòa giải này, nhờ đó mà các cộng tác viên của ngài và chính ngài trở thành những “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô”. Thánh nhân lập lại cùng một diễn ngữ này trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích” (Ep 6: 19-20).
Hãy hòa giải với Thiên Chúa:
“Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người”. Qua câu này, thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng sáng kiến đến từ Thiên Chúa; nhưng con người phải đáp trả sáng kiến này, đó là mở lòng mình ra mà đón tiếp lời đề nghị này. Cũng như người con hoang đàng quyết định trở về nhà cha, nhưng chính người cha đề xướng hòa giải với cậu, tức là tha thứ cho cậu.
Mầu nhiệm của Thiên Chúa là tình yêu của Ngài dành cho nhân loại được thể hiện ở nơi Đức Ki-tô, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta”. Điều mà thánh Phao-lô muốn làm sáng tỏ, chính là một sự trao đổi hai phía: Đức Ki-tô tự đồng hóa mình một cách nào đó với tội nhân; còn tội nhân, nếu hòa giải, có thể dự phần vào sự thánh thiện của Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-3, 11-32)
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” thuộc một tập hợp bao gồm ba dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”, chúng hình thành nên câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ bất bình vì thấy Ngài đón tiếp niềm nở những người tội lỗi (Lc 15: 1-3).
Trước đây, Đức Giê-su đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giê-su phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể: Ngài sánh ví thái độ của Ngài với thái độ của người chăn chiên, trèo non lặn suối, quyết tìm cho bằng được một con chiên lạc (15: 4-7); hoặc với thái độ của người đàn bà, thắp đèn quét nhà, moi móc mọi xó xỉnh quyết tìm cho bằng được một đồng quan bị đánh mất (15: 8-10); hay còn với thái độ của một người cha mở tiệc ăn mừng vì “đứa con hoang đàng” trở về sau năm tháng phiêu bạt (Lc 15: 11-32). Hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất”, thánh Lu-ca có chung với thánh Mát-thêu, chỉ duy dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là riêng của thánh Lu-ca. Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” nổi tiếng nhất được dàn dựng thành bức tranh bộ đôi: bức tranh thứ nhất về người con thứ với người cha (15: 11-24), và bức tranh thứ hai về người con cả với người cha (15: 25-32).
Đứa con thứ với người cha (15: 11-24)
Đứa con thứ hoang đàng:
Bức tranh về cách hành xử của người con thứ có chủ ý được tô cho thật đen. Cậu nài nỉ xin cha chia phần gia tài mà mình được hưởng, một thái độ như thế không bao giờ được xem là hiếu để cả. Rồi cậu bỏ nhà ra đi và hoang phí tất cả gia sản của mình vào một cuộc sống chơi bời trác táng; lúc đó cậu lâm vào cảnh túng thiếu đành phải chấp nhận làm tôi đến nỗi phải đi chăn heo, mà đối với người Do thái là những con vật ô uế, một nghề cấm kỵ. Như vậy cậu đã xuống cho đến tận cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho”.
Trong cảnh bần cùng tận mức này, bị cái đói giày vò, cậu mới nghĩ đến việc trở về nhà cha mình. Lý do thúc đẩy cậu cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng cả, chẳng qua chỉ vì tình thế bắt buộc thôi: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!”. Để đạt được mục đích của mình, cậu sẵn sàng hạ mình thú tội và cầu xin cha tha thứ. Những điều cậu suy tính trong lòng chẳng qua chỉ là vụ lợi thôi, nhưng đây là bước khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc đổi đời, một cuộc trở về cùng cha mình.
Tấm lòng nhân hậu của người cha:
Tấm lòng của người cha được họa nên bằng những ý tứ rất súc tích. Thái độ của người cha đối với cậu con thứ này khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ông tôn trọng sự tự do của cậu và đáp ứng mọi yêu cầu của cậu, thậm chí khác với thái độ của người chăn chiên và người đàn bà nội trợ, ông không lặn lội đi tìm cậu. Chính thái độ vồn vả ân cần đón tiếp cậu khi cậu trở về mới là điều dụ ngôn mời gọi người đọc chú ý tới.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy”: Câu này cho thấy tấm lòng của ông. Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, ông hằng ngày tựa cửa mong ngóng đứa con trở về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của con ông còn thấp thoáng từ xa, ông đã nhận ra cậu. Khi nhìn thấy bóng dáng thất thiểu của con mình từ xa, ông “chạnh lòng thương” (động từ Hy ngữ này có một nghĩa rất mạnh: mối cảm xúc dâng lên tận đáy lòng), và “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để” (cách đón tiếp vồn vả khác thường này vượt quá khuôn phép uy nghiêm của một người cha mà tập tục Đông Phương quy định). Như vậy, vì tình cha, ông đã tha thứ cho cậu trước khi cậu ngỏ lời xin tha thứ.
Quả thật, trong câu chuyện, ông cắt ngang không cho cậu thú nhận mọi tội lỗi của mình và cầu xin cha tha thứ, để tránh cho cậu đi đến tận cùng của sự nhục nhã, nhưng cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông không ngỏ lời trực tiếp với cậu, nhưng truyền lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”: áo đẹp nhất để thay thế bộ quần áo rách tả tơi của kẻ bần cùng, chiếc nhẫn xỏ vào tay để chỉ địa vị cao quý trong xã hội, đôi dép xỏ vào chân để chỉ cậu không còn là người làm thuê hay kẻ nô lệ nữa, bởi vì từ nay đứa con trở về không chỉ được phục hồi nhân phẩm của mình, nhưng cũng được kính trọng như xưa kia; lại còn tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui đoàn tụ. Lý do mà người cha đưa ra để vui mừng, đó là: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đối với ông, việc con vắng mặt trong gia đình được xem như đã chết, nhưng nhất là sự tha thứ của ông làm cho người con trở thành một con người mới.
Tất cả mọi chú ý của câu chuyện đều hướng đến tình cha cao vời đầy xúc động này, chứ không tấm lòng hoán cải của đứa con hoang đàng. Dụ ngôn muốn minh họa thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thiên Chúa yêu thương họ như người cha yêu thương đứa con của mình. Việc Chúa Giê-su mở rộng vòng tay đón tiếp những người tội lỗi là mặc khải tấm lòng yêu thương vô bờ của Chúa Cha. Dụ ngôn này chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã đến gặp gỡ nhân loại để cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi. Ơn tha thứ của Thiên Chúa phục hồi con người trong phẩm giá của mình. Ở nơi hậu cảnh của dụ ngôn này, người ta đọc thấy bí tích Hòa Giải của Thiên Chúa với con người.
Người con cả với người cha (15: 25-32)
Người con cả bất khoan dung:
Thái độ của người con cả phản chiếu thái độ của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ đại diện cho những giá trị đạo đức của Cựu Ước, phân biệt rạch ròi đức công chính với tội lỗi. Lời trách cứ của người con cả ngỏ lời với cha cậu tương tự như thái độ bất bình của giai cấp lãnh đạo Do thái về cách hành xử của Chúa Giê-su đối với những người tội lỗi. Người con cả phẩn uất trách cứ cha mình: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Rõ ràng, những lời trách cứ này minh họa sống động cung cách đạo đức của những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chân dung của người con cả này là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Tấm lòng nhân hậu của người cha:
“Nhưng cha cậu năn nỉ”: Cách xử sự của ông đối với đứa con thứ hoang đàng như thế nào thì cách xử sự của ông đối với đứa con cả bất khoan dung cũng như vậy. Vì đứa con cả giận dỗi không chịu tham dự niềm vui đoàn tụ, người cha ra ngồi bên cạnh cậu và năn nỉ cậu. Vả lại, ông nói với cậu bằng một cung giọng nhất mực trìu mến. Ông yêu thương hai đứa con mình như nhau; ông muốn giúp cậu khám phá chiều kích tình yêu này. Tình phụ tử không làm tổn thương đến sự công bình nhưng vượt quá sự công bình.
Để đáp lại lời trách cứ của cậu: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”, người cha trả lời: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha” như một lời nhắc khéo cho cậu hiểu điều mà ông cần là “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Để đáp lại lời trách cứ của cậu về một con dê con để ăn mừng với chúng bạn chỉ là niềm ước mơ, người cha trả lời: “Tất cả những gì của cha đều là của con”. Để đáp lại thái độ dứt tình đoạn nghĩa của cậu đối với người em hoang đàng: “Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của ông với bọn điếm, nay trở về, thì ông lại giết bê béo ăn mừng”, người cha từ tốn trả lời: “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Như vậy, dụ ngôn này trước đây thường được đặt nhan đề là “đứa con hoang đàng”, nhưng phải được gọi “tấm lòng nhân hậu của người cha” mới đúng, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện không phải là đứa con thứ hoang đàng cũng không phải người con cả bất khoan dung mà là tấm lòng nhân hậu của người cha. Phải nói rằng đứa con thứ hoang đàng cũng như người con cả bất khoan dung chẳng qua chỉ để thắp sáng tấm lòng nhân hậu của người cha mà thôi. Vì thế, câu chuyện này được đọc trong Mùa Chay Thánh này không chỉ mời gọi những tội nhân mà cả những người tự cho mình công chính cũng cần đến việc ăn năn sám hối, vì điều Thiên Chúa cần ở nơi mỗi người chúng ta là tấm lòng của người con đối với Cha trên trời của mình và tình nghĩa anh em trong tình yêu của Cha.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.
- Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.
Lời Chúa
*1. Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.
- Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân Do Thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
- Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
*2. Đáp ca (Tv 33)
Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.
*3. Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)
Dụ ngôn người cha nhân từ: Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
11-12 – “Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con”: Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì “nắm tiền là nắm quyền”, khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
- Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt “nhãn tiền” những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.
- “Chăn heo”: người Do Thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
- Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.
- Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)
20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành:
- “Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy”: Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
- “Liền động lòng thương”: Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là “liền động lòng thương”.
- “Chạy lại”: Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có Do Thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn “chạy”! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.
- “Ôm vào lòng hôn con tha thiết”: cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.
21-24 – Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.
- “Mau mau đi”: tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
- “Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu”: Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc “áo dài tốt nhất” tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú “Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê”.
- “Đeo nhẫn vào tay”: nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.
- “Xỏ giầy vào chân cậu”: theo tục lệ Do Thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).
- “Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo”: không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò “chúng ta đã nuôi cho béo”. Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh
- “Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông”: biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ “phục vụ” Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.
c.30 “Thằng con của ông đó”: người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
c.32 “Em con đây”: người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
*4. Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
Gợi ý giảng
* 1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)
* 2. Những con tim
Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim:
– Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
– Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
– Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
– Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
– Con tim sám hối và con tim không sám hối.
– Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
– Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)
* 3. Người con gái hoang đàng
Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau:
Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao?
Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước: Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.
Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.
Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.
* 4. Trừng phạt và tha thứ
Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.
Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.
Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)
* 5. Trong đôi mắt cha
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
*
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
*
Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (TP)
* 6. Mảnh suy tư
– “Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ” (Oscar Wilde)
– Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.
– Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
– Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng về tình thương và lòng thương xót của Ngài.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.
- Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
- Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
- Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.
Giải tán
Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
DỤ NGÔN NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái ! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gs 5,9-12.
Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2 : 2Cr 5, 17-21.
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người : đó là tầm quan trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng : Lc 15,1-3.11-32.
Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn :
– Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7).
– Dụ ngôn đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
– Dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33).
Trong dụ ngôn người con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm : tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm : anh ta không có vẻ ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Trở về với Cha nhân hậu
BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm :
-“Ông này đón tiếp những người tội lỗi” : Người Do thái hành động theo châm ngôn sau : Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại : Ngài đón tiếp các tội nhân.
-“Và cùng ăn với chúng” : Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn : là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ ngôn ấy là :
– Con chiên lạc (Lc 15,4-7).
– Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
– Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này.
Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ :
– Người kia tức là người cha : ám chỉ Thiên Chúa.
– Người con cả : ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
– Người con thứ : ám chỉ người có tội.
*Màn thứ nhất : Người cha chia gia tài.
Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm ! Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói : “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
*Màn thứ hai : Đứa con thứ ra đi và trở về.
Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhãø và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại : ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này : tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả :”Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói :”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng :”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con tay đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
*Màn thứ ba : Người anh cả giận dữ.
Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài : anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
*Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Thiên Chúa là người cha giầu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ôâng đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln.
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa kỳ ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời :”Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài ? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
Truyện : Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
*Người con di hoang đã mất nay lại tìm thấy.
Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
Đúng thế, thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
“Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
Truyện : Chúa quên hết tội rồi.
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
– Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
– Thế bà có hỏi Ngài không ?
– Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
– Bà hỏi thế nào ?
– Thì con hỏi y như Cha đã bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
– Vậy Chúa có trả lời không ?
– Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự :
– Chúa nói sao ?
– Chúa nói :”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm. (Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
*Người anh cả bất hợp tác.
Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã ? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
Truyện : Người cha giết con.
Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể : một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn : nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay.
Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác :
Nói người phải nghĩ đến ta
Suy đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
Người cha có hai người con : người con đây là ai ? Và đứa con hoang đàng chỉ ai ? Các nhà chú giải không đồng ý kiến.
Các nhà chú giải thời xưa cho rằng : người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây :
– Một ý kiến cho rằng : con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
– Ý kiến thứ hai cho rằng : con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào ? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa. Trong cuốn Au Gré de Sa Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta đã ở vào giữa Mùa Chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa Chay là mùa được kêu mời trở lại, chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.
- Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
- Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
- Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
- Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
ĂN MỪNG VÌ CON TA SỐNG LẠI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cha Boscô thường xuyên vào thăm trại tù thiếu nhi phạm pháp. Một hôm ngài xin ban giám thị cho ngài dẫn các tù nhân đó đi cắm trại ở khu rừng mát mẻ ngoài thành phố Tôrinô. Mọi người ngạc nhiên chưa thấy ai dám cho tù nhân tự do ra ngoài. Ban Giám thị sợ tù nhân trốn hết, họ phải tù thay. Cha Boscô cam đoan nếu có trẻ nào trốn, ngài sẽ tù thế, buộc lòng họ phải chấp thuận và cho một đội lính đi canh. Nhưng ngài khăng khăng không cần lính, chỉ mình ngài lo thôi. Thế là nhà tù mở cửa, các em ào ào ra và xếp thành hàng đôi đi ra rừng cắm trại. Chúng thi đua nhau các trò chơi, ca hát, chạy nhảy, làm trò đủ kiểu em nào cũng hăng say hoạt động vui chơi thỏa thích vô cùng. Em nào cũng răm rắp theo lệnh Cha. Chiều về, ngài dẫn một đoàn thiếu nhi ngoan ngoãn vui vẻ trở vào tù. Ban quản tù điểm danh không thiếu một tên. Họ sửng sốt như thấy phép lạ. Thánh Boscô đã chinh phục được những con ngựa bất kham nhỏ bé nhờ tình yêu tha thiết đối với các thiếu nhi phạm pháp đó.
Tình yêu của thánh nhân làm cho những tâm hồn đã chết được sống lại. Còn hơn nữa, tình yêu của Đức Giêsu làm cho những người thu thuế và tội lỗi đã chết được sống lại, như Tin Mừng kể: “Các người thu thuế và tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người giảng, thấy vậy, những người thuộc phái Pharisiêu và các kinh sư xì xầm với nhau: Ông này niềm nở đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới nói với họ 3 dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền lạc mất và tình phụ tử”.Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu tội nhân thế nào qua câu chuyện một người cha có hai đứa con.
Đứa con thứ bắt cha phải chia gia tài cho nó, được của rồi nó không thèm nói một lời cám ơn, không thèm báo cáo cho cha biết nó làm gì, nó đi đâu, nó ra đi không một lời từ biệt, không hề ngoảnh mặt lại nhìn cha. Nó tự coi mình là tuyệt đối, không còn biết có cha, không còn ai hơn nó. Đứa con thứ là điển hình của những kẻ hoàn toàn bất hiếu với Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình là chủ tất cả của cải trong trời đất, dầu họ không làm ra được một hạt thóc mà còn phá hoại những kho tàng vô tận của trời cho. Thời đại ngày nay, con người đã quá phá sản vào chi phí chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, chi phí những thứ ăn chơi ma túy, rượu chè, si mê đàng điếm gây ra những bệnh tật. Họ còn phá hủy những rừng cây dưới đất, đến tầng khí quyển trên trời, làm đảo lộn sinh thái, ô nhiễm môi trường, gây ra những bão lụt, nóng bức, giá lạnh kinh khủng. Nhận ra những thảm họa khốn cùng đó, con người đang ăn năn sám hối, sửa chữa lỗi lầm như đứa con đi hoang trở về thú tội: “Lạy Chúa, con thật đắc tội với trời và với Cha…”.
Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chầm, hôn nó hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, dầu nó trở về chỉ vì thấy khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, cho thoát khổ, thoát chết. Còn cha nó chỉ thấy nó rách rưới, tiều tụy, đói khổ, nên đã sai đầy tớ mau mau lấy áo mới đẹp nhất, xỏ nhẫn quý nhất cho nó để nó xứng đáng là cậu ấm, cục cưng của cha và mở tiệc giết bê mập ăn mừng: “Vì con ta đã chết, nay đã sống, đã mất, nay tìm thấy”.
Thực ra, thật khó kiếm được người cha trần gian nào như thế! Chỉ có Cha trên trời mới thương yêu con người đến thế thôi, vì Ngài: “Đã dựng nên mặt trời soi sáng cho kẻ công chính cũng như bất lương, làm mưa xuống cho kẻ lành cũng như người dữ… Ngài còn yêu thương vô cùng hơn nữa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống”.
Dù con người bất trung đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, như tiên tri Ôsê ví Thiên Chúa như một người chồng vẫn yêu thương người vợ bất trung bất nghĩa (Ôsê 3, 1; 11, 1-9). Thiên Chúa cũng thương yêu loài người như Giavê đã thương yêu dân Israel: Bất cứ giá nào Ngài cũng giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Bất cứ giá nào, bội bạc, phản loạn đến đâu, Ngài vẫn cho manna từ trời rơi xuống và mạch nước từ tảng đá chảy ra nuôi sống họ suốt 40 năm vượt qua sa mạc để về đất hứa, hân hoan vui sướng mừng đại lễ Vượt qua trong đất chảy sữa và mật (Bài I).
Trong niềm vui dự đại tiệc lễ mừng đó, Thánh Phaolô trong Bài đọc II còn nhắc nhở chúng ta đến một niềm vui vô cùng lớn lao hơn nữa là được trở nên tạo vật mới, được kết hợp với Đức Kitô sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu con người đến tột độ, nhưng con người lại ghen tương, oán ghét nhau như đứa con cả đối với em, như Pharisiêu và kinh sư đối với thu thuế và tội lỗi, không muốn tha thứ, không muốn chúng trở về cùng Cha, chỉ muốn chúng bị nguyền rủa, mất đi, chết đi để độc quyền hưởng lợi lộc chiếm đoạt gia tài. Họ như lính cai tù chỉ biết bắt nhốt trừng phạt những kẻ bé mọn phạm pháp.
Lạy Chúa, con cũng là đứa con đi hoang tù tội, xin Chúa thường xuyên đến viếng thăm, nâng đỡ ủi an và giải thoát khỏi tù đày tội lỗi để con được sống lại, được đứng dậy trở về dự đại tiệc thánh và luôn luôn ở bên Chúa. Lạy Chúa, tâm trạng con còn giống như đứa con cả, như lính cai tù, xin Chúa can ngăn, dạy dỗ con biết tha thiết thương yêu anh em mình như Chúa thương yêu con. Amen.
HÃY MAU TRỞ VỀ CÙNG CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Vì xích mích với gia đình hàng xóm, anh Năm bị một tên côn đồ, thuộc diện xã hội đen do người hàng xóm thuê mướn, xông đến gây sự và chặt đứt cánh tay. Anh kinh hoàng tột độ, vô cùng đau đớn và tiếc nuối. Anh ngã xuống và ngất đi. Thế là từ đây, anh bị mất đi một phần thân thể quan trọng, từ đây anh trở thành người cụt tay, một người tàn phế…
Thiên Chúa rất đau lòng khi ta phạm tội
Nỗi đau thương của anh Năm, người bị cắt đứt mất cánh tay trong vụ xung đột trên đây, nói lên phần nào nỗi đau thương khôn nguôi của Thiên Chúa khi Người đánh mất chúng ta là một chi thể rất yêu quý của Người.
Từ ngày lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Giê-su và trở nên một chi thể của Người. (giáo lý công giáo số 1267)
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở chúng ta nhìn nhận sự thật quan trọng nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?” (I Cr 6, 15)
Thế nhưng tội trọng như một nhát dao ác nghiệt cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa, gây ra một hậu quả kép rất đau thương: Về phía mình, chúng ta trở nên như cành nho lìa cành, như bàn tay đứt lìa cơ thể; về phần Chúa, Người trở thành “khuyết tật” vì mất một phần cơ thể rất thân thương!
Như bàn tay lìa thân thì phải hư thối và phải chết thế nào thì Người tội lỗi tách lìa Thiên Chúa cũng gánh lấy hậu quả tương tự: họ trở nên hư hỏng, mất đi phẩm chất cao đẹp và đánh mất sự sống thiêng liêng được Thiên Chúa thông ban từ ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy.
Hậu quả nầy được Chúa Giê-su minh họa bằng hình ảnh đứa con út hoang đàng trong tình trạng đói rách thảm hại, ngày ngày sống giữa đàn heo bẩn thỉu và cầu mong được ăn bớt phần của heo nhưng chẳng ai cho. (Lc 15, 14-16)
Như bàn tay bị cắt lìa thân không thể hoạt động và không mang lại lợi ích gì cho thân thể thì người tội lỗi cũng không thể lập được công đức gì, cho dù có làm được những việc to tát lớn lao. Theo thánh Phao-lô thì khi ở trong tình trạng tội lỗi, dù có nói được các thứ tiếng của loài người và thiên thần, có nói tiên tri và biết nhiều điều bí nhiệm, có chuyển núi dời non hay đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hoặc nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt… thì cũng chẳng đạt được ơn phúc gì. (Cô-rinh-tô 13, 1-3)
Thiên Chúa rất mừng vui khi người tội lỗi trở lại với Người
Trở lại phần cuối câu chuyện anh Năm bị cắt đứt lìa cánh tay trên đây.
Khi phát hiện ra anh Năm nằm bất tỉnh bên cạnh cánh tay đứt lìa, những người hàng xóm tốt bụng vội chạy đến cứu anh. Người thì tìm cách cầm máu và khử trùng các vết thương; người khác cấp tốc gọi xe cấp cứu chuyển anh đến bệnh viện chuyên khoa tận Sài gòn, với hy vọng là nếu đến kịp bệnh viện trong vòng 7 tiếng đồng hồ thì các bác sĩ có thể ráp nối lại cánh tay cho anh được.
May thay, anh đã được cứu chữa kịp thời. Các bác sĩ giỏi đã ráp nối lại cánh tay cho anh, ghép lại xương, nối lại mạch máu và chăm sóc chu đáo.
Sau hai tháng điều trị, anh xuất viện và cánh tay anh có thể hoạt động bình thường. Bấy giờ anh Năm cảm thấy rằng chẳng có niềm vui nào trong đời lớn hơn niềm vui có lại cánh tay tưởng như đã mất.
Niềm vui có lại được cánh tay của anh Năm cũng diễn tả đúng niềm vui của Thiên Chúa khi có người tội lỗi ăn năn hối cải trở lại với Người.
Niềm vui đó được Chúa Giê-su diễn tả qua Tin Mừng hôm nay như sau: Người cha sai bảo các tôi tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.”
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa vô cùng đau đớn khi chúng con phạm tội trọng xa lìa Chúa và Chúa quá đỗi mừng vui một khi chúng con sám hối, ăn năn trở lại với Ngài.
Khi phạm tội xa lìa Chúa, xin giúp chúng con mau mau quay lại với Ngài như cánh tay đứt lìa phải được cấp tốc tháp nối lại với thân mình để Chúa khỏi đau buồn tiếc nuối vì mất đi một chi thể thân thương và để chúng con không trở thành “cánh tay chết” vì phải xa lìa Chúa là nguồn ban sự sống thiêng liêng cho chúng con.
MÙA HOÁN CẢI VÀ TRỞ VỀ (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.(Lc 15,32)
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của một gia đình. Một gia đình có một người cha và hai người con. Về phương diện xã hội ta thấy đây là một gia đình thành đạt. Thế nhưng sự thành đạt đã không đủ sức để tạo nên sự tin tưởng yêu thương trong gia đình.
Người cha và hai người con.
Người cha trong xã hội Do Thái là người cha đầy uy quyền. Ông là người chủ sự các giờ kinh và có những quyết định mà con cái phải vâng theo. Tắt một lời đây là người thay mặt Thiên Chúa trong việc cai quản, chăm sóc và lo lắng cho gia đình.
Người cha trong câu chuyện hôm nay là một người tài giỏi. Sự thành đạt của gia đình này phải nói là do công sức của ông. Ông đã xây dựng được gia đình có thế giá trong xã hội. Thế nhưng gia đình này vẫn chưa có được sự tin tưởng và yêu thương nhau như những điều kiện cần thiết để cho gia đình có được nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Hai người con: Cả hai người con trong câu chuyện hôm nay đều là những người không có được sự hiểu biết rõ ràng về người cha của mình. Chính sự thiếu hiểu biết này đã đem đến những hệ luỵ không được tốt đẹp lắm cho gia đình. Người con thứ đã bỏ nhà ra đi. Sự ra đi của nó đã tạo nên một sự nhớ nhung mênh mông trong lòng của người cha nhưng người cha cứ sẵn lòng chịu vậy cho tới khi nó thân tàn ma dại quay đầu trở về.
Người con cả cũng chẳng hiểu biết rõ cha của mình. Trong đầu óc của nó, người cha dường như chẳng quan tâm gì tới sự có mặt của nó trong gia đình mặc dù nó đã hết lòng chu toàn mọi bổn phận như một đứa con thảo hiếu. Hơn thế, nó còn cảm thấy thua thiệt khi người cha đối xử quảng đại với em của nó. Chính vì thế mà nó đã không bằng lòng với cách đối xử của người cha khi ông hoan hỉ đón nhận người con thứ trở về.
Tóm lại, cả hai người con đều chẳng có người nào hiểu rõ về cha của mình. Chính sự thiếu hiểu biết đó đã đưa đến những cách ứng xứ không được đẹp trong tương quan cha-con, huynh-đệ trong gia đình làm cho gia đình không được hạnh phúc.
Bài học.
Có thể nói qua câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có thể rút ra được một bài học rất cần thiết cho cuộc sống làm người cũng như làm con Thiên Chúa. Bài học đó chính là sự thiếu hiểu biết về nhau và về Thiên Chúa.
Trong cuộc sống làm người sự thiếu hiểu biết về nhau nhiều khi đã đưa đến những chuyện đau lòng khó lường.
Quan hệ giữa một cô gái trẻ và mẹ chồng luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Cô gái cảm thấy mẹ chồng luôn muốn đối đầu với cô, luôn muốn gây khó dễ cho cô. Trong đầu cô luôn nghĩ cách đối phó với mẹ chồng.
Một hôm, cô gái đến bệnh viện hỏi một nữ bác sỹ:
– Thưa bác sỹ, có phương thuốc nào hiệu nghiệm có thể đầu độc được mẹ chồng tôi không? Tôi không thể nào chịu đựng nổi sự ngược đãi của bà ấy.
Bác sỹ nghe xong, không hề ngăn cản mà mỉm cười nói:
– Tôi sẽ kê cho cô một toa thuốc có tên gọi “bùn chua”.
Mỗi ngày trước bữa ăn cô cho mẹ chồng uống một viên. Chỉ có điều khi đưa thuốc cho mẹ chồng uống, cô phải giả vờ tỏ ra là một con dâu hiền thảo, để mẹ chồng khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, mẹ chồng cô sẽ thay đổi.
Ba tháng sau, cô gái trẻ ấy lại một lần nữa đến gặp bác sỹ ấy nói:
– Thưa bác sỹ, tôi không muốn đầu độc mẹ chồng tôi nữa.
– Tại sao cô lại thay đổi ý định vậy?
– Từ khi tôi nghe theo lời bác sỹ, mỗi ngày trước bữa ăn, tôi lễ phép đưa thuốc cho mẹ chồng uống. Sau một thời gian, thái độ của mẹ chồng đối với tôi bỗng thay đổi. Bà ấy trở nên rất thân thiện với tôi. Hơn nữa còn giành việc để làm, để cho tôi nghỉ ngơi nhiều hơn, quan tâm chăm sóc tôi giống như mẹ đẻ. Vì thế, tôi muốn cứu mẹ chồng tôi.
Cô gái vừa khóc lóc vừa nói:
– Bác sỹ kê cho tôi một toa thuốc giải độc. Xin bác sỹ hãy cứu mẹ chồng tôi?
Nghe cô gái nói xong, bác sỹ mỉm cười nói:
– “Bùn chua” thực ra là một loại thuốc giúp người ta ăn ngon miệng. Vì cô đưa thuốc cho mẹ chồng với thái độ vui vẻ lễ phép nên mẹ chồng cô cảm kích trước hành động hiếu thuận này của cô, đồng thời bắt đầu đối xử tốt với cô. Cô nên nhớ rằng, muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì trước tiên phải đối xử với người khác như thế ấy.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Sự thiếu hiểu biết về Thiên Chúa đã làm cho bao người mất đi nhiều niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời mình.
Một vị tướng lãnh người Mỹ, khi nói về tôn giáo thì tỏ vẻ nhạo báng, khinh bỉ. Ngược lại, bà vợ của ông ta thì khá đạo đức. Ngay từ đầu bà đã thành công trong việc in vào trí óc đứa con gái duy nhất – mà cả hai đều yêu thương đậm đà – tình yêu đối với Thiên Chúa và tôn giáo, mặc dù nó bị ảnh hưởng không tốt từ người cha. Rồi một hôm em bé bỗng đau nặng. Tình trạng của em ngày càng nặng làm cả nhà thất vọng.
– Ba, Ba yêu quý của con – em nói- trong vài giờ nữa con sẽ chết. Con xin ba nói cho con biết con phải tin cái gì, tin vào ai, hay là tin vào những gì má nói cho con biết về Thiên Chúa và về Nước Trời?
Vị tướng bị giao động mạnh, nước mắt chảy quanh tròng, ông trả lời:
– Con của Ba, con hãy tin vào những gì má con luôn nói!.
– Như vậy Ba cũng phải tin vào Thiên Chúa chứ?
Đây là câu hỏi Lôgích của em. Và người cha đã không bao giờ quên lời cầu xin cuối cùng này của đứa con gái. Ông trở về lại với Giáo hội mà ông đã từ bỏ từ lâu và ông thực cảm thấy hạnh phúc trăm lần hơn trước.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.
Amen. (Thánh Âu-Tinh
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU – Trích Logos C
Trước năm 1975, người ta thường nhắc đến câu chuyện về cuộc đời của một tướng cướp hào hoa phong nhã cùng với cuộc tình lãng mạn của anh ta. Đó là tướng cướp Petit Tân, nghĩa là Tân Bé, chuyên cướp nhà Băng, đã từng vào tù ra khám nhiều lần.
Vào những năm đầu của thập niên 70, trong thời gian nằm tù, Tân Bé xem Tivi thấy ca sỹ Thanh Lan hát trong các chương trình ca nhạc. Trái tim của người tướng cướp đã rung động trước tiếng hát của cô ca sỹ duyên dáng và anh ta say mê cô ca sỹ ấy.
Sau đó, Tân Bé đã vượt ngục với ý định cầu hôn với ca sỹ Thanh Lan. Nếu nàng nhận lời, anh ta sẽ giải nghệ và trở về con đường lương thiện. Một ngày nọ, mặc dù đang Bị truy nã, tướng cướp Tân Bé với Bó hoa trên tay tìm đến nhà Thanh Lan để nói lời tỏ tình. Nhưng thật trớ trêu ! Khi vừa đến trước cửa nhà Thanh Lan, tướng cướp hào hoa ấy đã Bị Bắn Bằng một loạt đạn của những người lính “Nhân Dân Tự Vệ” đang rình sẵn. Tướng cướp Tân Bé đã chết khi chưa kịp trở về “con đường lương thiện”.
Một người tội lỗi muốn hoàn lương, nhưng không được xã hội loài người chấp nhận. “Công lý và sự trừng phạt” đã ngăn cản Bước chân trở về của “người con hoang đàng” ấy.
Nếu xã hội loài người với pháp luật nghiêm khắc không thể đón nhận sự trở về của những kẻ tội lỗi, thì ngược lại, Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu luôn mở rộng vòng tay yêu thương để đón nhận người con hoang đàng trở về, dù người con đó có tội lỗi đến đâu đi chăng nữa.
Hình ảnh người cha nhân hậu ấy là hình ảnh đẹp nhất mà chúng ta nhận ra được khi nhìn về Thiên Chúa trong mùa chay này. Hình ảnh về người cha tuyệt diệu được Thánh Luca phác họa trong dụ ngôn : “Người Con Hoang Đàng” mà chúng ta vừa nghe trong Bài Tin Mừng.
Người ta thường nói “luật là luật” (The law is the law) để diễn tả sự nghiêm minh của luật pháp giúp Bảo vệ trật tự và công Bằng trong xã hội con người. Điều đó cũng còn được gọi là “công lý” ở đời này. Nhưng đối với Thiên Chúa thì lại khác. Đối với Thiên Chúa là Cha Nhân từ, luật trọng nhất là “luật của trái tim”, nghĩa là “luật của tình yêu”. Và công lý đối với Ngài là “công lý của lòng tha thứ”.
Điều đó được chứng minh rõ ràng qua dụ ngôn “Người con hoang đàng”.
Lòng thương xót của người cha dành cho người con thứ vượt lên trên mọi ranh giới, luật lệ, và “lề thói” thông thường của con người. Ông ta sẵn sàng chia gia tài cho người con ngay khi ông còn sống, trái với thói quen thông thường. Vì khi đã được chia gia tài, con cái sẽ dễ dàng Bỏ rơi cha mẹ.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người cũng giống như vậy. Tình thương ấy không tính toán hơn thiệt. Tình yêu ấy vượt trên cả luật lệ và mọi ranh giới. Nơi Thiên Chúa chỉ có một luật lệ duy nhất : luật lệ của lòng nhân hậu.
Sau khi người con thứ tiêu phí hết tài sản và trở thành “thân tàn ma dại” đã hối hận quay trở về, người cha thay vì tức giận và trừng phạt người con, khi vừa thấy con từ đàng xa, ông chạy lại ôm hôn anh ta một cách tha thiết. Sau đó, ông lại sai người đem áo đẹp, đem nhẫn, đem giày mà trang điểm cho như một người con yêu dấu. Lạ lùng hơn nữa, ông đã giết Bê Béo, mở tiệc ăn mừng vì người con tội lỗi trở về Bình an.
Theo quan niệm thông thường của người đời, tình yêu của người cha dành cho người con tội lỗi ấy quả thật lạ lùng không thể hiểu được ! Đến nỗi ngay cả người anh cả cũng không chấp nhận cách “yêu thương khó hiểu” ấy. Anh ta giận dỗi với người cha và ghen tỵ với người em trước sự tha thứ và tình thương hào phóng của người cha dành cho em mình.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta với “tình yêu khó hiểu” ấy. Ngài đón nhận chúng ta trở về với lòng ăn năn sám hối. Dù tội lỗi của chúng ta có ngập tràn, nhưng tình thương và ân sủng của Thiên Chúa còn tràn đầy hơn. Nhưng tiếc thay, chúng ta lại không sẵn sàng mở rộng vòng tay tha thứ để đón nhận những người anh em trở về. Chúng ta hãy Biết mở rộng lòng ra như một “tổ ấm” không Biên giới, đón nhận anh em mình như Thiên Chúa đã đón nhận chúng ta.
Bài trích sách Giosuê diễn tả dân Do thái sau cuộc hành trình trong sa mạc, được Thiên Chúa cho vào Miền Đất Hứa “chảy sữa và mật”. Dù sau những lần vấp ngã và phản Bội Thiên Chúa, dân Do thái vẫn được Ngài thứ tha và đưa về miền đất hạnh phúc ấy.
Cũng vậy, tấm lòng Thiên Chúa chính là “Miền Đất Hứa” đầy tràn hạnh phúc luôn mở ra để chờ đón chúng ta trở về sau những tháng ngày đi hoang. Nơi ấy, chúng ta không phải được nuôi dưỡng Bằng manna hay các “thổ sản tươi tốt”, nhưng được nuôi dưỡng Bằng chính Thánh Thể của Ngài.
Giới Mafia Ý có một luật lệ rất khắc nghiệt. Đó là “luật im lặng”. Dù họ là những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, đối xử với nhau Bằng Bạo lực và hận thù. Các Băng nhóm thanh toán nhau Bằng “luật giang hồ” đẫm máu. Nhưng họ luôn im lặng trước chính quyền để Bảo vệ lẫn nhau. Để diễn tả sự khắt khe của “luật im lặng” trong giới Mafia, người ta kể câu chuyện sau:
Một ngày nọ, một tên mafia Bị cảnh sát truy đuổi đã chạy vào ngôi nhà ở vùng quê để ẩn nấp. Chủ nhà giấu anh ta vào đống rơm sau nhà. Cảnh sát ập vào nhà hỏi người chủ về tên mafia, ông ta lắc đầu nói không Biết. Nhưng khi ra sau nhà, cảnh sát hỏi đứa con trai 10 tuổi của chủ nhà, nó giơ tay chỉ vào đống rơm. Thế là tên mafia Bị Bắt. Khi đi ngang qua, anh ta ném một cái nhìn hận thù vào người chủ nhà.
Sau khi cảnh sát dẫn tên mafia đi khỏi, người chủ nhà đã lẳng lặng lấy khẩu súng ra sau nhà Bắn chết người con trai của mình, sau đó nổ súng vào chính mình. Vì ông ta cũng chính là một tên mafia. Ông ta giết con mình và tự sát vì ông ta không muốn phá vỡ “luật im lặng” đầy khắc nghiệt ấy.
Nếu người cha sẵn sàng giết con mình để Bảo vệ một thứ luật lệ tàn Bạo, Thiên Chúa lại hết lòng tha thứ và đón nhận chúng ta là tội nhân trở về Bằng “luật tình yêu” vượt lên trên mọi luật lệ. Tại sao chúng ta không mau chóng trở về với Thiên Chúa như người con đi hoang trở về với người cha nhân lành để được thứ tha ?
Trong Bài trích thư thứ II gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy hòa giải với Thiên Chúa để trở nên con người mới. Chính Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi với Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Để giải quyết những vấn đề xung đột và tranh chấp tại Trung Đông từ Bao năm nay, người ta đã đề ra “Lộ Trình Hòa Bình” để đem lại sự ổn định cho Palestine và Israel. Nhưng tiếc thay, lộ trình ấy xuất phát từ “Miền Đất Thánh” nơi Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên, nhưng lại không khởi đầu từ Đức Kitô, nên “Lộ Trình Hòa Bình” vẫn đi vào Bế tắc.
Thật ra, Đức Kitô chính là “Con Đường Hòa Giải” để qua đó chúng ta trở về với Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu luôn chờ đợi chúng ta.
Trong Mùa Chay, con đường hòa giải đang mở ra trước mắt chúng ta. Đến với Đức Giêsu Kitô với lòng sám hối ăn năn nghĩa là chúng ta đã đặt chân lên Con Đường Hòa Giải ấy, cũng có nghĩa là chúng ta đang trên đường trở về với lòng Chúa đầy tình xót thương.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- NĂM C
ƠN CHA– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói về tình yêu và sự hy sinh của một người cha, người ta thường ví von như biển cả bao la, như cây cao bóng cả, như núi cao vời vợi. Một tình yêu không vồn vã nhưng trầm lắng và rộng lớn bao la. Một tình yêu không cần diễn tả bằng lời, không cần biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương, đôi khi tỏ ra cương quyết nhưng lại là chỗ dựa vững chắc nhất cho con cái vào đời.
Tình thương và tấm lòng người cha như thế, đã được ca sĩ Ngọc Sơn diễn tả qua bài hát “Ơn Cha” như sau:
Ơn Cha như Thái Sơn cao bao tầng
Ngoài tuy cương quyết mà lòng thương mến
Ơn Cha như đuốc soi cao trên đường
Đuốc soi tâm hồn dắt con tìm hướng
Ơn cha như bóng cây xanh trên ngàn
Tình Cha tha thiết, lòng cha âu yếm
Ơn Cha như mái hiên che năm trường
Gió mưa xa gần, nắng mưa không sờn.
Vâng, chính tình thương mênh mông biển cả của người cha luôn phủ lấp cuộc đời của những người con, là hành trang theo con vào đời, là kỷ niệm luôn ghi khắc trong tim của những người con, đến nỗi có nhiều người vẫn thầm hát với cha rằng:
“Mai con lớn lên rồi
Ra đi tung cánh trong đời
Dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha”.
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa tựa như tình của một người cha trong gia đình. Một người cha có hai con. Hai đứa con hai cách sống. Hai đứa con hai mối bận tâm của cha. Mỗi đứa mỗi tính. Vì cha mẹ sinh con trời sinh tính. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi. Con người anh còn thiếu lòng độ lượng biểu lộ qua việc hay ganh tỵ và đòi hỏi quyền lợi. Anh đã từng thốt lên rằng: “Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.
Người con thứ thuộc loại “bán trời không văn tự”. Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc đời anh chỉ tìm kiếm những thoả mãn xác thịt tầm thường. Thích ăn ngon, mặc đẹp và vui thú bên những cô gái chốn lầu xanh. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta vì những con bê béo là danh lợi thú mà quên cả tình nghĩa cha con. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen
VỀ VỚI TÌNH YÊU CHÚA- Lm. PM. Cao Huy Hoàng
Tôi vẫn thường thấy tội lỗi của người khác một cách dễ dàng hơn là nhìn thấy tội lỗi của tôi. Tôi vẫn thường đóng vai quan tòa để kết án người khác theo như tội trạng của họ. Tôi vẫn nghĩ rằng người khác tội lỗi hơn tôi- hoặc nghĩ là tôi thánh thiện-và tôi loại trừ họ, không giao du, không tiếp xúc với họ. Tôi vẫn đấm ngực người khác, trước khi đấm ngực tôi: “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại người ta một phần”. Như có một lần, tôi đến thăm một Linh Mục, bạn cùng lớp tôi, hỏi thăm về Giáo xứ, Ngài nói: “Ở đây mình ngán nhất là việc giải tội, vì họ xưng tội của người khác nhiều hơn xưng tội của chính mình”…Não trạng của những Biệt phái, những người Phariseu, thời Chúa Giêsu, vẫn còn hiện thực trong tim óc và cách sống của tôi, tín hữu thời nay. Và còn hơn thế nữa, những cảm thức về tội của thời nay còn biến thay muôn hình vạn trạng:
– Không thấy mình có tội hoặc tự tha tội cho mình tự chước giảm mức nặng của tội.
– Tội phong trào: người ta phạm được mình phạm được
– Sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải để trở về với Thiên Chúa cũng giảm nhẹ, nếu không nói là không còn, đối với một số người.
Thì ra, ở đâu và thời nào, sức bành trướng của thế lực thù nghịch Thiên Chúa luôn lôi kéo con người ra chỗ càng xa Thiên Chúa càng tốt- như các người biệt phái xưa, thấy những người thu thuế, tội lỗi tìm đến Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu tiếp đón họ ân cần, thì lòng họ khinh bỉ luôn cả Chúa Giêsu là không có tư cách cứu thế.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đưa ra một loạt ba ví dụ về lòng nhân từ của Thiên Chúa(Lc 15): Con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là ví dụ về tình phụ tử trong Tin Mừng hôm nay-nhằm nói với họ rằng: Chúa Giêsu đến với người tội lỗi, cứu người biết mình tội lỗi có ý hướng quay về.
Suy gẩm ví dụ “Tình Phụ Tử” cho tôi thấy trong ấy hàm chứa nhiều thông điệp quan trọng với đời sống tín hữu của tôi:
– Thiên Chúa để cho con người tự do dùng các ơn của Chúa: người con thứ đòi chia gia tài, người Cha tôn trọng và đáp ứng yêu cầu của con
– Lòng Cha yêu con, buồn phiền, không yên lòng, khi con rời xa Cha, luôn mong con trở về với mái ấm tình thương gia đình
– Sự sám hối chân thành của người con thứ: nhận ra mình đã lỗi phạm đến tình thương của Cha, quyết tâm đứng lên, mạnh dạn trở về thú tội và xây dựng một tương quan mới: tương quan của một lòng yêu thật.
– Cử chỉ, thái độ và kế hoạch đón tiếp của Cha, đầy tình thương yêu, cảm thông và tha thứ.
– Không nên có thái độ của người con cả với những ý niệm sai lầm về tương quan Cha Con, như tương quan của chủ tớ, sống trong tình thương của Cha, mà không nhận ra tình thương ấy.
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
Một phần suy niệm các thông điệp, tôi muốn dùng Lời Chúa hôm nay, “Tình Phụ tử”, liên hệ đến đời sống Bí Tích Hòa Giải
Điều đáng vui mừng là ở khắp các Giáo xứ tại Việt Nam, việc ban và lãnh nhận Bí tích Hòa giải vẫn còn đang sinh động lắm. Nhưng điều đáng nói là: cần bổ sung vào việc đạo đức ấy một tâm tình thánh thiện chân thành của người con hoang đàng như trong ví dụ “Tình Phụ Tử”.
– Cảm thấy xấu hổ vì tội: làm cho mất nhân phẩm tự nhiên và nhất là mất nhân phẩm Ki tô hữu, “con cái Thiên Chúa”. Cảm nghiệm được sự bất hạnh khi sống trong tình trạng xa cách Thiên Chúa và nhất là “giác ngộ” được chân lý “sẽ phải chết đời đời”
– Cảm thấy đói: không chỉ giữ luật xưng tội một năm ít là một lần, nhưng phải có tâm tình “cảm thấy đói”. Ấy là “Đói” Chúa Giêsu Thánh Thể, khao khát được kết hợp lại với Chúa Giêsu và Thiên Chúa qua việc rước lễ, để được “sống lại và sống đời đời” trong tình thương yêu của Chúa.
– Quyết tâm trở về: “Tôi sẽ đứng lên sẽ trở về cùng Cha…” đồng nghĩa với việc quyết tâm chừa tội và mạnh dạn tìm đến Bí tích Hòa giải cách sớm nhất.
-Thú tội: “Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha..”: xưng thú tất cả các tội đã phạm với lòng tin tưởng vào lòng Chúa nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ; chân thành nhận hoàn toàn sự sai trái thuộc về mình, do sự lạm dụng tự do của mình, không đổ thừa đổ lỗi cho ai, cho hoàn cảnh…
– Dự tiệc: dự tiệc Thánh Thể với tâm tình Tạ Ơn lòng Chúa nhân hậu.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây, một vài vấn nạn thường gặp của tôi, của các tín hữu khi đề cập đến Bí tích Hòa Giải.
– Không xét mình hằng ngày, dần dần mất cảm thức về tội, mất lòng thống hối
– Không thường xuyên tham dự Thánh Lễ, mất lòng khao khát kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, do đó, việc xưng tội trở nên không cần thiết.
– Không tin tưởng đủ vào lòng Chúa thương xót, mất niềm trông cậy
– Các Linh Mục, thừa tác viên Bí tích giải tội, trung gian của ơn thứ tha hòa giải, đóng một vai trò quan trọng vô cùng trong việc trở về của các hối nhân. Các tín hữu vẫn mong thấy được lòng nhân từ của “Chúa thương xót” thể hiện nơi cách tiếp đón và thi hành mục vụ Bí tích cách nhân bản, tế nhị và đạo đức nhất.
Vì những vấn nạn trên, nên đã hình thành những tâm trạng như: có tội xét mình dễ, có tội khó; có tội dễ xưng, có tội khó nói; có tội xưng dễ, chừa khó; có Cha ngồi tòa đông hối nhân tìm đến, có Cha chẳng có ai; có việc đền tội làm được, có việc không…
TÌNH YÊU
Không phải mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh dạy cho tôi có cảm thức về tội, nhưng chính “lòng yêu” của tôi, lòng biết ơn của tôi dành cho Thiên Chúa, như dành cho “người Cha nhân hậu” mới cho tôi nhận ra tôi đã xúc phạm tới Thiên Chúa và tha nhân đến mức nào. Chính vì ‘hiểu được Cha tôi ở nhà thương tôi, lo cho tôi từng bữa cơm, từng tấm áo, từng giấc ngủ’; nên tôi mới nhận ra sự bất hạnh của tôi khi phải sống xa Cha, sống bụi bờ, đói khát và mất nhân phẩm; và tôi quyết tâm trở về vì tôi yêu Cha tôi.
Phàm ai trên đời cũng có tội, tôi cũng không ngoại lệ. Tội, không chỉ dựa theo mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh-mà còn là Tội: mỗi khi tôi đặt “lòng yêu” của tôi trọn vẹn vào một thực tại hư hèn, hoặc một thực tại không phải là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn, để con kịp nhận ra những gì là không phù hợp với Thánh Ý và Tình Yêu Chúa; để con kịp nói với Chúa lời xin lỗi vì những xúc phạm, để con kịp tìm đến Bí tích Hòa Giải mà trở về với Chúa, trong vòng tay ôm yêu thương của Chúa, Người Cha nhân hậu. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY C- NĂM C
SÁM HỐI LÀ TRỞ VỀ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu thường quan tâm, chăm sóc, gần gũi những người tội lỗi. Nhóm Pharisiêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi lẽ những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa, người tội lỗi là người cần được yêu thương nâng đỡ hơn. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời những thắc mắc của họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người cha nhân hậu, trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người phụ nữ. Một người con quá quý giá đối với người cha nhân từ. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng.
Tin Mừng hôm nay kể về dụ ngôn thứ ba: “Người cha nhân hậu”. Nội dung câu chuyện đều hướng đến tình cha “ấm áp như vầng thái dương”, cao vời vợi và thật xúc động ân tình của cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ, biểu tượng người tội lỗi
Người con thứ đòi cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình. Rời quê nhà, nơi sinh trưởng, nơi nó được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo. Nó ra đi không phải để học hành, tìm kiếm việc làm. Nó đi ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản và sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Nó trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về nó chẳng còn gì cả, tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến cha, không bao giờ sám hối vì bỏ cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha là nó “trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công”.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin. Nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp. Nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy, chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ban Bí tích Hòa giải, tôi đã gặp nhiều hối nhân, sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa để tìm lại bình an nội tâm, đón nhận niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều hối nhân như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Người con cả, biểu tượng người biệt phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha.
Hoá ra, cả hai người con vừa khác, lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, người anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với anh em.
Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
TÌNH CHA HẬU HỈ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn tin mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về “người con hoang đàng” là đỉnh cao của chữ tình. Người ta còn nói rằng nếu chọn một chương tiêu biểu trong tin mừng thánh sử Luca thì chương 15 phải được ưu tiên. Và trong chương ấy nếu chọn một vài câu thì bài trích Tin Mừng trong Chúa Nhật IV mùa Chay C đáng phải được chọn làm tiêu biểu.
Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ “người con hoang đàng” hay “đứa con phung phá” không thể lột tả hết. Hẳn nhiên điều này được minh chứng qua động cơ trở về của anh ta là chỉ muốn được no cái bụng. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành “người cha nhân hậu”. Theo thiển ý cái tựa đề này diễn tả nội dung câu chuyện khá hoàn hảo. Tuy nhiên xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là “tình cha hậu hỉ”.
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao. Đã khuất trước một đứa con thì sẵn sàng khuất bóng trước cả đứa còn lại. Nước từ trên chảy xuống. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại. Đã có đó nhiều người cha, người mẹ thanh thản nhắm mắt lìa đời khi thấy con cái đã thành gia thất.
Dù khuất bóng nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Lá rụng về cội là điều thường có. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…” Chẳng biết anh ta có chút tình nào với người cha già, nhưng sự vị kỷ là có đó: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm, những nụ hôn yêu thương đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết!
Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Tình người cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
“Con ta đây đã chết mà nay sống lại.” Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người”. Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16). Vậy ta có thể nói rằng Thiên Chúa không thể bỏ con người, không thể bỏ bất cứ một ai, nếu Người thực sự là Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho chúng ta hay chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. “Còn thằng con của cha kia…”. Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn bẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống.
Tình Chúa thật bao la hay tình cha luôn hậu hỉ. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: “Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi”, thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không ai hưởng hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.