CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
EM CÓ PHÚC VÌ ĐÃ TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson. 6
BÀI CA “NGỢI KHEN” (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 14
CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 27
CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA- Chú giải của Fiches Dominicales 47
NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 54
LỜI CHÚC TỤNG CỦA ĐỨC MARIA (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 58
TRỞ NÊN NHỮNG EMMANUEL MỚI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 66
NÀY CON ĐẾN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 70
NHỮNG CÁNH CHIM BÁO TIN VUI- Trích Logos C.. 74
MARIA, NGƯỜI MẸ MÙA VỌNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 78
LÀM GƯƠNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 84
MONG ĐỢI TRONG VUI MỪNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 88
TÂM TÌNH THĂM VIẾNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 94
NIỀM VUI TIN MỪNG- Lm GB. Trần Văn Hào. 98
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG– C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nơi ngươi sẽ xuất hiện Ðấng thống trị Israel”.
Bài trích sách Tiên tri Mikha.
Ðây lời Chúa phán: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).
Xướng: Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai nghe! Chúa ngự trên Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.
Xướng: Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành mà Ngài đã củng cố cho mình.
Xướng: Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Người.
BÀI ÐỌC II: Dt 10, 5-10
“Này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”.
Bài trích thơ gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: ‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách'”.
Sách ấy bắt đầu như thế này: “Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 39-45
“Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.
Ðó là lời Chúa.
EM CÓ PHÚC VÌ ĐÃ TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson
Hồi ấy
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta “ngẩng đầu lên” trước Đức Kitô vinh quang đang “hiện đến” trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày “cánh chung”. Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là “Công Chúa” hay “Bà lớn”.
Đoạn văn nói cho ta hay, “Bà hấp tấp chỗi dậy”, có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. “Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai… và nay đã có thai được sáu tháng”. Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng “lên thành Giêrusalem” để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất… đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã “thừa sai”. Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: “ở nhà”… “giữa những bà con”, ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 – 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: “Shalom” có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Eâlisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.
“Đứa con nhảy lên trong bụng”. Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một “dấu chỉ” nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: “ngay từ trong lòng mẹ”, ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng “Chúa biết mình” (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn “đi trước” chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ “đổ xuống trên mọi xác thịt” (Cv 2,17-21 – Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là ‘không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng” (Lc 1,66 – 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 – 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu “tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: “Bà Eâlisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này”.
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia – en và Giuđitha (Tl 5,24 – Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”: đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Eâlisabét đã được “đầy ơn Thánh Thần”. Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là “‘quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những “đồ vật” phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể “sống động” của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người… “Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không ” (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: “Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ “Koilia” thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).
Từ “giật mình” hay “nhảy lên”, gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng” (“agalhasis”) chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng” như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là “có phúc”, vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc” này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: “Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh “Magnificat anima mea Dominum” “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
BÀI CA “NGỢI KHEN” (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những con người phận nhỏ, yếu hèn và khiêm hạ. Đó là giáo huấn của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng này.
Mk 5: 1-4a
Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Mê-si-a một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.
Dt 10: 5-10
Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống phàm nhân, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài hằng sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.
Lc 1: 39-45
Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ mình là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Chính ở nơi người thiếu nữ phận nhỏ và khiêm hạ của làng Na-da-rét này mà bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Thiên Sai khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ mẹ.
BÀI ĐỌC I (Mk 5: 1-4a)
Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, trong đó các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để báo cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, khi đám đông dân chúng tranh luận với nhau về nguồn gốc của Đức Giê-su, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Thiên Sai bởi vì theo sấm ngôn Đấng Thiên Sai phải “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).
Thân thế và sự nghiệp:
Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả miền Nam, phía tây Khê-ron.
Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này tạo nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ ngôn sứ Mi-kha định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8). Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.
Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự: ở giữa lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.
Bê-lem Ép-ra-tha:
Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ miền Nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Thiên Sai.
Một sự tương phản:
Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: sự tương phản của một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, giữa viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.
Câu này được dịch sát nghĩa theo nguyên bản bằng tiếng Do thái như sau: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi quá nhỏ bé đến nổi không thể là một trong các thị tộc Giu-đa”. Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở sấm ngôn I-sai-a đệ tam: “Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu, kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).
Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Thiên Sai:
“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”: Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Nếu lời sấm của ngôn sứ Na-than khẳng định muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16), và sấm ngôn I-sai-a đệ nhất công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14), thì ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Thiên Sai. Xưa kia, khi còn niên thiếu, Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.
“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”: Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng sấm ngôn này loan báo cuộc sống tiền hữu của Đấng Thiên Sai.
Thời thử thách và thời hy vọng:
Trước khi Đấng Thiên Sai giáng sinh ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải trải qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc miền Bắc cũng như vương quốc miền Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một người nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của con trẻ này.
Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ lời sấm của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt. Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, thì đất đai…đã bị bỏ hoang. Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (Is 7: 14-17)
Quy tụ những người tản mác khắp nơi:
“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”: Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày. Có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.
Vị Mục Tử của Ít-ra-en:
Đấng Thiên Sai sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en: “Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Ngài mà đứng lên chăn dắt họ”. Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng hoàn vũ và nền hòa bình viên mãn của Đấng Thiên Sai tương lai mang đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi đây là một bản văn được hiệu đính lại.
Từ phận nhỏ đến địa vị vĩ đại, rõ ràng đây là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ của mình, bà Ê-li-sa-bét, hoan hĩ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 5-10)
Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ Lời Chúa dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki-tô đảm nhận một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc Tử Nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.
Chúng ta không biết lai lịch tác giả thư gởi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô); bản văn của ông gần với văn phong bài giảng hơn là thư tín; ông ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su còn cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với các hy lễ của Luật Cũ.
Phụng Tự tinh thần:
Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù của hy lễ Đức Ki-tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Thiên Sai. Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng dâng hiến thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.
Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), các ngài công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm Minh Triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị cho sứ điệp Tin Mừng.
Ơn gọi của Đức Ki-tô:
Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gởi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân mình của Đức Ki-tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.
“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”: Thánh vịnh được trích dẫn ở đây nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân qua những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Thiên Sai đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hướng đến một hiến lễ cao vời.
Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm vào đây lễ toàn thiêu theo đó thân thể tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu tế vật hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng. Đức Ki-tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.
Cái chết thành hiến lễ:
“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”: Đối với Đức Ki-tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.
Thư gởi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ. Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki-tô không là một hy lễ, nhưng do kết quả của một sự xét xử sai lầm, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, không người dâng hiến, không sự thanh tẩy, không tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý và tự thân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.
Tuy nhiên, có một hy tế chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy tế của Đức Ki-tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa. Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).
TIN MỪNG (Lc 1: 39-45)
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki-tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mầng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của kinh Kính Mầng.
Đức Ma-ri-a vội vã lên đường:
Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời sứ thần đã nói cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã được cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ; Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.
Niềm vui thời Thiên Sai:
Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em bị đảo ngược. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Thiên Sai trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Thiên Sai; nhưng chính xác hơn, các Ki-tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki-tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a, “Theotokos”, Mẹ Thiên Chúa, cũng như hình thành nên phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a đã được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin qua tiếng xin vâng tròn đầy của Mẹ (Lc 1: 38).
Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi người mẹ của Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớn” và Đức Giê-su đáp trả: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều kiện tất yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.
Bài ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui thời Mê-si-a. Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc; niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng. Sứ thần cũng đã nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca trong Tin Mừng Thời Thơ Ấu theo thánh Lu-ca. Bài thánh ca này, mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:
-Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dù Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.
-Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Thiên Sai giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp và những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.
-Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Người vẫn hằng trung tín với những gì Người đã hứa.
Thánh Lu-ca là thánh ký gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua biến cố Đấng Thiên Sai ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh ký đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của người Ki-tô hữu tiên khởi đối với đức tính cao vời khôn sánh của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.
CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
Sau tuần đầu tiên nói về ngày Chúa đến, tuần II kêu gọi hãy dọn đường cho Ngài và tuần III kêu gọi hãy vui mừng vì ngày đó, Lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu Đấng sắp đến là ai : đó là Chúa Giêsu.
– Trong bài đọc I (Mk 5,1-4), ngôn sứ Mikha cho biết Đấng sắp đến sẽ là người có quê quán tại Bêlem Ephrata thuộc chi tộc Giuđa.
– Trong bài Tin Mừng (Lc 1,39-45), Thánh Luca giới thiệu những người thân của Ngài : Đức Maria và Bà Êlisabét.
– Và trong bài đọc II (Dt 10,5-10), tác giả thư do thái ghi lại lời của Đấng Cứu Thế : “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Mk 5,1-4)
Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Đấng cứu thế sẽ đến :
– Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
– Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
– Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.
Đáp ca (Tv 89)
Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước do thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.
Tác giả Thánh vịnh hình dung Đấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất ; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.
Tin Mừng (Lc 1,39-45)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Đấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết :
-Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét
-Đavít đã “kêu lên” rằng : làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên” : làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
-Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
-Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng ; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)
Bài đọc II (Dt 10,5-10)
Tác giả thư Do thái thì hình dung Đấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước :
– Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
– Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.
GỢI Ý GIẢNG
Đức Mẹ và Lễ Giáng Sinh
Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Đức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Đức Mẹ được mô tả là “người phụ nữ sinh con” (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Đức mẹ là người “đến để thực thi ý Chúa” (bài đọc II). Gương Đức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Đức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Chuẩn bị Lễ Giáng sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Đức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa : Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng”. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Đức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác : dù đường xá xa xôi, Đức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
Thăm viếng
a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê : «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế !
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói : «Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu : «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề !». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
b/ Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu ! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.
c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không ? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài đã chẳng từng nói : «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi !» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa la ø : «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài : «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15 ; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng !
***
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)
Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người : ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo : Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em ” (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác : Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh ; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác : “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Maria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ : Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (TP)
“Em có phúc vì đã tin”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Đức Maria : “Em có phúc vì đã tin”. Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng :
– “Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng : Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)
– Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết : “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
– Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Đức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Đức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)
Chúa Giáng sinh mang lại gì mới ?
Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều : một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.
Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không ? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.
Đó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Đó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Đức mẹ. Lòng Đức Mẹ đổi mới. Đức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.
Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.
Lời nguyện Mùa Vọng
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con
Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con
Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con
Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con
Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con
Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con
Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con
Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con
Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con
Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con
Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con
Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
- Cùng với Đức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
- Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
- Đức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Đức Maria.
Chủ tế : Lạy Chúa, ngày xưa Đức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác ; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin.
CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Một cảnh liên hệ chặt với Truyền Tin
Trước khi cáo từ ra đi, Sứ thần Truyền tin đã chỉ dẫn cho Đức Maria một dấu chỉ: “Kìa bà Eâlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là “hiếm hoi”, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Thế là Đức Maria, hình ảnh Giáo Hội truyền giáo người mang Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, tức thì “vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”. H. Cousin nhận định: “Luận đề về con đường xuất hiện lần đầu tiên trong một công trình, ở đó các nhân vật di chuyển nhiều. Lời khởi sự cuộc hành trình, và cuộc chạy (“lanh lẹ”) (của Lời cuối cùng dẫn Lời tới Rôma, biểu tượng của những miền đất xa xôi có người ở” (Cv 1,8. 28, 30-31) (L’ Evangile de Luc”, Centurion, trg 30).
Chúng ta chẳng được biết gì hơn về cuộc hành trình của Đức Mẹ xuống miền Nam. Như cha Lagrange tính toán, thì cuộc hành trình ấy có thể phải mất bốn ngày. Chủ tâm của tác giả Luca là muốn tập trung vào lúc tới nơi để có thể tạo cảnh làm nhịp cầu nối kết hai giai đoạn mà trước đây Luca đã triển khai riêng rẽ: giai đoạn của Gioan Tẩy Giả và giai đoạn của Đức Giêsu.
Cho biết số mệnh nhiệm mầu của hai con trẻ sắp sinh ra.
Trong cảnh Truyền tin, Đức Maria vừa mới nhận được lời chào của Thiên thần, liền chuyển lời chào ấy tới người chị họ của mình: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elisalbét”. F. Bovon nhận xét, “Trong những chương này có nhiều lời chào hỏi, vì có nhiều cuộc gặp gỡ, bởi lẽ là Thiên Chúa can thiệp và khai mào ơn cứu độ thông qua những mối tương quan của con người” (Tin Mừng theo thánh Luca 1-9, Labor et Fides, trg 86). Và lời chào hỏi của Đức Maria châm ngòi cho tiến trình ấy. Khi lời chào ấy vừa lọt tai bà Êlisabét thì đứa con trong bụng bà nhảy lên; một sự nhảy mừng mà bản dịch đã dùng một từ làm giảm đi sức mạnh, bởi vì nguyên văn tiếng Hy Lạp là “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên”, “nhảy múa”.
Vì được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi chào đời, nên Gioan nhìn thấy bình minh của kỷ nguyên mới đang ló dạng và bằng cách thi hành trước sứ mệnh của mình; như vậy ông nói tiên tri không phải bằng lời nói, nhưng bằng cử động nhảy tung lên, rằng Đấng mà người ta trông đợi đến vào ngày tận thế, thì từ nay người đang có mặt đây rồi: “Thiên Chúa không chỉ dùng những lời nói, mà còn sử dụng cả ngôn ngữ của thân xác nữa”. F. Bovon còn nhận xét thêm như vậy.
+ Được đầy tràn Thánh Thần, bà Êlisabél đọc được ý nghĩa của động tác con trong bụng mình nhảy lên vui sướng và ý nghĩa của cuộc hội ngộ mà bà đang sống.
+ Bằng một tiếng kêu lớn bà tỏ vẻ ngỡ ngàng, bà Êlisabét nhìn nhận rằng Đức Maria và “hoa trái của lòng” mà Maria đang cưu mang đều được Chúa chúc phúc.
+ Rồi bằng danh hiệu “Thân mẫu Chúa tôi”, bà tung hô người con của người em họ mình là Đấng mà Tv 109,1 đã loan báo, Đấng Kitô Đức Chúa.
+ Sau cùng theo hình thức một mối phúc, bà tán tụng lòng tin của Đức Maria. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria “đã cưu mang trong tinh thần trước khi cưu mang trong thân xác mình”, điều mà thánh Augustinô sẽ chú giải sau này.
Cousin viết: “Mối phúc về lòng tin của Đức Maria, phân biệt tự căn bản người thiếu nữ ấy với ông Dacaria (câu 45) và những câu 42-45 cho phép Luca kết hợp lại trong chính bản thân Đức Maria hai mối phúc: phúc được làm mẹ Thiên Chúa và phúc vì có lòng tin; sau này ở 11, 27-28, hai mối phúc ấy lại được Luca tách riêng ra. Nhờ tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói, Đức Maria được làm mẹ: lòng tin của Người cần thiết để Thiên Chúa phải thực hiện những gì Người đã nói! Đức Maria là điển hình kẻ nghe Lời Chúa, là mô hình của người có lòng tin, là tín hữu đầu tiên. Bởi vậy, ta không nên coi thường phần Luca đóng góp vào kinh nguyện và suy niệm của Giáo Hội sau này liên can tới Đức Trinh Nữ Nadarét. Không ai chối cãi được rằng kiểu nói ” Thân Mẫu Chúa ” cũng là phiến đá đặt nền cho tước hiệu đầu tiên sau này, tước hiệu mà cả hai Giáo Hội Rôma cũng như Chính Thống sẽ tôn phong và ca mừng Đức Maria: “Théotokos”, “Mẹ Thiên Chúa”. (“L’evangile de Luc”. Centurion. trg 31)
BÀI ĐỌC THÊM
Thăm viếng: gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, giữa hai con trẻ, giữa hai giao ước (H. Voulliez, “Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trg 17- 18).
“Thánh Kinh là cả một chuỗi dài những cuộc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện với dân Người. Mặc dầu những bất trung thất tín của con người, và đôi khi vì chính những bất trung ấy mà từ chín tầng trời cao thẳm, Thiên Chúa vẫn thường xuyên ngự xuống trần gian. Một ngày kia, qua trung gian Sứ thần Gabrien, Người loan báo cho một thiếu nữ làng Nadarét, là Maria, biệt tin con Người đến. Tức thì người thiếu nữ ấy lên đường đi “thăm” người chị họ của mình là Êlisabét.
Hai người phụ nữ gặp nhau, và qua họ hai con trẻ là Gioan và Giêsu cũng gặp nhau. Rồi qua hai con trẻ ấy. hai Giao ước cũ và mới gặp nhau. Tường thuật của Luca về khoảnh khắc có một không hai này có giá trị còn hơn một trang sử giáo dục. Cuộc viếng thăm này mở ra một tương lai cực kỳ mới lạ. Từ nay qua trung gian con người, qua người con đã làm người mà Thiên Chúa viếng thăm nhân loại. Và cũng chính khi thăm viếng người ta, là ta thăm viếng Chúa vậy. Trong chuyến viếng thăm cuối cùng của Chúa vào ngày tận thế, người ta sẽ kêu lên ngỡ ngàng: “Nhưng có khi nào chúng tôi đã viếng thăm Chúa đâu? Và Chúa sẽ đáp lại họ: “Mỗi lần anh em thăm viếng những người ốm đau, nghèo khổ.. và bất cứ ai khác, là anh em đã thăm viếng chính Ta, anh em đã mở ra trên trần gian này, những con đường xuyên đồi đậm tình nghĩa thiết đời đời vậy “.
“Cùng với Đức Maria hãy tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự ngay cả những điều không thể được” (G. Boucher, trong “Le ciel sur la terre”).
“Thế là lịch sử chuẩn bị sang trang, để khai trương một kỷ nguyên mới. Vậy mà thế giới vẫn chưa biết điều ấy. Chẳng bao lâu sau, một phần lớn nhân loại sẽ bắt đầu tính số năm và thể kỷ từ một biến cố có vẻ như không có gì quan trọng cả.
Người ta còn gọi thêm nữa là: năm một sau Đức Giêsu Kitô, thế kỷ thứ nhất sau Đức Giêsu Kitô, hai ngàn năm sau Đức Giêsu Kitô.
Trong niềm trông đợi ơn mạc khải về thế giới mới này, rất cả đều tuỳ thuộc vào quyết định của một người phụ nữ rất bình dị. Chỉ một mình người phụ nữ khiêm tốn, không tên tuổi ấy đang nắm giữ bí mật của đất và trời. Người phụ nữ ấy là MARIA, đang mang trong máu thịt mình; những lời hứa về một người con cùng chung một bản tính với Cha trên trời.
Những bà con của Người đã lấy làm lạ lùng. Trong nhà Dacaria và Êlisabét, người ta linh cảm rằng ơn làm mẹ của người em họ trẻ tuổi này là do lời Chúa hứa.
Thật là tuyệt vời khi nghe người phụ nữ sơn cước ấy chúc tụng một phụ nữ làng quê Nadarét, đồng thời cũng chúc tụng luôn cả hài nhi mà phụ nữ Nadarét ấy đang cưu mang và hài nhi ấy không bao lâu nữa sẽ cho người ta biết mặt và kế hoạch cứu nhân độ thế của mình!
Bà Êlisabét nhờ lớn tuổi hơn nên được đặc ân nhận ra một dấu lạ của trời ngay trong tư cách làm mẹ của bà; bà cũng phát hiện cùng một dấu lạ như thế nơi người em họ còn trẻ măng của bà. Khi nghe con mình nhảy mừng trong bụng, bà ức đoán rằng người em họ của mình là một người mẹ dã cùng với Thiên Chúa dấn thân trong cuộc phiêu lưu này.
Ai sẽ nói hết được những nỗi niềm và tâm tư mà hai chị em chia sẻ cho nhau lúc ấy? Ai sẽ kể hết được những lời kinh tuyệt vời mà hai người mẹ ấy cùng dâng lên? Bởi vì Tin Mừng vẫn luôn luôn nhấn mạnh đến một điều, đó chính là lòng tin của hai người phụ nữ này. Nên hạnh phúc thật mà họ có được là vì người này cũng như người kia đều đã tin vào một điều không thể xảy ra được.
Gần tới lễ Giáng sinh, chúng ta tán tụng lòng lin của Đức Maria. Một lòng tin đưa Mẹ đến dấn thân hào một chuyến đi không biết trước hậu quả, trên những miền đất của thiên Chúa. Một lòng tin khiến Mẹ mạo hiểm mang theo gánh nặng Chúa trao, để lặn lội vượt đèo lội suối đi tới nhà người chị họ Êlisabét. Một lòng tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự. Một lòng tin tuyệt đối.
Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.
Bởi lẽ Đức MARIA cho phép ta nhận ra ân huệ Chúa ban cho Mẹ do lòng tin, ân huệ mà Thiên Chúa cũng có ý định ban cho mỗi người chúng ta. Ta có biết đáp lại kế hoạch của Chúa dành cho ta bằng cũng một niềm tin phó thác như Đức Maria không?
Phúc thay nếu ta tin rằng “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được!”.
NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
- Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
- Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
LỜI CHÚC TỤNG CỦA ĐỨC MARIA (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chúng ta vừa được thánh Luca tường thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật đẹp, có một không hai trong Lịch sử loài người: Chuyện Đức Maria, mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người đi thăm người chị họ già cả của mình trong lúc bà đang cưu mang một người con của ân điển trong lòng. Phải nói rằng đây là một câu chuyện tuyệt đẹp đặc biệt vì nó mang lại những hiệu quả tuyệt vời cho cả người viếng thăm và người được thăm viếng.
Với người được viếng thăm thì con của bà nhận được hồng ân cao cả là được khỏi tội nguyên tổ ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ. Với người đi thăm viếng thì cuộc viếng thăm đã là một cơ hội cho sự ra đời của một bài ca ca tụng tình thương của Thiên Chúa đẹp đến mức độ Giáo Hội đã phải dùng để cầu nguyện hằng ngày cho những giây phút thánh thiêng nhất để kết thúc một ngày sống trên đời. Bài ca đó là bài ca Magnificat- Linh hôn tôi ngợi khen Đức Chúa…
Trong bài ca này, hầu như Đức Maria đã không nài xin gì cùng Thiên Chúa, kể cả những điều chính đáng và cần thiết nhất cho cuộc đời của mình. Chẳng hạn như xin được bình an, khỏe mạnh trong thời mang thai, xin cho mẹ tròn con vuông khi sinh, xin cho thánh Giuse làm ăn khá giả để nuôi gia đình, xin cho mình được thánh thiện đóng tròn vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.
Tất cả những điều đó giả sử Đức Maria có xin thì cũng là chính đáng. Tuy nhiên Người đã không xin vì Người hiểu rằng tạ ơn thì tốt hơn là xin ơn. Người chỉ nói lên niềm vui đang dâng lên trong lòng mình, rồi biến niềm vui đó thành lời chúc tụng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Tâm trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa là Đấng Cứu dộ tôi”. Lời ngợi khen dâng lên tự phát, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không cầu kỳ, gò bó, gọt dũa.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Maria lại có thể đem hết tâm trí để chúc tụng Thiên Chúa như vậy?
Có hai lý do: Người biết sống phó thác và Người có tâm hồn nhạy cảm.
+ Trước hết Đức Maria biết sống phó thác.
Phó thác là thế nào?
Vào một ngày thu, chim quạ nói chuyện với chim én chưa đầy một tuổi :
– Như tôi thấy, em sắp sửa đi xa phải không? Em đi đâu vậy?
Én trả lời:
– Ở đây trời sẽ lạnh hơn, em chịu lạnh không được, nên sẽ bay đến một miền ấm áp hơn.
Chim quạ chế nhạo:
– Nhưng em mới sinh ra vài tháng thôi, sao em biết có một miền ấm áp hơn để em không vì chết lạnh ?
Én trả lời:
– Thiên Chúa, Đấng đặt trong lòng em cái mong ước tìm về một nơi ấm áp, sẽ không bao giờ phỉnh gạt em đâu. Em tin vào Đấng đó, nên em sẽ bay đi.
Người sống phó thác là người có một niềm tin tương tự như vậy. Người đó luôn biết rằng có Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mình được che chở, giữ gìn. Điều quan trọng không phải là cái gì sẽ xảy đến, nhưng là mình có tìm thấy ý Chúa trong những điều Chúa cho xảy đến với mình hay không. Nếu có tìm thì sự dữ cũng có thể trở thành sự lành. Và như vậy thì vẫn có thể an tâm.
Người cũng tin chắc rằng: người càng nghèo khó và bất hạnh thì càng được Thiên Chúa che chở, giữ gìn. Bởi thế Người mới nói: “Người nghèo đói được no đầy ơn phúc. Kẻ giàu sang bị đuổi về tay không”. Và người khiêm tốn nhận mình thuộc hạng nghèo khó, nghĩa là thuộc hạng người có phúc. Vì thế càng phải chúc tụng Thiên Chúa hơn.
+ Tiếp đến Đức Maria còn có tâm hồn nhạy cảm
Nhạy cảm với cái tốt đẹp và những niềm vui là những điều không thế không có trong cuộc sống. Nếu chỉ thấy toàn đau buồn trong cuộc sống thì không thể chúc tụng mà cuộc đời chỉ có thể buồn chán, than vãn.
Đây là những lời rất hay của một bài thơ
Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.
Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vuợt qua nó.
Cuộc sống thì rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.
Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.
Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.
Cuộc sống như một sự bí ẩn, hãy khám phá nó.
Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.
Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.
Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.
Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.
Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.
Và cuộc sống thì vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá hủy nó.
Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.
Phải là những người biết nhạy cảm lắm mới có thể cảm nghiệm được những giá trị của những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Đức mẹ luôn nhạy cảm với các ơn mà Thiên Chúa ban cho mình mỗi ngày. Những ơn này Chúa thường ban một cách thật kín đáo qua một cuộc sống không có gì là hào nhoáng. Ơn của Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết nhận ra. Cần có con mắt thật tinh, lòng thật ngay. Mắt tâm hồn Đức Maria luôn thật tinh và lòng Người thật ngay vì thế Người nhận thấy đời mình tràn đầy ơn phúc: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.
Ngoài những ơn cá nhân Đức Maria còn nhạy cảm với những ơn Thiên Chúa ban cho toàn dân mình suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Ơn Chúa bao trùm tất cả lịch sử Israel, từ Abraham cho đến muôn đời. Đó cũng lại là một lý do để dâng lời chúc tụng.
Chúng ta hãy tập cho mình có được lời cầu kinh chúc tụng Thiên Chúa như Đức Mẹ Maria. Vì chỉ khi nào chúng ta biết cầu nguyện như thế thì lời cầu nguyện của chúng ta mới đẹp lòng Chúa và ơn Chúa sẽ đến với chúng ta.
Phải nhìn nhận rằng cách chúng ta cầu nguyện và cách chúng ta sống gắn liền nhau. Sống cách nào thì sẽ cầu nguyện như vậy. Cách cầu nguyện phản chiếu cách sống của mỗi người. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào chúng ta theo gương Đức Maria trong cách sống của Người thì chúng ta mới có thể theo gương Người trong cách cầu nguyện của Người.
Một linh mục để ý người đàn bà đang ngồi trong nhà thờ trống vắng, hai tay ôm đầu. Một giờ, rồi hai giờ trôi qua và bà ta vẫn ngồi yên ở đấy.
Nghĩ rằng bà đang có chuyện đau khổ trong tâm hồn và ao ước được giúp đỡ, ngài đứng dậy đến bên bà và nói
– Tôi có thể giúp bà được gì không?
Bà nói
– Thưa cha không! Con cám ơn cha. Con đang có tất cả những điều con cần.
Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid, đã thuyết phục ông đến kinh đô ở Delhi để xin hoàng đế Akhar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akhar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:
– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?
Vua đáp:
– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:
– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác!
Mẹ thánh Têrêsa nói cầu nguyện không phải là xin xỏ mà là phó thác. Mẹ Maria đã làm gương cho chúng ta điều đó.
Một nhân chứng đương thời với tổng thống A. Lincoln, kể lại rằng:
– Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì phải nói trước công chúng sáng hôm sau đó. Đã quá nửa đêm, đúng ra là gần hừng đông. Chợt tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng Tổng Thống ngủ. Cửa phòng hé mở. Theo bản năng. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống đang quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Lưng ngài quay về phía tôi nên không thấy tôi vào. Tôi đứng lặng một lúc, quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện:
– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Salômon trong đêm khuya, xin cho được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Salômon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!
Vâng chúng ta hãy cầu nguyện như thế để được Chúa nhậm lời. Amen.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
TRỞ NÊN NHỮNG EMMANUEL MỚI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
Việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa sống-với con người
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Ngài muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Isaia 7, 14. Mat-thêu 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giê-su đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su vẫn không rời xa các môn đệ. Ngài nói với họ:
“Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
“Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó.” (Mt 14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giê-su khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con.” (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giê-su lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.
Mẹ Maria sống-với con người
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời (Lc 1, 39. 43. 56).
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giê-su về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu như Mẹ đã thực hiện tại La-vang, Fatima, Lộ-đức và nhiều nơi khác.
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.
Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn.”
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con luôn noi gương Chúa là Emmanuen, là Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi với bao người chung quanh; xin cho chúng con bắt chước Mẹ Maria là Đấng luôn hiện diện bên con cái mình để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó; xin giúp chúng con trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.
NÀY CON ĐẾN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề, Hội Thánh cho dân Chúa thấy những biến cố vô cùng trọng đại nhưng lại âm thầm diễn ra trong dòng lịch sử.
Này con đến để thực thi Ý Chúa
Biến cố Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể, được thực hiện trong âm thầm tuy dù đó là biến cố vô cùng quan trọng “Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và vĩnh viễn làm người”. Đức Yêsu đã sống “bình thường” như một người; chỉ khi Đức Yêsu sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời nhập thể để làm gì? “Này con đến để thi hành Ý Chúa”.
Đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Thiên Chúa muốn con người được cứu độ, được triển nở, được hạnh phúc, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Con người phạm tội khi tìm mình, chọn mình trên Thiên Chúa và anh chị em mình, dùng tha nhân như phương tiện để thỏa mãn tham vọng riêng tư của mình. Chỉ khi nào con người sống trong tình yêu, tôn trọng tha nhân và Thiên Chúa, thì con người mới được bình an và hạnh phúc.
Làm sao để con người sống trong tình yêu? Làm sao để con người mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác? Đó là sứ mạng của Ngôi Lời, của Ngôi Lời nhập thể, của Đức Yêsu.
Em có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện điều đã nói với em
Mỗi một người có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ mạng của Yoan con ông bà Zacharia-Isave, là “trở thành tiếng kêu trong hoang địa”, kêu mời người ta chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai. Yoan Tẩy Giả đã làm trọn sứ mạng của mình.
Sứ mạng của Đức Maria, là thực hiện điều Thiên Chúa đề nghị, tuy âm thầm khiêm tốn nhưng rất gian nan, đó là “cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể”. Đức Maria đã chấp nhận, và đã trở thành người “cưu mang Thiên Chúa”, mang Thiên Chúa tới cho người khác, mang Thiên Chúa đến cho nhân loại.
Phụ nữ nào mà lại chẳng có con! Cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng một người con, không phải là chuyện “động trời” trên trái đất này. Chuyện đó vẫn xảy ra bình thường, thế nhưng ngay cả chuyện rất bình thường như vậy, cũng trở thành một biến cố “vô tiền khoáng hậu”! Mỗi người đều có thể “có phúc” hơn việc cưu mang và sinh hạ Đức Yêsu, vì “ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” (Lc.8, 21; 11, 28).
Để thực hiện được thánh ý Thiên Chúa, để có thể cưu mang Thiên Chúa trong lòng, Đức Maria đã tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, mới giúp Đức Maria vượt qua được những khủng hoảng trong đời, như lúc sinh con trong chuồng chiên cừu (tại sao lại phải sinh trong cảnh cùng quẫn như vậy?), lúc sống nghèo tại Nazaret, và đặc biệt lúc đứng dưới chân thập giá (Thiên Chúa có giữ lời hứa với tôi khi thiên thần truyền tin không? Đâu là lời “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng Đavid tổ phụ Ngài?). Phúc cho những ai tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và sẽ làm cho mình những điều tốt đẹp nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
-Chúa tới, mang gì cho bà Isave, cho ông Zacharia và Yoan? (lúc đó và cuối đời)
-Ngôi Lời nhập thể để thi hành Ý Chúa Cha! Làm sao để con người yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau?
-Bạn có nghĩ rằng Đức Maria hạnh phúc không (lúc sinh con trong chuồng chiên cừu, lạc mất con, và đứng dưới chân thập giá)? Hạnh phúc hệ tại đâu?
-Chúa tới, tôi được và mất gì?
NHỮNG CÁNH CHIM BÁO TIN VUI- Trích Logos C
Ông Archimède là một nhà vật lý học lừng danh trên thế giới. Ông đã khám phá ra một định luật nổi tiếng và người ta đã lấy tên ông mà đặt cho định luật này, định luật Archimède, đó là :
“Một vật bỏ vào nước luôn luôn có một lực nâng vật đó lên.”
Có điều đáng nói là ông Archimede đã khám phá ra định luật này trong một hoàn cảnh rất đặc biệt : Ông đã tìm ra định luật đó ngay lúc ông đang ở trong phòng tắm. Ông quá vui mừng nên đã tông cửa phòng tắm chạy ra ngoài, hét to lên cho mọi người nghe thấy: “Eurêka ! Eurêka !” nghĩa là : “Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy !”.
Và điều đáng nói hơn cả là vì ông mừng quá đến nỗi ông chạy ra khỏi phòng tắm mà quên mặc quần áo !
Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ Maria đã nhận được niềm vui quá lớn lao : được diễm phúc trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria đã khám phá thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với niềm vui lớn lao đó, Mẹ Maria cũng đã vội vã lên đường đem niềm vui ấy chia sẻ cho người chị họ Isave.
Phải chăng Mẹ Maria cũng khám phá ra một định luật thiêng liêng ?
Định luật đó là :
Niềm vui sẽ luôn luôn chắp cánh cho con người bay lên cao trong bầu trời hạnh phúc.
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Mẹ Maria đã mang hình ảnh cánh chim én đi báo tin vui của Mùa Xuân Ơn Cứu Độ.
Từ thân phận thấp hèn, Mẹ Maria đã được Thiên Chúa nâng lên Bằng đôi cánh TIN – YÊU.
Phúc âm Luca đã kể lại 2 cuộc Truyền Tin :
Trong cuộc Truyền Tin Thứ Nhất : Sứ thần GaBriel đã Báo tin cho ông Giacaria : “Ông sẽ được Thiên Chúa Ban cho một người con trai đặt tên là Gioan. Đó là điều ông mong đợi từ lâu. Nhưng ông đã thiếu niềm tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, nên ông đã Bị câm cho đến khi mọi điều sẽ được thực hiện. Niềm vui đã trở thành nỗi Buồn.
Trong cuộc Truyền Tin Thứ Hai : Sứ thần GaBriel đã đến Báo Tin Vui cho Mẹ Maria : Mẹ sẽ sinh hạ một người con trai và đặt tên là Giêsu. Mẹ Maria đã đón nhận với một niềm tin sâu xa. Vì thế, tâm hồn của Mẹ luôn luôn cất lên Lời Kinh Ca Ngợi, và cuộc đời của Mẹ đã trở thành Lá Thư Ngỏ Báo tin vui cứu rỗi mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại.
Niềm tin luôn đi đôi với tình yêu. Có tin mới yêu, có yêu mới tin. Đó là đôi cánh nâng con người Bay lên thật cao, thật xa : vươn lên tới Thiên Chúa và trải rộng đến mọi người.
Nếu Mẹ Maria đã nhận được lời ca ngợi của Bà Isave : “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”, thì trong Mùa Vọng này, hạnh phúc cho chúng ta Biết Bao nếu chúng ta cũng có một Niềm Tin mạnh mẽ, và một Tình Yêu nồng cháy. Đó cũng chính là đôi cánh nâng chúng ta lên trong Bầu trời hạnh phúc.
Nếu Mẹ Maria đã Biết Lên Đường đến với tha nhân để chia sẻ tình thương cho tha nhân. Thì trong Mùa Vọng này, chúng ta cũng hãy Biết Lên Đường, đi ra khỏi con người ích kỷ và ươn lười để đến và chia sớt tình thương cho mọi người.
Niềm tin luôn phải tỏa sáng Bằng những việc làm tốt và những mẫu gương trong đời thường. Đó mới là niềm tin sống động.
Tình yêu cũng luôn phải Biểu lộ Bằng những hành động Bác ái và sự chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày. Đó mới là tình yêu chân thật.
Một con chim én không thể làm nên mùa xuân. Mỗi người chúng ta hãy trở nên một cánh chim đem tin vui đến cho mọi người trong Mùa Giáng Sinh Hồng Phúc này. Tất cả chúng ta sẽ góp phần làm nên một Mùa Xuân Ơn Cứu Rỗi cho nhân loại.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
MARIA, NGƯỜI MẸ MÙA VỌNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Nếu chúng ta để ý thì trong mùa Vọng có những mẫu gương tiêu biểu cho việc trông chờ Đấng cứu độ. Chẳng hạn như: Tư tế Giacaria, Gioan tẩy giả, cụ già Simêon, bà tiên tri Anna và cuối cùng là Mẹ Maria, nhưng càng gần đến lễ giáng sinh, thì vai trò của Mẹ Maria nổi bậc trong các bài đọc Thánh kinh. Tại sao vậy!. Thưa, bởi vì Mẹ Maria đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế ngay từ những chương đầu đã kể lại: Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong chốn tội lỗi, để cho ma quỷ thống trị, nhưng liền ngay tức khắc, Ngài hứa ban Đấng cứu độ bằng những lời lẽ như sau: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ…. Người phụ nữ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Người phụ nữ đó chính là Đức trinh nữ Maria.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người, nhưng để chương trình ấy thành công thì cần có sự tham gia cộng tác của con người. Chương trình đầu tiên của Thiên Chúa đã bị thất bại, do bởi ông bà nguyên tổ nghe lời ma quỷ hơn nghe lời Chúa, đã làm theo ý riêng mình hơn theo ý Chúa.
Trái lại, Mẹ Maria được Thiên Chúa mời gọi, nhờ cộng tác bằng lòng tin và sự khiêm nhường, nên chương trình cứu độ của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong thôn làng Nazarét nào có cái chi hay!. Ngày ngày với những công việc rất đỗi bình thường như bao cô thiếu nữ khác. Ví dụ như: Bếp núc, may vá, dọn dẹp nhà cửa… Nhưng chính trong chốn lặng thầm ấy, thì Đức Mẹ được Chúa chọn làm Mẹ Đức Chúa Trời.
Đức Mẹ khiêm nhường trong cách ứng xử. Khi sứ thần Gabriel báo tin “Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu”. Thì Đức Mẹ khiêm tốn đáp lại: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Trong biến cố thăm viếng, bà Êlisabét chúc mừng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm”, thì Đức Mẹ đáp lại “Phận nữ tì hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn tới, nếu được ơn này ơn nọ là do hồng ân nhưng không Chúa cho thôi”.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống phục vụ. Tin mừng thánh Luca ghi lại, vừa hay tin chị họ Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria vội vã lên đường vượt núi băng rừng, bất chấp đường xá xa xôi. Mẹ đến đó chia sẻ niềm vui với chị, đồng thời ở lại phục vụ giúp đỡ chị ba tháng trời, sau đó mới trở về nhà mình.
Thưa anh chị em,
Cũng trong biến cố thăm viếng này, bà Êlisabét chúc khen Đức Mẹ “Phúc cho Bà, vì Bà đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà đã được thực hiện”.
Thật vậy, làm sao mà tin được, khi muốn giữ mình đồng trinh thuộc trọn về Chúa, mà bây giờ Chúa bảo sẽ mang thai, mà không theo quan hệ vợ chồng – nhưng Mẹ vẫn tin đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì không có việc gì mà Chúa không làm được.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa giàu có vô cùng, vậy mà giờ đây phải hạ sinh trong hang đá nghèo khó – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng tác thành vũ trụ, đã mặc xác con người.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa Đấng cầm quyền sinh tử vạn vật, mà bây giờ phải nhờ đôi tay Đức Mẹ bồng bế trốn sang Aicập. Nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa rất đổi khiêm nhường, giầu lòng xót thương.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa là cõi nguồn hạnh phúc, mà bây giờ lao nhọc vất vả nơi xưởng mộc, mồ hôi đổi lấy bát cơm – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa làm người, là Chúa đất trời.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa đã tự xưng mình: Ta là sự sống lại và là sự sống, mà bây giờ bị con người ngược đãi giết chết trên thập giá – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng mang nguồn cứu độ, đã chịu chết cho con người.
Các nhà thánh mẫu học nói rằng: Ngày xưa, bà Evà đã nghi ngờ tình thương của Chúa, giơ tay hái trái cấm, đánh mất ân sủng, làm cho cửa thiên đàng đóng lại. Thì bây giờ nhờ lòng tin của Mẹ Maria, đã đem lại cho nhân loại ơn giải thoát và cửa thiên đàng được mở ra.
Ngày xưa bà Evà do không vâng phục, nghe theo lời ma quỷ xúi giục, đưa nhân loại đến sự chết. Thì nay, nhờ lời xin vâng của Đức Maria, đã đưa nhân loại đến sự sống.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không biết khi đi thăm viếng, Mẹ Maria mang theo những gì, nhưng chắc rằng: Đức Mẹ mang Hài Nhi Giêsu đến thăm gia đình ông Giacaria.
Nhờ sự hiện diện của Đức Maria, mà Chúa Thánh Thần đã thánh hoá gia đình này một cách đặc biệt: làm cho ông Giacaria nói được sau hơn 9 tháng bị câm, làm cho bà Êlisabét nhận ra Mẹ Maria không những là em của mình, nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy giả được sạch tội tổ trước khi chào đời. Như vậy, Đức Mẹ thăm viếng là một hồng ân.
Vậy mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta noi gương Đức Mẹ là mang Chúa đến cho người khác. Để Chúa ban ơn bình an và phúc lành của Ngài cho những người chúng ta gặp gỡ.
Cuối cùng, ai trong anh chị em ít là một lần trong đời được bạn bè hay những người thân quen mời đi tham dự sinh nhật. Khi đi mừng sinh nhật, chắc chắn chúng ta mang quà đi mừng người ấy.
Năm xưa, khi Chúa giáng sinh ở Belem, các chú mục đồng và ba nhà Đạo sĩ mang quà đến mừng sinh nhật Chúa. Vậy, mừng sinh nhật Chúa, anh chị em có chuẩn bị quà mừng gì cho Chúa chưa?. Và nếu có thì món quà đó là gì?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta quà mừng như: vàng, nhủ hương và mộc dược, nhưng Ngài thích món quà nơi tấm lòng mỗi người chúng ta thôi.
Cho nên hôm nay Chúa Nhật cuối của mùa Vọng, chúng ta được mời gọi để cùng nhìn lên Mẹ Maria, người Mẹ của mùa Vọng, là mang niềm hi vọng Giêsu đi đến những nơi thiếu vắng tình thương, những người đang cần sự giúp đỡ, những mảnh đời lây lất bên vệ đường, nhờ sự viếng thăm của chúng ta, sẽ đem lại cho họ niềm hi vọng và phúc lành của Chúa trong đêm giáng sinh. Đó là món quà sinh nhật ý nghĩa nhất mà Chúa hài nhi đang mong chờ. Amen.
LÀM GƯƠNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:
– Mày đi kiểu gì vậy?
Cậu bé trả lời:
– Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!
Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng “sao con lại hành xử như vậy?”. Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:”con đang bước theo bước chân của cha mẹ!”
Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời về sau”
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm”. Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.
Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.
Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.
Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen.
MONG ĐỢI TRONG VUI MỪNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang thai, đó là ân huệ Chúa thương ban để bà cất đi nỗi nhục cả đời mình “Chúa đã làm cho tôi như thế đó khi thuận tiện Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Thời gian dài đợi chờ rất dài, nay đã thành hiện thực và bà lại bắt đầu một thời gian trông đợi khác. Bà ẩn dật, cầu nguyện, nghỉ ngơi và chuẩn bị. Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đức Maria xin vâng với lòng tin và đợi chờ trong niềm vui.
Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria có thai và đã lên đường đi thăm người chị họ. Khi gặp nhau, hai người mẹ thông tin cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình. Đó là thời gian hai người mẹ mang thai chia sẻ sự mong đợi trong vui mừng. Cả hai đều là nữ tỳ khiêm tốn được Thiên Chúa mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Cả hai cùng hân hoan vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ và cả hai cùng cảm nhận niềm hạnh phúc dâng trào vì đã tin.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Hài nhi Gioan vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung làm cho cuộc gặp gỡ trở thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Suối nguồn của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.
Cuộc viếng thăm lịch sử.
Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Niềm vui thăm viếng
Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
TÂM TÌNH THĂM VIẾNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Vừa được tin bà chị họ Êlisabét, hiếm hoi già cả sắp được Chúa ban cho một cậu ấm, Đức Maria sẵn có đức thương người, đã không quản ngại đường xa dặm thẳm, vội vã lên đường đi thăm giúp đỡ gia đình bà chị neo đơn ở một thành phố trên miền núi Giuda. Suốt cuộc hành trình lội bộ hơn 150 cây số, gian nan, nguy hiểm, vất vả, cực nhọc, Đức Maria vẫn không ngớt ca tụng, cảm tạ Chúa đã thương đoái đến mình và bà chị son sẻ. Đức Maria vừa thăm viếng, vừa giúp đỡ,vừa đem niềm vui ơn phúc vô cùng của Đấng Cứu thế đến cho gia đình.
Thoạt nghe lời Đức Maria chào, bà Êlisabét đã nhận ra ngay những ơn lạ lùng đổ xuống trên bà và con bà. Bà đã được đầy ơn Thánh thần nhận ra Maria là mẹ Thiên Chúa. Bà đã lớn tiếng ca ngợi Maria: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ và người con em cưu mang cũng thật có phúc. Bởi đâu tôi được mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi… Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”.
Mẹ được đầy Thánh thần, con được nhảy mừng trong lòng Mẹ vì được phúc gặp Đấng Cứu thế trong lòng Maria. Bởi đâu gia đình bà Êlisabét được đầy ơn phúc? Thưa bởi đức tin mạnh mẽ và đức ái nhiệt thành của Đức Maria như lời bà Êlisabét nói: “Vì em đã tin lời Chúa”.
Đức Maria là gương mẫu đức tin mạnh mẽ: Không bao giờ Maria dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu thế vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê mùa vô danh. Thế mà: “Phận nữ tỳ hèn mọn lại được Thiên Chúa đoái thương tới” (Lc. 1,48). Khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận là Mẹ Đấng cao cả. Vâng ý Chúa không dễ dàng gì làm Mẹ Thiên Chúa, không như các thanh nữ Do Thái mơ tưởng được địa vị cao sang làm hoàng thái hậu muôn nước. Maria biết rõ Đấng Cứu thế, mà các tiên tri đã loan báo, là người tôi tớ đau khổ, là con chiên bị sát tế, như Bài đọc II nói: Đức Giêsu Kitô đã dâng mình làm lễ tế. Một lễ tế hy sinh vô cùng đau đớn. Với đức tin mạnh mẽ, Đức Maria đã sẵn sàng hiệp thông sát tế đó và sẵn sàng chờ đợi những lưỡi gươm sắc đâm thâu qua trái tim Mẹ như đâm thâu qua Trái tim Con để tỏ lòng thương yêu nhân loại vô bờ.
Đức Maria là gương mẫu đức ái nhiệt thành:
“Maria vội vã lên đường” nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Đức Mẹ. Thánh Luca còn viết: “Maria đã lưu lại ba tháng rồi trở về nhà mình”, chứng tỏ Maria giúp đỡ gia đình như một tôi tớ, không quản ngại bất cứ một công việc nặng nhọc hèn hạ nào. Mẹ của Đấng Cứu Thế đã thi hành phận sự một tôi tớ của Thiên Chúa và loài người trong mọi nơi mọi lúc, một tôi tớ đem nguồn vui vô biên của Thánh Thần đến cho gia đình ; một tôi tớ mang Đấng Cứu Thế xuống cho con trẻ được khỏi tội và nhảy mừng trong lòng mẹ, để cậu sinh ra “càng lớn lên, tinh thần càng vững mạnh … để chuẩn bị đến ngày ra mắt dân Israel” (Lc. 1, 80).
Thánh Luca nói lên lòng bác ái nhiệt thành và đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ để làm gương cho các tín hữu thời Giáo hội sơ khai mà lo truyền giáo: Họ phải sống đức tin mạnh mẽ và thi hành bác ái nhiệt thành để đem Đấng Cứu thế đến cho muôn dân được đầy niềm vui của Thánh Thần và được nhảy mừng trong ơn cứu độ. Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ tiên báo cuộc thăm viếng của Ngôi Hai xuống thế làm người để viếng thăm nhân loại, vừa là gương mẫu cho mọi cuộc thăm viếng của những người con Đức Mẹ.
Noi gương Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo Hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm Giáo Chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương, một Giáo hội đã ly khai Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo Chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể của Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.
Lạy Mẹ Maria, xin cho mỗi người chúng con biết nối tiếp những cuộc viếng thăm hồng phúc chan chứa ơn cứu độ đó, để đem nguồn vui Thánh Thần và ơn bình an của Chúa Giáng Sinh đến cho mọi gia đình trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
NIỀM VUI TIN MỪNG- Lm GB. Trần Văn Hào
Chia sẻ Niềm vui của Tin mừng
Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.
Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii
Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.
Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.
Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.
Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.
Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.
Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.
Kết luận
Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.