CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson. 7
DẤU LẠ CANA (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 15
HÔN ƯỚC GIỮA THIÊN CHÚA VỚI LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 30
TIỆC CƯỚI CANA- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 47
MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 64
TIỆC CƯỚI CANA– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 68
CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 73
KHỞI ĐẦU CÁC DẤU LẠ (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 77
TIỆC CƯỚI CANA, PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU- Trích Logos C.. 84
ĐỂ CHO TÌNH MẶN NỒNG– Lm.Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 92
CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA- Lm. GB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R 98
CÓ MẸ ĐỒNG HÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 104
NOI GƯƠNG ĐỨC MẸ VỮNG TIN VÀO CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 110
GIA ĐÌNH CÓ MẸ- Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn. 115
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC
“Người chồng sẽ vui mừng vì vợ”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac
Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người.
4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 4-11
“Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
All. All. – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – All.
PHÚC ÂM: Ga 2, 1-12
“Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Chúa Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến”. Mẹ Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”. Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!” Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này”. Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người. {Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng” sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ” ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ “ngày thứ ba” ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại “ngày vinh quang” của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 – 17,23 – 20,19; Lc 9,2-18 – 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá…mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu… đó là “Mẹ Người “!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 – 8,20 – 13,1 – 16,25 – 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được “nâng lên” về mặt thể xác và một cách tưởng tượng… đó là sự sống lại, Người được “nâng lên” bên hữu Chúa Cha… và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu… (Ga 3,14 – 8,28 – 12,32 – 17,11 – 17;13 – 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá “hữu thể” sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng “Giờ của Người” chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: “Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo” (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu… và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu’ cũng thiếu… Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó… Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi…
“Sáu chum đá… Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
“Họ đổ đầy tới miệng…”. Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong “dấu chỉ” đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
“Rượu”… Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v…) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người”. Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: “Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng”(Isaia 25,6; A – mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v…)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ “rượu’” mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người… trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: “Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một “dấu chỉ” về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng “tân lang” đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana…”. Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta”. Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta “sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: “Người ta sẽ không còn gọi em “cô gái bị bỏ rơi” nhưng người ta sẽ gọi em là “cô gái được yêu thích”, người ta sẽ gọi xứ sở của em là “Tân nương của Ta”… Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em” (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 – 22,17 v.v…).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người “phụ nữ” mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: ‘Thưa Bà!”. Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi “giao ước mới” khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là “con gái của Israel” và khuôn mặt của Giáo Hội”. Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn… Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô… trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra… Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!”. Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống “hôn nhân” hay cuộc sống “độc thân”. Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa – Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “sự biểu lộ” của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn “không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được “dấu chỉ” của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người… các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin… “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người”.(Ga 1,14).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – NĂM C
DẤU LẠ CANA (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên năm C này nêu bật dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện ở tiệc cưới Ca-na.
Theo truyền thống của các Giáo Hội Đông Phương, ba biến cố: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, phép rửa của Đức Giê-su và dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na, hình thành nên ba biến cố Chúa Hiển Linh và được cử hành cùng nhau. Theo truyền thống Tây Phương, năm C là năm duy nhất trong ba năm phụng vụ, tưởng niệm việc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài ở tiệc cưới Ca-na, sau phép rửa của Đức Ki-tô và việc các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi Giê-su, như vậy duy trì mối liên hệ giữa ba cuộc hiển linh đầu tiên mở ra mầu nhiệm của Đức Giê-su là Vua, Con Thiên Chúa và Đấng Ki-tô.
Is 62: 1-5
Chủ đề của Bài Đọc I là cuộc phục hưng Giê-ru-sa-lem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “Hiền Thê” cho dân Ngài.
1Cr 12: 4-11
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô rằng muôn vàn ân sủng mà họ hưởng được đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất, Đấng tỏ mình ra nơi mỗi người mỗi cách vì lợi ích của cộng đoàn.
Ga 2: 1-12
Nhân tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: dấu lạ hóa nước thành rượu tiên trưng dấu lạ hóa rượu thành máu của Ngài, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.
BÀI ĐỌC I (Is 62: 1-5)
Bài thánh thi này ca ngợi cuộc phục hưng sắp đến của Giê-ru-sa-lem vào giờ phút khiến lòng người phải nghi ngờ. Sau khi trở về từ Ba-by-lon, những người lưu đày gặp lại thành thánh nghèo nàn, dân cư thưa thớt, đền thờ hoang tàn đổ nát, suốt năm mươi năm qua dưới ách thống trị của ngoại bang. Trước tiên họ bắt tay tái thiết đền thờ, nhưng công việc đã phải bị bỏ dỡ vì thiếu tài chánh và vì những chống đối khác nhau. Họ thất vọng vì công việc quá lớn lao và những khó khăn gặp phải. Trong bầu khí chán chường thất vọng, một ngôn sứ vô danh, được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ tam, môn đệ của I-sai-a đệ nhị, công bố rằng Giê-ru-sa-lem sắp được phục hưng và tìm lại vinh quang của mình.
Cuộc phục hưng huy hoàng sắp đến:
Phải chăng đây chính là lời loan báo của vị ngôn sứ hay lời hứa của Thiên Chúa được đặt trên môi miệng của vị ngôn sứ? Thật khó phân định điều này; một sự luân phiên giữa giọng nói của vị ngôn sứ và giọng nói của Thiên Chúa là một trong những nét đặc trưng của bài thánh thi này. Chung chung, vị ngôn sứ không bao giờ nói ở ngôi thứ nhất, trừ một lần, khi ông biện minh sứ vụ của mình. Qua những gì xảy ra trước đó, chúng ta biết rằng những người hồi hương luôn luôn phàn nàn về việc Thiên Chúa trì hoãn phục hưng Thành Thánh và Đền Thờ của Ngài.
Thật kỳ lạ biết bao khi vị ngôn sứ vặn lại, sự chậm trể không đến từ Thiên Chúa nhưng từ tội lỗi của các ngươi, vì tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Ngài vẫn thường hằng. Đó là ý nghĩa của câu thứ nhất mà người ta toan tính gán cho chính Đức Chúa:
“Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62: 1).
Giê-ru-sa lem phải được tái thiết trong đức công chính của nó, trong ơn cứu độ của nó. Ở đây “đức công chính” và “ơn cứu độ” thì tương đồng rất rõ nét. Vị ngôn sứ ngỏ lời với Thành Thánh, ông loan báo rằng Thành Thánh sẽ được phục hưng trong huy hoàng rạng rỡ; những quốc gia và những vua chúa đã áp bức Thành Thánh rồi sẽ thấy vinh quang của nó, ơn cứu độ của Giê-ru-sa-lem sẽ “rực lên như ngọn đuốc”.
Người ta thường nhận ra trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ tam, một ý tưởng đắc thắng. Dân Thiên Chúa sẽ hả dạ vì những nhục nhã họ đã phải chịu:
“Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng” (Is 62: 2).
Hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài:
Phần cuối của sấm ngôn này lấy lại hình ảnh về hôn ước giữa Đức Chúa và dân Ngài, hình ảnh này đã trở thành kinh điển kể từ ngôn sứ Hô-sê, rồi đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Giao Ước được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: dân Chúa là Hôn Thê tưởng rằng mình bị thất sủng nay gặp lại tấm lòng sủng ái của Đức Chúa là Hôn Phu của mình.
Nhưng để Giao Ước có thể được tái lập, quá khứ tội lỗi phải được thanh tẩy. Dấu hiệu đầu tiên là gán tên mới cho Giê-ru-sa-lem. Một tên mới tạo nên một căn tính mới. Chúng ta biết tầm quan trọng của tên theo truyền thống Kinh Thánh. Tên diễn tả bản chất sâu xa của một người hay vận mệnh của người mang tên ấy. Giê-ru-sa-lem sẽ không còn được gọi “Đồ bị ruồng bỏ” nhưng “Ái khanh lòng Ta hỡi”. Xứ sở của nó sẽ không còn là “Phận bạc duyên đơn”, nhưng “Duyên thắm chỉ hồng”.
Còn hơn thế nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được Đấng tác thành mình lập hôn ước “như trai tài sánh duyên cùng thục nữ”, nghĩa là, mọi tội lỗi, bất trung, thờ ngẫu tượng của dân thành mà các ngôn sứ đã nhiều lần gọi “con điếm” vì đã chạy theo các thần minh khác, nay được phục hồi sự trinh khiết của mình: tình yêu của Thiên Chúa đã thanh tẩy Thành Thánh. Sau này sách Khải Huyền sẽ gợi lên hôn lễ của Con Chiên với thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc:
“Vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ của Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 8).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam chắc chắn nhớ lại bản văn của vị tiền nhiệm mình, I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đã mô tả cho những người lưu đày thấy những rực rỡ của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem tương lai và báo trước cho Thành Thánh:
“Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa. Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất” (Is 54: 4-5).
Niềm vui hôn ước và niềm vui thời Mê-si-a.
“Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62: 6).
Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mê-si-a, niềm vui mà rược dồi dào của tiệc cưới Ca-na loan báo theo cách khác.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 4-11)
Trong năm Chúa Nhật liên tiếp, Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta đọc những đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, từ chương 12 đến chương 15.
Bối cảnh:
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã lưu lại thành phố này khoảng mười tám tháng và đã để lại một cộng đoàn Ki-tô hữu rất sinh động nhưng cũng gây nên nhiều nỗi bận lòng cho thánh nhân.
Thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thư thứ nhất và thư thứ ba đã thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất thực ra là thư thứ hai. Thánh Phao-lô đã viết thư này từ Ê-phê-xô (có lẽ vào mùa xuân năm 55). Sau khi đã nhắc nhở trật tự trong cộng đoàn, tiếp đó, bàn đến nhiều vấn đề nhất định, thánh nhân bắt đầu tranh luận: toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu đều phải ở dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ gìn giữ cộng đoàn trong sự hiệp nhất và sẽ giúp cho cộng đoàn biết biện phân những hoạt động vì lợi ích chung của Cộng Đoàn.
Lương dân và người Ki-tô hữu:
Các tín hữu Cô-rin-tô sống trong bối cảnh ngoại giáo khá đặc biệt. Thành phố Cô-rin-tô là một đô thị lớn thuộc miền duyên hải và gồm nhiều dân tứ xứ, mở rộng cửa đón nhận thế giới bên ngoài. Chịu ảnh hưởng từ miền Cận Đông, các tôn giáo cổ truyền nhường chỗ cho những khát vọng huyền bí, trong khi những tôn giáo mầu nhiệm tràn lan với những nghi lễ khai tâm và thực tiển hướng đến niềm hưng phấn và xuất thần. Những thái độ này có thể rất gần với những đặc sủng mà các Ki-tô hữu được hưởng. Cần phải nêu lên tất cả cái lập lờ này. Trong cộng đoàn Ki-tô hữu, những ân huệ nhận được có nguồn gốc siêu nhiên; nguồn mạch duy nhất của mọi ân huệ này là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Dấu chỉ Ba Ngôi:
Lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và những hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần:
– Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
– Có nhiều công việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô).
– Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm mọi sự trong mọi người (Chúa Cha).
Đoạn, thánh nhân liệt kê một loạt những ân huệ khác nhau, đều là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiên khởi chắc chắn đã hưởng được nhiều cách thế bày tỏ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca đã nêu lên nhiều ví dụ trong sách Công Vụ Tông Đồ, đến mức sách này được gọi “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Những ân huệ dồi dào và tự phát như thế bổ túc cho việc thiếu cơ cấu tổ chức. Nhưng thánh Phao-lô muốn tránh tình trạng hỗn loạn; vì thế thánh nhân nhấn mạnh sự duy nhất cơ bản của mọi ân huệ này: “Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người”.
TIN MỪNG (Ga 2: 1-12)
Theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ của Ngài qua dấu lạ tiệc cưới Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê”. Vậy từ “dấu lạ” muốn nói lên điều gì? Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, vấn đề “dấu lạ” có rất nhiều nghĩa, nhưng được tập trung vào một nghĩa cơ bản: thời đại Mê-si-a đến ở nơi sự hiện diện của Đức Giê-su.
Ý nghĩa phong phú của dấu lạ Ca-na:
Bài tường thuật về dấu lạ đầu tiên này trình bày một loạt những đối chiếu với giai đoạn cuối cùng sứ vụ trần thế của Đức Giê-su.
– Đây là “ngày thứ ba” Đức Giê-su “bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”. Biến cố Phục Sinh ẩn hiện ở nơi dấu lạ đầu tiên này.
– Dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su thực hiện cốt là hóa nước thành rượu; dấu lạ sau cùng của Ngài cốt là hóa rượu thành máu của Ngài.
– Dấu lạ đầu tiên này được thực hiện để cử hành tiệc cưới nhân loại; dấu lạ sau cùng để cử hành Giao Ước Mới, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại.
– Ở tiệc cưới Ca-na, Thân Mẫu Đức Giê-su được thánh ký kể ra lần đầu tiên; Mẹ Ngài sẽ chỉ được thánh ký kể ra lần thứ hai và lần sau cùng dưới chân thập giá, ở đó Đức Giê-su sẽ thân thưa với Mẹ Ngài cũng bằng cách xưng hô như ở tại tiệc cưới Ca-na: “Thưa bà”. Có những bí ẩn hòa điệu giữ hai biến cố này.
– Ở tiệc cưới Ca-na, Chúa Giê-su lần đầu tiên nói về “giờ của Ngài”. Giờ này sẽ là giờ Tử Nạn và Vinh Quang của Ngài. Khi viết: “Đức Giê-su biết giờ của Ngài đã đến” (Ga 13: 1), thánh ký sẽ nói về lễ Vượt Qua gần đến và về bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Bữa ăn đầu tiên, tiệc cưới Ca-na, cũng được định vị vài ngày trước lễ Vượt Qua.
Những đối chiếu đa dạng như trên giúp chúng ta hiểu sâu xa những ý nghĩa phong phú của dấu lạ tiệc cưới Ca-na.
“Ngày thứ ba”:
Thánh Gioan xây dựng bài tường thuật của mình về những khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su theo cùng một cách với bài tường thuật về giai đoạn sau cùng của Ngài, với thời gian đặc thù và biểu tượng: các biến cố được cô động thành một tuần lễ, ngầm tham chiếu đến bảy ngày của công trình sáng tạo. Chính “vào ngày thứ bảy” của tuần lễ khai mạc mà tiệc cưới Ca-na, dấu chỉ của ơn cứu độ thời Mê-si-a, được định vị: một cuộc sáng tạo mới. Nhưng đây cũng là “ngày thứ ba” khởi đi từ việc Đức Giê-su ra khỏi miền Giu-đê. Việc Đức Giê-su tham dự tiệc cưới Ca-na được đặt vào ngày thứ ba sau lời hứa của Ngài cho ông Na-tha-na-en, một trong những môn đệ đầu tiên của Ngài: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50).
Ca-na là một thị trấn nhỏ thuộc miền Ga-li-lê không xa làng Na-da-rét. Đức Ma-ri-a đến Ca-na, chắc chắn từ Na-da-rét; Mẹ đến một mình; chắc hẳn thánh Giu-se đã qua đời. Còn Đức Giê-su đến từ miền Giu-đê với các môn đệ Ngài; Ngài gặp lại Mẹ Ngài ở tiệc cưới này. Người ta đã nghĩ rằng chú rể và cô dâu thuộc gia tộc của Đức Ma-ri-a, vì Mẹ xử sự gần như gia chủ khi căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Dù thế nào, gia đình nầy thuộc tầng lớp hạ lưu, vì tại những gia đình giàu có rượu không thể thiếu. Những người được hưởng dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su thuộc gia đình nghèo. Điều này chẳng có gì phải ngạc nhiên cả.
Dấu chỉ của rượu:
“Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước”. Những chum đựng nước này được dùng cho các khách rửa tay trước khi dự tiệc, đây là nghi thức thanh tẩy theo luật định. Một trong số chum đá này chắc chắn được dùng để thanh tẩy các vật dụng được dùng trong bữa ăn như thánh Mác-cô ghi nhận: “Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của các tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng” (Mc 7: 3-4). Sau khi dùng, những chum này cạn nước. Đức Giê-su bảo đổ đầy nước vào các chum cho tới miệng. Như vậy, rượu mà Ngài sẽ ban thật dồi dào và thậm chí dư dật, như đối với phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ấy vậy, rượu dư dật đến như thế là hình tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng để loan báo buổi bình mình của kỷ nguyên Mê-si-a (Am 9: 13; I s 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18; Tv 78: 24-27; 132: 15). Phép lạ Ca-na là một dấu chỉ thời Mê-si-a.
Mặt khác, rượu là dấu chỉ của niềm vui; nói một cách chính xác, rượu biểu tượng niềm vui thời Mê-si-a, tiên trưng niềm vui vĩnh cữu, thường được biểu thị bởi bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa, “bàn tiệc cánh chung”. Đức Giê-su ám chỉ đến điều này vào bữa Tiệc Ly: “Từ nay, Thầy sẽ không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29; Mc 14: 25 và Lc 22: 18).
Nước mà Đức Giê-su hóa thành rượu không phải bất kỳ nước nào: chính là nước được dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục của người Do thái. Đối với tác giả Tin Mừng Gioan, việc nước thanh tẩy của Cựu Ước hóa thành rượu Mê-si-a báo hiệu “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có ở đây rồi” (2Cr 5: 17). Thời đại Mê-si-a đã đến. Từ nay, nước thanh tẩy không còn có ích nữa, bị hủy bỏ và được thay thế bởi rượu, dấu chỉ của ơn cứu độ. Trong bối cảnh phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, rượu tiệc cưới Ca-na rất dễ gợi lên trong tâm trí của các tín hữu Rượu Thánh Thể, đặc biệt khi thánh ký nói với chúng ta Đức Giê-su hóa nước thành rượu xảy ra trước lễ Vượt Qua (2: 13), cùng một thời điểm mà ba năm sau này Đức Giê-su sẽ hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn người được tha tội (Mt 26: 28).
Dấu hiệu Giao Ước:
Sự hiện diện của Đức Giê-su ở tiệc cưới Ca-na là một cử chỉ của tình bạn. Vì tình bạn, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ này để tránh cho gia đình này khỏi bẽ mặt; nhưng đồng thời Ngài đem đến một sự bảo lãnh – một sự bảo lãnh thần linh – cho tính chất linh thánh của hôn nhân. Ngoài ra, cử chỉ của Ngài mặc lấy một chiều kích thần học: chính bằng ngôn từ tình yêu hôn nhân mà các ngôn sứ đã dùng để diễn tả Giao Ước của Thiên Chúa với dân Ngài như Hôn Ước.
Trong bài tường thuật, người quản tiệc nói với tân lang: “Ai ai cũng thiết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Ấy vậy, người đãi rượu ngon không phải là tân lang mà là Đức Giê-su. Thật vậy, trong Tin Mừng Gioan, tân lang thường tượng trưng cho Đức Giê-su (Ga 3: 29). Sau này, khi ban cho các môn đệ Rượu Thánh Thể, Ngài sẽ công bố rượu này là dấu chỉ Giao Ước Mới. Thánh Phao-lô cũng sẽ sử dụng ngôn từ tình yêu vợ chồng để nói về sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Giáo Hội của Ngài; và sách Khải Huyền sẽ cử hành tiệc cưới muôn đời của Con Chiên với dân Thiên Chúa được biểu thị bởi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su khai mạc mầu nhiệm tình yêu và hiệp nhất của Thiên Chúa với nhân loại.
“Thưa Bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?”
Tác giả Tin Mừng Gioan không bao giờ gọi đích danh “Ma-ri-a”, nhưng luôn luôn “Thân Mẫu Đức Giê-su”, bốn lần trong bài tường thuật này (2: 1, 3, 5, 12), cũng là bốn lần trong bài trình thuật về cuộc Thương Khó (19: 25-26), để tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, Mẹ đã sống những năm cuối đời của Mẹ tại nhà thánh nhân và đã qua đời trong tình con thảo của thánh nhân. Chắc chắn đây cũng là tước hiệu tôn kính mà người Ki-tô hữu tiên khởi dành cho Thân Mẫu của Chúa mình.
Lời thỉnh cầu kín đáo của Đức Ma-ri-a: “Họ hết rượu rồi”, nhắn gởi cho Đức Giê-su, Con Mẹ, diễn tả độ nhạy bén của Mẹ trước nhu cầu của tha nhân. Nhưng câu trả lời của người con cho mẹ mình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?” thật đáng ngạc nhiên, như thử muốn nói rằng: “Đây không phải là công việc của mẹ. Xin đừng can dự vào”.
Trước tiên, cách xưng hô “Thưa bà” không nói lên một sự bất kính, nhưng diễn tả cái khoảng cách. Chúa Giê-su xưng hô như thế với người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4: 21), với người đàn bà Ca-na-an (Mt 15: 28), với người phụ nữ còng lưng (Lc 13: 12), với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Ga 20: 15). Cái khoảng cách này được tăng cường bởi những lời tiếp theo sau: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi?”. Đây là cách nói mang đậm nét Do thái khá thông dụng trong Cựu Ước (x. Tl 11: 12; 2Sm 16: 10; 1V 17: 18). Tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm kiểu nói này được đặt trên môi miệng của hai người bị quỷ ám: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông?” (Mt 8: 29).
Cách xưng hô của Đức Giê-su với Mẹ Ngài ở tiệc cưới Ca-na tái xuất hiện ở hoạt cảnh Thập Giá, ở đó Ngài thân thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19: 26). Trong hoạt cảnh sau cùng này, tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a không bị bác bỏ, vì Đức Giê-su ban cho Mẹ Ngài người môn đệ yêu mến, khuôn mẫu của người Ki-tô hữu hoàn thiện, làm con của Mẹ. Như vậy, với cách xưng hô lạ lùng ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đòi hỏi Mẹ của Ngài mở rộng tình mẫu tử của Mẹ, biến đổi tình mẫu tử riêng tư giữa Mẹ và Con thành tình mẫu tử của một Người Mẹ ân cần săn sóc những môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội của Ngài, Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
“Giờ tôi chưa đến”:
Trong Tin Mừng Gioan, “giờ của Chúa Giê-su” là giờ Ngài được giương cao trên thập giá, giờ Ngài được tôn vinh (Ga 3: 14-15; 8: 28), giờ mà tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ tận mức ở nơi cái chết của người Con Một Thiên Chúa. Rõ ràng, ở tiệc cưới Ca-na, giờ đó chưa đến.
Nếu chúng ta đọc lại tình tiết về người phụ nữ Ca-na-an, người ta sẽ gặp lại cũng một thái độ như thế của Đức Giê-su. Trước hết, Ngài không đáp một lời, đoạn từ chối, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này. Người phụ nữ không chùn bước. Lúc đó, Chúa Giê-su thán phục niềm tin kiên vững của bà và cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15: 28).
Đức Ma-ri-a trải qua một thử thách tương tự. Trước thái độ ngập ngừng của Con Mẹ, Mẹ trả lời bởi một hành vi đức tin kiên vững vào Ngài: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đức Mẹ đã tin vào Con Mẹ trước khi phép lạ xảy ra, trong khi các môn đệ Ngài tin vào Ngài sau khi phép lạ xảy ra. Lúc đó, Chúa Giê-su nghiêng mình trước đức tin đáng thán phục của Mẹ Ngài.
Trong bối cảnh Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê để bày tỏ vinh quang của Ngài và để các môn đệ tin vào Ngài, thì lời căn dặn của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ làm theo” thật có ý nghĩa biết bao trong việc huấn luyện người môn đệ lý tưởng. Dù thế nào, chúng ta ghi nhận rằng thành quả của dấu lạ đầu tiên được thực hiện nhờ sự can thiệp của Đức Ma-ri-a và dẫn đến niềm tin của các môn đệ. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã nhấn mạnh quyền năng cầu bầu của Đức Ma-ri-a, sự hiện diện ân cần của Mẹ, nỗi bận lòng của tình mẫu tử đối với tha nhân: “Xưa nay chưa từng ai đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Trang Tin Mừng này không chỉ mang chiều kích Ki-tô học, nhưng còn mang chiều kích Thánh Mẫu học.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÔN ƯỚC GIỮA THIÊN CHÚA VỚI LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Tình yêu hôn nhân rất tốt đẹp. Vì thế Chúa Giêsu đã tới Cana để dự tiệc cưới và chúc phúc cho đôi tân hôn (Bài Tin Mừng). Thiên Chúa còn dùng hình ảnh hôn nhân loài người để giúp người ta hiểu được phần nào tình yêu của Ngài đối với nhân loại (Bài đọc I)
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.
– Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.
– Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 62,1-5)
Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân do thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.
Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa : dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng : “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Đáp ca (Tv 95)
Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa : vui mừng, ca tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.
Tin Mừng (Ga 2,1-12)
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì ?
-Trước hết Ngài cho thấy Ngài Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.
-Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người do thái : bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
-Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria : “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
-Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)
Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô : người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.
Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ : (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban ; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người ; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chug của Giáo Hội.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tình yêu của Chúa
Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất ? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.
Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất ? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.
Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.
Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.
Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất : vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta ; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta : “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.
Con người là một sinh vật yêu thương : con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.
Phép lạ ở Cana
Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình : số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều ; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình ; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.
Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn : Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.
Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế : khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào ; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy ? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin ?
* 3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người ; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì ? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I : đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
Hạnh phúc mong manh
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
*
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động : Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu : “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt : “Tôi với bà có can chi ? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người : Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa : “Họ hết rượu rồi”.
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai ; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu : yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới ; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới : chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)
Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ
Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.
Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến : thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị : nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ : sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)
Chuyện minh họa
a/ Con sâu trong tảng đá
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên : “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ : từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
- Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
- Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
- Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.
Chủ tế : Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TIỆC CƯỚI CANA- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP.
Chúa nhật hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vì trong cả ba lễ đó, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Chúa nhật 2 thường niên hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu là có ý hé mở cho các môn đệ một chút vinh quang của Ngài, mặc dầu giờ của Ngài chưa tới, để củng cố niềm tin cho những môn đệ mới được kêu gọi. Đồng thời cũng loan báo cho mọi người biết, qua việc thiếu rượu và biến nước thành rượu, Ngài sẽ lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ không còn hợp thời.
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới vào những ngày đầu sứ vụ công khai minh chứng rằng Ngài rất quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình và Ngài sẽ lập bí tích hôn phối.
Sự hiện diện của Đức Mẹ trong tiệc cưới này cũng nói lên vai trò rất đắc lực trong việc cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Hãy sống theo phương châm :”Per Mariam ad Jesum”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 62,1-5.
Sau khi đi lưu đầy về, tiên tri Isaia ca ngợi vinh quang của Giêrusalem và đất thánh. Nhìn ngược về quá khứ, ta thấy Israel đã được Thiên Chúa yêu thương, được coi như hôn thê của Ngài, nhưng Israel đã bất trung, phải đi lưu đầy vì những lầm lỗi, Giêrusalem trở nên hoang tàn. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn không ngớt yêu thương và tha thứ. Nay Thiên Chúa đưa Israel trở về, không còn bị người ta chế diễu là “đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”.
Bây giờ Giêrusalem hoan hỉ tưng bừng vì được thay đổi số phận, được Chúa yêu thương như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới, như tiên tri Isaia mô tả:”Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5).
Lời tiên tri ấy đã được hoàn thành trong Đức Giêsu, Đấng đã thay thế trật tự cũ bằng trật tự mới. Điều này được tượng trưng bằng sự biến đổi nước thành rượu (Tin mừng).
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,7-11.
Thánh Phaolô thấy giáo đoàn Côrintô có sự chia rẽ, Ngài phải viết thư nhắc nhở họ. Trong đoạn thư hôm nay, thánh Phaolô nhắc lại cho họ ba điểm :
-Những ân huệ, những tài năng, những chức vụ thì đa dạng, nhưng tất cả đều do Chúa Thánh Thần ban.
-Những ân huệ do Thánh Thần ban thì khác nhau nơi từng người, người được ơn này, người được ơn khác.
-Nhưng tất cả những ân ban đó đều nhằm mục đích chung của Hội thánh là để phục vụ. Việc Chúa ban cho Hội thánh nhiều ân sủng chứng tỏ rằng Chúa hằng trung tín với Hội thánh, là hiền thê của Ngài.
+ Bài Tin mừng : Ga 2,1-11.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm nước hoá thành rượu tại tiệc cưới Cana. Bài tường thật này không nhằm mô tả phép lạ hoá nước thành rượu mà nói lên “một dấu chỉ đầu tiên” qua đó, Đức Giêsu bầy tỏ vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài.
-Đức Giêsu cho thấy Ngài là Đấng Thiên sai khai mở một thời kỳ hoan lạc mới cho nhân loại. Thánh kinh thường hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Cứu thế, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Theo nghi lễ, hôn phu phải cung cấp rượu (c. 10), trong trường hợp này, hôn phu bước đi và Đức Giêsu một cách kín đáo để thay thế ông. Với tư cách là hôn phu của nhân loại, chính Ngài cung cấp rượu.
-Đạo cũ của người Do thái đã lỗi thời không còn thích hợp , Ngài đến thiết lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ. Việc thiết lập đạo mới này được tượng trưng bằng việc biến sáu chum nước thành sáu chum rượu ngon. Rượu ngon mới này ám chỉ rằng tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài, nay không thích hợp nữa.
-Tuy giờ vinh quang của Đức Giêsu chưa tới, nghĩa là vinh quang ấy chỉ được biểu lộ trên thập giá, nhưng vì có lới yêu cầu của Đức Maria, nên Ngài đã tỏ chút vinh quang cho các môn đệ thấy và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tiệc cưới tình thương
TIỆC CƯỚI TẠI CANA.
Diễn tiến tiệc cưới.
Vào ngày thứ ba tính từ khi rời Nazareth đến Galilê, tức là vào tuần đầu đời công khai của Đức Giêsu, có một tiệc cưới ở Cana. Có lẽ tiệc cưới này là của bà con thân thuộc gì đó. Mẹ Đức Giêsu cũng được mời và đã đến đó trước rồi. Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên cũng được mời dự tiệc cưới đó.
Theo phong tục của người Do thái, có rất nhiều nghi lễ và cuộc vui kéo dài từ 3 đến một tuần lễ, tùy theo tài sản của đôi bên, và cuộc lễ thường đuợc tổ chức vào ban đêm. Trường hợp của bà goá tái giá thì chỉ trong ba ngày. Đám cưới này chắc hẳn của đôi tân hôn còn trẻ .
Đám cưới mà Đức Giêsu đến dự có lẽ là của một bậc khá giả vì cần nhiều nước dự trữ để làm lễ tẩy, lại thêm một viên quản tiệc tức là ngưới đứng đầu trông nom cỗ bàn. Thường thường thì người Do thái rất tiết kiệm, nhưng trong những dịp vui này người ta không ngại tốn kém, tổ chức cho linh đình để lấy tiếng cho gia đình mình. Trong tiệc vui như thế này người ta không ăn uống bình thường như mọi ngày mà có thể nói được người ta “nhậu nhẹt”, chén tạc chén thù, có thể đi đến say sưa. Có lẽ chính vì đó mà xẩy ra cảnh “hết rượu”. Chủ nhà đó đã tính hụt. Điều này làm cho gia chủ và những người phục vụ rất lo lắng vì đang bữa tiệc mà hết rượu thì cả là một sự xấu hổ và nhục nhã cho gia đình.
Đứng trước cảnh lúng túng của gia chủ, Đức Maria đã có cách tháo gỡ thế bí cho gia chủ : Ngài nhờ Đức Giêsu giúp đỡ. Ngài âm thầm từ dưới bếp đi lên, ghé vào tai Đức Giêsu mà nói nhỏ :”Họ hết rượu rồi”. Một lời gợi ý có tính cách van xin và đầy tin tưởng.
Đức Giêsu có phản ứng ngay và có tính cách lạnh nhạt:”Tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Tiếng Việt nam và thói tục Việt nam nói như thế không có gì khó nghe cả. Những chàng thanh niên nhất là có địa vị, hay khi đã có gia đình và có con, khi nói với mẹ mình trước mặt một số người thường cũng hay dùng chữ “bà” với chữ “tôi”. Đối với người Việt nam, dùng chữ “bà” và “tôi” cũng vẫn thân mật. Tuy câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối nhưng thực tế ai cũng hiểu lời ấy vẫn ngầm chứa sự đồng ý.
Giờ của Chúa tuy chưa tới, nhưng trước lời cầu xin của Đức Mẹ thì việc làm phép lạ phải đến trước “giờ” : 6 chum nước chứa được từ 800 đến 1200 lít đã biến thành rượu ngon. Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên để cứu đôi tân hôn khỏi khổ nguy trong ngày đầu hết đời sống hôn nhân, dầu chưa đến giờ của Ngài. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu rất quan tâm đến đời sống hạnh phúc của hôn nhân.
Ý nghĩa tiệc cưới.
Phép lạ ở Cana liên kết Chúa nhật này với ngày lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa – tất cả là sự biểu lộ vinh quang của Ngài. Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
Thánh Gioan đã có dụng ý dùng từ “dấu lạ đầu tiên” để chỉ ý nghĩa sâu xa của nó và nó có giá trị trong mọi thời đại. Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người, Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Thiên Chúa dùng hình ảnh tiệc cưới.
Bài đọc 1 gợi lên cho chúng ta ý tưởng : dân Israel là hôn thê của Thiên Chúa đã bất trung, phải bị lưu đày, nhưng hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Ngài. Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đầy, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải đuợc thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới. Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, nó nói lên điều phải xẩy ra trong suốt sứ vụ của Ngài. Hoá nước thành rượu là một biểu tượng của việc Ngài cần phải thực hiện. Bất cứ nơi nào Ngài đến, cái cũ được trở thành cái mới (McCarthy).
Đức Giêsu hiện diện trong tiệc cưới để cùng cảm thông niềm vui của con người, đồng thời cũng là dịp để Chúa thu phục niềm tin của các môn đệ mới theo Ngài.
Đối với việc Đức Giêsu và Đức Maria đi ăn cưới thì điều này rất bình thường trong cuộc sống của con người. Nhưng lần này khi đến tham dự tiệc cưới và thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nói lên mối quan tâm của Ngài đối với gia đình. Trong tiệc cưới này Ngài đã cứu cho gia đình nhà chủ tiệc một bàn thua hết rượu và để cho cuộc vui không bị gián đoạn. Như vậy, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến đời sống gia đình. Ngài muốn làm nổi bật về vai trò của gia đình, nhất là tính bền vững của gia đình Công giáo. Đứng trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, Chúa vạch ra một đuờng lối để cho gia đình luôn được êm ấm, hạnh phúc.
TIỆC CƯỚI VÀ HÔN NHÂN.
Đức Giêsu lập bí tích hôn nhân.
Đức Giêsu đến dự tiệc cưới Cana là dấu chỉ Ngài sẽ lập bí tích hôn nhân sau này, Ngài quan tâm đến đời sống gia đình và chúc phúc cho hôn nhân.
Tại sao lại có hôn nhân ? Thánh Gioan Tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau. Vì thế ai cũng có tình yêu : trẻ con thì yêu cha mẹ, anh chị em, lớn lên thì có tình yêu nam nữ. Tình yêu luôn hướng đến sự kết hợp. Do đó, tình yêu nam nữ dẫn đến hôn nhân.
Hôn nhân là một hành vi tự nhiên và có tính cách nhân linh. Sở dĩ nói hôn nhân có tính cách nhân linh là vì con người không chỉ đến kết hợp với nhau do bản năng mà còn do sự suy nghĩ lựa chọn , tự do : tự đặt câu hỏi có nên kết hôn chăng, kết hôn với ai, vào lúc nào…
Mọi cuộc hôn nhân không phải phát xuất từ con người mà từ Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau. Chính Đức Giêsu đã nói:”Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,8-9).
Ta cần phân biệt hai loại hôn nhân : hôn nhân tự nhiên và hôn nhân theo bí tích . Những người ngoại giáo lấy nhau theo hôn nhân tự nhiên, đó là điều tốt và Chúa chúc lành cho họ. Chúng ta là những người công giáo, phải ý thức rằng Đức Kitô đã thiết lập bí tích hôn nhân, nên ngoài hôn nhân tự nhiên ra, chúng ta còn phải cử hành bí tích hôn phối theo bí tích để chính thức nên vợ nên chồng.
Hôn nhân theo bí tích có hai đặc tính : đơn hôn và vĩnh hôn. Đơn hôn là hôn phối một vợ một chồng, không chấp nhận chế độ đa thê hay đa phu. Còn vĩnh hôn là không được ly dị. Hai đặc tính này được trích ra từ Lời Chúa:”Cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Mc 10,8) và “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9)
Nền tảng của hôn nhân.
Chúng ta phải khẳng định rằng tình yêu la ønền tảng của hôn nhân. Chúng ta không thể xây dựng hôn nhân trên nền tảng khác như chức quyền, danh vọng, tiền của, sắc dục, những thứ đó dễ bị mai một và nếu không còn những thứ đó thì hôn nhân sẽ ra sao ? Vì thế, muốn đi đến hôn nhân phải có tình yêu trước đã. Đây là điều kiện tiên quyết “sine qua non”(không có không được), đúng như ông Alphonse Karr nói:”Hôn nhân không có tình yêu là ngày không có rạng đông”. Nếu mới gặp nhau lần đầu, anh A đã yêu chị B một cách say đắm. Anh không còn tìm hiểu làm gì, anh nói với cha mẹ cho cưới chị B. Anh cho là hai người tâm đầu ý hợp. Đấy chưa hẳn là tình yêu có nền tảng mà chỉ là “tiếng sét ái tình”.
Hoặc một anh tỷ phú muốn chọn cho mình một người vợ lý tưởng. Anh ta dùng máy móc để đo vòng ngực, vòng eo và vòng mông đúng tiêu chuẩn. Thêm vào một chút là cái mũi dọc dừa hơi cao, tóc mầu hung, con mắt lá răm, lông mày lá liễu… Anh coi vậy là người yêu lý tưởng ! Nhưng đấy đâu phải là người yêu mà chỉ là một con “robot”.
Muốn trở thành người yêu còn phải tìm hiểu tính tình, ước vọng, nghề nghiệp, sở trường sở đoản, gia đình của cô ta vì “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Sau đó, anh còn phải quyết định xem có nên lấy cô ấy không vì chưa nắm vững tương lai. Khi đã có một quyết định đứng đắn và dứt khoát thì phải nói đến sự “dấn thân” (engagement). Khi đã nói đến dấn thân thì luôn ngầm chứa một chút “liều” trong đó :
Một liều ba bảy cũng liều
Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây.(Ca dao)
Khi đã kết hôn thì vợ chồng phải thương yêu nhau tha thiết. Tình yêu vợ chồng phải noi theo và nắm giữ là theo mô hình của tình yêu giữa Chúa Giêsu và Hội thánh:”Nguời làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô thương yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh”(Ep 5,25).
Hạnh phúc của hôn nhân.
Con người từ bẩm sinh, ai cũng muốn được hạnh phúc, kể cả người tự tử (theo Pascal). Nhưng hạnh phúc không phải là một cái gì tiền chế có sẵn đấy, muốn chọn bao nhiêu hay muốn mua bao nhiêu thì mua, nhưng hạnh phúc phải là cái gì do con người tạo ra. Hôn nhân thực ra chỉ là một cái hộp rỗng, chưa có hạnh phúc, phải bỏ gì vào đấy rồi mới lấy ra được vì nếu không bỏ hạnh phúc vào thì có gì mà lấy ra ? Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có hay do người khác tặng cho mà hạnh phúc phải được trả bằng giá đắt.
Có nhiều cách để đạt tới hạnh phúc. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến 3 phương cách tạo ra hạnh phúc : hy sinh, nhẫn nhục và thánh thiện.
Tinh thần hy sinh.
Không có tình yêu nào chỉ toàn mầu hồng, bay lượn trên không, mà tình yêu phải được dệt bằng hy sinh, đau khổ , gian nan , thử thách vì không có hoa hồng nào mà không có gai. Càng hy sinh nhiều, tình yêu càng sâu đậm, và hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh phúc. Ông Chamfort nói:”Muốn thử nghiệm tình yêu, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, thì đó là tình yêu thật”. Một người vợ dấn thân theo chồng đã hy sinh tất cả để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình, đã tâm sự :
Một ngày ba bận trèo non,
Lấy gì mà dòn mà đẹp hỡi anh.
Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng ?(Ca dao)
Nhẫn nhục chịu đựng.
Bà De Scudéry nói:”Bắt đầu yêu là bắt đầu sống”, nhưng có người nói ngược lại : Bắt đầu yêu là bắt đầu chết. Vậy yêu là sống hay là chết ? Có lẽ chúng ta phải nói : yêu vừa là sống vừa là chết. Nhưng muốn cho tình yêu được trọn vẹn, bao giờ cũng phải nhịn nhục chịu đựng. Tại sao?
* Đã yêu thì phải chết :
“Yêu là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu)
Đã yêu thì phải chết, không chết trước thì chết sau :
– Chết trước : chết trước là phải nhẫn nại chờ đợi cho đến ngày kết hôn, phải giữ mình được trinh tiết :
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết để chờ lấy nhau.(Ca dao)
– Chết sau : Trong cuộc sống gia đình sẽ có sự lộn xộn, xích mích , va chạm, bất hòa, không thể nào tránh được cảnh “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”. Bao nhiêu sự khó khăn xẩy đến cho gia đình mà hai người phải kiên trì chịu đựng.
* Đã yêu thì phải nhẫn nhục :
Chúng ta có thể nói về tình yêu thật :
Đã yêu thì nhẫn
Đã nhẫn thì nhục
Vì thế mới có Nhẫn nhục.
Chữ nhẫn ở đây không phải là nhẫn vàng hay kim cương mà là nhẫn nại chịu đựng. Chúng ta phải chấp nhận sự nhẫn nại, đã nhẫn thì phải nhục, nhưng chắc chắn sẽ đi đến kết quả tốt:”Ai kiên nhẫn đến cùng thì sẽ được rỗi”(Mt 10,22).
Vì thế văn hào Hypolite Taine nói một cách mỉa mai :
“Người ta tìm hiểu nhau ba tuần
Yêu nhau ba tháng
Cãi nhau ba năm
Rồi chịu đựng 30 năm… để con cái lại trở về cái vòng luẩn quẩn”.
Đời sống thánh thiện.
Chìa khoá mở cửa vào chốn hạnh phúc là sự thánh thiện. Nếu vợ chồng yêu thương nhau như mối tình giữa Chúa Kitô và Hội thánh thì chắc chắn phải có đời sống thánh thiện. Phải rước Chúa vào trong đời sống gia đình. Bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ chính nhờ Chúa mà gia đình ở Cana này không vỡ mộng hạnh phúc. Không có Chúa, làm sao gia đình tránh khỏi sự đau khổ phiền muộn lúc ban đầu.
Nhà nào có Chúa ngự trong gia đình thì nhà ấy có hạnh phúc. Kinh nghiệm cho hay những gia đình nào hay đi dự lễ, buổi tối đọc kinh trong gia đình thì gia đình ấy thường là sống yêu thương, nhường nhịn, thuận hoà, giúp đỡ nhau, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc ngay khi gặp những khó khăn trong gia đình. Một trong các tiêu chuẩn hàng đầu phải có trong khi chọn người yêu để lập gia đình là sự thánh thiện, hay ít ra có đời sống đạo đức bình thường.
Truyện : Sẩy hết.
Có một chị kia muốn lập gia đình với một anh thanh niên trong xứ. Muốn hỏi ý kiến cha xứ xem chị ta có nên lấy anh ấy không.
Cha hỏi :
– Anh ấy thế nào ?
Chị thưa :
– Anh ấy có bằng Thạc sĩ, cha ạ.
Cha xứ trả lời :
– Hết sẩy. Còn gì nữa ?
– Anh ấy chơi dương cầm hay lắm.
– Hết sẩy.
– Anh ấy là hoạ sĩ nữa.
– Hết sẩy !
– Anh ấy lại có tài ngoại giao nữa.
– Hết sẩy !
– Anh ấy lại là con nhà giầu nữa .
– Hết sẩy.
– Nhưng còn một điều con hơi thắc mắc, đó là anh ta khô khan, không xưng tội rước lễ !.
Cha xứ trợn mắt, lắc đầu :
– Ồ ! SẨY HẾT.
TIỆC CƯỚI VÀ ĐỨC MARIA.
“Người bảo gì thì cứ làm theo”. Mặc dầu câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối:”Giờ con chưa đến”, nhưng Mẹ Maria cứ tin rằng, Con mình sẽ thực hiện theo lời yêu cầu của mình nên đã nói với gia nhân :”Người bảo gì cứ làm theo”. Đức Mẹ biết Con mình rất hiếu thảo, không bao giờ làm buồn lòng cha mẹ. Do đó, khi đề xuất việc hết rượu với Con mình, Đức Mẹ tin chắc Con mình sẽ can thiệp, dĩ nhiên bằng phép lạ, dù trước đó Ngài chưa từng làm.
Điều này cũng nói lên giá trị thật sự trong lời bầu cử của Đức Mẹ đối với Con mình. Nói đến việc con cái hiếu thảo đối với cha mẹ, chúng ta liên tưởng đến một người con rất hiếu thảo, qúi trọng mẹ mình, không bao giờ muốn làm buồn lòng mẹ mình, đó là vua Salomôn trong Cựu ước. Trong sách Các vua có thuật lại khi mẹ của Salomon đi gặp ông, ông đi ra đón và sấp mình chào bà ; đoạn ông ngồi trên ngai, đồng thời truyền đặt một ngai cho bà ngồi bên hữu, và nói:”Thưa mẹ, mẹ cần gì cứ nói, con không từ chối mẹ điều gì”( 1V 2,19-20).
Mẹ Maria có mặt trong tiệc cưới không phải là sự ngẫu nhiên mà do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ đang có mặt trong cuộc sống gia đình chúng ta. Mẹ cùng chia sẻ nỗi lo với mọi người chúng ta. Mẹ biết những khó khăn mà gia đình chúng ta đang gặp phải. Mẹ hiểu gia đình chúng ta đang thiếu những gì và cần gì. Mẹ đón nhận cái khổ của các gia đình như là cái khổ của mình. Chính vì thế khi cuộc sống gia đình gặp sóng gió, chúng ta tìm đến với Mẹ Maria. Mẹ sẵn sàng làm những gì có thể để giúp gia đình chúng ta như năm xưa Mẹ đã báo cho Chúa biết việc hết rượu. Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa lại sẽ làm phép lạ để cho rượu yêu thương trong hũ của gia đình chúng ta được đầy tràn (JKN).
Truyện : Xin tài trợ.
Linh mục Sylvano và mục sư Tin lành Henri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình.
Linh mục Sylvano có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Henri thì xin tiền để xây trường học.
Đến nơi, họ được hoàng tử Auguste tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Henri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án không được hoàng tử chấp nhận.
Mục sư ngồi lại chờ linh mục Sylvano để cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Henri liền thắc mắc hỏi :
– Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?
Linh mục Sylvano trả lời :
– Dĩ nhiên đúng như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn qua bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu mà tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ:”Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
“Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”. Đó là điều mà câu chuyện trên đây muốn nhắc nhở.
Người công giáo chúng ta có lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria. Chúng ta đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria. Mẹ khẩn cầu cho chúng ta và cùng với chúng ta thì làm sao Chúa Giêsu có thể từ chối.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.
- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TIỆC CƯỚI CANA– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhật trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới Alexandre Đại Đế với Công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định lấy một người châu Á, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim, nhưng ông còn muốn biểu lộ ý chí thống nhất các dân tộc từ đông sang tây. Ông đã hy vọng được một người con nối dõi hai dòng máu đông tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu. Đám cưới được cử hành trong bảy ngày bảy đêm, nơi nơi đều có yến tiệc. Để tăng thêm long trọng, Alexandre cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế Vận Hội được khai sinh từ đó (Lẽ Sống, 1991 tr. 133)
Nhân loại từ xưa đến nay, không có tiệc mừng nào vui mừng lớn lao ăn sâu vào lòng các dân tộc bằng tiệc cưới. Tại sao vậy?
Thưa, vì tiệc cưới chúc mừng một công trình tốt đẹp nhất của loài người, một công trình của tình yêu. Tình yêu là nền tảng tác tạo sinh tồn của loài người. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, con người đã được tạo dựng và được ban cho một quà tặng làm gia nghiệp khổng lồ là cả một vũ trụ mênh mông, chất đầy muôn loài muôn vật rực rỡ muôn màu, lừng hương thơm ngát. Cũng nhờ tình yêu đậm đà trong mình, con người biểu lộ ý chí thống nhất nên một và dâng hiến cho nhau một niềm hạnh phúc dồi dào hơn bất cứ hạnh phúc nào trên trần gian này. Hạnh phúc kết hợp đó càng được bền vững dài lâu nhờ sinh thành con cái bởi chính thịt máu mình, một quà tặng tuyệt vời hơn bất cứ tặng phẩm nào khác. Đó là công trình tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa đã thiết lập, đến nỗi nhiều lần Đức Giêsu đã ví nước trời giống như tiệc cưới Hoàng Tử.
Chính vì thế, toàn bộ gia đình thân mẫu Đức Giêsu, Đức Giêsu và các môn đệ đã đến dự tiệc cưới Cana. Cũng chính vì thế, khi thấy thiếu rượu, Đức Mẹ đã vội vã xin con mình cứu giúp, không cần phải để tới lúc quản tiệc và chàng rể kêu van.
Sáu trăm lít nước lã đầy sáu chum đá đã được biến thành rượu ngon tuyệt hảo là một quà tặng đầu tay của Chúa Con ban tặng cho đôi tân hôn, mở màn khai mạc công trình cứu thế. Cũng thế, vũ trụ phong phú được sáng tạo là quà tặng đầu tay của Chúa Cha ban cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại, đã mở màn cho một cuộc sống hạnh phúc trong cảnh địa đàng. Tại sao món quà sáng tạo và cứu thế được Thiên Chúa ban tặng trước nhất cho đôi tân hôn?
Thưa tân hôn như gốc rễ của cây nhân loại. Cành lá tươi tốt xum xuê, hoa trái thơm tho, ngọt ngào là nhờ gốc rễ hút chất bổ dưỡng dồi dào. Cành lá, hoa trái đèo đẹt, héo tàn là tại gốc rễ hút những chất chua phèn, cằn cỗi. Hôn nhân hấp thụ những nguồn trần tục, dòng dõi bị ô nhiễm bệnh hoạn. Hôn nhân hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ tràn ra từ Thiên Chúa, dòng dõi tốt đẹp, hạnh phúc.
Ban đầu, Thiên Chúa đã đặt hôn nhân là yếu tố cơ bản cho việc tiếp tục phát triển và bảo tồn công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tiếc thay cho đôi vợ chồng đầu tiên đã làm hỏng quà tặng quý báu của Thiên Chúa. Các đôi kế tiếp không còn rượu ngon nữa. Cuộc sống loài người như tiệc cưới hết rượu. Mọi món đều nhạt nhẽo, ôi ỉu. Nguồn vui đã mất. Thiên Chúa đã xa vắng.
Nay tân hôn Cana, Con Thiên Chúa đã đến. Nguồn vui sống lại cho loài người. Mọi món đều đậm đà hương vị.
Không phải hương vị rượu ngon, mà là hương vị tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa, như tiên tri Isaia đã diễn tả: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Đồ chồng bỏ. Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “phận hẩm duyên ôi”. Nhưng ngươi được mệnh danh: “Ái khanh lòng ta hỡi”, và xứ sở ngươi: “cô gái có chồng, vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Người kết hôn cùng xứ sở ngươi”. Như chàng thanh niên lấy nàng trinh nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về” (Bài I). Đấng tác tạo đây chính là Con Thiên Chúa mà nhờ Người muôn vật được tạo thành (Ga. 1,3). Ngươi đây chính là Hội Thánh mà thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh ; như vậy Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy… thánh thiện, tinh tuyền” (Eph. 5, 25-27). Đức Kitô hiện diện trong tiệc cưới Cana chính là để mở màn cho một cuộc hôn nhân muôn thuở giữa Đức Giêsu và Hội Thánh. Người không chỉ tặng cho Hội Thánh thứ nước lã, mà là thứ nước chảy từ Trái Tim Người để thanh tẩy, thánh hóa Hội Thánh, không phải thứ rượu nho thơm ngon, mà chính Máu châu báu Con Thiên Chúa làm cho Hội Thánh nên thánh thiện tinh tuyền, không phải thứ tình yêu dâng hiến hạnh phúc loài người, mà là tình yêu dâng hiến hạnh phúc muôn thuở của Thiên Chúa làm cho Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy.
Hội Thánh muốn được trở nên cô dâu lộng lẫy, thì Hội Thánh phải mời Đức Mẹ đến dự cuộc sống của mình. Mẹ sẽ cầu cứu cho Hội Thánh được thứ rượu ngon mãi mãi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cầu xin Chúa ban quà tặng chan chứa niềm vui cho tiệc cưới Cana. Xin Mẹ đoái thương cầu bầu cùng Chúa cho mọi đôi hôn nhân biết đón nhận những quà tặng sáng tạo và cứu độ của Chúa để làm cho đời sống gia đình họ được ấm no hạnh phúc trong tình yêu nồng nàn và hấp thụ nguồn suối hoan lạc chân thiện mỹ chảy ra từ Thánh Tâm Chúa.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một số người cho rằng Chúa Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giê-su còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Ca-na chứng tỏ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giê-su đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giê-su xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.
Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giê-su để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giê-su cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.
Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giê-su nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giê-su thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giê-su đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bê-ta-ni-a đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giê-su phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng… cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giê-su không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giê-su không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34).
Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mát-thêu 25, 31-46)
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su.
Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giê-su, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KHỞI ĐẦU CÁC DẤU LẠ (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Trong suốt mấy Chúa nhật liên tiếp vừa qua tôi đã nói với anh chị em rất nhiều về Chúa Giêsu. Hôm nay tôi muốn anh chị em nhìn vào Đức Giêsu như một Đấng có uy quyền.
TRÌNH BÀY SỰ KIỆN
Khung cảnh Chúa chọn để biểu lộ uy quyền của Người ra hôm nay là một khung cảnh có tính cách xã hội loài người: Một bữa tiệc cưới. Đám cưới mà Tin Mừng ghi lại hôm nay xẩy ra tại Cana, cách quê hương Nagiareth của Chúa khoảng 14 cây số.
Chúa Giêsu và Đức Mẹ đều có mặt trong tiệc cưới này.
Đám cưới của người Do Thái thường kéo dài 3-4 ngày. Có khi kéo dài cả một tuần.
Vì là một xứ trồng nho nên người Do thái có nhiều rượu nho. Trong các bữa tiệc và đặc biệt là trong những bữa tiệc có tính cách quan trọng như tiệc cưới thì rượu là một thứ bắt buộc phải có và có một cách dồi dào.
Chúng ta không biết đám cưới bài Tin Mừng hôm nay kể lại đã chuẩn bị như thế nào nhưng chỉ biết là bữa tiệc vui đang nửa chừng thì hết rượu. Mà hết rượu giữa một bữa tiệc vui như thế đối với người Do thái là một điều ô nhục không thể tha thứ được.
Tin Mừng không cho chúng ta biết cô dâu và chú dể có biết sự việc này hay không nhưng Tin Mừng cho chúng ta biết thật rõ sự can thiệp của Đức Mẹ.
Khi khám phá ra sự việc có thể gây nên sự ô nhục cho đôi tân hôn giữa ngày vui của họ như thế, Đức Mẹ đã đến ngay với Chúa Giêsu. Chỉ bằng một vài lời Đức Mẹ đã cho Chúa biết sự việc đang diễn ra rất xấu cho đôi tân hôn.
Thoạt đầu thái độ của Chúa xem ra có vẻ thật lạnh nhạt. Thế nhưng hình như Đức Mẹ không để ý đến điều đó.
Thời giờ không cho phép trần chừ. Đức Mẹ ra lệnh cho những người giúp việc: “Người bảo gì thỉ phải làm theo”
Và quả thực Chúa đã ra lệnh. Nước được đổ đầy các chum – và khi múc nước đưa cho người quản tiệc – nước đã hóa thành rượu. Thật là tuyệt vời.
Và thánh Gioan tác giả của bài Tin mừng hôm nay không quên ghi chú cho chúng ta biết một chi tiết rất nhỏ nhưng cũng rất đặc biệt này: Đây là Pháp lạ đầu tiên Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilêa và các môn đệ Người đã tin Người. Đây không phải là một ghi chú có tính cách ngẫu nhiên nhưng là một ghi chú có dụng ý như tôi sẽ trình bày cùng anh chị em sau đây.
BÀI HỌC
Bài học có nhiều nhưng tôi chỉ xin được chia sẻ với anh chị em hai bài học này:
-Các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng với Phép lạ Chúa thực hiện vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai của Người hôm nay Chúa có ý muốn chuẩn bị xa cho một Phép lạ còn vĩ đại hơn mà Chúa sẽ làm sau này vào cuối cuộc đời công khai của Ngài. Chắc anh chị em đã biết đó là Phép lạ nào. Đó là Bí tích Thánh thể.
Hôm nay trong bữa tiệc Chúa làm cho nước trở thành rượu.
Vào ngày thứ năm tuần thánh cũng trong một bữa tiệc Chúa làm cho bánh trở thành mình và rượu trở thành máu Ngài
Việc làm cho nước trở thành rượu trong bài Tin Mừng hôm nay quả là một bước nhảy vọt. Chỉ cần bằng một lệnh truyền Chúa làm cho nước lập tức trở thành rượu không cần phải qua bất cứ một trung gian hay một chất xúc tác nào. Hôm nay thì như vậy, mai sau cũng như thế. Cũng bằng một lệnh truyền Chúa làm cho bánh rượu trở thành Mình và Máu thánh Chúa cũng không qua bất cứ một trong gian và không cần qua một chất xúc tác nào. Đây quả là một bước nhảy vọt phải được hiểu bằng niềm tin chứ không thể hiểu được bằng lý trí thông thường của con người.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa. Nhưng việc Chúa làm thật lạ lùng, …thật khó hiểu nhưng nhưng lại rất thật cho những ai biết tin tưởng vào Người. Hôm nay trong thánh lễ: cũng lại là một bữa tiệc. Bữa tiệc nước trời. Đi dự tiệc mà không ăn không uống thì có lẽ việc đó không bình thường. Chúng ta hãy đến với Chúa. Chúa chính là lương thực cho chúng ta.
Bài học thứ hai: Vai trò và địa vị của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ở đầu Lịch sử của loài người trong Sáng Thế Ký chúng ta đã thấy hình ảnh của một người phụ nữ xuất hiện và rồi trong Khải Huyền cuốn sách cuối cùng trong bộ Kinh Thánh chúng ta lại thấy Mẹ có mặt nhưng không phải trong dáng vẻ khổ đau mà như một hoàng hậu mặc áo mặt trời chân đạp vầng trăng đầu đội triều thiên 12 ngôi sao. Từ sự việc dó chúng ta có thể đi đến một hệ luận: Đức Mẹ luôn có mặt trong toàn bộ lịch sử của loài người và uy quyền của Đức Mẹ thật lớn lao: Đạp dập đầu con rắn tức là Satan để cùng với con của Mẹ đưa Lịch sử ơn cứu độ đến chỗ toàn thắng vinh quang.
Cha J.B Bonsoli người Italia sang Ấn độ để truyền giáo. Suốt 20 năm Ngài đã rửa tội cho 20.000 người. Trong một chứng từ viết năm 1975 Ngài có kể lại một sự kiện như sau: Hôm đó tôi rời cứ điểm truyền giáo Đam-ma để đi một vòng bằng xe đạp. Khi đi được khoảng 30Km thì tôi bị lạc vào một khu rừng. Càng đi vô thì cây cối càng rậm rạp.Tôi vừa đi vừa sợ nhất là khi nghe thấy những tiếng hú của những con báo.
Trời đã gần tối tôi thầm cần nguyện xin Đức Mẹ giúp tôi. Đi thêm khoảng 5Km nữa thì tôi thấy có một con đường nhỏ, tôi liền rẽ vào con đường này. Đi được khoảng vài trăm mét thì tôi thấy có một ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn.
Tôi cho xe dừng xe lại, dựng xe bên cạnh một gốc cây rồi lên tiếng hỏi: “Có ai trong nhà không? “
Có tiếng nói từ trong nhà nói vọng ra: “Có nhưng xin ông đừng bước vào vì tôi bị bệnh hủi”
Mặc dầu biết như vậy nhưng tôi vẫn bước vào. Trước mặt tôi là một người đàn ông đang nằm co quắp lại vì đau đớn. Hỏi ra mới biết trước kia người này là một ông thầy cúng. Rồi trong sự thân tình hiếm có người này nói với tôi về phép Rửa tội. Ông còn quả quyết: “Con biết là con phải lãnh Bí tích Rửa tội.”
– Làm sao mà ông biết được điều đó? Ai đã nói với ông như vậy? Có phải là một giáo lý viên không?” Tôi hỏi lại.
Ông đáp :”Cách đây hai tháng có một bà mặc áo đẹp lắm vào căn nhà này và nói với con: Con chịu đau khổ nhiều nhưng con đừng nản. Ta sẽ sai một người đến thăm con và đổ nước rửa tâm hồn con và ta sẽ đem con về trời”
Tôi đưa tay vào túi áo rút mẫu ảnh Đức Mẹ phù hộ ra đưa cho ông ấy xem. Vừa nhìn thấy ông đã kêu lên: “Đúng rồi. Đúng là bà này. Chính bà đã đến thăm con hai tháng trước đây”
Chắc chúng ta đã biết được câu truyện kết thúc đẹp như thế nào.
Khi nói về người mẹ thi hào Tagore đã viết: con là vầng trăng mẹ là mây. Mây ôm lấy cả vầng trăng. Con như bờ cát, mẹ là sóng nước. Sóng nước trào lên làm mát bãi cát trong nắng khô.
Chúng ta hãy dành cho Đức Mẹ một chỗ trong cuộc đời của ta. Có Đức Mẹ thì sẽ có Phép lạ.
Cuộc đời sẽ có lúc vui như ngày cưới: Hãy dành cho Đức Mẹ một chỗ ở đó.
Cuộc đời có những lúc thảm bại như ở đỉnh đồi Golgotha. Cũng hãy dành cho Đức Mẹ một chỗ ở đó.
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm,
Có Đức Mẹ ở cùng thì niềm vui sẽ trọn vẹn.
Có Đức Mẹ bên cạnh thì cô đơn sẽ lùi xa.
Có Đức Mẹ chỉ đường thì sẽ không sợ lạc lối.
Có Đức Mẹ ở bên thì chắc sẽ thành công.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TIỆC CƯỚI CANA, PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU- Trích Logos C
Nửa Chừng Xuân, Đó là tên một cuốn truyện nổi tiếng của một nhà văn Khái Hưng, được xuất Bản vào năm 1934.
Truyện kể về mối tình rất đẹp của chàng trai con nhà quan giàu có tên Lộc và nàng con gái nhà nghèo nhưng xinh đẹp và đức hạnh tên là Mai.
Trong một xã hội khắt khe, đòi hỏi các cuộc hôn nhân phải “môn đăng hộ đối”, gia đình của chàng trai đã phá vỡ hạnh phúc của đôi uyên ương, đã tìm cách chia rẽ mối tình của họ, khiến cuộc hôn nhân của họ Bị dang dở.
Nàng con gái tên Mai đã trở thành “thiếu phụ nửa chừng xuân” của một cuộc hôn nhân không trọn vẹn.
Câu chuyện trên đây đã gợi lên cho chúng ta nhiều câu hỏi về cuộc sống của niềm tin, về cuộc sống hôn nhân gia đình, mà phép lạ tại tiệc cưới Cana sẽ cho chúng ta những câu trả lời.
Chúa Giêsu cùng Mẹ Maria và các môn đệ đi tham dự tiệc cưới tại Cana. Đến nửa cuộc vui, những Bàn tiệc hết rượu. Mẹ Maria đã can thiệp vào hoàn cảnh Bất ngờ đó. Mẹ nói với Chúa Giêsu :”Họ hết rượu rồi !”. Chúa đã trả lời: ”Giờ Con chưa đến” nhưng Mẹ vẫn Bảo gia nhân: ”Ngài Bảo sao, cứ làm vậy !”. Chúa Giêsu đã Biến nước lã trong sáu chum đựng nước thành sáu chum đựng rượu hảo hạng.
Niềm vui trong tiệc cưới tưởng chừng như dang dở, nhưng lại được đổ đầy chan chứa…
Phép lạ tại tiệc Cưới Cana, dấu chỉ của niềm vui.
Đây là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu đã thực hiện tại Cana xứ Galilêa. Ngài tỏ lộ vinh quang của Ngài để khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ.
Như nước nho được ép và ủ trong hầm, phải trải qua một tiến trình lên men để thành rượu, con người cũng phải trải qua cuộc hành trình của sự Biến đổi nhờ chất men của niềm tin để trở thành con người mới. Như nước lã Biến thành rượu ngon, niềm tin đã thúc đẩy tiến trình của sự Biến đổi : Cái cũ trở thành cái mới; nỗi Buồn trở thành niềm vui.
Phép lạ tại tiệc cưới Cana chính là một Biểu tượng, một dấu chỉ của niềm vui mới : Những chum nước rửa tay trong Cựu Ước đã Biến thành những chum rượu ngon của Tân Ước.
Đã qua rồi một Đạo Cũ nhạt nhẽo vô vị mà thay vào đó là Đạo Mới đầy hoan lạc. Đã qua rồi một trật tự cũ đã đóng rêu trong sự khô cứng, Buồn thảm mà thay vào đó là thế giới mới mang hương vị của niềm hân hoan Bất tận.
Chúa Giêsu đã đến để rót tràn đầy niềm hân hoan vào lòng thế nhân.
Ngài rót tràn đầy niềm hy vọng vào những tâm hồn đang u sầu thất vọng.
Ngài rót tràn đầy sự Bình an vào những trái tim đang xao xuyến âu lo.
Chúa Giêsu trở thành nguồn suối hạnh phúc vô tận cho tất cả chúng ta : càng múc, nước càng tuôn trào.
Ngài đang rót đầy ắp niềm vui vào cuộc đời với rất nhiều sự Buồn phiền của Bạn, của tôi, của chúng ta. Miễn là chúng ta hãy mời Ngài đến dự Bữa tiệc cuộc đời chúng ta. Hãy để Ngài thực hiện phép lạ khi niềm hạnh phúc cuộc đời chúng ta chợt vơi cạn đi vì những khổ đau dày vò.
Tiệc cưới Cana, phép lạ của tình yêu.
Đây là phép lạ đầu tiên về tình yêu mà Chúa muốn tỏ lộ cho những ai đang ở trong cuộc sống hôn nhân hoặc sắp Bước vào cuộc sống gia đình.
Hiện nay có nhiều cuộc hôn nhân “nửa chừng xuân”, nhiều cuộc hôn nhân dang dở. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy: vì áp lực xã hội, vì những chật vật khó khăn trong cuộc sống áo cơm. Vì sự thiếu thủy chung, vì ích kỷ, vì thiếu lòng quảng đại và khoan dung, …
Nhiều cuộc sống Hôn Nhân và gia đình ngày nay đang thiếu rượu tình yêu. Ly rượu tân hôn không còn hương vị thắm nồng. Rượu nhạt thì tình phai, thậm chí vơi cạn cả niềm hạnh phúc hằng khát khao.
Chúa đến để thực hiện phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon. Ngài sẽ rót dồi dào rượu tình yêu vào cuộc sống gia đình đang Buồn khổ, chán chường để làm sống dậy niềm hạnh phúc đã lịm tắt.
Nhưng trong đại dương tình yêu của Ngài, mỗi người múc được Bao nhiêu là tùy dung tích Bình chứa tâm hồn chúng ta.
Hãy mở rộng trái tim và cõi lòng để đón nhận tình Chúa và tình người. Hãy Biết đón nhận Chúa và đón nhận nhau trong sự rộng lượng và thứ tha. Trái tim chúng ta càng phung phí cho đi, càng nhận lãnh dồi dào và giàu có.
Mỗi chén đắng trong cuộc sống gia đình, nếu Bỏ vào đó chút men tình yêu, ta được chén rượu ngon ngọt ngào. Hãy Biết uống cạn chén hy sinh vì nhau để Chúa sẽ đổ thêm niềm vui tràn trề.
Mẹ Maria, người cứu vớt tình yêu
Mẹ Maria đã hiện diện trong tiệc cưới Cana rất âm thầm nhỏ Bé, nhưng lại là kẻ cứu gỡ cho gia chủ trong hoàn cảnh khó khăn.
Khi Buổi tiệc hết rượu, Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi !”.
Mẹ cũng đang hiện diện trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của chúng ta. Chỉ có Mẹ Maria, một người vợ, một người mẹ tuyệt vời, mới nhìn thấy những điều nhỏ nhặt nhất nhưng lại quan trọng nhất : hết rượu tình yêu! Hãy xin Mẹ luôn hiện diện trong gia đình chúng ta để giúp chúng ta vượt qua những thử thách của tình yêu.
Khi Mẹ nhắc Chúa Giêsu : “Họ hết rượu rồi!”, Chúa Giêsu đã trả lời : “Giờ Con chưa đến”.
Có lẽ chưa đến giờ của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, chưa đến giờ Chúa được tôn vinh, nhưng trong tấm lòng nhân từ của Chúa, luôn luôn đã đến giờ của tình thương.
Hãy xin Chúa đến để giúp đỡ chúng ta vượt qua những phong Ba Bão táp trong gia đình chúng ta.
Nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài để Ngài thực hiện phép lạ tình yêu trong cuộc sống hôn nhân : Mẹ Maria luôn nhắc chúng ta điều đó : “Người Bảo gì, hãy cứ làm theo như vậy !”
Đức Cha F.Sheen đã nói một câu rất hay : Trái tim con người như một chiếc cối xay : Bỏ lúa vào đó, Bạn sẽ có Bột, đổ đá vào, Bạn sẽ được cát sạn.
Hãy Biết cộng tác với ơn Chúa, để đổ đầy những chum nước gia đình Bằng tình thương mến, để Chúa sẽ Biến đổi thành sự rượu ngon thắm nồng. Hãy đổ đầy cuộc sống gia đình Bằng những hy sinh quên mình, để Chúa Biến đổi thành niềm vui và sự Bình an.
Ngày xưa, tại một ngôi làng nổi tiếng với nghề sản xuất rượu nho. Một năm kia, dân làng tổ chức một ngày Hội Rượu Nho. Họ đóng một cái thùng thật lớn để đựng rượu, đặt giữa làng. Mỗi gia đình sẽ góp chung vào đó hai lít rượu để dùng trong ngày lễ hội.
Có một chủ nhà keo kiệt kia nghĩ thầm trong lòng : “với một thùng rượu lớn như thế, ta có đổ vào hai lít nước cũng chẳng sao và cũng chẳng ai Biết !”
Thế là thay vì đổ vào hai lít rượu, ông ta đã đổ vào hai lít nước.
Đến ngày lễ hội, dân làng tề tựu đông đủ, người ta mở thùng múc rượu ra uống, thì hỡi ơi, trong thùng hầu như toàn là nước lã ! Vì không chỉ có một ông chủ nhà keo kiệt, mà có rất nhiều người cũng nghĩ như ông ta, nên thay vì góp rượu, họ đã đổ nước lã vào thùng : rượu nho đã hóa thành nước lã ! vì người ta đã đổ vào thùng sự ích kỷ, nên chỉ lấy ra được sự Bất trung !
Qua phép lạ tại tiệc cưới Cana, chúng ta hãy xin Chúa Biến đổi chúng ta từ con người cũ tội lỗi thành con người mới tràn đầy ân sủng của Chúa Thánh Thần, Biết góp phần xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội (1Cr 12, 4-11).
Chúa đã yêu thương Giáo Hội như tình yêu của Phu Quân dành cho Hiền Thê (Is 62, 1-5). Chúng ta hãy đáp lại Bằng tình yêu mến thiết tha dành cho Chúa và Bằng tình yêu thương chân thành dành cho tha nhân.
Hãy xin Chúa tạo cho chúng ta một trái tim đủ lớn để chất chứa tình yêu. Với trái tim ấy, chúng ta càng cho đi thì nó càng giữ lại nhiều hơn.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ĐỂ CHO TÌNH MẶN NỒNG– Lm.Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).
Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).
Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Luca về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:
– Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng tử 80 dến 120 lit nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!
Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tuần một lần. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.
– Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tầm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng “ngà ngà say”, nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.
“Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng“. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bễ đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.
– Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều (x. Mc 6,30-34). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.
– Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.
– Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.
– “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.
Tu thân -Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA- Lm. GB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R
Thời nay, đài truyền hình làm chương trình “chìa khóa thành công” hướng người trẻ khám phá và phát triển những khả năng của bản thân, hầu thành công trên đường đời.
Sáng kiến của đài truyền hình thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, đối với người tín hữu, mọi hoạt động của cuộc sống con người phải bắt đầu từ việc sống lời Chúa.
Trình thuật Tin Mừng tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11) sẽ soi sáng điều này.
TIỆC CƯỚI
Rất tự nhiên, để sống đời hôn nhân, đôi nam nữ chính thức tuyên bố cho mọi người biết về sự chung sống của họ nơi bữa ăn mà người đời thường quen gọi là tiệc cưới.
Ngày hôn lễ, đôi tân hôn hạnh phúc tràn ngập; khách dự tiệc, họ hàng thân hữu hân hoan chúc tụng… và mong ước cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, vẹn nghĩa thủy chung… Tại tiệc cứơi Ca-na, Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự để chia sẻ niềm vui với nhà cưới.
Ngày cưới, khởi đầu cuộc sống hôn nhân, mọi người và nhất là đôi tân hôn mong ước mọi sự diễn ra tốt đẹp, bởi đầu có xuôi thì đuôi mới lọt.
Vậy mà, tại tiệc cưới Ca-na, đang khi mọi người vui say hào hứng, thì nào có ai biết, nhà cưới lại đứng trước nguy cơ tắc trách. Hết rượu!
Ai đã phát hiện ra điều này? Mẹ Ma-ri- a.
Với tất cả tấm lòng nhậy cảm của một người mẹ lo toan chăm sóc trong gia đình, Mẹ đã sớm phát hiện ra nguy cơ lúng túng của nhà cưới và nói với Đức Giê-su con của Mẹ: “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Bây giờ, xử lý giải pháp này ra sao? Mẹ dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).
CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA
Bằng lời quyền năng: “đổ nước vào các chum” (Ga 2, 7) Đức Giê-su đã cứu nguy cho nhà cưới một bàn thua trông thấy. Dấu lạ đã xảy ra, nước lã đã hóa rượu ngon, nhà cưới đã thoát hiểm, niềm vui tiếp tục dâng cao.
Từ dấu lạ đầu tiên tại Ca-na, các môn đệ đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa và “tin vào Người” (Ga 2, 11) và sau này xác tín mạnh mẽ: chỉ nơi Chúa Giê-su ” mới có những lời mang lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Thì ra, sau khi tội nguyên tổ ập xuống trên con cháu, cuộc sống của con người không hoàn toàn tuyệt mỹ. Dầu người ta có mong ước mọi chuyện tốt đẹp nhưng sự tắc trách vẫn luôn rình rập và tai họa có thể ấp đến bất cứ lúc nào.
Đến nay, trong Chúa Giê-su, không chỉ mọi khó khăn trong sinh hoạt thường ngày của đời người sẽ được giải gỡ, mà sâu xa hơn, nơi Người, Thiên Chúa thông đạt thiện ý nhiệm mầu (Dt 1, 1) “Thiên ý này là kế hoạch yêu thương. Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1, 9).
Lắng nghe lời Chúa Giê-su, người ta biết được Thiên Chúa là Cha, biết Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, biết được sự sống đời đời “sự sống đời đời là được nhận biết Cha Thiên Chúa duy nhất chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17, 3).
Qua nhiều cách, Chúa vẫn đang ban lời của Người cho nhân loại để giải thoát con người mọi bế tắc, giúp họ tìm lại nguồn hạnh phúc, hướng dẫn họ tìm được giải pháp để thành công. Nhờ vậy, họ không còn phải đi trong bóng tối mà bước đi trong ánh sáng. Lời Chúa tiếp tục vang lên nơi Hội Thánh.
LỜI CHÚA NƠI HỘI THÁNH
Trước khi về trời Chúa Giê-su đã ban cho Hội Thánh nhiệm vụ công bố lời Người. (Mt 28, 18-20).
Hội Thánh không thể quên dấu lạ nước lã hóa rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na được gợi lên từ sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a, từ tình yêu tuyệt đối của Đức Giê-su.
Dầu là người mẹ của Con Thiên Chúa quyền năng những Mẹ Ma-ri-a chưa hề xin cho bản thân hay cho Thánh Gia một dấu lạ nào. Có chăng, Mẹ chỉ âm thầm hy sinh và suy gẫm những kỷ niệm Chúa ban cho gia đình (x. Lc 2, 19). Vậy mà, nơi tiệc cưới Ca-na, vì hạnh phúc của nhà cưới, Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng khẩn cầu Chúa “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Rõ ràng chính tình yêu và lòng quảng đại và sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a đến đồng loại đã làm nên sự biến đổi diệu kỳ: nước lã được biến đổi thành rượu hảo hạng. Trong ân sủng và tình thương, mọi bế tắc sẽ được giải gỡ, những khó khăn sẽ không còn, mọi lo lắng sẽ thành niềm vui và hoan lạc.
Nối tiếp sứ vụ của Chúa, và gương sáng của Mẹ Ma-ri-a, Hội Thánh sẽ mang trọng trách không ngừng loan báo lời Chúa cho muôn người, thể hiện qua những sinh hoạt của Hội Thánh (cụ thể nơi những thành phần như: Đức Giáo Hoàng – các Đức Giám Mục nhất là Đức Giám Mục giáo phận – các linh mục – giáo dân – các vị thừa sai khắp nơi…) bằng lời rao giảng, bằng sự quan tâm trách nhiệm dấn thân, bằng tình yêu và bằng chính mạng sống của mình.
Đứợc Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 14, 17), Hội Thánh xác tín mọi ơn ban đều là quà tặng của Chúa Thánh Thần “có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12, 4) được ban cho nhiều người khác nhau không phải để mưu ích cho cá nhân mà là ” vì ích chung” (1Cr 12, 7).
Từ đó, Hội Thánh vững vàng tin tưởng chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc cho người tín hữu nhớ việc làm và lời dạy của Chúa Giê-su (Ga 14, 26). Trời đất dẫu qua đi nhưng lời Chúa thì sẽ tồn tại mãi (x.Mt 24, 35).
KẾT
Thành công là mong ước chính đáng của mọi người. Cách riêng thành công của người tín hữu được xây trên nền tảng lời Thiên Chúa, trong sự nguyện cầu của Mẹ Ma-ri-a.
Thế nên, người tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su và tin tưởng Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1, 1. 14), ban lời sự sống vĩnh cửu cho con người (x. Ga 6, 68).
Với tâm hồn vui mừng, tạ ơn, người tín hữu đón nhận Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng soi sáng chỉ đường (Tv 118), biến đổi thành họ thành những người con đích thực của Chúa, hầu lãnh nhận “phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CÓ MẸ ĐỒNG HÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Theo Phúc Âm Thánh Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Khi một Linh mục hay một Giám mục đi dự một đám cưới, chẳng qua là vì tình nghĩa, chứ không phải vì thích ăn uống. Chúa Giêsu đến dự đám cưới này cũng vì tình nghĩa, vì yêu thương, vì đây có lẽ là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestine tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, quả thực là cơ hội vô cùng đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày. Đám cưới Cana này mới đến ‘ngày thứ ba’ thì đã hết rượu rồi. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối, khó xử. Các rabbi vẫn nói: Không rượu thì không vui, hay người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Sự thật, đối với họ say rượu là một điều xấu hổ, nên họ uống rượu pha hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều xấu hổ, nhục nhã cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Chúa Giêsu chia sẽ cho cô dâu chú rễ, cho họ hàng đôi bên và mọi người niềm vui của Chúa mà rượu là biểu tượng như lời thánh vịnh 109: Rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Ơn cứu độ là niềm vui. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Phúc Âm Gioan chỉ có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Phúc âm Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó.
Chẳng hạn:
– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tự giới thiệu: Ta là bánh hằng sống.(Ga 6)
– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: Ta là ánh sáng thế gian.(Ga 9)
– Sau khi cho Lazarô sống lại, Chúa tự nhận: Ta là sự sống lại và là sự sống.(Ga 11)
Vậy phép lạ Cana mang một ý nghĩa nào?
– Phép lạ xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu ước, để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với dân Israel, các Ngôn sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới vời dân mình, Thiên Chúa là chú rễ. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Yuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà.
– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc: Bữa tiệc là hình ảnh đựơc dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Messia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người vì mình là chú rễ, là tân lang. Người coi giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ.
Đọc Tin mừng Chúa nhật hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rễ lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môisen. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rễ thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu ước thành rượu Tân ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
– Tiệc cưới Cana là biểu tượng tiệc cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể;
Bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui ơn cứu độ cho con người.
Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mính Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh hằng sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Chúa.
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Phúc âm Gioan chỉ nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19,25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo hội, với người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẽ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước nhan thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: họ hết rượu rồi và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: Hãy làm mọi điều Chúa bảo.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NOI GƯƠNG ĐỨC MẸ VỮNG TIN VÀO CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại tiệc cưới tại Cana diễn ra vào “ngày thứ ba”, nghĩa là sau khi Chúa Giêsu thu nhận các môn đệ xong, cả thầy lẫn trò cùng nhau dự tiệc cưới : “Ba ngày sau, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới” (Ga 2,1-2).
Ít nhiều, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tiệc cưới. Không phải tiệc cưới của mình, người thân gia đình, thì tiệc cưới của người khác! Nhất là của những người thân quen hay bè bạn, mà chúng ta được mời tới dự. Nên chúng ta dễ dàng hình dung ra cảnh tiệc cưới.
Nhìn vào đám cưới tại Cana trong Tin Mừng hôm nay, ngẫm về những tác động hữu ích do sự hiện diện của Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ Người, trong các hoạt động đời thường của con người chúng ta. Chúa Giêsu và Đức Maria, với địa vị khác nhau, mang theo sự hiện diện của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Chúa là chân, thiện, mỹ, Ngài ở đâu, thì có tình yêu, ân sủng và phép lạ ở đó. Như mặt trời chiếu tỏa ánh hào quang, trái đất được có ánh nắng sưởi ấm, vận vật cỏ cây sẽ đơm hoa kết trái. Đồng nghĩa với việc, khi chúng ta để cho Thiên Chúa đến gần chúng ta, sự tốt lành, bình an và hạnh phúc của Thiên Chúa sẽ lớn lên trong chúng ta.
Phương tiện mà Thiên Chúa chọn để hiện diện giữa loài người và tiếp xúc với loài người là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa. Công việc của Thiên Chúa ở giữa thế gian là bản tính con người của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Đức Maria. Cô dâu và chú rể tại Cana đã không nghi ngờ gì khi mời Chúa Giêsu và Đức Maria đến dự cưới! Lời mời này có lẽ là do tình thân huyết tộc nào đó.
Chúa Giêsu đã nhận lời mời đến dự tự cưới, vì Chúa ủng hộ mối quan hệ con rất tình người và chân thành của họ. Tính trung thực và tốt lành của gia đình này đã lôi cuốn Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong ngày cưới của họ. “Đây là phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người” (Ga 2,11). Chính tại Cana xứ Galilêa, Chúa Giêsu đã bắt đầu thực hiện các phép lạ phi thường của mình, và ở đó, Đấng Thiên Sai đã mở rộng tâm hồn các môn đệ và thông ban cho họ ơn đức tin qua sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria, người tín hữu đầu tiên.
Và nếu Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã đi ăn cưới, và với sự hiện diện của mình, Người đã thánh hóa mối tình của đôi tân hôn bằng việc hóa nước thành rượu. Người đến đám cưới, không phải đến để ăn một bữa tiệc cho vui như bao nhiêu bữa tiệc khác. Người đến để mạc khải một sự diệu kỳ, đầy ngưỡng mộ. Người đến dự tiệc cưới, không phải để uống rượu, nhưng để trao ban cho gia nhân rượu ngon nồng. Thì sự hiện diện của Đức Maria và của các môn đệ Chúa Giêsu cũng hết sức đặc biệt. Trong tiệc cưới, Đức Maria đã hiện diện không như khách, nhưng như thành viên đóng góp vào biến cố niềm vui. Vì thế Mẹ biết rõ tình trạng thiếu rượu. Hết rượu là mất vui, là đụng chạm đến ý nghĩa của đám cưới. Vì rượu không chỉ cần cho bữa tiệc, nhưng còn tượng trưng cho niềm vui gặp gỡ. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2,3) Trước sự cố này, Đức Giêsu có vẻ không vui khi nói : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,4).
Tuy vậy, Mẹ vẫn tin tưởng vào Con Mẹ. Giờ của chưa tới, nhưng Mẹ tin rằng, Người có thể “chỉnh giờ” lại. Quả thực, Chúa Giêsu đã hành động : vừa đáp lại lời cầu bầu của Đức Maria để cứu bữa tiệc, vừa mở rộng ý nghĩa của hành động này. Sáu chum nước lớn, vốn dùng để thanh tẩy theo Luật cũ và đức công chính cũ, Người đã làm cho trở nên viên mãn khi hóa nước thành rượu, tượng trưng cho ơn tha thứ, hòa giải và niềm vui, cho đức công chính của Đức Giêsu, mà Thiên Chúa trao ban nhưng không cho loài người và cho mỗi người chúng ta.
Hình ảnh nước biến thành rượu do quyền năng của Chúa Giêsu và sự can thiệp của Đức Maria rất phù hợp với con người và cuộc đời của chúng ta. Hình ảnh “đổ đầy tới miệng” diễn tả sự trọn vẹn và dư tràn. Thực vậy, trong đời ta, trên hành trình theo Chúa trong ơn gọi, có thể có niềm vui đứt đoạn ; hành trình nhạt nhẽo : xin Mẹ để ý nhìn xem, quan tâm nâng đỡ phù hộ, và xin Chúa ban niềm vui làm cho thơm ngon như rượu mới tại tiệc cưới Cana.
“Người bảo gì các anh cứ làm theo” (Ga 2,5). Đây là lời nói cuối cùng của Đức Maria, không chỉ dành cho những người phục vụ tiệc cưới, nhưng còn cho người môn đệ Chúa Giêsu, nam cũng như nữ, thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay. Hãy tin tưởng vào quyền năng trong mọi biến cố cuộc đời. Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, hãy đặt hết tất cả lòng tin vào Chúa, phó thác cuộc đời chúng ta cho Ngài, như lời Đức Mẹ khuyên : “Hễ người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,5). Nước kia lên rượu thơm nồng, ngất ngây trong tiệc cưới tưng bừng. Lời Mẹ dạy dỗ mãi khắc ghi. Nguyện Mẹ dìu dắt mỗi bước đi. Thiên ý xa vời, Mẹ hỡi hãy luôn phù trì.
Thứ hai thì ngắm, Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Canna, ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- NĂM C
GIA ĐÌNH CÓ MẸ- Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trời có lúc mưa lúc nắng, lúc trong lúc mờ. Đời có lúc thăng lúc trầm, lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt, lúc thắm lúc phai.
Nghe sao có vẻ cải lương quá! Ấy thế mà tính chất cải lương kia lại cứ xuất hiện trong cuộc sống con người, nhất là trong cuộc đời hôn nhân. Không hiểu sao người ta hay ngâm nga: “Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở. Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.” Phải chăng bắt đầu thề ước là bắt đầu xót xa? Ngày lên xe hoa thì cũng chính là ngày ra chiến trận? Mà trong trận chiến này, nếu không khéo, có ngày sẽ bị thương vong.
Đám cưới tại làng Cana mới bắt đầu mà đã có chuyện. Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì còn đâu mặt mũi tân gia. Không chừng cô dâu chú rể sẽ phải lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào mà không cho biết trước. Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương.
Thiếu rượu thì mất vui. Đám cưới mà không vui thì có hơn gì đám ma. Với lại truyền thống xưa nay của dân tộc là “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.” Vậy mà khi khách chưa say, chất cay đã cạn. Bao nhiêu choé rượu sắm sẵn đều hết sạch. Bẽ mặt mất thôi! Chắc hẳn gia chủ lẫn tân lang và tân nương đang trải qua một phen bối rối, hốt hoảng ghê lắm. Biết tìm đâu ra rượu bây giờ?
Thấy được tình cảnh oái oăm của tân gia, Mẹ Maria đến gặp Con mình và nói: “Họ hết rượu rồi.” Đây là lời cầu cứu hay câu mẹ trách con vì đã đem theo mấy ông môn đệ nên mới làm cho người ta hết rượu? Nhưng nếu là câu trách thì tại sao Mẹ lại bảo các người hầu: “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”? Câu này hàm chứa một cái nhìn tiên tri là Chúa Giêsu sẽ ra tay để làm một điều gì đó.
Chắc rằng trong suốt 30 năm sống bên Đức Giêsu, Mẹ đã thấy rõ quyền năng và tình nhân ái bao la của con mình đối với những kẻ sa cơ hoạn nạn. Thế nên hôm nay, khi thấy gia đình tân hôn bị rơi vào trường hợp éo le nan giải, Mẹ đã tìm đến với Chúa để xin Ngài ra tay. Nhưng, có một vấn đề khác: nếu như trước đó Đức Giêsu đã từng cứu giúp những người khốn khó thì tại sao vị Thánh Sử lại bảo đây là “dấu lạ đầu tiên”?
Theo văn mạch của Thánh Gioan thì đó là phép lạ đầu tiên mà “Chúa Giêsu đã làm tại Cana xứ Galilê.” Thế ra, có thể Ngài đã từng làm dấu lạ ở nơi khác, ví dụ như tại Nazaret, nhưng tại Cana thì đó là lần đầu. Ngoài ra Thánh sử Gioan cũng nhấn mạnh trong câu kết luận rằng Chúa Giêsu đã làm dấu lạ này “để tỏ vinh quang của Ngài cho các môn đệ,” những người vừa mới đáp trả lời mời gọi bước theo Ngài được mấy hôm.
Như vậy trước đó, có thể Đức Giêsu đã từng làm dấu lạ, không phải để tỏ vinh quang, nhưng chắc là âm thầm và qua tay Mẹ Maria. Phải chăng Chúa Giêsu đã từng nhờ Đức Mẹ làm trung gian để đem cái này, chuyển cái kia cho những người cùng khốn gian nan, nên Mẹ biết rõ quyền năng và tình thương của Chúa mà chạy đến cầu cứu? Phải chăng, dù là mẹ, Đức Maria vẫn từng làm theo ý Con, và đã thấy người ta nhận được biết bao ân phúc phi thường.
Cho nên trong giờ phút cam go của gia đình có đám, Mẹ đã kêu cầu Đức Giêsu. Và sau đó, Mẹ đã nhắn nhủ các lời khuyên phát xuất từ một lòng tin tưởng vững vàng vào tình yêu tha nhân nơi Con mình. Ngài không thể không chạnh lòng thương xót trước nỗi thống khổ của con người. Và đây cũng là lời nhắn nhủ đầy kinh nghiệm của Đức Maria, người đã từng làm theo lời Chúa và thấy bao kết quả tươi đẹp trong đời.
Ngài có bảo gì thì cứ làm theo. Lời nói biểu lộ lòng xác tín Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp. Mẹ Maria biết chắc Ngài sẽ đáp lời Mẹ xin. Thế mới thấy quyền phép nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ hiệu năng dường nào. Không phải là Chúa Giêsu đã từng nói: “Giờ con chưa đến” sao? Vậy mà “Giờ con đã đến” vì lời Mẹ xin. Giáo hội đã có lý khi đưa vào kinh Cầu Đức Bà lời nguyện: “Đức Bà có tài có phép. Cầu cho chúng con” là vậy.
Các Thánh cũng công nhận rằng chẳng có sự gì Mẹ xin cùng Thiên Chúa mà không được. Thánh Antôn từng nói: “Vì Đức Maria là Mẹ, nên lời cầu xin như có sức truyền dạy trước toà Chúa Giêsu. Do đó, khi Mẹ xin gì thì không lẽ Chúa Giêsu lại không nhậm lời.” Thánh Ricarđê viết rằng: “Hễ Con quyền phép vô cùng thì Con cũng làm cho Mẹ vô cùng quyền phép. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng Con của Mẹ quyền phép vì bản tính Ngài là Thiên Chúa. Còn Đức Mẹ có quyền phép là nhờ ơn Chúa ban; nghĩa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng, phán một lời liền có hết mọi sự. Còn Đức Mẹ quyền phép vô cùng, xin một tiếng liền được hết mọi sự.”
Nhờ có Mẹ can thiệp mà Chúa Giêsu đã cứu tiệc cưới tại làng Cana khỏi cảnh bẽ mặt ê chề. Nhờ lời cầu xin của Đức Mẹ mà giờ giải cứu con người khỏi kiếp khổ đau của Chúa Giêsu đã điểm. Nhờ sự khích lệ bảo ban của Mẹ mà con người biết cộng tác với Con Thiên Chúa để mang lại niềm vui của ơn phúc đầy tràn đến muôn tâm hồn.
Hôm nay, giữa trần thế, có biết bao gia đình “sắp hết rượu.” Lắm cõi lòng đã mất hẳn niềm vui. Nhiều cuộc tình đã rơi vào bế tắc. “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” không còn nữa. Làm sao cứu vãn đây?
Nếu đời có Mẹ, người ta sẽ gặp được ơn Chúa. Mời Mẹ đến với gia đình, chẳng bao giờ Mẹ để cho rượu nồng tình thắm bị cạn khô.
Thế nên, hỡi tất cả các gia đình, mới hay cũ, đang an hoà hạnh phúc hay trắc trở lao đao, hãy cậy nhờ và phó thác cho Mẹ Maria. Chắc chắn với Mẹ và qua Mẹ, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình ra nơi gia đình anh chị em.
Không phải tình cờ mà Đấng Cứu Thế lại tỏ vinh quang của mình trong một cuộc hôn nhân. Không phải tình cờ mà vinh quang đó lại liên kết âm hưởng với sự hiện diện của Đức Maria. Trái lại, tất cả đã diễn ra trong cùng một mạc khải của Tin Mừng: gia đình có Mẹ là gia đình có Chúa; gia đình có Chúa là gia đình luôn có tình yêu tràn đầy và niềm vui dạt dào.