CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
CON YÊU DẤU (*) – Chú giải của Noel Quesson. 7
BÀI HỌC CỦA BIẾN CỐ BIẾN HÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 15
MAU BIẾN ĐỔI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 30
ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 51
BIẾN HÌNH- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 68
BIẾN HÌNH VÀ ĐỔI ĐỜI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 72
THIÊN CHÚA VẪN CÒN HIỂN DUNG– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 77
CHÚA BIẾN HÌNH (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 82
CHÚA BIẾN HÌNH – Trích Logos C.. 88
HÃY VUI LÊN– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 95
ĐAU KHỔ VÀ VINH QUANG- Cố Lm. Hồng Phúc. 100
VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 104
QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG – Lm. Nguyễn Minh Chánh. 112
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.
Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.
Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ tôi. (c. 1a)
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
Xướng: Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Ta”.
Xướng: Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con.
Xướng: Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
BÀI ÐỌC II: Pl 3, 17 – 4, 1
“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.
Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 – 4, 1
Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
PHÚC ÂM: Lc 9, 28b-36
“Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là lời Chúa.
CON YÊU DẤU (*) – Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi “khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người “khoảng tám ngày trước đó” (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: “Anh em bảo Thầy là ai?” và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch” này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là “Đấng Mêsia của Thiên Chúa”… Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. “Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.
Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải “vác thập giá, của mình để theo Người” (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, “một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9,27)… “Vương quốc” bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để “nhờ thập giá tiến đến niềm vui”. Thương khó – Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.
Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.
Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại “ngủ”. Đức Giêsu thật là “con người của cầu nguyện”. Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 – 5,16 – 6,12 – 9,18 – 9,28 – 10,21 -11,1 – 22,32 – 22,41 – 42-23,84 – 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là “Cha”. Đức Giêsu là “con người muốn hướng về Chúa Cha”. Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. “Cha” là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).
Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ “biến hình” một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường”. Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.
Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng “y phục” cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà” là “dấu chỉ” cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa… Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin… áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ… Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 – 3,18-4,4 – 6,11-7,9-9,13)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi” phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!
Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.
Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc “xuất hành” (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua” cuộc vượt qua của Người ( Ga 13, 1 ) và Luca gọi là “sự bốc đi” (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người “bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết”, và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang “xuất hành”, rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!”. Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.
Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia”. Ong không biết mình đang nói gì.
Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.
Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?
Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong “đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác”. Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được”. Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.
Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn”. Hãy vâng nghe lời Người.
Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ “Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là “Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ “Người con đã được tuyển chọn” (tiếng Hy Lạp là “eklegnlenos”). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ “được tuyển chọn”, là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về “dân Chúa” một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật “Người tôi tớ của Thiên Chúa” (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).
Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.
Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.
Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
BÀI HỌC CỦA BIẾN CỐ BIẾN HÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.
St 15: 5-12, 17-18
Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.
Pl 3: 17-4: 1
Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.
Lc 9: 28-36
Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.
BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)
Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.
Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.
Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin
Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.
Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.
Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:
Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).
Hy tế Giao Ước:
Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).
Giấc ngủ mê:
“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.
Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)
Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.
Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.
Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:
Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).
Hai con đường:
Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.
Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).
Trời và Đất:
Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.
Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.
TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)
Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.
Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.
Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.
Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.
Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.
Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.
Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:
A-Chúa Giê-su cầu nguyện:
“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.
B-Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:
“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.
“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.
Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.
Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:
A-Họ sẽ là những nhân chứng:
Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.
B-Giấc ngủ của ba môn đệ:
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.
“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.
C-Cuộc Thần Hiển:
Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.
“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…
“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.
Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.
“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).
Bài học của biến cố Biến Hình:
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
MAU BIẾN ĐỔI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng khác xa Ngài.
- Sở dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân riêng của Ngài.
Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.
Đáp ca (Tv Tv 26)
Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài.
Tin Mừng (Lc 9,28-36)
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:
-Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
-Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:
- Việc biến hình xảy ra “khoảng 8 ngày sau”, tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
- Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài “về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
- Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn” là trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.
Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
Bài đọc II (Pl 3,17–4,1)
Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài. Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ơn gọi và Biến hình
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: “Saulê, sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài”. Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: “Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác”.
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường chinh” trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san “Dân Chúa Mỹ Châu”)
2 * Hai ngọn núi
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
- cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây Dầu.
- ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi Cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
- Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và 2 điểm phụ: 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
– Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình…
– Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).
“Lạy Chúa. Xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.
Trong những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con yêu dấu của Cha.
Và lạy Chúa
Khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con.” (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
* 3. Nét mặt con người
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng “mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn: “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…
Chúng ta cũng thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, ‘mặt” chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.
Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quý của Ta”.
Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
* 4. Một thoáng vinh quang
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đường”.
Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: “Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
Người vẫn đồng hành
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: “Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?”
*
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!” (Lc 9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (TP)
Chuyện minh họa
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
– Đúng, anh ta nhập đạo thật.
– Sao anh biết?
– Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
- Như thánh Phêrô / ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy phục vụ tha nhân.
- Trong đời sống thường ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ nâng.
- Đây là Con yêu dấu của Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
– Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
GIẢI TÁN
Sau khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.
ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Mùa Chay là thời gian tập chiến đấu và chiến thắng ma quỉ cũng như các khuynh hướng xấu để đổi mới con người cũ của mình, làm cho linh hồn trở lại thời thanh xuân của ân sủng. Vì thế, mỗi năm, vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình để khích lệ chúng ta.
Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín của mình là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor và đã biến hình trước mặt các ông. Nói khác đi, Đức Giêsu đã cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin mừng cho biết : Ba môn đệ thấy vinh quang của Ngài.
Đây là dịp Đức Giêsu cho ba môn đệ trông thấy trước vinh quang sáng chói của Ngài, nhìn ra con người thật của Ngài; đồng thời chuẩn bị tinh thần cho các ông , giúp các ông bình tĩnh trước cuộc khổ nạn của Ngài. Qua biến cố này, Đức Giêsu dạy cho các ông một bài học xem ra khó thực hiện đối với các ông nhưng là một điều kiện thiết yếu : phải chết đi rồi mới được sống lại, phải qua thập giá thì mới tiến tới vinh quang : Per crucem ad lucem !
Qua việc biến hình của Đức Giêsu, Giáo hội muốn cho chúng ta trong Mùa Chay thánh này phải bắt chước Đức Giêsu mà thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện, phải chết đi cho tội lỗi mà sống cho Chúa để qua cuộc lột xác này mà trở thành một tạo vật mới xinh đẹp với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
+ Bài đọc 1 : St 15,5-12.17-18.
Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từø Abraham. Vì thế, Thiên Chúa ký kết giao ước với ông.
Giao ước được trình bầy dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó : được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham sửa soạn cho một giao ước sẽ ký kết giữa Thiên Chúa và Israel tại núi Sinai (Xh 19). Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều : một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu.
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước ngài. Sở dĩ ngài dám nói như thế là vì ngài muốn nhắc lại cuộc trở lại của mình với Đức Kitô và từ đây ngài hết lòng tin tưởng theo gương ông Abraham ngày xưa đã tin tưởng vào Thiên Chúa.
Ngài muốn hiệp thông cùng cuộc tử nạn và Phục sinh với Đức Kitô. Ngài khuyên nhủ các tín hữu đừng bắt chước những người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, họ là những kẻ hưởng lạc chỉ nhắm những sự thấp hèn đời này, mà hãy kiên trì theo đuổi việc chạy đua đến vương quốc trên trời, nơi họ sẽ được hoàn toàn hóa thân trong Đức Kitô, vì “quê hương chúng ta ở trên trời”(Pl 3,20).
+ Bài Tin mừng : Lc 9, 28b-36.
Trong trình thuật của thánh Luca về cuộc biến hình cách mầu nhiệm, chúng ta chú ý đến chi tiết Đức Giêsu đàm đạo với ông Maisen và ông Êâlia về cuộc “xuất hành” của Ngài tại Giêrusalem, ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài sẽ được thực hiện tại đó.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa là hình ảnh cuộc xuất hành của Ngài ngày nay. Ngày xưa trong cuộc xuất hành, Maisen đã dẫn dân ra khỏi đất nô lệ, thì giờ đây, Đức Kitô là Maisen mới sẽ dẫn đưa mọi người thoát khỏi cảnh thống trị của sự dữ.
Chi tiết thứ hai là đám mây trắng tinh sáng ngời là điềm tiên báo sự phục sinh, lên trời của Chúa và của chúng ta, nếu chúng ta nghe Lời Chúa và theo gương Chúa cho đến cùng.
Việc biến hình trước mặt ba môn đệ thân tính hé mở cho ba ông thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
Hãy biến đổi con người chúng ta.
Câu chuyện Đức Giêsu biến hình đã được Tin Mừng nhất lãøm tường thuật theo một tài liệu duy nhất. Biến cố biến hình này xẩy ra khoảng 8 ngày sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, và cũng xẩy ra đồng thời khi ông Phêrô truyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Lc 9,20). Và Đức Giêsu, khi đón nhận lời tuyên xưng ấy, đã dùng cuộc biến hình này để chỉ cho các tông đồ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng cho các ông thấy rõ ý nghĩa cuộc thử thách mà Ngài đã loan báo, tức là cuộc thương khó và cuộc tử nạn sắp xẩy đến.
Đức Giêsu chỉ đem theo ba Tông đồ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi như xưa ông Maisen khi lên núi Sinai đã đem theo một số người đồng hành (Xh 24,9). Ba ông này được chọn riêng trong 3 trường hợp :
– Chúa cho con ông Giairô sống lại (Mt,9,18).
Đang khi các ông ngủ, Đức Giêsu biến hình trước mặt các ông. Thánh Matthêu và Marcô thì dùng chữ “biến hình”, còn thánh Luca thì nói là “dung mạo Ngài biến đổi khác thường”. Tuy dùng từ khác nhau nhưng đều nói lên việc Đức Giêsu biến đổi con người nên sáng láng tốt đẹp vô cùng, làm cho các ông ngây ngất đến nỗi không biết mình đang nói gì. Các ông còn được thấy sự hiện diện của ông Maisen và ông Eâlia, và cũng được nghe tiếng từ trời xuống:”Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn. Hãy vâng nghe lời Ngài”.
Các ông đã nghe nhưng không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn” trong biến cố Vượt qua, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
Đức Giêsu chỉ đưa ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để chứng kiến việc Ngài biến hình vào khoảng 8 ngày sau khi Ngài báo tin cho môn đệ biết : Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ… bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ngài cũng bảo : Ai muốn đi theo sau Ngài thì hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Ngài đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt đó được thấy vinh quang của Ngài.
Do đó, việc Đức Giêsu biến hình có 2 mục đích :
– Thứ nhất, Đức Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Ngài 3 năm rồi, đã nghe biết bao nhiêu lời Ngài giảng dạy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm, nhưng họ chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài.. Hôm nay qua sự biến hình, Ngài cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
– Thứ hai, Ngài muốn củng cố đức tin cho các môn đệ. Bởi vì Ngài thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã hé mở sự vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa biến hình cũng dạy bảo cho các môn đệ biết : phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang bởi vì không ai có thể “Ngồi mát ăn bát vàng”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được tha tội tổ tông và tội riêng, linh hồn ta đã được trong sạch sáng láng như các thiên thần, xứng đáng là nơi Chúa ngự. Nhưng qua thời gian, qua những thămg trầm của cuộc sống và bị ma quỉ cám dỗ, chúng ta đã sa ngã và làm cho linh hồn chúng ta ra nhơ bẩn, linh hồn cần phải được tẩy sạch để trở nên tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Vậy Mùa Chay là thời gian thuận lợi để linh hồn được biến hình đổi dạng để trở nên con người mới hoàn thiện hơn.
Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm bản thân của Ngài về sự biến đổi đó nên Ngài đã nói:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá về đời sống tâm linh của Ngài mà không ai trong chúng ta có thể chối cãi được. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, Ngài đã cho biết : trong con người của Ngài có hai lực lượng xung khắc nhau kịch liệt, làm cho Ngài phải bận tâm và đau khổ, và ngài không thi hành được cái ngài muốn : “Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính những điều tôi ghét”(Rm 7,15).
“Sự lành tôi muốn, tôi lại không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành”(Rm 7,19)..
Nhưng cũng may, trong con người chúng ta, tuy có hai lực lượng xung khắc nhau, nhưng luật của Thiên Chúa vẫn còn đủ sức mạnh để lôi kéo ta làm việc lành, chứ không phải buông theo luật của xác thịt:
“Tôi hớn hở đồng ý với luật của Thiên Chúa theo con người bên trong, nhưng tôi thấy một luật khác nơi chi thể mình tôi, cự lại luật của lương tri tôi, và giam tù tôi trong luật của sự tội nơi chi thể mình tôi”(Rm 7,22-23)
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô bảo tín hữu Philipphê hãy noi gương đổi mới của ngài. Ngài đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.
Truyện : Văn hào André Froissard.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ôâng đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, Tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố:”Nếu có Thiên Chúa, thì tôi khuyên “ông ấy” lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định:”Khi người ta may mắn được gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8.4.1988)
Có một mối tương quan giữa thập giá và vinh quang. Sự Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, cho chúng ta thấy trước sự vinh quang với Chúa. Nhưng muốn biến đổi không phải là chuyện đơn giản vì nó không phải là cái gì có sẵn, hay dễ dàng, mà đòi hỏi thời gian, vì đây là một tiến trình vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta phải đối diện với thực tại hằng ngày của cuộc sống, nhiều khi phải lội ngược dòng đời, lột xác từng tí một, nhiều lúc phải chịu thử thách, đắng cay, mất mát. Hôm nay 5 đầy tớ ưu tuyển của Chúa, tiêu biểu cho cả Cựu ước lẫn Tân ước cùng chứng kiến sự kiện lạ lùng này. Họ cũng được can dự vào sự “biến đổi”.
Trong mùa chay này, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết : khổ giá mà không có vinh quang phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xẩy đến, Đức Giêsu đã biến hình để các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng : đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mà mọi người mong đợi.
Truyện : Con sâu thành con bướm.
Có một con sâu nhỏ bò mãi, cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong :
– Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy.
– Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì bây giờ ?
– Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi.
Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hóa thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.
Con sâu biểu tượng mỗi con người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những chước cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bầy trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi.
Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, tỏa sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Vì chính lòng nhẫn nại tín trung vào ơn Chúa sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mọi nghi ngại, mọi suy tính đầy vụ lợi. Và lòng khiêm nhường thẳm sâu sẽ phá tung lớp vỏ kén tự mãn để trao tặng chúng ta đôi cánh đức tin hy vọng cao bay xuyên qua những đám mây mờ của tháng ngày thử thách gian ngay (Theo Internet).
Việc Đức Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới, từ loài sâu bọ trở nên con bướm xinh đẹp. Mọi người đều có ơn gọi biến đổi không trừ một ai.
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamia tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ôâng lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng. Diệt cái kiêu căng và cuồng tín biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách mắng nhẹ:”Saulê, sao ngươi bắt bớ Ta”? Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông đồ Dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa, từ gái giang hồ thành thánh nhân, từ trai tứ chiếng nên Đấng lập Dòng, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xẩy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân (Carôlô).
Trong việc làm biến đổi con người mình, người ta phải nỗ lực chứ không phải khoán trắng cho Chúa. Chúa không muốn làm biến đổi thay cho chúng ta mà Ngài chỉ trợ lực để chúng ta làm lấy công việc này :”Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp cho” (Ngạn ngữ Pháp).
Truyện : Hãy tự giúp mình trước.
Người ta kể rằng : một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò dừng lại. Xe bò sụn lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi, bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo:”Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy.
Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.
Trước những biến cố trọng đại, Đức Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Đức Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố biến hình là biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Đức Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.
Ngược lại nếu không biết cầu nguyện, chỉ cậy dựa vào sức của mình, chỉ dùng những phương thế tự nhiên tuy là tối hảo thì “mèo vẫn hoàn mèo”, không thể tiến triển được trên đường biến đổi vì Chúa đã nói :”Sine me nihil potestis facere” : không có Ta các con không thể làm gì được.
Người ta thuật lại rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia quyến người da đen ở. Gia quyến đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi, Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau cùng, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học sinh về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem màu da đen mất chưa. Chao ôi ! Mầu đen quá sậm cậu mất công toi.
Vài phút sau thầy giáo gọi cậu :
– Con cố sức kỳ cọ hết màu da đen để nên người da trắng, song không sao được.(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ sự cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi, chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi”, phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương (2Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay phải là khuôn mặt biến đổi.
Tóm lại, sự thay đổi là trọng tâm của Mùa Chay, và mục đích của Giáo hội là tìm cách cho con cái mình lãnh nhận dồi dào ân sủng, để biến đổi họ trong vui mừng của Mầu nhiệm Phục sinh. Hôm nay Chúa dạy chúng ta bài học cầu nguyện, cầu nguyện thật sự, đúng cách sẽ thay đổi được tâm hồn con người, sẽ làm cho người khác nhận diện được sự đổi thay lạ lùng – dĩ nhiên là qua những việc làm lành thánh -, đó là cầu nguyện, đàm đạo với Chúa về con đường đi đến đồi Calvê, con đường khổ giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn từng ngày, từng lúc.
Ước gì trong Mùa Chay thánh này, mỗi người tín hữu sẽ nhận ra được giá trị thật sự của sự cầu nguyện, biết trở về với Giáo hội để lãnh nhận ân sủng, những ơn cần thiết, được ban nhưng không, để cùng được biến đổi, cùng được dự phần vào ngày vinh thắng của Chúa. Nếu như không có thứ Sáu Chịu nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục sinh. Đây là định luật bắt buộc cho bất cứ ai muốn tiến vào Vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Chúa sẽ biến đổi thân xác chúng ta.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Chúa sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta trong ngày sau hết. Với niềm tin tưởng ấy, thánh Phaolô, trong bài đọc 2, đã khuyên mọi người bắt chước Ngài, vì Ngài tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm thập giá. Đang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Đức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc. Họ sẽ đi tới diệt vong.
Trái lại, quê hương của ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Đức Giêsu Kitô. Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang của Ngài. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
BIẾN HÌNH- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
- Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?
BIẾN HÌNH VÀ ĐỔI ĐỜI– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Michel Ange và Raphael là hai kiến trúc sư thiên tài, còn là họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới, đã được Đức Giáo Hoàng Juliô II trao cho nhiệm vụ thiết kế xây cất và trang trí Đại Thánh đường Thánh Phêrô và địện Vatican ở Rôma.
Suy về đề tài Chúa Biến Hình, Raphael đã thực hiện một bức họa có 3 cấp: Cấp trên là Đức Giêsu đứng giữa cụm mây sáng láng, cấp giữa là Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, cấp cuối là nhóm các môn đệ và dân chúng vây quanh một thiếu nhi bệnh họan đang nằm chờ chết bên cạnh có 2 môn đệ: một môn đệ đang chỉ tay lên Đức Giêsu, môn đệ kia đang chỉ tay vào bệnh nhân” (ĐGM. Althur Tone). Bức họa đã lột được hết ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là chỉ có Đức Giêsu mới biến đổi những kẻ bệnh hoạn nên lành thánh. Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đang lúc Người cầu nguyện dung nhan Người bỗng biến đổi sáng láng, chói lòa trong vinh quang. Người cầu nguyện để biến đổi ý mình trọn vẹn theo Thánh ý Chúa Cha, Người cầu nguyện cho cuộc tử nạn của Người sẽ phải hoàn tất tốt đẹp tại Giêrusalem và biến cuộc sống ta nên vinh hiển. Người cầu nguyện cho ánh sáng tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần soi sáng cho khắp nhân loại, từ Adam Eva đến Abraham, Maisen, Êlia, từ Phêrô, Gioan, Giacôbê đến những người đang đứng chờ dưới chân núi được sống lại trong vinh quang nước Chúa. Người cầu nguyện nhất là cho các môn đệ và chúng ta biến thành đồng dạng với Con Chúa Cha và biết vâng lời Người: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”.
Phải vâng lời Người để “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân thể vinh hiển của Người”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự biến đổi con người chúng ta nên giống con người của Đức Giêsu Kitô nhờ vâng lời Thiên Chúa.
Bài I: Abraham đã được Chúa biến đổi từ dòng dõi con cháu thành U của tà thần, nên tổ phụ công chính của một dòng dõi đông đảo sáng láng như các vì sao trên trời. Nhưng ông phải biết nhận Thiên Chúa là Đức Chúa của ông, phải biết vâng lời Chúa từ bỏ Candê tới đất Chúa chỉ định. Ở đó ông dâng lễ tạ ơn Chúa và đón nhận giao ước của Ngài, nhờ đó Abraham đã đổi đời: từ kẻ thờ tà thần nên tổ phụ dòng dõi thờ Thiên Chúa.
Bài II: Thánh Phaolô bảo dân Philiphê hãy noi gương đổi đời của ông. Ông đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình nhất rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ông, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ông cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống kết hợp khăng khít vững vàng với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của Phaolô.
Bài Tin Mừng cho ta thấy rõ sự biến đổi của Đức Giêsu Kitô: từ xác phàm loài người, Đức Giêsu đã biến đổi sang thân xác vinh quang chói lọi. Maisen và Êlia cũng được biến đổi nên sáng láng rực rỡ khi đến gặp gỡ Đức Giêsu.
Maisen từ một thanh niên hèn nhát chạy trốn đã biến đổi thành một vị lãnh đạo vĩ đại của dân Israel, nhờ Thiên Chúa đã kêu gọi ông, dạy bảo ông phải về thương lượng với vua Pharaon để giải phóng dân đang làm nô lệ nhà vua, được trở về đất hứa. Maisen đã nghe lời Thiên Chúa đến gặp nhà vua, ông không còn khiếp sợ vua nữa. Trái lại vua và cả dân Ai Cập khiếp sợ Maisen và thúc giục Maisen mau mau dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập. Nhờ Maisen vâng lời Thiên Chúa, Pharaon đã đổi lòng và cả dân tộc Israel nô lệ được đổi đời làm dân Thiên Chúa.
Êlia cũng biết nghe lời Chúa, đến giáp mặt vua Akhab và hoàng hậu Israel đang lùng bắt ông. Thiên Chúa bảo Êlia bỏ lối sống ẩn nấp giữa khe suối rừng hoang, ông đã vâng lời Chúa đến gặp Akhab. Thoạt thấy ông, Akhab nói: “Đây chính là kẻ giáng họa cho Israel”. Êlia đáp: “Không phải tôi, nhưng là chính ông giáng họa, vì ông đã bỏ lệnh truyền của Thiên Chúa, bây giờ ông hãy triệu tập dân chúng cùng 450 sư sãi thần Baal và 400 kẻ ăn nơi bàn Esabel tại núi Karmel”. Khi dân chúng đến, Êlia nói: “Cho đến bao giờ nữa, các ngươi còn khập khễnh đi hai giò? Nếu Giavê là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; nếu là Baal thì hãy theo đi”. Rồi hai bên lập bàn thờ để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, 450 sư sãi đặt con bò trên đống củi và khấn thần Baal đem lửa đến thiêu của lễ, họ kêu suốt ngày vô ích. Còn Êlia bảo dân lấy nước đổ đẫm của lễ và đống củi, rồi ông cầu nguyện: “Lạy Giavê xin nhận lời tôi, khiến dân này nhận biết chính Người là Thiên Chúa thật, xin giáng lửa xuống thiêu của lễ với củi và cả đá bụi nữa”. Thấy thế, toàn dân sấp mặt xuống và nói: Giavê chính là Thiên Chúa. Họ đã từ bỏ Baal, đổi đời trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhờ đâu Abraham, Maisen, Êlia, Phaolô và dân Isarel được biến đổi như thế. Tin Mừng trả lời: Họ đã vâng lời Người.
Tất cả những ai muốn biến đổi sáng láng, muốn như Phêrô khao khát được ở trên núi vinh quang rực rỡ thì: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mùa Chay chính là thời thuận tiện để chúng ta tập luyện vâng nghe lời Chúa dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng như Gioan, Phaolô và Giacôbê.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến đổi xác phàm ra xác thánh, đau khổ ra vinh quang, chết ra sống lại vinh hiển vì Người đã vâng lời Đức Chúa Cha. Xin cho con biết vâng lời Người biến đổi con người tội lỗi ra người thánh, đau khổ thành hy sinh, chúng con mới được Chúa cho đổi đời trong ánh sáng Phục sinh của Chúa.
THIÊN CHÚA VẪN CÒN HIỂN DUNG– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa… đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và tâm hồn bạn sẽ ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.
Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán. Vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nỗ lực của các thiền giả là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang nhởn nhơ mỉm cười và niềm nở chào đón cậu trông dễ thương đến lạ lùng và đang toả hương thoang thoảng trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống để bày tỏ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Người.
***
Theo Tin Mừng Lu-ca được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giê-su. Cũng vẫn là Chúa Giê-su bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Mô-sê và tiên tri Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.
Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phê-rô thay mặt anh em thưa với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
***
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Người.
Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Người, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh…
Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19, 2)
Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn…
Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung (tỏ lộ mình ra) nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, ba môn đệ vui sướng nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Ngài, thì hôm nay, nguyện xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh. Nhờ đó, chúng con sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống-cùng, sống-với những chi thể của Chúa mỗi ngày và có thể reo lên như thánh Phê-rô hôm xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. Amen.
CHÚA BIẾN HÌNH (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”(Lc 9,35)
Anh chị em thân mến
Hằng năm cứ vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Giáo Hội dọc lại cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa biến hình trên núi. Đây là câu chuyện đặc biệt chỉ xẩy ra có một lần duy nhất trong cuộc đời của Chúa. Câu chuyện được cả ba Tin Mừng nhất lãm: Matthêo, Maccô và Luca thuật lại.
Nếu đọc cả ba bản văn, chúng ta thấy có một vài chi tiết hơi khác nhau nhưng nội dung thì cả ba hầu như hoàn toàn như nhau. Vậy chúng ta thử hỏi: Chúa muốn dạy các môn đệ và chúng ta điều gì qua biến cố biến hình hôm nay?
Với các môn đệ thì bài học tương đối đã khá rõ.
Tin Mừng cho biết Chúa thực hiện cuộc biến hình này ngay sau lời báo trước về cuộc khổ nạn của Chúa 8 ngày trước. Lời tuyên bố ấy như thế này: “Con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục và thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” Đó là lời tuyên bố gây choáng váng cho các môn đệ.
Để các môn đệ Chúa khỏi thất vọng, Ngài đã cho các ông ấy thấy một phần vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ hưởng sau phục sinh. Như vậy, qua biến cố biến hình Chúa muốn dạy các ông rằng khổ nạn không phải là tận cùng, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. Và đồng thời như lời của Jean-Luc Vesco chú giải, Chúa cũng muốn cho họ hiểu rằng: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn; một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo Người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly ” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó “, Cerf, trg 38).
Sau khi Chúa phục sinh các tông đồ đã hiểu thật rõ những gì Chúa muốn nói ở đây.
Còn đối với chúng ta, Chúa Giêsu muốn dậy điều gì ?
Dĩ nhiên là Chúa không cần phải củng cố niềm tin của chúng ta như đối với các môn đệ thuở xưa, nhưng bài học cũng vẫn còn đó: Chúa muốn cho chúng ta xác tin hơn vào một tương lai vinh hiển của chúng ta.
Tương lai ấy như thế nào thì đây chúng ta nghe lời của Thánh Phaolô: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta..” (Pl 3,20)
Có lần trong cuộc đời công khai Chúa đã nói: “Các người công chính sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước Cha mình.” (Mt 13,43) Qua việc biến hình Chúa đã muốn cho chúng ta nhìn thấy phần nào vinh quang ấy, nếu chúng ta là những người công chính. Thánh Phao-lô còn quả quyết “Chúa Giê-su có quyền năng khắc phục muôn loài, và Ngài sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,21). Và nơi khác “gieo xuống thì hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang” (1 Cr 15,43).
Muốn trở thành người công chính để được hưởng vinh quang như Chúa cho thấy, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã có sẵn : “Phải nghe Lời Ngài.” Nghe Lời của Chúa Giêsu. Đó là con đường giúp chúng ta trở thành người công chính trước mặt Chúa. Lời Chúa có sức biến đổi cuộc đời chúng ta.
Thánh Gioan Thánh giá quả quyết “Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với loài người thì Ngài đã nói qua Chúa Giê-su vào thời gian viên mãn (x. Dt 1,1) Thế nên ngày nay ai muốn hỏi, muốn xin một thị kiến hay một mạc khải, thì không chỉ là điên khùng, mà còn nhục mạ Thiên Chúa, vì không tập chú vào Chúa Giê-su. Thiên Chúa có thể trả lời hạng người đó như thế này: Ta đã nói với ngươi tất cả nơi “Lời Ta” là Con Ta rồi. Giờ dây, ngoài Chúa Giê-su Ta không còn gì để mạc khải hay nói cho ngươi nữa. (Gio-an Thánh giá, Monttee du Carmel).
“Hãy vâng nghe Lời Người”. Lời có sức biến đổi lạ lùng.
Xin được mượn một câu chuyện để minh họa. Câu chuyện xẩy ra vào năm 300 trước Chúa Giáng sinh. Vào một sáng kia lúc nhà hiền triết Bolena đang chơi giải trí với các sinh viên trước hàn lâm viện thành Athène, thủ đô Hylạp, thì có một người đàn ông đến. Ông tự giới thiệu mình là một thày tướng thời danh. Các sinh viên nghe thế nên mới đề nghị ông xem cho thày mình là hiền triết Bolena một quẻ. Ông thày tướng nhìn nhà hiền triết Bolena một lát, rồi nói : “Giáo sư của các anh chỉ là một con người “Mũi dòm miệng”, tức là con người ưa nhậu nhẹt, say xỉn. Nghe thế các sinh viên giận sôi ruột lên, định xông vào cho ông thày tướng dám nói ẩu một trận. Thế nhưng nhà hiền triết Bolena đã kịp can ngăn. Rồi sau đó ông chậm rãi giải thích cho các học trò của mình như thế này: “Này các trò, ông thày tướng này rất giỏi, ông đã coi tướng thày rất trúng; khi còn trẻ, chính thày là một thanh niên “mũi dòm miệng”. Một lần kia, sau khi đã nhậu nhoẹt say sỉn, thày đã đến Hàn Lâm Viện này, để nhạo báng các sinh viên bằng những cử chỉ và lời nói rất ư là thiếu lễ độ. Bấy giờ giáo sư của thầy là nhà hiền triết Socrate bình tĩnh, bỏ ngay vấn đề đang nói, mà bàn ngay tới vấn đề đức tính và tiết độ, làm cho con người có giá trị, đáng được trọng kính. Nhưng lời giảng dạy trên đây, đã giáo dục thày, đã làm cho thày bỏ được tính mê nết xấu, và luyện tập đức tính nên ngày nay, thày mới trở nên con người ích lợi cho xã hội và đất nước như thế này.
Chúng ta có thể coi đây là một cuộc biến hình, một cuộc lột xác được không? Tôi tưởng là được lắm chứ!
Cũng vậy muốn được biến hóa nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải thực hành Lời của Chúa. Việc nghe và thực hành Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta được biến đổi.
Năm 1215 thánh Daminh giảng tuần Đại phúc ở nhà thờ Saroza nước Tây Ban nha, lúc đó có một người giáo dân khô khan tội lỗi tên là Don Perez Petro, nhất định không chịu cải quá tự tân. Thánh Daminh lần chuỗi cậy nhờ Đức Mẹ cho anh ta biến hình thành một tên quỉ xấu xa dữ dằn khiến mọi người trong nhà thờ, sợ hãi chạy tán loạn. Về tới gia đình anh nhìn vào gương…thấy hình ảnh mình ghê tởm, xấu xa quá nên phát sợ. Ngay sau đó anh ta đã tìm đến với thánh Đaminh và xin cứu giúp. Ngài đã giải tội cho anh và sau khi lãnh phép giải tội, lạ thay con người anh biến hình đẹp như một thiên thần tốt đẹp sáng láng.
Lạy Thiên Chúa, đây lời cầu nguyện của con:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim con mọi biển lận tầm thường.
Xin cho con sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho con sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho con sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho con sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi những ti tiện hằng ngày.
Và cho con sức mạnh tràn trề để nâng mình theo ý Ngài luôn.
R.Tagore
CHÚA BIẾN HÌNH – Trích Logos C
Báo Tuổi Trẻ phát hành ngày 03/3/2004 vừa qua có đưa tin về một hiện tượng kỳ lạ xảy ra ở huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đó là hiện tượng một số người có khả năng tự phát ra ánh sáng.
Nhóm phóng viên Báo Tuổi Trẻ đã đến tận nơi để xác minh và thấy đúng như lời người ta đồn thổi. Họ đến nhà vợ chồng anh chị Nguyễn Văn Te và Nguyễn Thị Lệ ở Đức Hòa và xem họ “phát sáng”.
Trước sự chứng kiến của nhiều người, khi đã tắt hết đèn, hai anh chị mặc áo vào người thì tự nhiên ở đầu và mặt phát ra ánh sáng màu đỏ nhạt rất kỳ lạ. Người ta để Bút thử điện cách xa mặt họ khoảng một gang tay và Bút thử điện sáng lên như khi cắm vào ổ điện. Kỳ lạ hơn nữa, hàng chục người có hiện tượng phát sáng giống như vậy ở Đức Hòa cũng như Thành Phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua, đã được phóng viên đến tận nơi chứng kiến và chụp hình. Người ta đăng cả hình người đang phát sáng trên Báo nữa.
Hiện tượng này được những người chuyên môn giải thích là hiện tượng “phát quang” ở nơi một số rất ít người (tỷ lệ 1/1 triệu). Theo quan điểm vật lý về Bản chất sự sống, mọi sinh vật đều có sóng điện từ phát ra đã tạo ra hiện tượng này.
Trước hiện tượng “người phát sáng”, rất đông đảo người hiếu kỳ đến xem, đến nỗi chính quyền phải can thiệp để giữ an ninh trật tự.
Hiện tượng trên gợi lên quang cảnh cuộc Biến hình của Chúa Giêsu trên núi trước mặt Ba Tông Đồ Phêrô, GiacôBê và Gioan đang lúc Ngài cầu nguyện. Cũng trong cảnh uy nghi rực rỡ đó, Chúa cùng với Môisen và Êlia đàm đạo về cuộc tử nạn của Ngài. Trong ánh vinh quang chói lòa, khuôn mặt Ngài Biến đổi khác thường, và áo Ngài trở nên trắng tinh sáng láng.
Vượt lên trên “một hiện tượng lạ lùng”, cuộc Biến hình của Chúa Giêsu chính là một Biến cố thần linh, là mầu nhiệm Hiển Dung, mầu nhiệm Chúa Giêsu hé lộ khuôn mặt vinh quang của Thiên Chúa cao cả ẩn giấu dưới dung mạo con người thấp hèn nơi Chúa Giêsu.
Vượt trên cả “sự hiếu kỳ”, các tông đồ vừa kinh hoàng, vừa cảm thấy ngây ngất hạnh phúc trước cảnh huy hoàng đó đến nỗi Phêrô muốn “cắm lều” ở lại đó mãi mãi.
Vượt lên trên sự “thay hình đổi dạng” của những hiện tượng tự nhiên, sự Biến hóa trong vũ trụ, cuộc Biến hình của Chúa Giêsu chính là sự Biến đổi siêu nhiên.
Khởi đi từ sự Biến đổi cao cả nhất, sự “Biến hình vì tình yêu”: Thiên Chúa cao cả đã trở thành con người hèn mọn, để chúng ta vốn là “con cái tối tăm” trở thành “con cái ánh sáng”, nghĩa là con cái Thiên Chúa, mang hình ảnh Người.
Từ sự Biến hình căn Bản này, Thiên Chúa thực hiện Biết Bao cuộc Biến đổi khác.
Bài trích Sáng Thế hôm nay thuật lại việc Thiên Chúa ký kết giao ước với ABraham, giao ước được ký kết trên những con vật được xẻ đôi. Giao ước cũ này được Biến đổi để trở thành Giao ước mới được ký kết trong máu Đức Giêsu Kitô.
Môisen và Êlia có mặt để đàm đạo trong cuộc Biến hình trên núi của Chúa chính là hai chứng nhân trong Cựu ước. Môisen đại diện cho Lề luật, Êlia đại diện cho các Ngôn sứ. Trong ánh quang huy hoàng, dung mạo của Môisen và Êlia được Biến đổi để trở nên dung mạo mới của Tân ước. Cũng từ đó, lề luật cũ được Biến đổi thành lề luật mới : Luật Của Tình Yêu. Thời Ngôn sứ đã Bị vượt qua và được qui chiếu về Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Khuôn mặt Cựu ước đầy Bóng tối đã được Biến hình để trở thành khuôn mặt Tân ước đầy ánh sáng.
Trong thư gửi các tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã khích lệ chúng ta nếu đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ “Biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Ngài”. Đây chính là cuộc Biến đổi nền tảng nơi con người cũ của ta để trở nên con người mới trong Đức Kitô.
Sự Biến đổi ấy là “cuộc Biến hình thiêng liêng” đã được Thiên Chúa thực hiện nơi nhiều người trong Giáo Hội :
Cuộc Biến hình của Giakêu sau một lần nhìn thấy và gặp gỡ Chúa : từ một con người gian tham ích kỷ Biến đổi thành con người quảng đại chân thành.
Cuộc Biến hình của Phaolô khi Bị quật ngã trên đường đi Bắt Bớ đạo Chúa. Trong ánh sáng chói lòa của ơn thánh, Chúa đã Biến đổi Ngài thành tông đồ đắc lực của Chúa.
Cuộc Biến hình của Augustinô khi nhận được ánh sáng thần linh chiếu rọi vào tâm hồn, Ngài đã được Biến đổi từ một con người tội lỗi trở thành một vị thánh.
Thế nào là cuộc Biến hình của mỗi người chúng ta ?
Qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được Biến đổi để trở thành con cái Chúa. Nhưng chúng ta còn phải tự Biến đổi để trở thành “người con yêu dấu của Thiên Chúa”, như Chúa Giêsu đã là Người Con Yêu Dấu của Chúa Cha nhờ việc vâng ý Chúa Cha. Để trở thành người con yêu dấu của Chúa, ta hãy Biết lắng nghe và thực thi ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc “Biến hình” kỳ diệu nhất là Biến hình từ thập giá đến vinh quang. Trên đỉnh cao của niềm tin, Chúa Giêsu đã được Biến hình từ sự chết sang sự phục sinh vinh quang. Chúng ta cũng phải chết đi cho con người cũ để được Biến đổi thành con người mới, mặc lấy Đức Kitô phục sinh.
Một trong những ngôi sao sáng của điện ảnh Việt Nam là nữ diễn viên Việt Trinh.
Đã có một thời, hình ảnh của cô tràn ngập khắp nơi : trên những Bức tranh quảng cáo, trên Bìa sách, trên trang Báo, trên lịch và thậm chí trên cả giấy gói kẹo nữa.
Việt Trinh được mệnh danh là “Cô Bé Lọ Lem” của điện ảnh Việt Nam. Bởi vì, những ngày tháng đầu tiên của sự nghiệp đóng phim là những ngày tháng gian khổ.
Năm 1990, Việt Trinh chỉ là một cô nữ sinh lớp 12 quê mùa nhút nhát ở Sông Bé.
Khởi đầu, cô được mời đóng phim “Thăng Long Đệ Nhất Kiếm”. Khi đóng vai thị nữ dâng rượu cho vua, vì run tay, cô đã làm rớt chiếc Bình cổ quý giá xuống đất vỡ tan. Việt Trinh đã ôm mặt khóc nức nở vì sự thất Bại đầu đời của người diễn viên.
Thế mà chỉ mấy năm sau, trong Bàn tay dìu dắt của đạo diễn Lê Dân, cô đã trở thành một ngôi sao sáng rực, thành công vang dội trong và ngoài nước.
Qua đau khổ mới tới vinh quang Phục Sinh. Vì thế, mỗi hy sinh trong đời sống là một tia sáng góp phần vào vinh quang Bất diệt của chúng ta mai sau.
Nhưng thật đáng tiếc, có thể có những áng mây mù sẽ che khuất ánh sáng của những ngôi sao. Như thế, cái xấu có thể Biến đổi thành cái tốt, và cái tốt cũng có thể thành cái xấu.
Trong mùa chay này, xin Chúa hãy Biến đổi chúng ta, thay vì Bị “Biến chất” trong xã hội hôm nay, ta được Biến tan trong tình yêu Chúa, trở thành ánh sáng soi lối cho mọi người.
Chúng ta cũng hãy xin Chúa Biến đổi đời mình, để tâm hồn nên tinh ròng và trong sáng phản chiếu dung mạo vinh quang của Chúa cho mọi người.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- NĂM C
HÃY VUI LÊN– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: “Ngài kinh hoảng âu sầu”. Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: “linh hồn thầy buồn sầu đến chết được”. Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.
Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)
Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.
Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: “Chúa của họ là cái bụng”, thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.
Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.
Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!
Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.
Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
-Một năm vừa qua, bạn có hài lòng với chính mình không? Bạn thấy mình khá hơn hay dở hơn? Bạn có biết tại sao không? Xin bạn chia sẻ, nếu được.
-Bạn có kinh nghiệm về một niềm vui thiêng liêng không? Xin chia sẻ nếu được.
-Hiện tại bạn có ao ước điều gì cách đặc biệt không? Điều bạn ao ước phản ánh chính con người bạn với những thao thức và giá trị sống, bạn có biết hơn gì về bạn qua ao ước này không? Bạn có sẵn sàng chia sẻ với các bạn khác về điều bạn ao ước không? Nếu được, xin mời bạn.
ĐAU KHỔ VÀ VINH QUANG- Cố Lm. Hồng Phúc
Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa đi cầu nguyện thì 11 lần do thánh Luca.
Hôm nay, Chúa đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và việc Chúa biến hình xảy ra trong giờ cầu nguyện đó. Nhiều khi người ta cũng chứng kiến cảnh một số các thánh mặt rạng rỡ trong khi đăm chiêu đàm đạo với Chúa.
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, cao khoảng 600 thước và cho các ông được chứng kiến vinh quang của Ngài, như một ngày kia các ông sẽ là nhân chứng cuộc hấp hối của Ngài trong vườn Cây Dầu. Trong đời của Chúa, đau khổ và vinh quang gắn liền với nhau thì trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng vậy. Sự đọc kinh cầu nguyện sẽ giúp ta vượt thắng đau khổ lo âu, biến hóa đau khổ thành vinh quang.
Đang khi Chúa cầu nguyện thì “diện mạo Ngài đổi khác thường”, như có ánh sang từ châu than loan tỏa ra, “áo Ngài trắng tinh sáng láng”, và hai bên có Moisê và Êlia xuất hiện. Hai nhà tiên tri đại diện Cựu ước cũng đã từng được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb (I Vua 19, 13-21), và Sinai (X.H 20, 2-17).
Ba Đấng đàm đạo về việc gì?
Luca là người duy nhất cho biết: “Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.
Chúa Giêsu là Con Chiên sẽ gánh hết tội nhân loại. Ngài là vật tế sinh. Ngài biết rằng Ngài đến cũng vì mục đích ấy. Vinh quang núi Taborê không làm quên lãng khổ nạn đồi Calvê. Khuôn mặt sang chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” (Isaia). Áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia.
Là một người như chúng ta, Chúa cũng có tình cảm, cũng cần được chia sẻ trong những phút ưu phiền cô đơn, Moisê và Êlia đã từng bị bắt bớ có thể mang lại phân nào chút thông cảm và an ủi, trước giờ quyết định quan trọng.
Nhưng, nhất là lời kinh của Chúa đến thẳng Đức Chúa Cha “Đấng hằng tôn vinh Chúa Con” (Gio 8, 54). Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ba lần, có tiếng bởi trời vọng xuống để long trọng tôn vinh Đức Chúa Con; đó là sau khi Ngài chịu phép Rửa, khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, hôm nay trên núi biến hình và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Cuộc biến hình là một suy tôn bằng hành động rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Câu kết luận Chúa dành cho chúng ta hôm nay: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI. Moisê và Êlia đã biến mất, đạo cũ đã lùi vào dĩ vãng. Mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vắng bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên. “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu”.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ông đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, TTK đảng cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ‘ông ấy’ lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: “Khi người ta được may mắn gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8-4-1988).
“Lạy Chúa Giêsu là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con, trong tay Ngài con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con.
Và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa” (HY Newman).
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY C- NĂM C
VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
Núi Tabor
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1.634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ. Ngôi nhà thờ đầu tiên do thánh nữ Hêlêna mẫu hậu của hoàng đế Costantin cho xây vào thế kỷ IV SCN, qua thời kỳ Bizantin và thời thánh chiến bị phá hủy. Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng trên chính nền nhà thờ cũ đó. Nhà thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG – Lm. Nguyễn Minh Chánh
Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một ngôi nhà đẹp và hiện đại, thì đòi hỏi đầu tư tiền của thật nhiều, thời gian xây dựng cũng không phài là ít, về phương diện mỹ thuật cũng không quá xơ xài. Hay trong lãnh vực tinh thần: Một người nam muốn đi tu làm linh mục cũng phải trải qua thời gian tu học thật chu đáo trong môi trường đào tạo, thật nghiêm túc đối với bản thân. Đến khi tuyển chọn để phong chức linh mục khách quan phải có sự đánh giá rất nghiêm túc của bề trên, của những vị có trách nhiệm về cách sống của ứng viên qua quá trình tu học, cũng như thời gian thực tập mục vụ…
Như vậy dầu trong lãnh vực tinh thần hay vật chất, nếu ta không đầu tư cho công việc cách chính trực và chính đáng thì sẽ không thu lợi, nhưng đó là điều bất lợi cho cá nhân và tập thể, cuối cùng sẽ gây nên tai hại khó lường.
Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trong tư cách là con người, Chúa cũng đi theo quy luật trên. Khi chiêm ngắm sự kiện Chúa biến hình trên núi Tabor, đó là câu trả lời cho chúng ta biết trước sự kiện Chúa hiển dung là kết quả công trình đầu tư của Đức Giêsu. ” Đang khi Chúa cầu nguyện dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”(Lc 9,29). Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng để đi đến con đường vinh quang phục sinh, trước hết Chúa phải trải qua con đường đau khổ, đường thập giá, cuối cùng là cái chết. Vì tám ngày trước khi Chúa biến hình, Chúa đã báo trước cho các tông đồ biết là Ngài” phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”(Lc 9,22).
Như vậy đường phục sinh vinh hiển mà Chúa đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Hơn nữa đó không phải là con đường để Chúa thể hiện sức mạnh bằng cuộc chiến đấu tranh giành theo kiểu trần thế, nhưng là con đường Chúa hạ mình nhận lấy phần xấu nhất của loài người qua việc đón nhận thập giá và chết trên thập giá. Con đường này là con đường Chúa Giêsu đầu tư theo Thánh ý Chúa Cha khi cứu độ loài người. Công trình ấy còn rất quan trọng cho con người, vì có liên quan đến sự sống vĩnh cửu của con người.
Thông thường ai trong chúng ta cũng muốn sống và sợ chết. Riêng đối với sự sống vĩnh cửu thì chúng ta lại càng mong muốn hơn. Thế nhưng muốn được sống hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta hãy can đảm đầu tư cho sự sống cao quý ấy ngay từ bây giờ. Phải hy sinh từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý Chúa, chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Đây như là một kiểu nói rất quen thuộc đối với chúng ta, bên cạnh đó vẫn còn rất xa với hành đông đáp trả của chúng ta. Lý do đa số chúng ta chưa cảm nghiệm đầy đủ về chiều sâu, chiều rộng, chiều cao của thập giá Chúa Giêsu. Hay phần nhiều chúng ta còn rất mơ hồ về ý nghĩa thập giá của Chúa trong đời sống của mình. Từ đó chúng ta rất xa lạ với thập giá, rất sợ đón nhận thập giá. Khi càng xa lạ và càng loại trừ thập giá ra khỏi đời sống, chắc chắn công trình đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta sẽ kém chất lượng, nó giống như “người ngu dại xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”(Mt 7, 26-27).
Người ta kể một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc:
Một đoàn người bước theo Chúa Giêsu với thập giá trên vai. Chúa Giêsu dẫn đầu cũng mang thập giá mà Ngài đã vác hôm xưa trên đường núi sọ. Trong đoàn, có một chàng thanh niên kéo lê thập giá của mình một cách mệt mỏi. Miệng anh luôn kêu trách phàn nàn vì nghĩ rằng thập giá anh nặng hơn và dài hơn của những người khác. Chẳng mấy chốc anh là người kéo lê cuối đoàn. Cuối cùng anh quyết định dừng lại và cưa bớt thập giá của anh một đoạn để có thể nhẹ nhàng bắt kịp những người đi trước. Khi đoàn đến cuối đường thì gặp một hố sâu. Chúa Giêsu bảo: Bây giờ mỗi người hãy đặt thập giá mình ngang qua miệng hố làm cầu và tiến vào thiên đàng. Chúa Giêsu đặt thánh giá của ngài xuống và bước ngang qua, những người khác cũng đều làm theo, lạ lùng thay, thập giá cỡ nào cũng vừa khoảng cách hai bờ miệng hố, tất cả mọi người theo Chúa Giêsu đều vào thiên đàng, ngoại trừ anh chàng kia, vì anh cưa ngắn một đoạn thập giá nên anh không được vào thiên đàng.
Câu chuyện trên như muốn dạy chúng ta bài học: Khi càng tạo thập giá theo ý mình thì chúng ta sẽ loại trừ thập giá của Chúa ra khỏi đời ta. Vì Chúa muốn chúng ta vác thập giá theo ý Chúa chứ không phải theo ý ta. Hơn nữa khi càng xa thập giá của Chúa trong đời sống thì con đường hạnh phúc mai sau sẽ rất xa lạ đối với chúng ta. Ngược lại khi chấp nhận vác thập giá theo ý Chúa, thì mỗi ngày chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Khi đời ta luôn gắn bó với thập giá của Chúa thì đó là dấu hiệu chúng ta đang gắn bó với hạnh phúc sau này.
Mẹ Maria là người rất có kinh nghiệm về việc vác thập giá trong đời. Xin Mẹ giúp chúng ta ngay từ bây giờ biết làm quen với thập giá của Đức Giêsu, biết vui lòng đón nhận thập giá của Đức Giêsu. Vì muốn vươn đến cuộc sống toàn thiện mai sau, điều cơ bản chúng ta phải từ bỏ tất cả để vác thập giá theo Đức Giêsu. Đây chính là cuộc đầu tư chính xác nhất cho sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Vì qua sẽ đau khổ đến vinh quang.