CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C.. 2
HÃY TỰ BIẾT MÌNH (*) – Chú giải của Noel Quesson. 6
HÃY TỰ XÉT ĐOÁN CHÍNH MÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 13
CẨN THẬN VỀ VIỆC XÉT ĐOÁN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 20
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ KHỎI BỊ XÉT ĐOÁN- Lm. Đan Vinh HHTM.. 38
LỜI NÓ, VIỆC LÀM, ƠN CHÚA- ĐGM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm.. 50
BIẾT RÕ TỐT XẤU– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 60
CÁI RÁC, CÁI XÀ– Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng. 64
LÀM CHO NGƯỜI KHÁC TRỞ NÊN TỐT HƠN (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý 66
TU THÂN TRƯỚC – Trích Logos C.. 74
LÒNG AN VUI THÌ DƯỜNG NHƯ KHÔNG XÉT ĐOÁN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng DCCT 79
CÂY ĐỜI XINH TƯƠI- Thiên Phúc. 81
CÁI RÁC VÀ CÁI XÀ- Lm. Đamien OFM.. 85
MIỆNG NÓI NHỮNG ĐIỀU ĐẦY Ứ TRONG LÒNG – Lm. Giuse Vũ Mộng Thơ 90
NÊN UỐN LƯỠI TRƯỚC KHI NÓI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 93
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Hc 27, 5-8
“Ðừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói”.
Trích sách Huấn Ca.
Khi người ta sàng, những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Lò lửa thì nung luyện bình sành, còn gian nan thì thử những người công chính. Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy. Ðừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 91, 2-3. 13-14. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa, thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa! (x. c. 2a).
Xướng: Thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa, và đàn ca danh Ngài, ôi Ðấng Tối Cao, hầu loan truyền tình thương Ngài vào buổi sớm, và lòng trung tín Ngài vào lúc ban đêm.
Xướng: Người hiền đức như cây chà là nở hoa tươi tốt, vươn mình lên như cây hương bá đất Liban. Họ được vun trồng trong nhà Chúa, trong hành lang nhà Thiên Chúa chúng tôi họ nở bông.
Xướng: Ngay trong tuổi già họ còn sinh trái, họ đầy nhựa sống và họ sống xanh tươi, để họ loan truyền Chúa nhường bao công chính, Chúa là Ðá Tảng của tôi, nơi Chúa chẳng có gian tà!
BÀI ÐỌC II: 1 Cr 15, 54-58
“Người đã ban cho chúng ta sự chiến thắng nhờ Ðức Giêsu Kitô”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì lúc ấy ứng nghiệm lời đã ghi chép rằng: “Sự chết đã tiêu tan trong chiến thắng”. “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật”. Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Ðấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cho nên, hỡi anh em thân mến, anh em hãy ăn ở bền đỗ và đừng nao núng; hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải là uổng phí trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 6, 39-45
“Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh’, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.
“Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY TỰ BIẾT MÌNH(*) – Chú giải của Noel Quesson
Luca đã tập họp trong bài diễn từ này của Đức Giêsu, những câu ngắn, những “logia ” hoặc “lời” về thái độ của các môn đệ chân chính: Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe giớ răn phải yêu thương các kẻ thù… hôm nay, vấn đề là thái độ của chúng ta đối với anh em trong cộng đoàn
Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù, được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?”
Đây là một dụ ngôn hết sức ngắn như một câu tục ngữ. Chúng ta lưu ý thể nghi vấn của dụ ngôn ấy: Đức Giêsu không trả lời thay chúng ta. Người khêu gợi ý thức của chúng ta. Trong đoạn văn song song của Thánh Mát-thêu: nhận xét này dùng để cảnh giác chống lại: Người Biệt Phái, họ tự hào “hướng dẫn” những người khác nhưng lại là những “người mù ” trước biến cố trọng đại của Đức Giêsu.. Đấng. phát ngôn của Thiên Chúa (Mt 15,14; Ga10, 40). Phần Luca, ngài nghĩ nhiều đến những người đứng đầu các cộng đoàn Kitô hữu mà ở nơi khác, ngài gọi là các “người hướng dẫn” (Lc 22.26) “hégouménoi”. Ở Đông Phương, các Cha dòng đứng đầu tu viện luôn luôn được gọi là các Hogoumènes.
Lời của Đức Giêsu về những người “hướng dẫn mù” tự hào mình dẫn dắt được những người khác có thể được áp dụng cho tất cả chúng ta bởi vì trong lãnh vực này hay trong lãnh vực khác, chúng ta đều có trách nhiệm “hướng dẫn”: một gia đình, một xí nghiệp, một nhóm, một hiệp hội, một đô thị. Trách nhiệm của tôi là gì? Tôi có trách nhiệm với ai? Ai thuộc về tới? Tôi có khả năng không? Tôi có sáng suốt không? Tôi có nhìn thấy rõ ràng không? Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho tất cả những người mà con có trách nhiệm. Xin Chúa giúp con tránh được các cạm bẫy đó, những cái “hố” đó trên đường đi của chúng con. Xin Chúa làm cho con nhìn thấy rõ.
Học trò không hơn thầy, có học hết chứ cũng chỉ bằng thầy mà thôi.
Một dụ ngôn ngắn khác: thầy và trò. Để được sáng suốt để trở nên một’ “Người hướng dẫn” tốt, một người phụ trách tốt, phải được một ông thầy tốt đào tạo. Trong việc đào tạo ở trường Đại học, các nhà bác học danh tiếng nhất hôm nay đều nói về các ông thầy “đỡ đầu” của họ với lòng tôn kính và biết ơn; các ông thầy đỡ đầu ấy đã hướng dẫn việc học tập của họ cũng như khi họ làm luận văn và khi họ gặp khó khăn trong công việc, họ lại đến gặp các ông thầy ấy để tham vấn. Cũng thế “Người thợ học việc” phải tôn kính và biết ơn “thầy dạy nghề” của mình.
Tuy nhiên ngày nay, người ta nhận thấy một sự từ khước ông thầy, một sự đề cao bệnh hoạn về tính chất không định hướng trong sư phạm cũng như trong các thương vụ. Thời thượng bây giờ là chia sẻ, giao lưu… và người ta khó mà chấp nhận những bài giảng của các bậc thầy, những bài thuyết giáo. Khía cạnh tích cực của xu hướng này đang được đánh giá: Đó là lúc nào cũng hoạt động hơn và sự tham gia của cá nhân trong việc lãnh hội một kiến thức nào đó. Nhưng khía cạnh tiêu cực của việc từ chối ông thầy là một lòng kiêu ngạo, một sự từ chối tiếp nhận mà trong thực hành dẫn đến một thứ bình quân ở cấp thấp (cào bằng xuống thấp).
Thật vậy không có chân lý hay khoa học nào mà không được tiếp nhận. Điều đó đúng với các chân lý khoa học, chúng chỉ phát triển nhờ một thứ tuân theo thực tại, khuôn mình theo các sự vật. Điều đó càng đúng hơn đối với các chân lý đức tin vốn không phải để chinh phục mà là để tiếp nhận. Khi điều chủ yếu là tiếp nhận sự mạc khải thì học trò không thể hơn thầy… mà chỉ có thể để cho thầy đào tạo. Và Đức Giêsu tự giới thiệu như vị thầy đó; Người biết nhưng việc mà chúng ta không biết.
Nền văn minh của các sách vở in ấn đã thay đổi sâu sắc tương quan “thầy trò” bằng cách trí thức hóa tương quan ấy. Trong những nền văn minh truyền khẩu, người ta không thể học một mình, tiến bộ một mình, nhưng chỉ tiếp xúc lâu dài với “ông Thầy”, nhà “hiền triết”, “thầy guru”: Lúc đó, không chỉ là sự truyền đạt kiến thức bằng đầu óc nhưng là học tập một nghệ thuật sống… mà không một cuốn sách nào có thể truyền đạt được. Đức tin trước hết được chuyển thông từ người này qua người khác. Còn hơn cả mốt kiến thức, đó chính là một đời sống. Đức Giêsu tự giới thiệu như “vị thầy của sự sống”: phải chăng tôi thường tìm gặp Người? phải chăng tôi khao khát sự “đào tạo” sống ấy mà Người đề nghị? Tôi có là một “môn’ đệ” chân chính không? Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con để con không nên bằng lòng với những kiến thức lý thuyết về Tin Mừng, những biết sống với Chúa ngày này qua ngày khác.
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?
Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe Đức Giêsu nói với chúng ta đừng xét đoán đừng lên án. Nhưng, khi người ta có trách nhiệm (và chúng ta đều có trách nhiệm ở một số điểm) người ta phải đưa ra những phán đoán, chỉnh, lý những sai lầm, giúp đỡ những người khác thậm chí nói trái ý họ và sẵn sàng xung đột với họ nếu chúng ta nhận thấy có cả điều xấu. Đó là bổn phận của trách nhiệm “cảnh cáo anh em”: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (Mt 18,15; Lc17,3) Môn đệ của Đức Giêsu không thể giữ sự trung lập trước một số hoàn cảnh hay tình – thế.Những trong vai trò sửa chữa, chỉnh lý, trong cuộc chiến đấu chống lại điều ác Đức Giêsu cảnh giác chúng ta trước một cám dỗ rất thường gặp: Chúng ta có nguy cơ phóng đại điều xấu nơi những người khác và giảm thiểu điều xấu trong chúng ta! Hình ảnh cái rác và cái xà khó mà quên được và một Câu Chuyện giống vậy thuộc Phương Đông làm cho câu chuyện chua chát hơn. Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con trước hết phải trở nên đòi hỏi đối với chính mình, phải sắng suốt đối với chính mình. Xin Chúa giúp chúng con nhìn thấy trong những người khác điều tích cực nhiều hơn đều tiêu cực.
Hỡi kẻ đạo đức giả! lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!
Đức Giêsu đối xử mạnh mẽ với Người phóng đại cái rác trong con mắt người anh em, như “kẻ đạo đức giả”, trong bản văn tiếng HyLạp là “upocritès:. Từ này dịch ra tiếng Do Thái là “hanef”, có nghĩa là “Con Người có phán đoán sai lầm và không biết nhận ra chân lý, còn quay lưng lại với Thiên Chúa”. Theo Lu ca, Đức Giêsu còn dùng từ ngữ mạnh mẽ đó trong hai lần khác: “Những kẻ đạo đức giả kia, sao các người lại không biết nhận xét những dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56) “Những kẻ đạo đức giả kia. Thế ngày Sabát ai trong các ngươi không chăm sóc súc vật của mình…?” (Lc 13,15). Từ ngữ còn mạnh hơn sự giả hình. Dụ ngộn này về “cái xà và cái rác” đã trở thành truyền thuyết. Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ mà xói rằng: “Quả đúng như thế mà! “… Khi nghĩ về người khác. Nhưng một cách chính xác, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải cáo giác chính mình… Trước khi thay đổi xã hội, như người ta nói, việc canh tân chính mình không phải là vô ích. Một lần nữa, người ta phải ngạc nhiên mà thừa nhận rằng Đức Giêsu ít khuyến cáo những “canh tân về cơ’ cấu” vốn chẳng thay đổi được gì nếu lòng người không thay đổi.
Và chính Giáo Hội phải không ngừng canh tân trước khi có ý định đổi thay thế giới. Và mỗi Kitô hữu phải không ngừng hoán cải bản thân trước khi hoán cải những người khác. Thay vì “kết án”, thay vì tuyên bố “rứt phép thông công”, thay vì mất thời gian để “xét đoán”… Đức Giêsu mời gọi chúng ta biết khiêm nhượng để cùng nhau tìm cách cải thiện và phải bắt đầu từ chính mình.
Không có cây nào tốt mà lại sinh quả xấu, cũng chẳng có cây nào xấu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!
Đây là dụ ngôn cụ thể thứ tư. Đức Giêsu là một người thực tế: người ta phán đoán một con người theo hành động thực tế của người ấy, như nhận xét một cây theo quả, mà không theo những ý định hoặc lời tuyên bố đẹp đẽ. Con người hiện đại cũng có đặc tính quan tâm đến hiệu quả. Đức Giêsu cũng thế. Nhưng Người nhấn mạnh để cái bên ngoài phải tương ứng với cái bên trong.
Vì thế, người ta nhận ra người môn đệ chân chính qua các hành động của người ấy. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng sự phân biệt “lừng danh”: “tín hữu không hành đạo” chỉ là một ảo tưởng và một sự biện minh dễ dãi.
Chính quả cho biết cây tốt hoặc có sâu… sống hoặc có bệnh.
Chính những “hành động” cho biết một người “tin” hay không… Yêu mến hay không… hy vọng hay không. Và Tin Mừng của ‘Luca ‘tiếp tục bằng những lời này mà sách kinh đã cắt quá sớm: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. “…Tại sao anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Lạy Chúa, xin giúp chúng con thực hành điều chúng con tin tưởng.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY TỰ XÉT ĐOÁN CHÍNH MÌNH(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VIII Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thận trọng trong việc xét đoán người khác.
Hc 27: 4-7:
Trong đoạn trích sách Huấn Ca, hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.
1Cr 15: 54-58:
Trong đoạn thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chia sẻ với độc giả của mình một sự hiểu biết mới liên quan đến cuộc phục sinh của người tín hữu.
Lc 6: 39-45:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy rằng đừng vội xét đoán người khác nhưng hãy xét đoán chính mình.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 4-7)
Tác giả sách Huấn Ca là ông Ben Xi-ra, một hiền nhân Do thái. Ông là người học rộng biết nhiều, trung thành tuân giữ các giới luật, ca ngợi vinh quang của các bậc tổ tiên và hãnh diện về những đặc ân của dân Ít-ra-en, dân của Giao Ước và Minh Triết; nhưng đồng thời có tinh thần cởi mở với thế giới và không ngần ngại xét lại vài vấn đề trong những vấn đề lớn của niềm tin. Với tâm trí sâu sắc, khôn khéo, quân bình, hướng đến những giải pháp mực thước và cẩn trọng, ông là nhà luân lý lão luyện nhất trong tất cả các nhà luân lý Ít-ra-en. Đây là nhà cố vấn khôn ngoan cho mọi cảnh sống trong những thời kỳ yên hàn. Ông không giảng dạy tinh thần anh hùng, đó không là nhân đức thường ngày. Vui vì được phụng sự Thiên Chúa, ông hài lòng truyền đạt cho các môn sinh của ông những nguồn hạnh phúc của mình. Nhưng xin đừng ai coi thường giáo huấn như thế.
Trong đoạn trích dẫn ngắn của sách Huấn Ca hôm nay (Hc 27: 4-7), hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời nói: Lời nói bộc lộ bản chất của một người, vì thế qua lời nói, chúng ta có thể biết được người ấy như thế nào. Do đó, chớ vội xét đoán khi chưa nghe người ta nói. Câu tục ngữ Việt Nam dạy cách đối nhân xử thế đáng cho chúng ta ghi nhớ:
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 54-58)
Trước đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân đã giải đáp một vấn nạn mà người tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nêu ra về số phận của những người đã qua đời trước khi Chúa đến như thế nào: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su” (1Tx 4: 13-14). Giờ đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân khai sáng một khía cạnh mới của sự phục sinh: “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15: 51). Không chỉ chúng ta được ở “với” Chúa, chúng ta cũng sẽ nên giống “như” Ngài. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà chỉ trong nháy mắt hình thể của người sống và kẻ chết được biến đổi thành tình trạng vinh quang (15: 52-53).
Vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ được biến đổi như Đức Ki-tô (15: 54-57):
Để chứng minh rằng kẻ chết sống lại luôn luôn thuộc vào kế hoạch của Thiên Chúa, thánh nhân quy chiếu đến Kinh Thánh (15: 54-55): Thiên Chúa có quyền năng trên sự chết. Thánh Phao-lô sánh ví Tử Thần như con bò cọp khổng lồ chích nọc độc tội lỗi vào chúng ta khiến chúng ta chịu thống trị dưới quyền lực của nó. Sức mạnh của nọc độc này được minh họa bởi sự bất lực của Lề Luật trước tội lỗi (15: 56). Từ kinh nghiệm về sức mạnh khủng khiếp của Tử Thần, thánh Phao-lô vỡ tràn thành lời cầu nguyện tạ ơn (15: 57), vì chúng ta trải qua rồi cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh mà Thần Khí của Ngài đang thay hình đổi dạng cuộc sống của chúng ta bằng cách chinh phục tội lỗi trong chúng ta và cướp chúng ta ra khỏi nanh vuốt của Tử Thần.
Hiện nay, chúng ta phải sống như những người chiến thắng sự chết (15: 58):
Vì thế, thánh Phao-lô khuyên độc giả của ngài phải sống như thế nào để cuộc chiến thắng thành hiện thực. Lời dạy cốt yếu của thánh nhân chính là toàn bộ con người chúng ta, chứ không chỉ một yếu tố nào, được kêu mời hướng đến sự sống. Con người chúng ta phải được thay hình đổi dạng để càng ngày càng trở nên giống như Đức Ki-tô, do đó hiện nay chúng ta đang phải sống trong cái thân hư nát phải chết này, đừng phạm tội, và “càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa” (15: 58).
TIN MỪNG (Lc 6: 39-45)
Ngay từ đầu Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca lưu ý với chúng ta rằng chúng ta đang đứng trước dụ ngôn: “Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này”. Với thể loại dụ ngôn, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta tìm ý nghĩa của các câu chứ không dừng lại ở hình ảnh. Điều cốt yếu mà Ngài muốn truyền đạt chính là các môn đệ phải đối nhân xử thế như thế nào trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta gặp lại đề tài xét đoán ở đây, trước đó từ chối xét đoán kẻ thù, giờ đây từ chối đoán xét “anh em”, tức là các thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội.
Hãy tự xét đoán chính mình (6: 39-42):
Với dụ ngôn: “Người mù dắt người mù” (6: 39-40), Đức Giê-su mời gọi đừng xét đoán. Tuy nhiên, không xét đoán không có nghĩa là đặt tất cả trên cùng một bình diện như nhau. Có nhiều Ki-tô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo (x. 1Cr 3: 1-3), vì thế, khôn ngoan nhất chính là trước khi xét đoán người khác, hãy tự xét đoán chính mình, vì người mù tối không thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin.
Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị lâu dài để trở nên hoàn thiện (được dày công huấn luyện đầy đủ) để rồi người ấy sẽ nên giống như Thầy của mình là Đức Giê-su, Đấng hằng tâm niệm rằng mọi người đều có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo mẫu gương tha thứ và yêu thương của Đức Giê-su đối với tội nhân, nhờ đó họ có khả năng hướng dẫn người khác, như Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy sẽ cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Đó cũng là thái độ của Đức Giê-su Phục Sinh khi Ngài gặp lại thánh Phê-rô bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, lúc đó Ngài không một mảy may đá động gì đến ba lần thánh nhân đã chối Thầy, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống kinh nghiệm tha thứ và yêu thương của Thầy mà biết cư xử với đoàn chiên mà Ngài giao phó thánh nhân coi sóc (Ga 21: 15-17).
Với dụ ngôn: “Cái rác trong mắt người cái xà trong mắt ngươi” (6: 41-42), Đức Giê-su dạy rằng con người thường dễ thấy khuyết điểm của người khác mà không thấy khuyết điểm của mình, phê phán người khác mà không tự phê phán chính mình: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (6: 41). Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Đức Giê-su nhiều lần cảnh báo. Chỉ có một cuộc sống hoán cải liên tục, tự kiểm điểm và tự hoàn thiện bản thân mình, mới giải thoát chúng ta khỏi chứng mù lòa tâm linh và cho phép chúng ta sửa đổi được cách sống của người khác. Dụ ngôn “cái rác” và “cái xà” nhắc nhở chúng ta phải sống tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được.
Hãy đổ tràn trong tâm trí giáo huấn của Đức Giê-su (6: 43-45):
Với dụ ngôn: “Cây nào trái nấy” (6: 43-44), Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta tiêu chuẩn để phân biệt người tốt kẻ xấu trong cuộc sống. Để phân biệt cây nào tốt cây nào xấu, chúng ta cần chăm chú nhìn vào trái mà cây trổ sinh, chứ không “hoa lá cành” của nó. Cũng vậy, để phân biệt người tốt kẻ xấu chúng ta nhìn vào những việc làm, chứ không những lời nói của người ấy. “Vì không thiếu những người ở đây trên cõi thế, khi tiếp cận với họ, hóa ra họ không là gì cả chỉ là hoa lá cành hào nhoáng bên ngoài. Chỉ là cành lá rậm rạp chứ không có gì thêm. Trong khi đó, nhiều tâm hồn đang chăm chú nhìn vào chúng ta hy vọng được no thỏa cơn đói của họ, cơn đói Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta có tất cả mọi nguồn chúng ta cần. Chúng ta có đủ đạo lý và thiên ân, bất chấp cảnh đời bất hạnh của chúng ta” (Bl. J. Escriva, Friends of God, 51).
Với dụ ngôn: “Lòng đầy miệng mới nói ra” (6: 45), Đức Giê-su sánh ví cái tâm của con người với một kho tàng: cái tâm tốt thì xuất phát những lời nói và việc làm tốt, cái tâm xấu thì xuất phát những lời nói và việc làm xấu: “Thiện căn bởi tại lòng ta”. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng của lòng mình chứa đầy những điều tốt, tức là những giáo huấn của Đức Giê-su. Thánh Bê-na-đô giải thích: “Kho tàng của lòng mình cũng tương tự như cội rể của cái cây. Người nào có một kho tàng của đức nhẫn nại và đức ái hoàn hảo trong lòng mình, người ấy sinh ra hoa trái tuyệt vời; người nào yêu mến người thân cận của mình và có mọi phẩm chất khác mà Đức Giê-su dạy, người ấy yêu thương kẻ thù của mình, đối xử tốt kẻ ghét mình, chúc phúc cho người nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, không phản ứng chống lại kẻ tấn công mình hay trấn lột mình; người ấy cho những ai xin mà không đòi hỏi những gì họ đã lấy cắp của mình, ước mong không xét đoán và kết án, sửa lỗi một cách kiên nhẫn và đầy lòng nhân ái những người lầm lạc. Nhưng người nào có kho tàng của sự gian ác trong lòng mình, người ấy đúng là hành xử ngược lại: hắn ghét bạn bè của mình, nói xấu người yêu thương mình và làm những điều khác nữa mà Chúa kết án” (In Lucae Evangelium expositio, II, 6).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẨN THẬN VỀ VIỆC XÉT ĐOÁN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán :
– Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)
– Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì “xem quả thì biết cây” (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình ; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.
Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.
Gợi ý sám hối
– Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.
– Chúng con hay phê phán và lên án người khác.
– Chúng con thường sống giả hình.
Lời Chúa
Bài đọc I (Hc 27,4-7)
Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói :
– Lời nói bộc lộ cái dở của một con người
– Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.
– Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.
Đáp ca (Tv 91)
Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình : họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.
Tin Mừng (Lc 6,39-45)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều :
– Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt : Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
– Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44) : Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn : một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
– Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45) : Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì ? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)
Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại :
– Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.
– Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.
Gợi ý giảng
* 1. Bàn về lời nói
Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật : dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.
Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác : điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng “Họ nói mà không làm” (Mt 23,3).
Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. “Lời nói” mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.
Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói : phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.
Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân :
– Tôi thường nói những chuyện gì ? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.
– Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an ? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng ; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.
– Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào ? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.
* 2. Sửa mình trước khi sửa người
Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường : Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.
Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh : bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.
Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp :
– Áp dụng cho chính bản thân : hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.
– Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo : vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.
* 3. Cây đời xanh tươi
Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói : “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối : “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
*
“Mù mà lại dẫn mù được sao ? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố” (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức ; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường : “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu : “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất : đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu : “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ : “Hãy tự biết mình”. Thánh Augúttinô thường cầu nguyện : “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định : Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích ; và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay : “Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
*
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (TP)
* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình
Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên : “Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy”. Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời : “Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao !” Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.
Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.
Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.
Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ ?
Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!
Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)
* 5. Cái xà trong con mắt
Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.
Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.
Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.
Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to : “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao ?”. Con chích choè không chịu thua, cãi lại : “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao ? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”. Con tê giác nghĩ trong bụng : “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá : “Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi”. Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.
Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó : một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao !
Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)
* 6. Sửa đổi tính tình
Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.
Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.
Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.
Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.
Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình : “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là : “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới”
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu : “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là : “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin :
Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.
Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.
Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.
Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói : Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Kinh Lạy Cha là lời kinh chính Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, gồm chứa những lời cầu xin cần thiết nhất. Vì thế chúng ta hãy đọc một cách hết sức sốt sắng và chân thành.
Giải tán
Chúng ta hãy nhớ lại một lời trong bài Tin Mừng hôm nay “Xem quả thì biết cây”. Chỉ nguyên việc tham dự Thánh lễ chưa đủ để là môn đệ của Chúa. Người môn đệ của Chúa còn phải sinh ra hoa quả là những việc lành nữa. Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện Lời Chúa dạy.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ KHỎI BỊ XÉT ĐOÁN- Lm. Đan Vinh HHTM
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy môn đệ 3 điều :
– Phải biết tự sửa lỗi của mình trước khi sửa lỗi cho tha nhân.
– Xem quả biết cây: hành động của một người sẽ chứng tỏ họ là người tốt hay kẻ xấu.
– Lòng người giống như một cái kho. Các môn đệ Đức Giê-su cần đón nhận Lời Chúa trong lòng để từ đó phát sinh những lời nói và việc làm tốt.
– C 39-40: + Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố ? : Trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 15,14), câu “Mù sắt mù: này nhắm đến các đầu mục dân Do thái là các Kinh sư và người Pha-ri-sêu, là những người lãnh đạo tinh thần của dân nhưng đã bị thói kiêu căng, tự mãn làm cho ra mù lòa, không còn phân biệt được trong Luật Mô-sê điều nào là chính yếu điều nào là tùy phụ khi dạy dỗ dân chúng. Còn trong Tin Mừng Lu-ca, câu này nhằm dạy các môn đệ Đức Giê-su phải biết phân biệt trong tư tưởng lời nói và việc làm, đâu là điều chính yếu đâu chỉ là tùy phụ để khỏi bị lầm lạc khi dẫn dắt tha nhân. Những kẻ ăn nói khoác lác, giả đạo đức chỉ nhất thời lừa được một số người nhẹ dạ dễ tin, nhưng sớm muộn rồi sẽ phải chuốc lấy hậu quả tai hại khôn lường khi con người thật của họ bị lộ ra.
– C 41-42: + Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ? : Người ta thường keo kiệt trong lời khen, nhưng lại rộng rãi trong lời chê. Một trong những tội con người thường vấp phạm là thích xét đoán ý trái và kết án tha nhân. Môn đệ cần tránh “bới lông tìm vết” để phê phán các khuyết điểm nhỏ bé như cái rác nơi mắt anh em. Nhưng cần ý thức về “cái đà” kiêu căng tự mãn, thói đạo đức giả nơi bản thân để tu sửa, hầu mắt mình nên trong sáng trước khi sửa lỗi anh em.
– C 43-45: + “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt: Các môn đệ chỉ sinh ra hoa trái tốt đẹp, nếu năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Những ai có tính ích kỷ kiêu ngạo thường hay xét đoán ý trái, kết án tha nhân. Sớm muộn họ cũng sẽ bị chết trong bóng tối gian ác của lòng mình. + Thật vậy, xem quả thì biết cây: Người tốt sẽ chứng tỏ sự tốt lành của mình qua hành động bên ngoài. + Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra: Tư tưởng chứa đầy trong lòng sẽ phát lộ ra qua lời nói và hành động, nên người ta chỉ cần dựa vào lời nói việc làm của một người mà nhận biết họ có phải là môn đệ đích thực của Đức Giê-su hay không.
CÂU HỎI: 1) Hai câu “Mù dắt mù” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca nhắm tới những đối tượng nào ? 2) Khi nói “Cái rác trong mắt anh em” và “Cái xà trong mắt của mình”, Đức Giê-su muốn dạy môn đệ điều gì trong giao tiếp xã hội ? 3) Để lời nói việc làm có thể phát sinh hoa trái tốt đẹp thì người ta cần phải làm gì ?
LỜI CHÚA: Chúa phán: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới ? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình ? Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em !” (Lc 6,41-42).
HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA KẺ NÓI HAY NHƯNG LÀM KHÔNG HAY:
Triệu Quát là con trai của Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc. Thời trai trẻ anh để tâm nghiên cứu học hỏi rất nhiều binh thư. Là một người thông minh, lại có năng khiếu về các đề tài quân sự, nên Quát thường chiến thắng trong các cuộc tranh luận, kể cả với cha anh là Triệu Xa. Từ đó Triệu Quát sinh ra kiêu ngạo, cho mình là người giỏi nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông bố Triệu Xa của anh lại rất lo cho tương lai của con trai mình. Ông đánh giá Triệu Quát chỉ là hạng người ăn nói giảo hoạt thích nói thánh nói tướng, Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên cho nó cầm quân, kẻo nó sẽ làm cho quân đội bị đại bại”.
Quả thật, về sau khi quân Tần kéo sang xâm lược nước Triệu, vua nước Triệu cử Triệu Quát thay Liêm Pha làm đại tướng chỉ huy chống lại quân địch. Lạn Tương Như dù đang ốm cũng lên tiếng phản đối như sau : “Triệu Quát chẳng qua chỉ là thứ mọt sách và không có kinh nghiệm vận dụng binh pháp vào thực tế, nên không thể chỉ huy ngoài mặt trận được”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến xin vua Triệu đừng cho Quát làm đại tướng. Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch. Hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong thời gian ngắn đã bị quân Tần đánh bại và bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng bị chết thảm.
Cha mẹ của Triệu Quát đã hiểu rõ con trai mình không thể đảm nhận được việc lớn điều binh khiển tướng. Nhưng vua Triệu lại cố chấp khi chỉ dựa vào lời nói của Triệu Quát để đánh giá anh là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho anh trách nhiệm lớn thống lĩnh quân đội. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. “Mù dắt mù” thì việc bị “lăn cù xuống hố” chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.
HÃY SỬA LỖI MÌNH TRƯỚC KHI SỬA LỖI ANH EM:
Trong một tu viện kia có một tu sĩ trẻ đã phạm một tội nặng, lập tức các tu sĩ trong cộng đoàn liền họp nhau lại để kết tội anh ta. Họ cử người đi trình báo sự việc với Bề Trên và mời ngài đứng ra làm quan tòa xét xử. Bề Trên liền đeo một túi cát sau lưng, trên túi có nhiều lỗ thủng đi đến nhà hội. Trên đường đi đến đâu đều có nhiều cát từ túi cát đeo sau lưng bị rơi vãi. Khi có người thắc mắc tại sao lại để cát rơi như vậy thì được bề trên trả lời : “Tôi cũng là người có nhiều tội lỗi mà không tự nhận biết, đang khi mọi người chung quanh đều thấy. Thế mà anh em lại bảo tôi làm quan tòa kết tội một người anh em sao !” Nghe vậy, các tu sĩ trong cộng đoàn đều thấy xấu hổ và bỏ ý định muốn kết án anh tu sĩ trẻ mà chỉ yêu cầu anh ta sửa lỗi.
Ai trong chúng ta cũng có thói hay xét đoán và kết án tha nhân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy chúng ta “đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét. Đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa kết án”. Để có thể sửa lỗi anh em thì trước hết phải khiêm tốn nhận biết tình trạng tội lỗi của mình để tu sửa, giống như lấy đi cái xà ra khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
CẦN NĂNG XÉT MÌNH VÀ QUYẾT TÂM SÁM HỐI ĐỂ NGÀY MỘT HOÀN THIỆN HƠN:
Một người kia có thói quen hút thuốc và trong nhà có nuôi một con vẹt làm thú cưng. Một ngày kia anh thấy con vẹt của anh cứ ho khù khụ. Anh liền mang con vẹt đến bác sĩ thú y xin chữa bệnh ho cho con vẹt. Sau khi khám kỹ, bác sĩ tuyên bố con vẹt không bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho khù khụ là do bắt chước những cơn ho khù khụ của ông chủ. Bấy giờ người ấy mới biết mình đang bị bệnh ho chứ không phải con vẹt. Từ khi anh quyết tâm cai thuốc và uống thuốc chữa trị hết bệnh ho, thì con vẹt của anh cũng không còn ho khù khụ như trước nữa !
Những kẻ đạo đức giả thường hay lên mặt phê bình sửa lỗi người khác, còn người đạo đức thực sự sẽ khiêm tốn tự kiểm để tìm ra các thói hư của mình mà tu sửa nên hoàn thiện hơn.
NGUYÊN NHÂN ĐỔI ĐỜI CỦA CON TÊ GIÁC:
Ngày xưa có một chú tê giác luôn nghĩ mình có khuôn mặt đẹp nên thường chê khuyết điểm của các con vật khác, nhất là các con có sừng trên đầu. Thế nhưng tê giác lại không biết rằng chính nó cũng đang có một cái sừng mọc trên mũi khiến mặt nó trông thật xấu xí. Các con vật khác tuy biết điều này, nhưng không con nào dám nói sự thật cho tê giác biết.
Một hôm, tê giác đang uống nước ở một dòng suối thì nghe thấy lũ chim chích choè đang thi nhau hót líu lo trên cành cây gần đó. Tê giác rất bực bội nên ra oai thét to : “Lũ chim xấu xa kia có câm miệng đi không ? Chúng bay không thấy ông đang uống nước đây sao ?”. Lũ chim chích choè không chịu thua, con chim đầu đàn liền cãi lại : “Bộ ông nghĩ ông đẹp lắm sao ? Ông thử soi mặt mình trên mặt nước thì sẽ biết”. Tê giác nghĩ bụng : “Soi thì soi. Ai mà không biết ta có khuôn mặt đẹp nhất”. Nhưng khi nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta giật mình khi thấy một chiếc sừng quái dị đang nằm chình ình ngay trên mũi mình. Khi biết mình còn xấu hơn nhiều con vật có sừng khác, tê giác mang mặc cảm xấu hổ. Từ đó, mỗi khi di chuyển, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất và ẩn nấp trong các lùm cây, không muốn chường mặt ra cho các con vật khác xem thấy. Nhưng do không thể trốn mãi được vì ngày nào cũng phải ra dòng suối uống nước và phải đi kiếm thức ăn. Cuối cùng nó đành chấp nhận sự thật về khuôn mặt xấu xí có sừng của mình để sẵn sàng đối diện với các con vật khác. Cũng từ ngày đó, tê giác kiêu hãnh ưa chỉ trích trước đây đã biến thành anh tê giác rất hiền hòa dễ thương.
Tê giác trong câu chuyện trên đã thay đổi nên tốt nhờ biết chấp nhận sự thật của mình để không lên mặt phê phán các loài vật khác theo suy nghĩ chủ quan của mình. Nhờ đó nó cũng bỏ đi mặc cảm tự ti, để sẵn sàng gặp gỡ tiếp xũc với các loài vật khác.
PHẢI TRÁNH BỆNH MÙ TÂM LINH:
“Mù dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” là một thực tế thường xảy ra trong cuộc sông. Vì thế người mù luôn cần được người sáng mắt trợ giúp để đi đúng hướng và không bị vấp ngã hay đi lạc. Về mặt tâm linh người mù tâm hồn sẽ dễ quyết định sai lạc không những gây hại cho bản thân mà còn tác hại khôn lường cho xã hội. Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều người mù tâm linh lại không nhận ra mình đang bị mù. Chính do thói xấu tự mãn kiêu ngạo khiến người ta luôn coi mình là trung tâm, suy nghĩ của mình là chân lý, và đánh giá người khác theo tầm nhìn hạn hẹp của mình. Đây chính là nguyên nhân gây ra bao nỗi đau khổ cho nhân loại. Về mặt xã hội, những kẻ mù tâm linh “hữu tài vô hạnh” thường trở thành những quan tham, những kẻ độc tài gây bao đau thương cho tha nhân.
PHẢI TRÁNH XÉT ĐOÁN Ý TRÁI CHO NGƯỜI KHÁC:
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường hà tiện trong lời khen, nhưng lại quảng đại trong lời chê. Có thể nói một trong những tội con người thường sai phạm là thói hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ quấy cho người khác, nhất là cho những kẻ mình không ưa.
Người xưa có câu : “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại bản thân để tự kiểm cần phải làm hằng ngày đối với các người tín hữu, nhất là những ai đang giữ vị trí lãnh đạo, có sứ mệnh hướng dẫn các tâm hồn. Chúng ta hãy bắt chước thánh Au-gút-ti-nô dâng lời cầu nguyện như sau:
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình cũng yếu hèn và hay sai lỗi, để con không lên mặt xét đoán và kết án anh em.
Biết mình hay che đậy và giả hình, để sẵn sàng cảm thông và bỏ qua lỗi lầm của kẻ khác.
Biết mình thích được khen khi làm được việc tốt, để con năng khen ngợi động viên người khác.
HÃY TỰ SỬA LỖI MÌNH TRƯỚC KHI SỬA LỖI ANH EM:
Người ta thường dễ phát hiện các khuyết điểm lỗi lầm dù nhỏ bé của người khác mà khó nhận ra sai lỗi lớn lao của mình. Nguyên nhân là do chúng ta có thói ích kỷ tự mãn nên bị mù quáng và hay xét đoán kết án anh em.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: Đừng vội kết án tha nhân vì chính mình cũng có đầy khuyết điểm, như người xưa dạy: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Tuy nhiên nếu là người giữ địa vị lãnh đạo trong gia đình, học đường hoặc xã hội, có trách nhiệm giữ gìn kỷ cương, thì chúng ta cũng cần sửa dạy những người sai lỗi. Khi đó để lời sửa dạy có sức thuyết phục và đạt kết quả, đòi chúng ta phải sửa mình trước khi răn dạy kẻ khác.
Một nhà thần bí Ấn độ đã phát biểu kinh nghiệm của mình như sau: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu với Chúa là : “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để con cải tạo thế giới ngày một nên tốt hơn”. Rôì khi tới tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời đã qua đi rồi mà tôi vẫn chưa cải tạo được thế giới, nên tôi đã đổi lại lời cầu : “Lạy Chúa, xin cho con hoán cải những người con có dịp tiếp xúc”. Bây giờ tôi đã về già và sắp kết thúc cuộc đời, tôi thấy mình cũng vẫn chưa biến đổi được một ai, nên cảm thấy mình thật khờ dại. Vì thế tôi lại thay đổi lời cầu như sau: “Lạy Chúa, xin cho con được ơn hoán cải chính mình con”. Giả như ngay từ khi còn trẻ tôi đã ý thức về sự bất lực của mình như thế, thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời cách vô ích mà sẽ tập trung để cải tạo bắt đầu từ chính bản thân trước”.
Trong cuộc sống, chúng ta thường hay phán xét người khác bằng lời nói, cử chỉ thái độ và luôn đánh giá không tốt về họ. Nhất là những khi chuyện trò với bè bạn, chúng ta thường khoe thành tích của bản thân hay người thân để tự đề cao mình hay đề cao gia đình mình và thường chê trách những người tự nhiên ta có ác cảm. Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã dạy: “Những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình. Vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình”. Đức Giê-su trong cũng dạy các tín hữu: “Sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.
Khi phê phán chỉ trích, kết án một người nào đó là chúng ta đã biểu lộ sự ác cảm thù ghét họ. Những người có tình yêu thương sẽ không xét đoán ý trái hoặc kết tội người mình yêu thương, nhưng sẽ biểu lộ sự khoan dung tha thứ, sẽ luôn xét đoán ý tốt, trở thành luật sư bào chữa lỗi lầm thay vì làm công tố viên buộc tội cho họ, Để luôn xét đoán ý tốt cho tha nhân, chúng ta hãy xin Chúa gia tăng tình thương trong lòng chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét mình để xóa bỏ thù hận, biến thù thành bạn của mình.
Để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Phao-lô Đệ Lục đã nói: “Con người ngày nay thích nghe nhân chứng hơn thầy dạy. Nếu họ có nghe thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Trong những ngày này chúng ta sẽ làm gì để đem Chúa đến với anh em lương dân ?
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp con thực hành Lời Chúa trong thư thánh Phao-lô: “Lời có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện bác, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.” (2 Tm 1,16–17); Xin cho con có đôi mắt của Chúa, để con nhìn anh em như là hồng ân và là quà tặng Chúa ban; Xin cho con có trái tim của Chúa, để sống yêu thương với lòng bao dung tha thứ và biết xót thương tha nhân. Và cuối cùng xin cho con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng để con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LỜI NÓI, VIỆC LÀM, ƠN CHÚA- ĐGM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống… Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ “lòng” người ta, vì “người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác”.
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ “lòng” con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?
Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như “thần thánh”. Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BIẾT RÕ TỐT XẤU– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.
Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.
Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CÁI RÁC, CÁI XÀ– Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”
Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”.
Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.
Anh chị em thân mến,
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.
Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.
Lạy Chúa, “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÀM CHO NGƯỜI KHÁC TRỞ NÊN TỐT HƠN (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chúng ta đang học hỏi về lối sống yêu thương của Chúa. Tuần trước chúng ta đã nói với nhau về một trong những khía cạnh của lối sống đó. Chúng ta đã nói về sự tha thứ. Hôm nay qua lời dạy bằng dụ ngôn rất dễ hiểu, Chúa cũng muốn nói với chúng ta về lối sống này qua hai lời khuyên.
Lời khuyên thứ nhất: Yêu thương là phải làm cho người khác trở nên tốt lành hơn. Muốn thế chúng ta phải tự học để làm cho mình trở nên tốt lành trước.
Lý do: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!(Lc 6,40-42)
Có lẽ ít có lời hướng dẫn nào cụ thể và thực tế hơn thế. Quy luật muôn đời vẫn còn đó. Không ai có thể cho cái mình không có. Vậy muốn làm cho những anh em của chúng ta trở nên tốt thì chính mỗi người chúng ta phải tự huấn luyện mình nên tốt. Có như thế chúng ta mới tránh được điều mà Chúa Giêsu gọi là giả hình, một thói xấu rất phổ biến của mọi thời đại xưa cũng như nay.
Nam tướng J. Eotvos, một nhà tư tưởng có tiếng của Hungari đã nói:
“Giá trị chân chính của con người không phải bởi năng trí, mà chỉ là bởi sức mạnh của chí khí. Những tài năng đối với người thiếu nghị lực chỉ làm cho họ hèn yếu: cái tư chất siêu việt của một người kém chí khí lại là người khốn nạn đáng khinh nhất”.
Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:
– Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?
Những mảnh ruộng kia sẽ trả lời bằng một câu hỏi khác:
– Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?
Đó, người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống:
– Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?
Nhưng đời sống sẽ hỏi lại chàng trẻ tuổi:
“Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.
Kinh nghiệm sẽ chỉ cho chúng ta biết rằng con đường đưa đến chí khí không phải dễ. Cần phải có một ý chí mạnh mẽ mới chống nổi được với những tật xấu nhỏ mọn, và không bao giờ sa ngã. Một ý chí không ngừng, và cần phải được chú trọng luôn.
Bạn có tự hỏi với mình rằng: tôi muốn! Tôi muốn!
– Và có phải bạn muốn đúng như thế chăng?
– Tôi muốn kiềm chế ngũ quan và tình cảm của tôi.
-Tôi muốn đặt cái lộn xộn của tư tưởng tôi vào thứ tự.
-Tôi muốn suy nghĩ trước khi nói.
-Tôi muốn cân nhắc mọi điều trước khi hành động.
-Tôi muốn lợi dụng ngay những kinh nghiệm của việc đã làm, tôi muốn nghĩ đến tương lại, vậy tôi muốn dùng ngay những quãng thời giờ hiện tại một cách đúng mực.
-Tôi muốn làm việc tận tâm, chịu đau khổ mà không phàn nàn, sống trong đạo hạnh, và sau hết chết bình yên, trong hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời.
Còn đời sống nào cao thượng hơn nữa không?
Đúng thế, muốn làm cho những người được mình yêu thương trở nên tốt lành thì chính mình phải học để trở nên tốt lành trước. Con đường làm cho mình được như thế không phải dễ. Cần phải có một ý chí mạnh mẽ. Làm được như thế là chúng ta trở thành một con người cao thượng và sẽ thành tấm gương sáng chói trước mặt mọi người.
Lời khuyên thứ hai của Chúa: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,43-45)
Nội dung lời khuyên này cũng không quá khó hiểu. Xem ra nó cũng chẳng khác với lời khuyên thư nhất là bao.
Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!
Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã quét sạch rồi. Bà nội hỏi lại : “Có thật quét xong chưa? Để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái : “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi !” Cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói : “Nhà cũng chưa được sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. quét xong, nó cũng đến trình cho nội. Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả.
Chỉ có cặp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.
Câu 43-44: Nhắc nhở rằng chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ:
Để phân biệt cây tốt xấu phải căn cứ vào quả – công việc – chứ không phải lá – lời nói ” vì có nhiều người chỉ tìm thấy lá khi đến gần. Nào là lá to, lá rậm, lá bóng … lá, chỉ có lá, ngoài ra không có gì khác ! Nhiều người chạy đến chúng ta nói hy vọng tìm được giải khát, họ đang khát mong Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta đang có trong tay tất cả những điều ấy. Chúng ta có đầy đủ giáo lý, với ơn Chúa, mặc dầu chúng ta không xứng đáng” (Escriva, Amis de Dieu, 51)
Có người đã nói với một giáo sư rằng : “Tôi không thể nghe lời ông nói vì đã được thấy con người của ông rồi. “Giảng và dạy, cả hai đều là sự thật qua nhân cách. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt”.
Một nhà chế tạo làm được một con ong, cũng vỗ cánh bay được, cũng kêu vo vo, người đứng xem không tài nào biết được nó là ong giả cho tới khi có người hỏi rằng: “Nó có làm ra mật không?” Chỉ một sự thí nghiệm đơn sơ ấy cũng đủ phân biệt ong thật với ong giả. Cứ xem quả thì biết cây. Khi có ai khoe khoang về đời sống đạo của họ, chỉ cần hỏi như thánh Phao-lô: “Thế thì anh em được kết quả gì ?” (Rm 6,21) Con đường duy nhất để chứng tỏ Ki-tô giáo là đạo thật là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Ki-tô giáo sản sinh ra những người tốt thật.
Chúa Giê-su nhắc nhở rằng xét cho cùng lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Thiên Chúa nếu Thánh Thần không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không cầm giữ ý tứ khi nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy.
Trả lời cho một thanh niên mong ước được biết rõ về mình, một cụ già đã trả lời như sau: Ngày nọ ở một chân trời xa tắp, người ta thấy có hai bóng đen đang ôm nhau.
Một em bé ngây thơ buột miệng nói: hai bóng đen đó là ba má đang hôn nhau.
Một chàng thanh niên mơ mộng nói: đó là đôi tình nhân đang quấn quýt bên nhau.
Một người cô đơn nhận xét: hẳn họ phải là hai người bạn thân gặp nhau sau nhiều năm tháng xa cách.
Một kẻ tham tiền lại nghĩ khác: đó phải là hai thương gia vừa mới ký giao kèo làm ăn.
Một người đàn bà có trái tim trìu mến thì thào: đây là người cha mới từ trận chiến trở về ôm hôn đứa con gái mình.
Một tên sát nhân đứng gần đó góp ý: đây là hai người đàn ông đang vật lộn đáu đá nhau trong cuộc giao chiến sống còn.
Người đàn ông khác không màng chi tới việc chung quanh gắt: ai mà biết được họ đang ôm hôn hay cắn xé.
Cuối cùng, có một vị thánh đầy lòng yêu thương của Thiên Chúa giảng hòa: không gì đẹp bằng cảnh hai con người ôm nhau.
Kể xong câu chuyện, cụ già kết luận: mỗi một tư tưởng của bạn sẽ bộc lộ bạn là ai. Bạn nên tự vấn lương tâm xem bạn từng nghĩ về gì? Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thích tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.Amen
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TU THÂN TRƯỚC – Trích Logos C
Một ngày kia, người ta thấy một anh chàng đứng Bên một cây cột Bên đường mà áo quần lem luốc đầy sơn. Một người thấy thế hỏi: – Sao anh ra nông nỗi thế này? Anh đáp: – tôi vốn Bị cận thị muốn xem Bảng thông Báo trên đầu cột! Người kia nhìn lên và đọc: “lưu ý: cột mới sơn đừng động vào !”
Mới chỉ là cận thị thôi thì đã sinh lắm chuyện lôi thôi huống chi là mù mắt. Đức Giêsu Bảo: mù dẫn mù thì cả hai lăn đều xuống hố ! Muốn đi đúng đường thì điều kiện tiên quyết phải có đôi mắt sáng.
Sáng mắt để Biết mình.
Đây là công việc xét mình. Chúng ta thường có khuynh hướng xét người và ngại xét mình. Người ta nghiệm ra rằng: Sống trên đời, mọi người như đều có một đôi quang gánh trên vai. Ai cũng có thói quen Bỏ tật xấu của thiên hạ vào cái thúng phía trước và để khuyết điểm của mình trong cái thúng còn lại phía sau. Thế là tật xấu của người cứ luôn trước mắt mình và lỗi lầm của Bản thân ta chẳng nhìn thấy trừ khi ta cố gắng muốn thấy.
Do vậy, con người dễ có cái nhìn lầm lạc: thấy ai cũng có tội trừ mình rồi sinh ra thói kiêu căng, khinh thường và kết án anh em.
Các nhà tu đức khuyên ta nên khôn ngoan đổi ngược quang gánh lại để dễ thấy lỗi lầm Bản thân và dễ quên khuyết điểm của tha nhân. Nhờ vậy, ta cảm thông, tha thứ cho người khác và tự thôi thúc mình chỉnh sửa lỗi lầm và gia tăng rèn luyện nhân đức.
Người ta thích đốt giai đoạn.
Xét mình và sửa mình là công việc chẳng thú vị gì, vì thế nhiều người thích tề gia trước khi tu thân ; thích Bình thiên hạ trong khi chưa để tâm tề gia.
Kết quả là, người nghe không khẩu phục tâm phục. Thế là người ta phải dùng sức mạnh, dùng đàn áp để Bắt người khác phải nghe, phải theo mình. Khi đó, ngưòi dưới có thể khẩu phục mà tâm không phục.
Đối với lãnh vực đạo đức, phương án đó không được chấp nhận. Con người ta không thể nên thánh trong sợ hãi hoặc do Bị áp lực.
Bài học từ cuộc đời Đức Giêsu.
Đức Giêsu dạy chúng ta phải tự chỉnh đốn mình trước đã. Chính Ngài luôn sống làm gương sáng trước và sau đó mới chỉ dạy. Đức Giêsu đã học ăn, học nói, học gói, học mở nơi “trường học” Nagiareth dưới sự chỉ Bảo của thầy dạy là Đức Maria và Thánh Cả Giuse trong suốt 30 năm. 30 năm tu thân chuẩn Bị cho 3 năm rao giảng.
Khi đi loan Báo Tin Mừng, trước khi dạy Bằng lời, Ngài luôn dạy trước Bằng gương sáng. Ngài đã quì xuống rửa chân cho các muôn đệ trước khi dạy lý thuyết về Bài học phục vụ tha nhân; Ngài đã từng “lăn lộn” chia sẻ cuộc sống với những kẻ thấp cổ Bé miệng, với những người tội lỗi Bị loại trừ… trước khi mở miệng kể chuyện dụ ngôn con chiên lạc (cf. Lc 15, 4-7); Ngài dạy chúng ta Bài học khó nghèo không chỉ Bằng lời mà còn Bằng gương sống giản dị “con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu!” (Lc 9, 58)
Bài học cho chúng ta.
Trước tiên là Bài học cho những người được Chúa tín nhiệm trao sứ mạng điều khiển cộng đoàn. Chúng ta không thể thuyết phục người khác theo Chúa nếu chúng ta không tiên phong theo Chúa. Chúng ta không thể khuyên Bảo người khác nên thánh nếu chúng ta chưa dám từ Bỏ ý riêng để can đảm sống thánh ý Chúa.
Gặp sự khó mà ta mất Bình tĩnh và nổi đoá kêu trách, Bất mãn… thì lấy đâu kinh nghiệm mà an uỉ nâng đỡ những người đang đau khổ trên giường Bệnh, những người vừa thất Bại ê chề trên đường đời.
Cần phải tu thân trước đã ta mới đủ kinh nghiệm, đủ tư cách và đủ ơn Chúa để giúp người khác tu thân.
Sau nữa là Bài học cho những Bậc làm cha mẹ, những nhà giáo dục cho con cái. Được Chúa chia quyền phụ tử từ Chúa cho chúng ta trên con cái, chúng ta phải sống xứng đáng sao cho chúng ta là hình ảnh của Chúa trước mắt con cái. Cách sống tốt của cha mẹ là phương cách giáo dục hiệu quả nhất. Ngược lại, nói có hay, dạy có ngọt ngào mà đời sống lại Bê tha thì chẳng thể nào uốn nắn con cái nên người được. Nếu con cái là hoa trái của tình yêu cha mẹ thì nhân đức nơi con cái là hoa trái của đời sống đạo đức của mẹ cha.
Trên Bàn tay trái của Gandhi có một vết sẹo lớn khiến mọi người thắc mắc. Đến ngày ông thành công dành lại nền độc lập cho dân tộc Ấn độ, ông mới giải thích: Đây là Bài học mẹ dạy Gandhi khi ông còn Bé. Nhờ Bài học này mà mới có thành công hôm nay.
Số là khi còn Bé, một lần đánh nhau làm rách áo, Gandhi sợ mẹ Buồn nên nói dối: rách áo do ngã vào hàng rào. Mẹ ông không hạch hỏi chỉ Bỏ ăn (tuyệt thực). Đến ngày thứ Ba, Gandhi sợ mẹ chết đói và đã hứa: “Mẹ ngồi dậy dùng cơm, đã 3 ngày mẹ không ăn gì! Con hứa với mẹ từ nay con sẽ không Bao giờ nói dối.” Mẹ Gandhi trả lời: “mày nghĩ xem, tao đã hai thứ tóc trên đầu mà lại đi tin vào lời hứa của một đứa nói dối à!” rồi Bà tuyệt thực tiếp.
Nói thì mẹ không tin, Gandhi chạy xuống Bếp tìm được cục than còn đỏ trong Bếp Bỏ vào lòng tay nắm chặt và chạy vội lên với mẹ. Mẹ nghe tiếng xèo xèo, ngửi mùi khét khét… quay lại giật vội Bàn tay Gandhi và nói: “Thôi mẹ tin con!”
Từ đó, suốt đời Gandhi luôn là con người uy tín, đáng tin; mẫu mực trong cách sống; đáng mến trước dân tộc Ấn và đáng nể trước đế quốc Anh và thế giới.
Hãy lấy đà khỏi mắt ta để ta có thể lấy rác khỏi mắt anh em. Amen
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÒNG AN VUI THÌ DƯỜNG NHƯ KHÔNG XÉT ĐOÁN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng DCCT
Trong cuộc sống thường ngày, con người chúng ta dễ có khuynh hướng khen, chê và phán xét người khác. Ta phán xét người khác có thể bằng lời nói, bằng cử chỉ, hoặc đôi khi chỉ là nghĩ thầm trong bụng về chuyện này chuyện khác của người ta.
Nhất là khi ngồi lại với nhau để chuyện trò, chúng ta thường có khuynh hướng khoe những điều tốt về bản thân mình bằng cách so sánh cái tốt của mình với cái dở của người khác, còn những cái dở, cái xấu của mình thì cố giấu cho bằng được. Gắn với xét đoán tiêu cực người khác thường là một thái độ ganh tị, đả phá, trả thù cho bõ tức. Còn khi nhận xét để góp ý cho người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, thì bao giờ ta cũng dễ dàng có sự bao dung, nhẹ nhàng trong cử chỉ và lời nói.
Hơn nữa, có một sự thật khá hiển nhiên: Một khi lòng ta nhẹ nhàng, thanh thản, an vui, thì ta thường nghĩ đến người khác với một thái độ tích cực và đầy bao dung, chứ chẳng muốn phán xét hay nặng lời với họ. Còn khi ta thích phán xét, thích nói xấu người khác thì lại là lúc chính ta thiếu sự bình an, hạnh phúc trong lòng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô bảo rằng “những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình.” Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì nói trực tiếp vào vấn đề hơn: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”
Đặt mình trước Lời Chúa hôm nay, tôi với bạn thử ngẫm lại xem, mỗi khi ta chỉ trích, phán xét người khác, thì thật sự trong lòng ta đang an vui, hạnh phúc hay lòng ta đang ấm ức, bức xúc, tị hiềm? Nếu thấy lòng ta còn ấm ức, hậm hực, thì Chúa bảo ta rằng: Con hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ con sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh chị em con!
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CÂY ĐỜI XINH TƯƠI- Thiên Phúc
Triệu Quát là con trai của Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên, Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ “nói phét”. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6,39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấy hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6, 41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Kitô, nhất là những việc lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Âu-tinh thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích, và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cay xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi, để sinh hoa kết trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CÁI RÁC VÀ CÁI XÀ- Lm. Đamien OFM
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người mù và cái rác cái xà để dạy các môn đệ phải nhìn lại chính mình trước khi nhìn kẻ khác; và dụ ngôn xem trái thì biết cây, để dạy các môn đệ cách phân biệt kẻ lành với người bất lương.
Mù lại dắt mù.
Phải chăng khi dùng dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu muốn nhắm đến những Biệt phái và kinh sư Do thái? Họ mù đối với Thiên Chúa vì không nhận ra Ngài là con Thiên Chúa. Họ mù đối với con người vì chỉ đánh giá con người trên luật lệ bề ngoài nhưng lại thiếu lòng nhân ái. Họ mù đối với chính cuộc sống của họ vì họ chỉ chú trọng đến cái bên ngoài mà bỏ quên tâm hồn mình: “Các ngươi như mồ mả,bên ngoài thì sơn phết tốt đẹp, nhưng bên trong thì thối tha.”
Ở trong tình trạng mù đó, làm sao họ lại có thể dẫn dắt kẻ khác được: “Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố”.
Cái rác và cái xà.
Trong dụ ngôn nầy cũng thế, Chúa Giê-su nhắm đến những kinh sư và Biệt phái, những kẻ tự cho mình là công chính vì đã giữ đúng luật lệ bề ngoài . Trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chuá Giêsu đã lột mặt nạ họ bằng một câu ngắn gọn: “Ai thấy mình không có tội thì ném đá chị ấy trước đi !” Khi nhìn rõ chính mình, họ liền rút lui có trật tự .
Chúa Giêsu luôn là mục tiêu để Biệt phái và kinh sư rình mò và giăng bẩy để bắt bẻ và lên án: Chúa có vi phạm luật sabbat không, có nói lời phạm thượng không… Và trước các phép lạ hiển nhiên không chối cãi được, họ tìm cách cắt nghĩa sai với ác ý và cố chấp: ông ấy lấy quyền qủi cả mà trừ quỉ. Thái độ hay bắt bẻ , dò xét và sẵn sàng lên án của Biệt phái và Kinh sư hoàn toàn đi ngược với thái độ khoan dung của Chúa Giêsu . Và cuối cùng họ như đã thắng vì họ đã lên án tử được cho Chúa.
Tục ngữ Ba tư có câu: ” Mỗi người chúng ta đều mang trên mình hai cái giỏ rác, dỏ rác của mình thì mang sau lưng còn dỏ rác kẻ khác thì mang trước ngực, nên chỉ ngửi thấy mùi hôi thối của kẻ khác mà không bao giờ ngửi thấy mùi hôi thối của chính mình.
Khi suy gẫm những dụ ngôn trên đây, tôi thấy lời Chúa như một luồng ánh sáng chiếu dọi vào cuộc sống của tôi, cũng như vào xã hội mà tôi đang sống. Và tôi không được an tâm lắm . Bởi lẽ nhiều khi vô tình hay hữu ý, tôi cũng sống thiếu lòng nhân ái, cũng có những thái độ hay lời lẽ chỉ trích phê bình hoặc lên án kẻ khác một cách dễ dàng. Những xích mích giữa người với người, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xóm giềng hầu hết là do thái độ tiêu cực trên đây mà ra. Và có lẽ tôi phải luôn lặp lại cho chính mình lời dạy của Chúa: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Xem trái thì biết cây.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cách phân biệt người tốt và người xấu: “Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra”. Trái đây là lời nói, căn cứ vào lời nói mà phân biệt kẻ tốt người xấu . Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến những người Biệt phái và Kinh sư Do thái là những người luôn rình chực bắt bẻ, lên án Chúa cũng như kẻ khác. Vì tâm địa họ xấu.
Trong xã hội hôm nay, tật xấu mà Chuá Giêsu đề câp đến trên đây chưa phải là hết mà hình như còn gia tăng nữa là đàng khác. Một sự thật hiển nhiên là hễ khi đề cập đến kẻ khác thì không mấy khi nghe nói tốt mà phần nhiều chỉ nghe nói xấu: “Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra.”
Khi suy gẫm lời Chuá trên đây, một lần nữa, tôi cũng không được an tâm cho lắm. Nhiều khi vô tình, tôi cũng không tránh được những lời nói hay thái độ thiếu lòng nhân ái khoan dung đối với kẻ khác. Tôi không có quyền chê trách ai cả, vì chính tôi cũng đang phạm phải cái sai lầm của Biệt phái và Kinh sư xưa.
Lời Chúa luôn là ánh sáng, đang cật vấn tôi và thúc dục tôi phải cố gắng bắt chước Đức Kitô, sống khoan dung như Cha trên Trời.
Tiêu diệt kẻ thù.
Một hoàng đế Trung Hoa nói: ” Một khi chinh phục được quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt hết tất cả địch thù của ta.”
Ông đã chinh phục được như lời ông nói. Cả đình thần ai cũng hồi hộp chờ đợi lệnh thảm sát của ông. Họ xì xầm: máu sẽ chảy thành sông! Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với nhà vua, nói nói cười cười rất vui vẻ; họ bèn tâu:
– Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã nói sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù kia mà! Sao lại thế nầy ? Vị hoàng đế trả lời:
– Thì ta đã tiêu diệt hết cả bọn rồi còn gì, các khanh không thấy sao? Đây toàn là bạn của ta, đâu có địch thù nữa đâu. Ta đã tiêu diệt họ bằng cách biến thù thành bạn.
Đó là cách Thiên Chuá đã tiêu diệt kẻ thù của Người, và vũ khí là lòng nhân hậu.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
MIỆNG NÓI NHỮNG ĐIỀU ĐẦY Ứ TRONG LÒNG – Lm. Giuse Vũ Mộng Thơ
Bài đọc thứ nhất trích trong sách Đức Huấn Ca hôm nay đáng cho chúng ta đọc lại một lần nữa: “Khi người ta sàng, thì những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Lò lửa thì nung luyện bình sành còn gian nan thử những người công chính. Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy. Đừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người…”
Có nghĩa là người đời sẽ đánh giá chúng ta qua lời nói và người ta cũng có thể đoán biết tính tình, địa vị xã hội cũng như tâm trạng của một người qua cách ăn nói của họ dù người ấy có cân nhắc, che đậy, đóng kịch trong lời nói đến đâu đi nữa thì cũng có một lúc nào đó sơ hở, vì thường thì: Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng… đó cũng là tư tưởng của Phúc âm hôm nay.
Kinh nghiệm dân gian Việt Nam bảo ta là Ở đời người ta chỉ có hơn nhau ba tấc lưỡi…nghĩa là người ta cũng có thể nhờ lời ăn tiếng nói khôn ngoan, lịch thiệp và khéo léo để thành công trong cuộc đời, trong xã hội và tạo nên giá trị cá nhân cho chính mình. Ngược lại nếu không thận trọng trong lời nói, thí dụ những lời chỉ trích thiếu tế nhị, châm biếm, những lời lẽ độc địa, vu oan… có thể làm tổn thương hay giết chết cả đời của một người.
Vui vẻ, khôi hài. Tốt. Nhưng không nên quá trớn có thể làm tổn thương người khác. Tục ngữ ca dao Việt Nam nhắc chúng ta là: Trước khi nói phải đánh lưỡi bảy lần.
Sống Tin Mừng cũng là sống bác ái tại sao chúng ta không áp dụng câu tục ngữ Việt Nam này: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Chúng ta còn đọc thấy trong bài Phúc âm hôm nay: Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? tôi ngẫm nghĩ sao Chúa rành tục ngữ Việt Nam quá (Mù dẫn mù đâm cù xuống hố). Thật thế, chúng ta hay thích dạy khôn người khác, chúng ta dễ thấy khuyết điểm của anh em hơn là chính khuyết điểm của chính mình. Chúng ta cũng có thể đóng kịch, chúng ta cũng có thể giả hình… hôm nay Chúa bảo: Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình đã, rồi bấy giờ con sẽ trông thấy rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em con… Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu…
Điều này làm chúng ta nghĩ tới những chế độ độc tài quân phiệt và XHCN: miệng luôn rêu rao vì quyền lợi của nhân dân, của giới lao động, của người nghèo… nhưng lại là những chế độ bóc lột và vi phạm nhân quyền hơn ai hết. Tất cả tài sản của quốc gia một phần lớn nằm trọn trong những túi tham không đáy của giới cầm quyền và khi nào sự chia chác không đồng đều gây ra sự tranh chấp bên ngoài thì lúc đó nhân dân mới vỡ lở nhưng đã muộn.
Cứ xem quả thì biết cây… Hỡi những người giả hình ơi, chúng tôi biết tỏng những mánh lới giả dối của các anh rồi không những dư luận thế giới mà cả những người dân thấp cổ bé họng không được quyền có ý kiến ở trong nước đều biết rõ… vì ngày nay người ta không thể bưng ít lâu hơn được nữa như Chúa Giêsu nói: cái rìu đã kề bên gốc… cây nào không sinh trái sẽ bị chặt bỏ và quăng vào lửa… Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện, và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: Vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.”
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, bước vào năm Tân Tỵ… (con rắn trong Kinh Thánh biểu hiện sự khôn ngoan, tinh khôn…) xin được kính chúc mỗi gia đình cũng như Dân tộc và Giáo hội Việt Nam cả năm mới này sẽ là một năm khôn ngoan, can đảm và đầy ơn Chúa Thánh Linh để tiến tới thành công và hoà bình thực sự trên quê hương gấm vóc Việt Nam chúng ta.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NÊN UỐN LƯỠI TRƯỚC KHI NÓI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời người ta vẫn khuyên nhau đừng bao giờ tự hào mình “Là số một, là nhất, là tất cả”… Hãybiết sống khiêm tốn, biết nhìn nhận sự bất toàn của mình mới mong sống hạnh phúc, vui vẻ với những người chung quanh. Nhưng thực tế, mỗi ngày chúng tađi làm, đi học, đi chơi đâu đâu cũng thấy “Ma cũ thì bắt nạt ma mới”, “chó chê mèo lắm lông”, “công lại khoe đuôi dài hơn gà“… Ôi thôi, tóm lại ai ai trong chúng ta cũng đang mắc và gặp phải tìnhcảnh quá đề cao mình mà sinh muôn điều thị phi.
Có câu chuyện kể rằng, một đôi vợ chồng trẻ vừa dọn đến ở trong một khu phố mới. Sáng hôm sau, vào lúc hai vợ chồng ăn điểm tâm, người vợ thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi.
“Tấm vải bẩn thật” – Cô vợ thốt lên. “Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một loại xà phòng mới thì giặt sẽ sạch hơn”. Người chồng nhìn cảnh ấy nhưng vẫn lặng im. Thế là, vẫn cứ lời bình phẩm ấy thốt ra từ miệng cô vợ mỗi ngày, sau khi nhìn thấy bà hàng xóm phơi đồ trong sân.
Một tháng sau, vào một buổi sáng, người vợ ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cô nói với chồng: “Anh nhìn kìa! Bây giờ bà ấy đã biết cách giặt tấm vải rồi. Ai đã dạy bà ấy thế nhỉ?”
Người chồng đáp: “Khôngđâu em!Sáng nay anh dậy sớm và đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy”.
Thực ra mỗi người trong chúng ta, cóthể cũng đã từnggiống như cô vợ trong câu truyện trên. Chúng ta đang nhìn đời, nhìn người qua lăng kính loang lổ từchính tâm địa xấu của mình cộng vớithành kiến và những kinh nghiệm thương đaubản thân. Chúng ta dễ phán xét, bực dọc và bất an trước những gì mà tự mình cho là “lỗi lầm của người khác”.
Cha ông ta có lời khuyên rất thấm thía rằng ‘Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Quả vậy, trước khi chỉ trích hay phán xét một ai đó, hãy học cách dừng lại và cho mình một ‘khoảng lặng’, một sự bình hòa.
Trước khi một ý nghĩ phán xét bắt đầu nổi lên, hãy học cách dừng lại và đặt câu hỏi ngược lại rằng: “Phải chăng họ có lý do nào đó khi phải làm như vậy?”, “Mình đã có khi nào cũng sai lầm như vậy chưa?”…
Hôm nay Chúa Giê-su nhắc nhở chúng ta hãy tự xét lỗi chính bản thân mình trướckhi nghĩ đến cái sai củangười khác. Thường thì ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì dườngnhưlại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu. Khi chỉ thấy lỗi của người khác, thì mình sẽ dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác, và sẽ thấy thật đau khổ khi phải sống chung với những người ấy.
Rất nhiều lần chúng ta cũng có khuynh hướng kếttội người khác mà quên mình cũng đầy yếu đuối. Nếu chúng ta không ý thức và phản tỉnh, hay nói theo từ của Tin Mừng là không «tỉnh thức», thì chúng ta khó lòng thoát khỏi tật xấu đó. Rất có thể ta đang có tật đó mà không biết, chúngta cần tự xét lại lương tâm mình để phản tình và ý thức hơn trong lời nói. Ướcgì chúng tabiếtnhận ra những lầm lỗi của mình, chứ không phải thấy lỗi của người khác. Thấycái xấu của mình mà sửa mà canh tân. Xin đừng để ý chuyện người và đừng kết án khi mình chưa biết rõ về họ cũng như những nguyên nhân đang xảy ra. Amen