CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐỨNG DẬY VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN(*)– Chú giải của Noel Quession 5
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 13
SỐNG TRONG MỘT THẾ GIỚI MAU QUA- CHú giải của Fiches Dominicales 26
ĐỨG VỮNG TRƯỚC MẶT CON NGƯỜI- Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 34
TẤM GƯƠNG BÀ GÓA- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 39
CHÚA SẼ ĐẾN GIẢI THOÁT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 59
TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 76
NGẨNG ĐẦU LÊN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 80
MỞ CỬA TÂM HỒN ĐÓN CHÚA ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 87
TAI HỌA VÀ HI VỌNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 91
TỈNH THỨC- Lm. Vũ Đình Tường. 96
MỞ RỘNG TÂM HỒN ĐÓN CHÚA- Lm. Nguyễn Bình An. 100
MÙA HI VỌNG- Lm Trần Bình Trọng. 103
HÃY TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 106
MONG ĐỢI CHÚA – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 110
SỐNG TỈNH THỨC- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 115
HÃY TỈNH THỨC- Lm. Phêrô Nguyễn Hương. 118
CHỜ MONG- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 121
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. GB. Trần Văn Hào,SDB.. 126
SỐNG THÁNH HÔM NAY- Lm Phạm Quốc Hưng. 133
TỈNH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN – Lm. Anthony Trung Thành. 137
TỈNH THỨC SẴN SÀNG- Trích Logos C.. 143
SỐNG TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 148
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ làm nảy sinh cho Ðavít một chồi công chính”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây lời Chúa phán: Ðã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Ðavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: “Thiên Chúa, Ðấng Công Chính của chúng tôi”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 8-9. 10 và 14
Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).
Xướng: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
Xướng: Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Xướng: Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài.
BÀI ÐỌC II: 1 Tx 3, 12 – 4, 2
“Xin Chúa làm cho lòng anh em nên dũng cảm khi Chúa Kitô đến”.
Trích thư thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxa-lônica.
Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen.
Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Tv 84, 8
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 21, 25-28, 34-36
“Giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!”
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
ĐỨNG DẬY VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN(*)– Chú giải của Noel Quession
Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm của Đức Giêsu.
Ngay từ Chúa nhật đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến”: Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng sinh… Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích… Ngài sẽ đến vào Ngày cánh chung.
Đức Giêsu nói với các môn đệ biến cố Người quang lâm:
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét….”.
Ở đây chúng ta tiếp cận với lối văn “khải huyền”. Loại văn chương này xuất hiện tại Israel, hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ: dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó, trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử. Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.
Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để “tạo dựng” một thế giới mới. Ta có thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ “từ trời rơi xuống”, “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa”, là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện nay vẫn còn ăn khách. Nếu “chủ dân”, các “goim”, tôn thờ các tinh tú như các thần linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời sẽ rớt xuống… không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!
Chính Luca cũng không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng, nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái dương mới.
Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.
Hơn thánh Máccô trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có khuynh hướng xóa bỏ “thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng ta không thích “biến cố”, nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được. “Điều gì sẽ xảy ra?”. Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.
Do đó, mới có những khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì “xảy đến”, không gì “thay đổi” cả.
Vì thế, toàn bộ Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, “biến cố” là cuộc “thần hiện” của Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt… tuy nhiên, cũng là “dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ “đến trên mây trời” ‘ Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô nhiễm lan tràn… nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những “ngôn sứ tuyên sấm giáng họa” trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
Đức Giêsu không khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những “biến cố” gây xáo trộn, không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác… chỉ báo trước một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức Giêsu sử dụng “thị kiến của Đa-ni-en” (Đn 7,18-14)… nhưng thay đổi hoàn toàn. Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử. “Con người” tượng trưng cho “dân thánh của Đấng Tối Cao”, sẽ đến “từ trên đám mây trời”. Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu, Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện “trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực sự đã trở nên “điểm xuất phát” của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.
Khi những biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên…
Vậy Khải Huyền (trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là “mạc khải”), đúng là một sứ điệp hy vọng. Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ “đứng thẳng” của các tín hữu. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc… thì anh em hãy ngẩng đầu lên”. Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ ngôn khá đặc sắc: “cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp” (Lc 21,29-30).
Vì anh em sắp được cứu chuộc…
Đối với nhiều người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết, chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi “biến cố” đều mang tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh… mầu nhiệm chết đi để được sống!
Từ “Cứu chuộc” rất thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 – Rm 3,24-8,23 – Cl 1,14) nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của Phaolô mà! Từ “Cứu chuộc” được dịch từ “Redemptio” của Latinh. Nhưng nếu để ý đến từ gốc của tiếng Hy Lạp “apolutrosi”, người ta thường dịch là “giải thoát”. Như thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!”.
Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.
Sau những lời khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng. Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng, vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.
“Oi dân của Ta, ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi” (Ch. Singer).
Nên đề ra một chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là thời gian “cõi lòng nhẹ nhõm hơn”. Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.
Ngày ấy như một chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Tôi đừng để mình bị “chộp bắt” bất thần, như con thú sa lưới. Hãy “tỉnh thức”, luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ “xảy đến”, không thể đặt ta nằm trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người “đứng thẳng” trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng đó, là một thứ “canh phòng”, chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến không? Bạn có rình chờ những “dấu chỉ” loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê’! Mỗi khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, “cho tới khi Chúa đến”. Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sống lại tâm tình của dân Do thái xưa chờ đón Chúa đến. Nhưng khác với dân Do thái, chúng ta biết rằng Chúa đã đến rồi trong thân phận yếu hèn của kiếp người, hiện nay Ngài vẫn hằng đến với chúng ta mọi ngày cách mầu nhiệm và Ngài sẽ đến sau cùng với chúng ta trong vinh quang, gần nhất vào ngày mỗi người từ giả cuộc sống trần thế này, và xa hơn vào ngày Quang Lâm của Ngài. Vậy, Mùa Vọng vừa chuẩn bị chúng ta mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất trong thân phận yếu hèn của kiếp người, vừa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài.
Gr 33: 14-16
Bài Đọc I là sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn, hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất. Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa.
1Tx 3: 12-4: 2
Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên con đường thánh thiện.
Lc 21: 25-28, 34-36
Tin Mừng được trích từ bài diễn từ của Đức Giê-su về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giê-su loan báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan hy vọng.
BÀI ĐỌC I (Gr 33: 14-16)
Bản văn Gr 33: 14-16 nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16). Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như tâm lý.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.
Bối cảnh lịch sử:
Bối cảnh lịch sử được định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.
Trước khi tai họa xảy đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này, nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.
“Này, sẽ đến những ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non” (thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng (từ “công chính” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự thánh thiện của Thiên Chúa).
Ý nghĩa của việc sửa lại.
Nhiều thế kỷ trôi qua, nền độc lập không được khôi phục và vương triều không được tái lập. Dân Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại. Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời hứa cứu độ được ký thác sao?
Các nhà chuyên môn có thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công Nguyên.
Việc sửa đổi này rất có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.
BÀI ĐỌC II (1Tx 3: 12-4: 2)
Thánh Phao-lô viết Thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất.
Thánh Phao-lô viết hai bức thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong cả hai bức thư, viễn cảnh về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này.
Bối cảnh:
Thánh Phao-lô đã sáng lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê (1Tx 2: 2). Việc thánh Phao-lô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phao-lô ra đi mang theo nỗi bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phao-lô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Thư này gồm hai phần. Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3: 12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).
Lời nguyện xin của thánh Phao-lô:
Phần thứ nhất kết thúc với lời nguyện xin của thánh Phao-lô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nhớ nguyên tắc Ki-tô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Trong giáo đoàn đa số là các Ki-tô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn cũng bao gồm những Ki-tô hữu gốc Do thái.
Trong Giáo Hội tiên khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của chúng tôi đối anh em vậy”.
Luật yêu thương là con đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”.
Ngày của Chúa:
Chúng ta ghi nhận rằng ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giê-su được gọi là Chúa (Đức Chúa), danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Ki tô hữu tiên khởi đã khẳng định Thần Tính của Đức Giê-su. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.
Các thánh này là ai? Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm, Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh” (x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31). Tuy nhiên, thánh Phao-lô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế, không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.
Trong ngày của Đức Giê-su:
Đoạn văn này chỉ trích dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2). Trong lời mào đầu này, thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài, khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa Giê-su”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.
Mặt khác, thật đáng chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phao-lô, xuất hiện biểu thức thường được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giê-su” (5: 12, 18). Phải sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Ki-tô”. Đây là cách thức duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 21: 25-28, 34-36)
Năm Phụng Vụ khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giê-su trở lại vào ngày tận thế để thiết lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào Chúa Nhật trước, trong ngày lễ Chúa Giê-su Vua kết thúc năm Phụng Vụ theo chu kỳ Năm B, chúng ta đã cử hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giê-su. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này theo chu kỳ là Năm C, chúng ta lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giê-su đã trở thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình vào ngày Quang lâm. Tương ứng với việc Chúa đến lần thứ nhất trong sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem lại là việc Chúa đến lần thứ hai trong quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.
Bối cảnh:
Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.
Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giê-su công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.
Theo thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giê-su công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giê-su ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết.
Truyền Thống Kinh Thánh:
Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm, chẳng hạn như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giê-su loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.
Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”.
Khởi đi từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên cánh chung”. Vào thời Đức Giê-su, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày tận thế. Nhiều người Ki-tô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang Lâm của Đức Ki tô.
Con Người ngự đến:
Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.
Đức Giê-su đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ về cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh hiệu Con Người; ở đây Ngài đặt danh hiệu này vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giê-su tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, Con Người là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”. Với tư cách là Con Người, Đức Giê-su mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.
Bức tranh bộ đôi:
Thánh Lu-ca đặc biệt nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ của những người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa: “đứng thẳng”, “ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.
Biến cố bất ngờ:
Đức Giê-su không bác bỏ những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị mô tả Triều Đại của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đã gợi lên viễn cảnh này rồi ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17: 20). Ở đây, Đức Giê-su sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).
Tỉnh thức và cầu nguyện:
Đức Giê-su đặt hai truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giê-su mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giê-su: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
SỐNG TRONG MỘT THẾ GIỚI MAU QUA- CHú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Qua lời lẽ kinh hoàng của lối văn Khải Huyền…
Bài Phúc Âm hôm nay giống như trích đoạn song hành trong Phúc Am Máccô mà ta đọc vào Chúa nhật 33 thường niên năm B. Trước vẻ đẹp hùng vĩ và tráng lệ của Đền Thờ Giêrusalem, các môn đệ không ngớt lời trầm trồ khen ngợi và muốn Thầy mình cùng chia sẻ lòng thán phục, thì Đức Giêsu lại nhân cơ hội này nói lên một bài dài về con đường dẫn đến cuộc giải thoát.
Lời lẽ của bài diễn từ có thể gây kinh hoàng cho con người thời nay, nhưng lại rất quen thuộc với những người sống cùng thời với Đức Giêsu. Đó là lối văn bàng bạc trong từng trang Kinh Thánh mà người ta thường sử dụng để củng cố lòng tin của các tín hữu trong những giờ phút gian truân khốn khó: lối văn “Khải Huyền” muốn “vén bức màn” (đó là nghĩa của từ “apocalypse” = mạc khải) để hé mở cho ta thấy rằng mặc dầu sự thể bên ngoài có trắc trở thế nào, thì Thiên Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động ngay trong hoàn cảnh đó. Việc mô tả quá quen trong lối văn chương này – “mặt trời ra tối tăm”, “mặt trăng không còn chiếu sáng”, “các vì sao từ trời rơi xuống”, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… chỉ là một cách loan báo cuộc chiến thắng cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.
Thể văn của bài diễn từ và ngay cả từ “Khải Huyền” đều là điều kỳ bí đối với độc giả thời nay – Hugues Cousin nhìn nhận: từ “Khải Huyền” do từ Hy Lạp apocalypsis có nghĩa là “vén màn” cho thấy điều bí mật ẩn khuất bên trong. Tại sao “vén màn” những biến cố liên quan tới Cánh Chung, những biến cố đi theo liền sự sụp đổ của thế giới cũ – thế giới của chúng ta để hướng tới thế giới mới?
Câu trả lời có cơ sở, đó là một niềm xác tín sâu xa trong Kinh Thánh rằng lịch sử các dân tộc không phải vô nghĩa, bới lẽ Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ấy tới một cùng đích được sửa soạn chu đáo. “Người sẽ cư ngụ cùng mới họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3-4). Đó chính là cuộc giải phóng chung cuộc vĩnh viễn của lịch sử nhân loại”
… là Tin Vui loan báo việc Chúa quang lâm.
Chính trong bối cảnh một vũ trụ đổi mới, không còn một chướng ngại nào mà Đức Giêsu trong Luca cũng như trong Máccô, loan báo Tin Vui xuất hiện Vương quốc hòa bình và công chính của Người vào lúc thời gian kết thúc. Ở đây Người coi mình như nhân vật kỳ bí của sách Đanien (bài đọc 1, Chúa nhật trước) là “Con Người” ngự giá mây trời mà đến cho đất trời cùng mở hội giao duyên.
Nhưng trong ngày ấy, kẻ sinh ra từ thế giới mới sẽ là người tuyệt vời, chính người ấy đang hình thành, “đang tiên đến gần”. Thế nên người có lòng tin phải “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Lệnh Chúa mà thánh sử truyền lại không phải chỉ được gởi đến cho những Kitô hữu vô danh nào đó còn đang sống vào lúc Đức Giêsu trở lại; thánh sử cũng gởi đến cho các Kitô hữu thời ngài, đang là đối tượng của những cuộc đàn áp khủng khiếp đầu tiên, sau khi đã ngao ngán chứng kiến cảnh đổ nát của Đền thờ Giêrusalem; sau cùng, thông qua những tín hữu kia, “ngài gởi đến cho mọi kẻ có lòng tin mà sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Những giáo hữu của giáo đoàn thánh Luca – rồi (chúng ta hôm nay – đều phải sống với niềm tin chắc chắn rằng (công cuộc giải phóng họ thực sự dang tiến hành, đang gần kề” (H. Cousin, sđd, trg 282).
Đòi hỏi người tín hữu phải luôn tỉnh thức.
Được phấn khởi vì Tin vui về một Thế giới mới sẽ tỏ hiện vào lúc tận cùng thời gian và ngay từ lúc này không những hình thành trong giòng lịch sử của đời ta, người môn đệ Đức Kitô sẽ không được phép ngủ mê hay sống tiêu cực mà phải “tỉnh thức”, phải “cầu nguyện luôn” để có thể “đứng thẳng” (tâm tình kinh nguyện phụng vụ ngày Chúa nhật phục sinh) vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang đem lại sự giải thoát dứt khoát và toàn vẹn.
Cousin kết luận: “Người ta sẽ có thể hiểu rằng chương 21 của Tin Mừng Luca không nhắm mô tả cho độc giả thấy trước diễn tiến của lịch sử cho bằng muốn thổi cho họ một luồng sinh khí đề họ sống hiên ngang giữa những cơn thử thách, nhắc nhở họ rằng giây phút hiện tại thực sự mang một giá trị tích cực: chính lúc này đây Chúa đang vẫy tay mời gọi ta đấy. Một bài diễn từ với ý nghĩa như thế vượt quá cả ý hướng của khải huyền vốn phủ nhận lịch sử, đem đến một niềm hy vọng mang tính cánh chung đòi hỏi người tín hữu phải sống tích cực với giây phút hiện tại “ở đây và lúc này”. Bởi lẽ, chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn của đời thường là mầu nhiệm gặp gỡ với Đấng sẽ đến, được thực hiện. Một niềm hy vọng như thế không làm suy giảm tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn còn giúp kiện toàn nhờ vào những dộng cơ mới” (Vatican II, sđd. trg 278)
BÀI ĐỌC THÊM
“Anh em hãy ngẩng đầu lên”
Phải có những biến cố hãi hùng, để ta tin rằng: Chúa đang có mặt ở đó chăng? Để cho con người quay trở về với Chúa, có phải cần đến những tai ương làm sớn tóc gáy mọi người chăng? Có những giáo phái thích chủ trương phải có những tai họa như thế để thuyết phục người ta tin rằng “Có Chúa”. Phải chăng cũng có những tín hữu muốn nghĩ rằng vì người ta sợ hãi nên mới tin, hoặc vì con người bỏ quên Chúa, nên người mới giáng xuống những tai họa để trừng phạt họ đấy sao?
Thế ra Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa hay trả thù. Thế ra Người chỉ nhằm gây tai họa cốt để cho người ta khám phá ra Người sao?
Đức Giêsu mượn những hình ảnh ghê rợn kia trong một loại văn chương của thời đại Người là lối văn “Khải Huyền”, không phải để loan báo sự tận cùng, sự chấm dứt mọi sự, nhưng là để loan báo cho mọi người biết một Tin Vui là Đấng Cứu độ đang đến. Đồng thời, để mời gọi mọi người đứng sẵn ở cửa, tỉnh thức và sẵn sàng đón tiếp Người. Còn Người thì lúc nào cũng vẫn đến. Khi mầm của hạt giống làm nứt vỏ hạt, người ta không nói là hạt chết, mà là sống. Khi những mảnh lá non hay những cánh hoa chọc thủng phần ngoài của nụ hay chồi, không ai nói đó là một sự xé rách, hay phá hoại, nhưng là vẻ đẹp.
Nào, vậy thì mời bạn hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Hãy nhìn đi, hãy chiêm ngưỡng đi? Chúa đang đến đây nè”.
“Tận thế sẽ là bó hoa kết dâng cuối cùng” (G. Boucher, trong “Le ciel sur terre”)
“Giờ phút kinh hoàng đã điểm. Người ta sẽ thấy núi phun lửa ầm ầm nhả ra những dung nham nóng chảy, trái đất nứt nẻ, biển cả gào thét, gió xoáy điên cuồng, nhà nhà sụp đổ. Người ta sẽ thấy đất trời rung chuyển, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống.. Tắt một lời đó là quang cảnh báo trước ngày tận thế. Và toàn thể nhân loại đều phải phập phồng lo sợ cho cái giờ phút hãi hùng ấy.
Tiếp theo những hiện tượng kinh khủng của trời đất, thì này đây bừng lên một cảnh tượng thật là thanh bình và hoành tráng khi con người xuất hiện. Giống như xưa giữa cơn phong ba bão táp, thì giờ đây một con người cũng đứng lên ra tay uy quyền dẹp yên sóng gió.
Cái bề ngoài từng là chết chóc, tai họa lại đang báo trước cảnh thanh bình và hoàn tất mỹ mãn.
Núp ẩn trong nhà ư? Độn thổ ư? Sống mà sợ hãi ư? Không đây sẽ là ngày để ta đứng thẳng dậy, tiến bước, mắt ngước lên, đầu ngẩng cao. Đây sẽ là khúc nhạo dạo đầu chào mừng một thế giới mới bước vào vô biên.
Đó sẽ là nơi “cư ngụ” vĩnh viễn, là nhân loại đã hoàn thành.
Như vỏ trứng tự nứt nẻ để gà con nở ra thế nào, thì trời đất đại dương cũng sẽ tự vỡ ra như vậy để cho Con Người xuất hiện, và nhân loại mới cũng cùng xuất hiện với Con Người.
Trong cảnh hỗn mang này, thực ra Chúa chỉ muốn đưa ra cho ta một lời mời gọi này mà thôi: hãy chế ngự nỗi sợ hãi để niềm tin được thảnh thơi. Hãy sống những thực tại của con người như là những giai đoạn dẫn đưa ta vào thời ân sủng và vinh quang. Hãy lấy đức khôn ngoan mà phân định điều gì xảy đến với con người, giữa các dân tộc, và ngay trung tâm các yếu tố của thế giới.
Và rồi hãy để cho đời sống và lịch sử của ta mở ra, hướng đến nguyện cầu. Nghĩa là hãy nhận ra và tìm gặp được, ngay trong những giây phứt quay cuồng của cuộc sống, sự hiện diện ân cần và thân thương của Chúa Cha, lời Chúa Con mời gọi ta hướng dẫn những biến cố theo chiều hướng đi lên và hoàn bị, sự nhạy bén đối với Chúa Thánh Thần, Đấng hằng khơi gợi lên từ muôn dân trên mặt đất, những con người luôn ấp ủ niềm hy vọng mà không sợ hãi.
Một khi Thiên Chúa làm cho lịch sử kết thúc như vậy rồi, thì một người sẽ xuất hiện trong quyền lực và vinh quang. Bấy giờ nhân loại sẽ đứng thẳng lên, ngỡ ngàng phát hiện ra rằng dẫu sao mình cũng đã dự phần làm cho thế giới nên hoàn bị.
Nhận ra sự hiện diện của Chúa.
Dáng vẻ bên ngoài có thể che khuất thực tại. Vẻ đẹp của đá hoa cương và tòa nhà có thể khiến khách tham quan chỉ chú ý đến vẻ lộng lẫy kia mà không nhận ra cái gì là quan trọng.
Đền đài hay Đấng ngự trong đền đài, cái nào quan trọng? Nếu việc loan báo sự kết liễu Đền thờ Giêrusalem có gợi được sự quan tâm, thì phải chăng cũng chỉ là để cho người ta chăm chú đến cái cốt lõi, sự Hiện diện? Cái kết thúc không được làm cho ta quên đi cái Hiện tại, cũng như cái hiện tại mau qua kia không được gây trở ngại cho việc chiêm ngưỡng Đấng chẳng hề qua đi. Hãy đón nhận những gì được ban cho ta lúc này, chứ đừng thả mồi bắt bóng. Vậy phải đợi xảy ra những biến cố kinh hoàng như chiến tranh, động đất, địch tễ và chết đói. Phải đón chờ sự sợ hãi và kẻ loan báo nỗi hãi hùng kia rồi mới lắng nghe tiếng đang nói đang mời gọi ta hôm nay chăng? Chính không phải cái giờ phút ấy, cũng chẳng phải những tiếng nói tiên báo tương lai kia mà ta phải chờ đợi. Điều quan trọng hơn cả vẫn chính là tiếng đang nói hôm nay, chỉ một tiếng nói đó mới nói thật rằng “Chính Ta đây” hoặc “Ta đây”. Chỉ ngày hôm nay, chứ không phải ngày mai, “giờ khắc ấy đã đến gần” rồi. Còn ai nữa đâu mà chờ đi theo?”
ĐỨNG VỮNG TRƯỚC MẶT CON NGƯỜI- Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Diễn từ về “Cuộc trường chinh của việc giải phóng”
Và sẽ có những điềm lạ trên mặt trời…
Lần này đó là những biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều đáng chú ý là liên từ “và”: Chúa Kitô đi từ thời của dân ngoại đối với thành Giêrusalem đến những biến động trong vũ trụ và không xác định chiều dài của thời gian giữa sự tàn phá thành vào năm 70 với thời Tận cùng. Như thế, ngài mặc cho sự giày xéo thành bởi các dân ngoại (c. 24) một màu sắc cánh chung. Đã hai nghìn năm rồi từ ngày xảy ra biến cố ấy!
Những điềm lạ nói đây nghiêm trọng hơn những điềm lạ ở câu 11: chúng sẽ đồng thời xảy ra trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao và sẽ gieo rắc lo âu sợ hãi cho toàn thể dân cư trên mặt đất. Trật tự vũ trụ sẽ chao đảo như thể trở về với cái hỗn mang nguyên thuỷ ghi dấu thời tận cùng của lịch sử. Các biến cố này đi liền trước ngày quang lâm của Con Người, ngày đó được nhắc đến một cách ngắn gọn chứ không được mô tả. Trong khi ngày đó là đích điểm của toàn thể lịch sử nhân loại, thì tầm quan trọng của nó lại quá nhỏ trong bài diễn từ mà trọng tâm lại nằm ở chỗ khác.
Lúc ấy, Chúa Giêsu mới đưa ra một lời diễn giải giúp khám phá ý nghĩa của diễn từ (cc. 28-32); Ngài nối kết các biến cố Ngài vừa nói ở trên với các câu hỏi ban đầu về ngày giờ và dấu chỉ (xc.7). Một ý tưởng trung tâm (c.28) được minh hoạ nhờ một dụ ngôn (cc.29-30) và nhờ lời giải thích dụ ngôn ấy (c.31).
Trước hết là dấu chỉ. Những sự vật sinh sản (cây đâm chồi nẩy lộc, trong dụ ngôn) cho phép các tín hữu suy diễn về sự gần kề của ngày giải thoát vĩnh viễn (mùa hè gần đến, trong dụ ngôn; và Triều Đại Thiên Chúa gần đến, trong lời giải thích). Nếu các sự việc này quy chiếu về các biến động trong vũ trụ xảy ra trước ngày quang lâm của Con Người, thì chỉ có thế hệ tín hữu cuối cùng mới bị liên hệ bởi sự gần kề của ơn cứu độ vĩnh viễn. Và nếu Chúa Giêsu chỉ đưa ra việc trời đất rung chuyển như là dấu chỉ và không đưa ra những điềm báo về sự sụp đổ của thần thánh, Ngài không mặc khải gì mà lại đã không được nói đến trong các bản văn Cựu Ước liên quan tới Ngày của Chúa (x. Is 13,10; Hg 2,6). Trong thực tế, dấu chỉ nằm nơi những biến cố lịch sử xảy ra trước ngày Giêrusalem bị tàn phá (xc.20). Về lệnh truyền “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đặc biệt thích hợp cho các kẻ bị bách hai (xc. 12tt); “Ngài không nói với các Kitô hữu vô danh sẽ còn sống vào lúc quang lâm cho bằng, một cách cụ thể hơn, với các người đương thời của tác giả Tin Mừng” (V.Fusco) và, qua họ, với tất cả các Kitô hữu sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Các thành viên trong Giáo Hội của Luca –rồi chúng ta hôm nay- phải sống trong sự xác tín rằng việc giải thoát họ thực sự đang tới, rằng nó đã gần rồi. Như lời Tông đồ Phaolô: “Hiện này, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo… Ngày gần đến” (Rm 13,11-12).
Câu 32 trả lời một cách long trọng cho câu hỏi về ngày giờ: Mọi điều ấy sẽ xảy ra trong khi thế hệ này –đa số những người đương thời với Chúa Giêsu Nagiaret- vẫn còn sống. Từ ngữ “mọi điều” bao gồm toàn bô các biến cố tương lai đã được loan báo, kể và nhất là biến cố quan trọng nhất” (V.Fusco). việc quang lâm, nghĩa là những dấu chỉ là việc Con Người ngự đến, Luca không ngại ngần chi khi lấy lại lời truyền thống này mà không thêm bớt gì, ông cũng đã làm như thế ở 9,27 với lời liên hệ đến những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa, mạch văn cho phép quy chiếu về biến cố hiển dung, rồi về thời gian lý tưởng giữa biến cố Phục Sinh và Thăng Thiên. Câu 32 còn đi xa hơn: thế hệ đã chứng kiến biến cố Đền Thờ bị phá huỷ cũng phải biết đến ngày quang lâm. Việc quang lâm của Chúa Kitô vinh hiển bao trùm cuộc sống mọi tín hữu và không thể là biến cố thuộc về một tương lai xa xôi.
Để kết luận lời tiên tri của mình, Chúa Giêsu xác nhận thế giá và tính cách chắc chắn của lời hứa trước đây, cũng như của toàn bộ diễn từ cánh chung (c.33): chúng vững bền hơn vũ trụ (x.16). Nói thế rồi, Ngài đồng hoá lời của Ngài với lời Thiên Chúa mà Is 55,10-11 đã nhắc đến hiệu quả.
Diễn từ kết thúc bằng một lời huấn dụ tỉnh thức và cầu nguyện (cc. 34-35). Những chỉ thị đã được đưa ra cho các môn đệ rất rõ ràng: lời cảnh giác phải đề phòng khỏi các lo lắng, trong phần giải thích dụ ngôn hạt giống (8,14) và giáo huấn về thái độ thích hợp đối với của cải vật chất (12,22tt), cảnh cáo chống lại việc say sưa, trong dụ ngôn người quản lý trung thành (12,45-46). Về điểm này, tình trạng mà Giáo Hội của Luca phải đương đầu không khác gì tình trạng ở các cộng đoàn của Phaolô. Các chỉ thị được đưa ra ở 1Tx 5,4-8 –với cơ nguy, như ở đây, là ngày Phán xét đến bất thình lình đối với các tín hữu- và ở Rm 13,11-13 rất giống nhau. Sự ngủ mê đe doạ các cộng đoàn, bởi vì, trong Luca cũng như trong các thư của thánh Tông đồ, vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy chỗi dậy.
Hai tảng đá ngầm đối nghịch nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau, đang rình rập Giáo Hội: niềm hy vọng bồn chồn về ngày trở lại gần kề của Chúa Kitô (2Tx 2,1-3) và sự vỡ mộng, cơn cám dỗ buông trôi mọi hy vọng vào tương lai (x. 2Pr 3,4). “Càng nóng lòng trông đợi vào ngày quang lâm, càng đắng cay vì nỗi thất vọng” (Fusco); và các ảo tưởng là điều nguy hiểm cho đức tin. Rõ ràng đó là mối nguy thứ hai mà Luca sợ cho Giáo Hội của mình –cũng là mối nguy đe doạ các cộng đoàn Công giáo Tây phương chúng ta vào cuối thế kỷ XX này- và Luca phản ứng chống lại mối nguy ấy. Từ đó, ta thấy sự kiện Chúa Kitô nói tiên tri, tuy có phân biệt, nhưng không hoàn toàn tách rời việc Giêrusalem bị tàn phá khỏi ngày quang lâm. Cũng do đó, mà đã có những xác quyết: từ cuộc tàn phá này, sự giải thoát các tín hữu đang gần kề; mỗi tín hữu trong Giáo Hội của Luca –và mỗi người trong chúng ta- phải sống trong mọi lúc thế nào hầu có thể có sức mạnh… mà đứng vững trước Con Người.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TẤM GƯƠNG BÀ GÓA- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
Các bài đọc của Chúa nhật này bắt đầu đề cập đến ý tưởng chính của Mùa Vọng, đó là Ngày Chúa đến.
– Trong bài đọc I (Gr 33,14-16), ngôn sứ Giêrêmia bảo đảm với dân Israel là Thiên Chúa sẽ sai Đấng Messia đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày. Đó là lần thứ nhất Chúa đến.
– Trong bài Tin Mừng (Lc 21,25-27.34-36), thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày Quang Lâm.
– Và trong bài đọc II (1 Tx 3,12–4,2), Thánh Phaolô dạy tín hữu bồi dưỡng tình yêu để đón Chúa đến lần thứ hai.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến : lần thứ nhất Chúa đến tại Bêlem một cách khiêm tốn âm thầm trong những yếu đuối của thân phận làm người ; lần thứ hai Ngài sẽ lại đến trong vinh quang uy quyền của một Vị Vua nắm quyền cả vũ trụ. Thánh Phaolô nói rằng trong thời gian giữa hai lần đó, cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu chúng ta cần Chúa như thế nào để chúng ta tích cực chuẩn bị đón Ngài đến với chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Hôm nay là bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Nhìn lại năm cũ, chúng ta nhận thấy có rất nhiều thiếu sót lỗi lầm. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp chúng ta làm lại cuộc đời trong năm mới này.
– Chúa rất thường đến với chúng ta, phần chúng ta thì ít khi đến với Chúa.
– Nhiều khi Chúa muốn đến với tâm hồn chúng ta nhưng Ngài không vào được vì lòng chúng ta đã dành hết chỗ cho những đam mê trần tục.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Gr 33,14-16)
Giêrêmia là một ngôn sứ đã chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước : dân Chúa bất trung với Ngài ; quân thù vây hãm Giêrusalem ; mất nước ; lưu đày. Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia bó buộc phải gióng lên những lời nói chói tai để tố cáo tội lỗi của dân mình và tha thiết kêu gọi họ sám hối.
Thế nhưng khi dân đã bị lưu đày, Ngôn sứ đổi giọng. Trích đoạn này nằm trong phần “sứ điệp cứu độ” (các chương 26-35). Ông báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, vì sẽ tới những ngày Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Đấng cứu thoát họ : “Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp…”
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến thứ nhất của Đấng Messia.
Đáp ca (Tv 24)
Bài thơ này là lời cầu nguyện của kẻ đang đau khổ và tỏ bày tâm tình sám hối.
Từ chìa khóa trong trích đoạn được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là “đường, lối” : đường lối duy nhất để thoát khỏi cảnh khổ sầu và đến được ơn cứu thoát chính là đường lối của Chúa, đường chính trực, đường chân lý, đường yêu thương, đường giao ước…
Tin Mừng (Lc 21,25-27.34-36)
Đoạn Tin Mừng này nằm trong Diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói về những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới.
Các câu 25-28 : nói về ngày tận thế và Quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển…) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
Các câu 34-36: nói về đến thái độ mà môn đệ Chúa Giêsu phải có.
– Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến : không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian… Nếu bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến thì dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
– Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ : cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
Bài đọc II (1 Tx 3,12–4,2)
Thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônikê trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.
Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến rồi, nên các tín hữu Thêxalônikê sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn khác. Thánh Phaolô cho rằng đó không phải là thái độ đúng đắn. Thái độ đúng đắn là phải bồi dưỡng tình thương : “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Chúa Giêsu quang lâm”
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Suy nghĩ đầu năm phụng vụ mới
Hoa trên đồi có tàn đi thì cũng nở lại vào năm sau.
Tuổi xuân con người một khi tàn phai thì không bao giờ nở lại.
Mặt trời mọc lên buổi sáng, buổi chiều lặn đi, nhưng sáng hôm sau mọc lại.
Đời người dần trôi về lúc hoàng hôn và không bao giờ có bình minh nào khác.
Tại sao mỗi người chỉ có một đời ? Tại sao con người không có cơ hội khác ?
Thôi đừng thắc mắc và cũng đừng thở than. Hãy ý thức rằng cuộc đời là một món quà tặng ; vì nó chỉ có một nên nó vô cùng quý giá.
Xin Chúa cho chúng con biết tận dụng những cơ hội của đời này, bởi vì chỉ có thế chúng con mới đến được đời sau, một cõi đời không bao giờ tàn úa, một cõi đời mãi mãi sáng tươi.
* 2. Giữa tối tăm bừng lên một tia sáng
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Giêrêmia mô tả cuộc sống trong một thời tăm tối bi quan : trong nội bộ dân Chúa thì bất trung tội lỗi ; từ bên ngoài thì hiểm họa xâm lăng lúc nào cũng rình chờ. Thế mà Giêrêmia vẫn có thể thốt lên những lời dự đoán đầy lạc quan : “Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp”. Từ trong tối tăm của hiện tại, Giêrêmia vẫn thấy trước tia sáng của tương lai, bởi vì Giêrêmia tin vào nguồn sáng là Thiên Chúa : “Đức Chúa là sự công chính của chúng ta”.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng : “Sẽ có những điềm lạ trên trời…. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc…” Mặc dù vậy, Ngài vẫn bảo môn đệ mình “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa một năm Phụng vụ mới. Nhìn tới tương lai, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao gian truân đang sẵn chờ. Nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn bảo chúng ta hãy lạc quan. Vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt khi vắng bóng Thiên Chúa. Còn đối với những người để Thiên Chúa dẫn dắt đời mình thì tương lai sẽ ngày càng tươi đẹp.
* 3. Hướng đi của lịch sử
Theo quan niệm thông thường của người đời, lịch sử đi theo vòng tròn : Hết xuân tới hạ, rồi thu, rồi đông, và sau đó trở lại chu kỳ Xuân Hạ Thu Đông. Theo quan niệm ấy, một năm trôi qua rồi sang năm khác với cũng những cảnh ấy, những việc ấy, những lao nhọc và khó khăn ấy.
Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, lịch sử đi theo đường thẳng và hướng đến một tương lai tốt đẹp do Chúa sắp sẵn cho những ai biết cùng Ngài hành trình trên con đường dương thế. Chính vì nghĩ thế nên Thánh Phaolô nói với tín hữu của Ngài rằng cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.
Hôm nay bắt đầu một năm Phụng vụ mới, chúng ta hãy quyết tâm sẽ đồng hành cùng Chúa trong suốt năm này, để mỗi ngày một tiến gần hơn tới ơn cứu độ.
* 4. Hướng lòng về Ngày Chúa đến
1/ Ý nghĩa mùa Vọng
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng. Vọng là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến để khai mạc một thời đại mới, thời đại hết sức tốt đẹp hơn, tràn đầy hạnh phúc.
Chúa đến thế gian này hai lần, lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa :
– Thứ nhất : chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất cách đây 2000 năm.
– Thứ hai : chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể đến nơi rồi. Ngài nói Ngài sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.
Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết : «Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói : “Bình an biết bao ! Yên ổn biết bao !”, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống (…) chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày» (1 Tx 5,2-5).
2/ Chờ đợi «Trời mới đất mới», một kỷ nguyên tốt đẹp sẽ đến
Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến để khai mở một kỷ nguyên mới :«Này đây, Ta sẽ sáng tạo trời mới đất mới» (Is 65,17a ; xem 66,22), nghĩa là một kỷ nguyên thanh bình, hạnh phúc, được ngôn sứ Isaia diễn tả như sau : «Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, và sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển» (Isaia 11,6-9). Kỷ nguyên này không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ. Mọi người đều thỏa mãn, an vui, hạnh phúc.
Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Đó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào !
Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ : «Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp» (Mt 25,41.46).
3/ Ngày đó có thể sắp đến
Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy : các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa… (xem Mt 24,4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật… Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt.
Đức Kitô nói ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian (tức vào thời điểm không ngờ được), mà có thể còn là hình thức (cách xảy đến cũng không ngờ được). Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ.
Ngày ấy là ngày Chúa phán xét, nên điều hết sức quan trọng là vào ngày ấy, chúng ta phải là người trong sạch, tốt lành, không có gì đáng chê trách trước mặt Chúa, nhất là về lòng yêu thương và cách xử sự đối với mọi người. Khi phán xét, Ngài phán xét ta chủ yếu về điều ấy.
4/ Hãy chuẩn bị sẵn sàng
Vì ta không biết ngày nào Ngài đến, nên khôn ngoan nhất là lúc nào ta cũng nên sẵn sàng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô cũng khuyên ta như vậy : «Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất». Chuẩn bị như thế nào ? Đức Kitô khuyên ta : «Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn».
– Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Thái độ sẵn sàng đó chắc chắn không làm ta thiệt hại, mà giúp ta sống khôn ngoan, hạnh phúc hơn. Hình ảnh hay nhất minh họa sự tỉnh thức là thái độ của người canh kẻ trộm, không dám ngủ thiếp đi một phút nào.
– Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.
Có như vậy, chúng ta mới «đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người».
***
Lạy Cha, hiện nay, đã có biết bao nhiêu điềm báo hiệu ngày quang lâm của Chúa Giêsu. Ngày ấy có thể đã gần tới. Vì thế, xin Cha giúp con biết chuẩn bị cho ngày ấy, và sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Ngài đến, Ngài cũng có thể hài lòng về con, về cách sống của con, về tình thương của con đối với mọi người, và về cách đối xử tốt đẹp của con đối với những người chung quanh con. Xin giúp con luôn tỉnh thức trong tinh thần cầu nguyện, như Chúa Giêsu đã khuyên nhủ mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen (Nguyễn chính Kết)
* 5. “Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”
Thời Đức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình :
“Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết… Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến… và con sẽ về với Chúa…
Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp ?.. Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết… Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đôùi với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an…” (Mark Link kể)
* 6. Tỉnh thức và cầu nguyện
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Đức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Đức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói :
– Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai :
– Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục :
– Thú thật với ông, đã “16 năm” nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên :
– 16 năm rồi cơ à ? Thế người được các chị cầu nguyện chắc “phải là ân nhân của nhà Dòng ?
Chị nữ tu trả lời :
– Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Đức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Đã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi :
– Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không ?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên :
– Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi ?
Đến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận :
– Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.
Họ bị Chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ :
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn “Tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải”lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
Lạy Đức Ki tô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen (TP)
Những cây trường xuân
Trong quyển “The legend of the Bells”, John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo “Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm”.
Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Đêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán : “Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi”.
Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.
Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.
Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân. (FM)
Chuyện minh họa về sự sẵn sàng
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên phá cửa đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi : “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.”
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
Bài giải thích của Thánh Bernard (+ 1153)
Các bạn đừng chỉ nghĩ tới lần Chúa ngự đến để “tìm và cứu những gì hư mất” (Lc 19,10) ; hãy nghĩ tới lần Ngài ngự đến để rước chúng ta đi theo Ngài nữa. Ước gì các bạn hãy suy gẫm sâu xa về hai lần ngự đến ấy, và nghiền ngẫm trong lòng về điều Ngài đã ban cho ta trong lần ngự đến thứ nhất, và điều Ngài hứa sẽ cho ta trong lần ngự đến thứ hai.
“Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao ?” (1 Pr 4,17) Cuộc chung thẩm sẽ thế nào đối với những kẻ không đứng vững trong cuộc phán xét này ? Tất cả những ai trốn tránh cuộc phán xét bây giờ, tức là cuộc phán xét làm cho thủ lãnh thế gian này bị ném ra ngoài, thì họ phải chờ đợi, hay nói đúng hơn là phải lo sợ cuộc phán xét sẽ làm cho họ cũng bị ném ra ngoài cùng với thủ lãnh của họ. Còn nếu chúng ta chịu phán xét đầy đủ bây giờ thì chúng ta hãy an tâm “mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”(Pl 3,20-21) “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ” (Mt 13,43)
Khi Chúa đến, Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Nhưng chỉ với điều kiện là trước đó tâm hồn chúng ta đã được biến đổi giống tâm hồn khiêm tốn của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã nói : “Hãy trở nên môn đệ Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm tốn trong lòng” (Mt 11,29).
Các bạn hãy khám phá trong đoạn Tin Mừng này hai loại khiêm tốn : một là khiêm tốn về nhận thức, hai là khiêm tốn về tình yêu tức là khiêm tốn trong lòng. Loại khiêm tốn thứ nhất dạy ta biết rằng ta chẳng là gì cả, chúng ta chỉ học biết do chính chúng ta và do sự yếu đuối của chúng ta mà thôi. Với sự khiêm tốn thứ hai, chúng ta chà đạp vinh quang của thế gian, và chúng ta được học biết từ chính Đấng tự huỷ mình đi, mang phận tôi đòi ; khi người ta muốn tôn Ngài lên ngôi thì Ngài lánh đi ; còn khi được gọi chịu mọi thứ hành hạ và nhục hình trên thập giá thì Ngài đã vui lòng tự hiến.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, nỗ lực sống thánh thiện, lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, đồng thời luôn luôn tỉnh thức và không ngừng cầu nguyện, là những việc làm không thể thiếu được trong việc chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Với tâm tình thiết tha trông đợi ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh có sứ mạng công bố cho toàn thể thế giới biết rằng / Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi nước mọi dân / biết chân thành đón nhận lời công bố của Hội thánh.
- Trên thế giới ngày nay / nạn kỳ thị chủng tộc vẫn đang hoành hành ở nhiều nơi / đem đến vô vàn đau khổ cho những người bị kỳ thị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / biết lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
- Tửu sắc là nguyên nhân gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình / biết bao tội ác trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đắm chìm trong tửu sắc / biết mau mắn thức tỉnh / đổi mới đời sống / để đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu / và nhất là để đón mừng ngày Ngôi Hai xuống thế làm người.
- Thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn cố gắng sống thánh thiện / nhất là sống bác ái yêu thương trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô ngự đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thành tâm lắng nghe / và tích cực thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế : Lạy Chúa là nguồn mọi ơn phúc, chúng con đang thao thức trông chờ ngày Chúa Giêsu Kitô, con Một Chúa hằng ưu ái, xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị thật tốt tâm hồn, để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng sinh sắp tới. Chúng con cầu xin.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
CHÚA SẼ ĐẾN GIẢI THOÁT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh : “Mùa Vọng có hai đặc tính : vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng sinh, là lễ kính nhớ Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi”(Những qui luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch, số 39).
Chúa nhật I Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới. Mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Be lem. Hằng năm chúng ta vẫn mừng biến cố vĩ đại này : Lễ Chúa giáng sinh.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tấn tới hơn nữa trong đời sống Đức ái đối với Chúa và tha nhân để đón chờ ngày Chúa Kitô “lại đến” trong vinh quang. Ước gì trong ngày Chúa đến, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”, vì ơn cứu rỗi chúng ta đã đến.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 33,14-18.
Giêrêmia là một tiên tri chứng kiến cảnh tang thương của đất nước mình : vì dân bất trung với Chúa nên Ngài để cho quân thù đến vây hãm thành thánh, Giêrusalem bị phá hủy và dân chúng bị phân tán và đi lưu đầy.
Nhưng trong khi dân chúng đang sống trong tuyệt vọng trong cảnh lưu đầy thì Giêrêmia lại loan báo rằng Thiên Chúa không quên lời Ngài đã hứa. Ngài sẽ ban một “Đấng Công chính” để giải thoát dân Ngài :”Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp”.
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến lần thứ nhất của Đấng Messia. Lời loan báo này làm cho dân Chúa xưa cũng như chúng ta hôm nay có thể chỗi dậy và tiến bước.
+ Bài đọc 2 : 1Tx 3,12-4,2.
Thánh Phaolô phải rời Thessalonica trước khi kịp dạy bảo những điều thiết yếu. Vì vậy Ngài lo lắng cho sự tăng trưởng về đức tin và đức ái trong cộng đoàn còn non trẻ này.
Ngài nhắc bảo họ hãy tin và chờ đợi Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Niềm tin này sẽ định hướng cuộc đời của mọi người. Trong khi chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang, mọi người phải thực hiện giới răn của Chúa là thi hành đức bác ái đối với nhau :”Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đặm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng trách… trong ngày Chúa Giêsu quang làm”.
+ Bài Tin mừng : Lc 21,25-27.34-36.
Luca mô tả sự sụp đổ của Giêrusalem như một tai hoạ toàn cầu : trong thế giới tôn giáo của người tín hữu, thành Giêrusalem chiếm địa vị quan trọng đến nỗi khi tưởng tượng đến sự sụp đổ của thành thì không thể không nghĩ đến ngày tận thế.
Đoạn Tin mừng này nằm trong diễn từ chung luận, trong đó Đức Giêsu nói về những sự việc sẽ xẩy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới. Vì thế, sống trong thế giới văn minh ngày nay, chúng ta đừng quên rằng cuộc sống của chúng ta không hoàn toàn thuộc về chúng ta, mà chúng ta còn phải trả lẽ với Đấng là chủ tể toàn năng về cuộc sống của mình. Chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng.
THỰC HÀN LỜI CHÚA.
Đứng thẳng và ngẩng đầu lên.
Ý NGHĨA MÙA VỌNG.
Mùa Vọng .
Ngày xưa ta gọi mùa này là Mùa AtÙ, có lẽ do chữ Adventus của tiếng La tinh có nghĩa là việc Chúa đến. Ngày nay ta gọi mùa này là Mùa Vọng. Mùa vọng có nghĩa là thời gian trông mong, hướng về, chờ đợi Chúa đến.
* Cả Cựu ước là Mùa Vọng.
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người , Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế (St 2,15). Ai tin vào Thiên Chúa Tình yêu và sống trong tình yêu là sống trong Vương quốc của Ngài. Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã nhiều lần lặp lại lời hứa này với các tổ phụ và tiên tri. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Chúa sống niềm tin tưởng phó thác qua giòng lịch sử.
* Cả cuộc sống Giáo hội là một Mùa Vọng.
Lời hứa của Chúa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu đã giáng trần,sống trong kiếp người, đã chịu chết và sống lại, về trời cùng Thiên Chúa Cha và loan báo sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Do đó, toàn thể đời sống của Giáo hội hướng về ngày Quang lâm của Đức Giêsu. Vì thế, Giáo hội thường xuyên kêu lên : Maranatha, Lạy Chúa Kitô, xin ngự đến.
* Cả cuộc sống từng người cũng là một Mùa Vọng.
Chúng ta cùng Giáo hội đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng Chúa có thể đến riêng với chúng ta lần thứ hai trước ngày tận thế, nghĩa là đến gọi chúng ta ra đi trong ngày kết thúc cuộc đời mình. Chúng ta được mời gọi sống tinh thần Mùa Vọng trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Mùa Vọng đối với chúng ta.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần : lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ hai chưa đến, nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế Mùa Vọng có 2 ý nghĩa :
– Nhìn về phía sau : chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố trọng đại lần thứ nhất cách đây 2000 năm, Ngày Chúa giáng trần.
– Nhìn về phía trước : chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Ta không biết khi nào Chúa đến, có thể là còn lâu, có thể là đến nơi rồi vì Ngài đã nói giờ đó đến bất ngờ như kẻ trộm, hoặc như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN.
Chúa đến lần thứ nhất.
Thực sự, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất tại hang đá Be lem, nghĩa là Chúa nhập thể làm người cách đây 2000 năm. Lúc này đây chúng ta đang sống trong mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu. Tất nhiên chúng ta không thể sống một tâm tình như thể Chúa chưa giáng trần. Nhưng chúng ta sống lại những tâm tình của dân Do thái mong đợi Chúa đến, để lúc này đây công cuộc nhập thể cứu chuộc của Chúa ăn sâu vào đời sống của ta, việc này đòi nhiều thời gian và ta sẽ phải làm suốt đời.
Trong suốt năm, chúng ta sẽ được sống trở lại toàn bộ những câu chuyện của Ngài. Nhưng chúng ta đã nghe kể về những câu chuyện đó nhiều lần. Do đó, có nguy cơ là chúng ta có thể xem những câu chuyện đó là cũ rích, nhàm chán. Hãy cố gắng và nhìn nhận rằng đó là những câu chuyện vẫn còn mới mẻ, hiện đang tồn tại và sống động. Điều này không giống như việc xem một cuốn băng video cũ. Việc cử hành mỗi ngày lễ mang từng sự kiện trở lại, trong sự sáng tỏ và sinh động của nó, không bao giờ chúng ta được mặc cho ngày lễ đó trở nên lạnh lẽo, mất sức sống, hoặc chìm vào quên lãng.
Ngoài ra, chúng ta không phải là khán giả, nhưng là những tác nhân trong toàn bộ ngày lễ này. Những mầu nhiệm về cuộc đời của Đức Kitô được trình bầy theo cách thế khiến chúng ta được lôi cuốn, và trở nên những nguời tham dự vào những mầu nhiệm đó. Điều này làm cho ngày lễ mang tính cách đòi hỏi hơn, nhưng cũng phong phú hơn và đem lại phấn khởi hơn. Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa của quá khứ, nhưng còn là của hiện tại và tương lai nữa(Flor McCarthy).
Chúa đến lần thứ hai.
Hôm nay các bài đọc đều tập trung vào ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và là ngày tận thế. Các Kitô hữu tiên khởi tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai đã gần kề, và sẽ được báo trước bằng những dấu hiệu về thiên văn. Chúng ta không biết chắc chắn về điều đó. Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng, khi lịch sử kết thúc, Đức Giêsu sẽ đến trong vinh quang để đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày chung thẩm.
Trước lời hứa trở lại của Chúa, người ta đem ra nhiều lý luận và suy đoán viển vông. Khi nào nó xẩy đến, xẩy đến như thế nào, chúng ta không đuợc biết. Nhưng một điều chân thật lớn lao sẽù phát xuất là lịch sử đang tiến tới một chỗ nào đó. Có một số người – các triết gia phái Khắc kỷ coi lịch sử là một vòng tròn. Họ tin rằng cứ mỗi 3000 năm hoặc khoảng như thế, vũ trụ lại một lần bị thiêu đốt, rồi sau đó bắt đầu lại, lịch sử lại tái diễn. Có nghĩa là lịch sử chẳng đi đến đâu cả và loài người cứ bước đi loanh quanh như một cối xay vĩnh cửu. Còn người Kitô hữu chúng ta tin rằng lịch sử có cùng đích và tại cùng đích đó Chúa Cứu Thế Giêsu sẽ làm chủ tể mọi sự mọi loài.
Đức Giêsu đã nói rõ ngày tận thế sẽ xẩy ra bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”(Lc 21,35), như chiếc lưới chụp xuống đàn chim đang ăn mồi, như chiếc lưới chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Nhưng có những người lại dám tự mình cho mình biết rõ ngày tận thế, ấn định ngày tận thế và loan báo cho tín đồ của họ phải chuẩn bị cho ngày đó.
Truyện : Tận thế ở Đại hàn.
Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này : ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu :”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời” . Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng C, tr 4).
Chúa đến giữa hai lần : giờ chết.
Chúa lại đến để đưa lịch sử loài người đến cùng đích và tất cả loài người đều phải trình diện trước Thiên Chúa, nhưng cũng có thể mỗi người phải trình diện Thiên Chúa khi kết thúc cuộc đời lữ hành trên trần gian này.
- a) Cuộc đời chóng qua.
Cuộc đời con người rất bấp bênh giống như con tầu đi trên mặt biển. Tuy con tầu có vẻ to lớn và rất chắc chắn, không gì có thể làm cho nó chìm được, nhưng con tầu sánh đâu được với biển cả. Số phận con người cũng thế, thật mỏng manh :”Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi , nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (đáp ca lễ an táng)..
Truyện : chiếc tầu Titanic.
Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn : những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).
Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy :”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ : mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu ; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
b)Chuẩn bị cho tương lai.
Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao ? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp :
+ Nhân sinh hà tại : con người bởi đâu mà đến ?
+ Tại thế hà như : đến để làm gì?
+ Hậu thế như hà : sau này sẽ ra sao?
– Con người bởi đâu mà đến ? Thánh kinh viết :”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.
– Đến để làm gì ? Thánh kinh đáp :”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình”. Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.
– Sau này sẽ đi đâu ? Thánh kinh lại minh chứng :”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19 ; Lc 10,7).
c)Hãy học với thần chết.
Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư DonJuan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết : học với thần chết. Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh :”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.
Truyện : Kinh nghiệm về sự chết.
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ôâng xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi :
– Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên
Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi của chúng đã đến. Ngược lại, chúng ta còn phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên.
* Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Đúng thế, đức tính can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính. Thử hỏi một người hay lười biếng, nhát đảm, yếm thế cầu an thì làm sao lướt thắng được mọi khó khăn, chu toàn bổn phận và giữ vững luơng tri giữa bao thử thách cám dỗ !
* Hãy ngẩng đầu lên là tư thế của con người lạc quan, hy vọng. Bởi vì, ai biết sống lạc quan, hy vọng không những tăng thêm sức mạnh cho mình, mà còn giảm thiểu được những sai phạm. Và sống mà không có hy vọng lạc quan để nhắm tới mục đích thì không thể nào ra sức phấn đấu và cố gắng vươn tới được. Nhưng chúng ta hy vọng gì và hy vọng vào ai ? Tất nhiên ngoài Chúa ra và hạnh phúc đời đời thì tất cả mọi hy vọng khác chỉ là tạm bợ mau qua hoặc hão huyền mây khói mà thôi.
Vậy khi sống trên cõi đời này đầy bất trắc và lắm thử thách, chỉ có những ai biết tin tưởng phó thác nơi Chúa, chắc chắn họ sẽ có đủ can đảm vượt thắng gian nan và hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời giúp họ bền đỗ đến cùng.
Truyện : Hãy đứng thẳng.
Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau : có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.
Hãy giữ lòng kẻo ra nặng nề
Chúa dạy chúng ta :”Các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở ta phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian nó làm cản trở tâm hồn bay lên. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là : ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.
Truyện : Ham mê ăn uống.
Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
Chúng ta hãy tỉnh thúc và cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Chủ đề này được lặp đi lặp lại trong Tin mừng dưới nhiều cách thức. Chẳng hạn ở một đoạn Tin mừng khác, Đức Giêsu nói:”Hãy coi chừng ! Hãy tỉnh táo ! Các con không biết được ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, vào buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… Điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,33.35-36)
Nếu chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Ngài đến sẽ là một thú vị bất ngờ. Ngày đó chúng ta không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc”(Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”(Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
Hãy sống đúng tinh thần Mũa vọng.
Sống mùa Vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống Mùa Vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và chung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự thách thức của những dấu lạ đó, hoặc tầm thường hóa chúng vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống (Jean-Guy-Nadeau).
Phúc cho những ai nói lên được lời này khi Chúa đến:”Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức và cầu nguyện để khi Chúa đến, Ngài sẽ nói với chúng ta :”Hãy đến, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ là Red Cloud miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy tỉnh thức và cầu nguyện :
“Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khẩn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn mầu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói.
Xin cho con ơn khôn ngoan để thấu hiểu những lời giáo huấn của Ngài; cho con biết khám phá ra bài học Ngài nhắn nhủ chúng con trong từng lá cây, viên đá.
Xin ban cho con sức mạnh không phải để con chế ngự anh chị em con, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay, và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi đi diện kiến Ngài”. Amen (Mark Link).
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.
1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
NGẨNG ĐẦU LÊN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Có người nghĩ rằng, trong Mùa Vọng phụng vụ phải đọc những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Thế nhưng, những bài sách Thánh và đặc biệt bài Tin Mừng Chúa Nhật I lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi con cái chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra, Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Ðức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Ðất Mới cho loài người. Tin Mừng hôm nay gợi lại trước mắt chúng ta quang cảnh tươi sáng về ngày Chúa quang lâm, Giáo Hội đưa chúng ta về với cuộc sống và trách nhiệm hiện tại của mình và nhắc lại lời căn dặn của Chúa Giêsu: Hãy Tỉnh Thức!
Vì thế, Mùa Vọng âm vang những lời loan báo.
Mùa Vọng – Mùa loan báo.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Mùa Vọng – Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:
– Chúa đến trong lịch sử nhân loại.
– Chúa đến trong ngày phán xét chung.
– Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.
– Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
Mùa Vọng – Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
– Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
– Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Dụ ngôn người quản gia trung thành.
Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Người ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Luy Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: “Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?”. Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: ” Con sẽ đi gặp cha linh hướng” Người thứ hai nói:”Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm”. Riêng Luy vẫn bình thản trả lời:” Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi”.
Ðó là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Xin dạy chúng con biết luôn “đứng thẳng” trong một nếp sống chân thành, tốt lành và thánh thiện. Xin hướng chúng con biết luôn “ngẩng đầu lên” để hướng về Quê Hương Thiên Quốc, nơi chúng con hy vọng sẽ được chung hưởng hạnh phúc muôn đời bên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
MỞ CỬA TÂM HỒN ĐÓN CHÚA ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi : Chúa đã đến chưa ? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng : Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích : một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Maria Đồng TrInh ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết : « Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi », và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van : « Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống ».
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non…” (x.Is 11, 1-10).
Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế : “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng : “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu :
– Chúa nhật I Mùa Vọng : Ad Te levavi… (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )
– Chúa nhật II Mùa Vọng : Populus Sion … (Này hỡi Dân Sion…)
– Chúa nhật III Mùa Vọng : Gaudete … (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
– Chủ nhật IV Mùa Vọng : Rorate … (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính…)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai : “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì nạn khủng bố gây rq. Các kitô hữu ở nhiều nơi kêu la thảm thiết. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?
Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách : “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).
Sống Mùa Vọng
Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Sách Khải Huyền viết : “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta : “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.
Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng tình yêu và lòng mến, với sự cảm thông dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, chúng ta phải ý thức mình là người mang tình yêu, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình huynh đệ, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, khổ đau với đồng loại. Lạy Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, xin dẫn chúng con bước vào Mùa Vọng và hăm hở đón mừng Chúa Giêsu Con Mẹ ngự đến. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TAI HỌA VÀ HI VỌNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Bài Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn hy vọng bất diệt.
Thực vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.
Trái đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống như thân xác con người và muôn vật.
Lời Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người đang mong chờ Chúa đến.
Tai họa:
Những tai họa do chính Đức Giêsu loan báo: “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, các tinh tú lay chuyển, dưới đất: biển gào sóng thét, ngày ấy những gì sắp giáng xuống địa cầu như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu anh em, ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất”.
Những kẻ không biết đề phòng, không sẵn sàng chuẩn bị, không biết ngẩng đầu lên nhận ra những dấu chỉ điềm trời, những kẻ không lo cầu nguyện, chăm sóc đời sống thánh thiện và vẹn toàn, không biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, không biết đối xử tình nghĩa với mọi người cho thắm thiết đậm đà, họ cứ buông thả theo lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, chai đá cứng lòng, khô khan nguội, lạnh lười biếng. Lúc đó thật tội nghiệp, thảm hại cho họ, họ phải lo lắng hoang mang buồn sầu, sợ hãi kinh hồn. Họ chẳng bao giờ được cứu thoát khỏi những tai họa khốn cực đó. Nhưng những người đang mong chờ Đức Kitô đến, thì ngày ấy là một ngày chan chứa hy vọng.
Hy vọng:
Những người biết tỉnh thức đứng dậy khỏi những đam mê say sưa tửu sắc, khỏi những đa mang ham hố sự đời, khỏi những lôi kéo trần tục, biết ngẩng đầu lên trông cậy vào Chúa mà “kiên trì bền chí cầu nguyện sống đẹp lòng Chúa và sống thắm tình nghĩa thiết với mọi người” (Bài II) chắc chắn họ sẽ được phúc đón mừng con người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ gấp rút giải thoát họ khỏi mọi khốn cực vì họ biết rằng đây là ngày quang lâm của Chúa, đây là giờ cứu rỗi, giờ chiến thắng vinh quang của Chúa. Họ được vững tâm hân hoan đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và được sống trong “Chúa là sự công chính của chúng ta” (Bài I).
Như vậy, Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này trình bày cho chúng ta hai cảnh trái ngược nhau: một cảnh trời đất sẽ có ngày đổ vỡ tiêu tan mà người ta coi nó như những lâu đài đồ sộ tráng lệ, bao la vô tận, nơi họ đang trú ngụ kiên cố, bất diệt muôn thuở. Thế mà không thể tưởng tượng được có ngày nó bị phá hủy như thành Giêrusalem xưa không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Đức Giêsu loan báo như thế, không phải làm cho chúng ta buồn rầu lo lắng bi quan. Nhưng chính là để cho chúng ta vui mừng thấy ngày trời cũ đất cũ đầy đau khổ, bệnh tật, chết chóc, để tới một cảnh trời mới đất mới, nơi vinh hiển hạnh phúc bất diệt, nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta ngự đến mở màn thời quang lâm cùng với thần thánh của Người. Đó là nguồn hy vọng vô cùng cho chúng ta, nếu chúng ta biết dùng thời gian sống trên trái đất này như một mùa vọng chuẩn bị đón mừng Đức Giêsu ngự giá trên mây trời đến với chúng ta trong hân hoan muôn đời.
Thực ra, Đức Giêsu loan báo ngày tận thế chính là để loan báo ngày quang lâm vinh hiển của Người. Đó là một quy luật ngàn đời trong chương trình sáng tạo, cứu chuộc để đưa lại hạnh phúc của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật không phải để chúng sống rồi chết, có rồi ra hư vô, nhưng để chúng sinh ra, lớn lên phát triển tươi tốt và sinh hoa kết quả rực rỡ muôn hương, muôn sắc, muôn vị thơm ngon.
Người tin vào chương trình đầy tình thương vô biên của Thiên Chúa thì chan chứa niềm vui, đầy hy vọng lạc quan. Người Đông phương đã có cái nhìn đó như Kinh Dịch chủ trương: “Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh” muôn vật sinh ra, lớn lên, thành đạt rồi trở về nguồn gốc trinh nguyên của nó.
Những quan niệm nhìn cuộc đời chỉ là “Sinh thành, hủy diệt” gây ra những hậu quả bi quan, chán đời, buông thả, ăn chơi trác táng, hủy hoại cuộc sống tốt đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng để đạt đến cùng đích vinh quang.
Đức Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh: “Con Người phải trải qua đau khổ… mới tới vinh quang”. Người đã sống lao động, rao giảng nước trời, trải qua cái chết đau thương và kết quả là sống lại vinh quang muôn thuở như hạt lúa gieo trong lòng đất, bị chôn vùi, biến đổi, lớn lên rồi sinh hoa kết quả gấp 30, 60 và trăm phần trăm, vũ trụ vạn vật đã được Thiên Chúa sáng tạo như thế, con người chúng ta cũng phải sống theo chương trình của Thiên Chúa như thế, chúng ta mới được đứng vững trước mặt Con Người ngự đến trong ngày quang lâm.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững lòng bền chí, tỉnh thức cầu nguyện và luôn luôn chuẩn bị đời sống đón mừng Đức Giêsu đến, chúng con được Chúa là Cha chúng con, nhìn nhận chúng con vào hàng ngũ các Thánh của Người. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC- Lm. Vũ Đình Tường
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
MỞ RỘNG TÂM HỒN ĐÓN CHÚA- Lm. Nguyễn Bình An
“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng “. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. Cứu Tinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo ” đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. ” Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
MÙA HI VỌNG- Lm Trần Bình Trọng
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
HÃY TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.
Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.
Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.
Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.
Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.
Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải kinh hồn táng đởm giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.
* * *
Có một thực tế đau lòng là so với các loài các vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm chưa hư, mà có khi càng lâu năm thì càng lên nước, càng đẹp và càng đáng quý hơn. Trong khi đó, con người là tạo vật thượng đẳng mà sao lại mỏng dòn, dễ thối, dễ hư đến thế!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!
Bài học Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa ngã dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức truỵ lạc khác…
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.
Thế nên người ta thường bảo: “khôn ba năm, dại một giờ”, nhưng không những thế, có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Thật đáng sợ thay!
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!… hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: “những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” trong nay mai. (I Cr 10,12)
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng, có nhiều phẩm chất cao đẹp… thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người.
Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi vô giá trị bất cứ lúc nào.
Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!… Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối… là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
MONG ĐỢI CHÚA – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào ngày 1 thánh Giêng. Năm mới theo phụng vụ, bắt đầu vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Mừng lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng là chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới.. Như vậy, Mùa Vọng là mùa xuân của năm phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một mùa thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là mùa hy vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi.
Đối với niềm tin của chúng ta, Mùa Vọng thực sự là mùa trông chờ, mong đợi. Lòng trông đợi mỗi lúc một rộn ràng hơn khi càng gần lễ Giáng Sinh; đồng thời mang nhiều sắc thái và mức độ khác nhau tùy tâm trạng mỗi người: người ta đợi Nô-en như một dịp để ăn chơi, để giao thiệp; đợi Nô-en như một cơ hội “nhất cử lưỡng tiện”: tiễn năm cũ và đón chờ năm mới may mắn, phát đạt hơn như phần đông tín hữu các nước theo dương lịch. Hoặc đợi Nô-en theo đúng tinh thần Tin mừng là đón Đấng Cứu Tinh nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta mong đợi gì? Niềm trông đợi của chúng ta có ý nghĩa nào?
Chúng ta có thể trả lời: Chúng ta mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa “Chúa đến” thường được hiểu ba cách: – Chúa đến trong lịch sử nhân loại – Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng – Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử, Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao? Dĩ nhiên Chúa đến, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mà lo sợ chờ chết ư? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chẳng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối? Thế thì chúng ta mong đợi cái gì nữa?
Giáo Hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân không khí Giáng Sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày: Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó cũng là một biến cố đích thực và có ý nghĩa.
Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất. Đành rằng có một ít người được ơn lạ chết đi sống lại hai lần, như La-da-rô hay con trai bà góa thành Na-im hay một vài trường hợp nào đó, nhưng hầu hết nhân loại chỉ chết có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải canh thức đợi chủ về: “Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến”. Còn thánh Mát-thêu thì nói rõ: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa Giêsu nói về chính mình Ngài.
Chính vì yếu tố bất ngờ đó mà Chúa dạy chúng ta phải luôn canh thức và sẵn sàng. Bởi vì cuộc đời con người đem so sánh với thời gian đã là một cái gì tạm bợ. Nhưng nếu đem so sánh với sự sống vĩnh cửu, thì nó càng mong manh hơn biết bao. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như hơi thở qua mau, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết khi nào mình từ biệt cõi đời, như kinh nghiệm vẫn minh chứng và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người.
Nhìn chung lại, đoạn Tin mừng này nêu chủ đề: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày nào, vậy phải canh thức để được sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thế chờ đợi Chúa đến.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gở ấy và có canh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không, để ngày Chúa đến là một niềm vui chứ không phải nỗi buồn, và chúng ta gặp Thiên Chúa tình yêu chứ không phải Thiên Chúa phán xét. Chúng ta canh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
SỐNG TỈNH THỨC- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
– Đây là ông A. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
– Đây là Bo. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến cái xác thứ ba:
– Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
– Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
– Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!
Chết có muôn ngàn kiểu. Vui quá cũng chết. Buồn quá cũng chết. Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết. Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết. Chết cũng không quy định nơi chốn. Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường. Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường. Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.
Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết. Cái chết là quy luật tất yếu của đời người. Sinh – lão – bệnh – tử. Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.
Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ. Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa. Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra. Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc. Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên. Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh. Sự sống của linh hồn bất diệt. Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa. Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.
Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.
Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
HÃY TỈNH THỨC- Lm. Phêrô Nguyễn Hương
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới sự Tĩnh Thức nhiều lần: “Anh Em nãy tĩnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào” (Mc 13,23).
Vậy thì Tỉnh Thức có nghĩa là gì? Tĩnh thức để làm gì và Tỉnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tĩnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tĩnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tĩnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tĩnh là người rất “dễ bảo” (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là “docibilitas”, nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được “nhập thể” trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tĩnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới (Lc
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tĩnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: “Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng” (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình”.
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
CHỜ MONG- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.
Con người mong chờ Thiên Chúa
Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.
Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!
Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.
Thiên Chúa chờ mong
Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?
Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?
Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.
Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa
Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.
Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.
Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Bạn mong chờ Thiên Chúa điều gì cách đặc biệt?
Theo bạn, Thiên Chúa chờ mong gì nơi bạn?
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. GB. Trần Văn Hào,SDB
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ:“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” (Mt 24, 24)
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21, 34). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13).
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
SỐNG THÁNH HÔM NAY- Lm Phạm Quốc Hưng
Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Chúa phán: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên trái đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Ở đây, chúng ta thấy có hai điều Chúa dạy chúng ta phải thực hiện. Điều thứ nhất là chúng ta phải giữ mình để khỏi bị say mê cuốn hút vào các vui thú và các sinh hoạt trần thế; nghĩa là chúng ta phải biết đề phòng hai kẻ thù của linh hồn chúng ta là những đam mê xác thịt và những quyến rũ của thế gian. Điều thứ hai là chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để luôn được yêu mến kết hợp với Chúa và chiến thắng ma quỷ là kẻ hằng ghen ghét và tìm cách hãm hại chúng ta.
Như để giúp các tín hữu thực hiện lời dạy quý giá này của Chúa Giêsu, trong bài đọc hai trích thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô Tông Đồ ân cần thiết tha nhắn nhủ họ phải ra sức sống thánh thiện để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang: “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen. Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em ” (1Tx 3:12-4:2).
Như vậy, sống đẹp lòng Chúa hay sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tín hữu Chúa Kitô. Chính vì vậy, Thánh Trẻ Đaminh Saviô trong ngày Rước Lễ Lần Đầu đã đặt ra hai quyết tâm đơn sơ nhưng đủ khiến ngài nên thánh. Đó là: “Thà chết chẳng thà phạm tội và hai người tôi phải yêu mến nhất là Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng viết cho một người bạn: “Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai mới khởi sự nên thánh…Thế nhưng chúng ta phải làm việc, không phải để trở thành những vị thánh nhưng để làm vui lòng Chúa…một việc nhỏ nhặt nhất cũng quý giá trước mắt Người”.
Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.
Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang; tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.
Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.
Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải thích hợp với các ước muốn của tôi.
Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.
Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.
Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.
Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp tấp và không quyết định.
Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.
Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì xinh đẹp và tin vào sự thiện.
Tóm lại, đây là một quyết tâm tổng quát: Tôi muốn ở nhân hậu với mọi người, hôm nay và luôn mãi.”
Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết sống đẹp lòng Chúa.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN – Lm. Anthony Trung Thành
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ niệm, vì Chúa đã đến cách đây 2015 năm. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta chờ đợi Chúa đến với từng người trong giờ chết và với toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Thật vậy, chết là có thật. Ngày tận thế cũng có thật. Nhưng giờ chết và ngày tận thế sẽ đến một cách thình lình như chiếc lưới chụp xuống trên mặt đất (x. Lc 21,34-35). Ngày đó lại quyết định số phận đời đời của con người. Cho nên, con người muốn được hạnh phúc vĩnh cửu cần phải chờ đợi trong “Tỉnh thức”.
Tỉnh thức là biết sống yêu thương (x. 1Tx. 3,12):
Thánh Phaolô mời gọi: Mọi người phải thể hiện tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết (x. 1Tx 3,12). Thông thường khi biết mình sắp chết, con người sẽ nói những lời yêu thương đối với người thân của mình: Cám ơn, xin lỗi, yêu mến…Nhưng vì cái chết thường xảy đến quá đột ngột nên con người ít có cơ hội để thực hiện điều đó. Chính vì vậy, hãy thể hiện tình yêu thương nhau khi còn có thể. Vợ chồng hãy yêu thương nhau, cha mẹ hãy yêu thương con cái. Con cái hãy yêu mến cha mẹ. Mọi người hãy thể hiện tình yêu thương nhau. Hãy cám ơn, hãy bỏ qua những bất bình, hãy xin lỗi nhau“Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
Tỉnh thức là giữ mình không chè chén say sưa (x. Lc. 21,34):
Các chất có men như bia, rượu tự nó không xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Khi dùng bia rượu quá liều lượng sẽ gây ra biết bao hậu quả khôn lường. Do bia rượu nên gây ra tai nạn giao thông, chính mình chết, người khác thiệt mạng (Khoảng 15% người chết tai nạn giao thông là do bia rượu). Do bia rượu nên nhiều gia đình tan nát: Vợ chồng ly tán; Anh em từ nhau; Làng xóm mất lòng nhau. Do bia rượu người ta chém giét lẫn nhau và biết bao nhiêu tội lỗi khác. Chính vì vậy, tỉnh thức là không chè chén say sưa.
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!” Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
Tỉnh thức là giữ mình, không lo lắng việc đời(x. Lc 21,34):
Dự tiệc Nước trời là công việc quan trọng hàng đầu, nhưng con người vẫn vịn lý do này khác để từ chối. Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (x. Lc 14, 15,24) nói lên điều đó. Người thì bảo: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác thì nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Kẻ khác nữa lại vịn lý do: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Ngày nay con người vẫn vịn vào những lý do đó và các lý do khác tương tự để từ chối việc giữ đạo, sống đạo. Chẳng hạn: Vì ngày Chúa nhật tôi phải đi làm, phải đi học nên không thể tham dự thánh lễ. Vì bận công việc tối ngày nên tôi không còn thời gian để đọc kinh, cầu nguyện. Vì để thăng quan tiến chức nên tôi phải kết nạp Đảng, phải chấp nhận “Xa Chúa” một thời gian, sau này sẽ tiếp tục trở lại đạo. Vì chuyện gia đình, vì chuyện nghề nghiệp, vì chuyện nọ kia nên chưa có thể xưng tội rước lễ được, khi nào giải quyết xong việc tôi sẽ đi xưng tội…Đó là những hạng người quá lo lắng việc đời.
Nhưng lời Chúa hôm nay lại mời gọi chúng ta “không lo lắng việc đời”. Vì “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6,27). Nghĩa là đừng tìm bảo đảm nơi của cải vật chất mà phải tìm điều chính yếu của cuộc đời đã rồi mọi sự khác Ngài sẽ ban cho. “Trước tiên, hãy tìm kiếm nước Chúa, mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau”(x. Mt 6, 33). Vậy, hãy chọn Chúa và những gì thuộc về Chúa, chọn sự sống đời đời hơn sự sống tạm bợ chóng qua, đừng quá lo lắng việc đời.
Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét (x. Gr. 33,15):
Ngày đó, “Chúa sẽ xét xử và thi hành công lý”(Gr. 33,15). Cho nên luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét sẽ giúp con người biết tránh xa tội lỗi, chu toàn bổn phận và sống tỉnh thức hơn. Thánh Louis Gonzaga luôn “Nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời”. Cho nên, Ngài không hề sợ chết, cho dù giờ chết sắp đến.
Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: “Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?
Có nhiều câu trả lời khác nhau:
– Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.
– Tôi sẽ dọn mình xưng tội.
– Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.
– Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.
Câu trả lời ấy của cậu Louis Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.
– Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi?
– Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!
Tỉnh thức là luôn cầu nguyện (x. Lc 21,36):
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có Ta, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5). Vì vậy, để sống tỉnh thức cần phải cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Bao lâu con người không còn cầu nguyện thì giống như linh hồn đã chết. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng”(1 Tx 5,17. Lúc nào ta cũng có thể cầu nguyện: Cầu nguyện hôm sớm; Cầu nguyện trước và sau khi dùng cơm; Cầu nguyện trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; Cầu nguyện trong khi làm việc; Cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp mọi nơi: Cầu nguyện ở nhà thờ; Cầu nguyện trong gia đình; Cầu nguyện trên đường đi làm việc. Chúng ta có thể biến tất cả mọi thời gian trong ngày thành thời gian cầu nguyện. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Dù ở ngoài chợ hay đang đi dạo một mình, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Ngồi trong tiệm của bạn, hoặc khi mua khi bán, cả khi làm bếp, bạn cũng có thể cầu nguyện”. Làm được như vậy, tức là chúng ta đang tỉnh thức trong cầu nguyện.
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ “Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm” (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng. Amen.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
TỈNH THỨC SẴN SÀNG- Trích Logos C
Một vị đan tu tên là Mésique, bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi :
– Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
Khởi đầu năm Phụng vụ mới bằng mùa Vọng, nhưng mùa vọng lại đề cập ngay đến sự chết, phải chăng sự chết là khởi đầu cho một gặp gỡ để mở lối vào cuộc sống mới. Nhưng muốn bước vào cuộc sống mới ấy, con người phải sống tỉnh thức, và trong tư thế sẵn sàng bằng đời sống cầu nguyện như người đan sĩ đã tỉnh ngộ để sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Chờ đợi trong hy vọng
Hai tiếng “Chờ đợi, Hy vọng”. Là Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì ? Chờ mong một ai đó sẽ đến và tin tưởng người đó chắc chắn sẽ đến. Đó là chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh.
Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay : đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa đến trong cuộc đời của mình, khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc đến những sự kiện lạ lùng sẽ xảy ra, như dấu chỉ báo trước ngày Chúa đến. Ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết. Kinh thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến hoàn toàn bất ngờ.
Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này, trước sau gì chúng ta cũng phải bước tới định mức đó. Vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Chính khi nghĩ tới sự chết, nó sẽ giúp chúng ta nhận thức được cuộc sống nơi trần gian này thật vắn vỏi. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đời không những mau qua mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ, nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Tỉnh thức, sẵn sàng.
Giờ Chúa đến thật bất ngờ, vì thế, thái độ của người khôn ngoan là phải sẵn sàng, để có thể đón Chúa đến trong cuộc đời. Thái độ của người sẵn sàng chờ mong Chúa đến là người biết đón nhận ơn Chúa mỗi ngày, là người biết làm chủ bản thân mình để có thể thắng vượt được sự ươn lười, sao lãng bổn phận của mình. Họ sẽ không để cho những dục vọng, sự ham mê chè chén, thói hư tật xấu lôi kéo, những cám dỗ của danh vọng, quyền lực, tiền tài chi phối. Và như vậy, khi Chúa đến họ sẽ vững vàng, hiên ngang “chúng con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi chúng con đã gần đến”.
Sự sẵn sàng, tỉnh thức còn giúp chúng ta tránh được những thảm họa do tai ương, do những thay đổi, chuyển mình của thế giới vật chất như một báo hiệu ngày Chúa trở lại trong vinh quang của Ngài, những gì tạm bợ sẽ qua đi để nhường chỗ cho những gì vĩnh cửu, những con người đã trung thành với đường lối Chúa, đã luôn sống trong tỉnh thức chờ đợi, họ sẽ không sợ hãi, vì biết rằng giờ cứu rỗi đã đến.
Tỉnh thức, sẵn sàng còn là thái độ sáng suốt của đời sống tâm linh, được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, vì chính khi chúng ta kết hiệp với Chúa, sống trong ơn nghĩa Chúa, tâm hồn luôn bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Chính bình an này là bảo đảm để chúng ta có thể đón nhận mọi thay đổi, mọi biến chuyển mà không nao núng, sợi hãi, vì tin rằng Chúa chính là nơi náu ẩn an toàn. “Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
Như vậy, khi đã sống trong thái độ sẵn sàng, tỉnh thức thì giờ của Con Người đến lúc nào, khi nào chúng ta cũng luôn sẵn sàng đáp trả và đón nhận Ngài đến trong cuộc đời, với tất cả thái độ tri ân, cảm tạ, vì chúng ta cũng đang “kiên vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa”.
Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: Có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết khi đang ngồi bàn ăn. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trên tay.
Như người lính chiến lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu, canh phòng cẩn mật cho toàn dân được bình an, chống lại sự phá rối của kẻ xấu, âm mưu của kẻ thù. Trong mùa vọng này, chúng ta cũng được mời gọi hãy tỉnh thức, sẵn sàng và cầm lấy khí giới của ánh sáng là đức tin, là lòng mến được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện để có thể chu toàn được trách nhiệm được trao phó, như vậy chúng ta mới xứng đáng đón chờ Chúa đến trong mùa Giáng Sinh năm nay, và trong cuộc đời của chúng ta.
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- Năm C
SỐNG TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Khởi đầu của năm Phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về việc Chúa đến với nhân loại và mỗi người trong chúng ta. Thời gian của đời người không phải chỉ là để xây đắp những công trình nhân loại mà thôi, học hành, làm ăn mua bán, dù các công trình này có cần thiết cho đời sống con người. Thời gian của đời người còn là việc luôn chuẩn bị sẵn sàng hướng về việc Chúa đến để đưa con người chúng ta đến một đời sống mới quyết định hơn. Bài Tin mừng mô tả những hiện tượng thay đổi vũ trụ đáng sợ là dấu chỉ kết thúc thời gian. Mọi thời đại đều cảm thấy những dấu chỉ thay đổi vũ trụ như rất gần kề. Những dấu chỉ trên trời như mặt trời, mặt trăng, các tinh tú thay đổi đảo lộn, dưới đất những dấu chỉ nơi biển cả với sóng dữ thét gào những đợt sóng thần. Không còn bình yên và trật tự ổn định vốn là những chuẩn mực tự nhiên thông thường trong đời sống con người. Những lời tiên báo về những biến chuyển vũ trụ vốn thuộc một loại văn Khải huyền cánh chung, người ta khó có thể giải thích theo mặt chữ những hiện tượng này như là sự kiện của một cuộc tận thế gần kề khi mà vũ trụ chấm dứt vận hành của nó. Mặt khác, những biến chuyển vũ trụ như những thiên tai sóng thần, động đất, bão tố vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, khi thì ở nơi này khi thì ở nơi khác. Nói theo cách nhìn khoa học, những nhà khoa học cũng có thể dự đoán thời gian mặt trời sẽ tắt và vũ trụ tan biến nhưng thời điểm đó cũng còn phải hằng tỷ năm mới xảy ra. Mặt khác, người ta vẫn chứng kiến thiên nhiên vũ trụ điều hòa một cách trật tự nhịp nhàng làm cho con người an tâm tin tưởng và chung tay góp phần xây dựng với mọi người.
Chúa Giêsu không phải là một nhà thông thái, tiên đoán những hiện tượng vũ trụ dựa vào những tính toán khoa học tiên tiến, người cũng không phải là một nhà tiên tri của thời đại, tiên báo những điềm dữ để làm cho mọi người giật mình sợ hãi. Nhưng Người đã nói với uy quyền thần linh về một thực tại chung cuộc quan trọng có liên hệ thiết thân với mọi người để mời gọi mọi người biết chọn lựa hành động khôn ngoan trong cuộc đời hiện tại của mình. Người không xác định một thời gian nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ đơn giản xác định là sẽ xảy ra, và mỗi người cần phải biết đối diện với những thực tại quyết định này ngay từ bây giờ. Trong khi mà ai cũng an tâm nghĩ rằng vũ trụ vận hành một cách trật tự hài hòa xác định, thì Chúa Giêsu lại cảnh giác các môn đệ tính chất bất thường và mong manh đổ vỡ của nó. Tuy nhiên, dù những tai ương vũ trụ này có đáng sợ cách mấy, thì đối với những người môn đệ của Chúa Kitô, đó lại là thời gian cứu độ của họ, họ được mời gọi tin tưởng và ngẩng cao đầu, đứng vững như dấu chỉ của những con người xứng đáng với thời gian cứu độ dành cho họ.
Vọng cũng là chờ đợi, thời gian chờ đợi Con Thiên Chúa đến để đổi mới cuộc đời mỗi người. Mùa Vọng của Giáo hội không phải chỉ là thời gian chờ đợi thụ động, mệt mỏi, nhưng là chờ đợi đầy hy vọng và tin tưởng. Người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi tỉnh thức và cầu nguyện, xa tránh những đam mê tội lỗi của mình như chè chén say sưa, hay tham mê của cải và đắm mình trong nhục dục xác thịt. Tuy nhiên, Chúa đến không tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Đây là công trình của Thiên Chúa, của lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây là quà tặng của tình yêu và mời gọi con người đón nhận với tự do và trách nhiệm. Sự tỉnh thức của người tín hữu là tin tưởng vào tình yêu tuyệt đối của hồng ân Thiên Chúa và ý thức trách nhiệm của mình phải chuẩn bị thật xứng đáng với ân huệ tình yêu và sự sống cao trọng này. Sự chờ đợi có trách nhiệm bao giờ cũng là chờ đợi năng động, làm cho chúng ta trở nên biết liên đới với những người khác, chuyên cần cầu nguyện và từ bỏ những tội lỗi và tật xấu. Thái độ cầu nguyện làm cho con người nhận biết thánh ý Thiên Chúa và can đảm bước theo thánh ý này.
Vọng là thời gian hồng phúc bởi vì con người biết mình còn có hy vọng điều mới mẻ vượt lên trên thân phận yếu đuối của mình. Chính Chúa Giêsu là mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời của chúng ta. Người sẽ xuất hiện trong vinh quang và âu yếm đợi chờ chúng ta để đưa chúng ta vào một cuộc sống mới vĩnh cửu. Con người chúng ta dễ bị những đam mê tội lỗi cuốn hút vào những đam mê trụy lạc. Có những người chìm ngập trong những thiên đàng giả tạo của men rượu hoặc của ma túy, hoặc của những lạc thú xác thịt và tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta một thái độ thích hợp là cầu nguyện và tỉnh thức. Mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình, sẽ bị phán xét về những công việc làm của mình. Cuộc đời có giá trị cao cả không để chúng ta buông xuôi trong những yếu hèn của mình. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu một thái độ cụ thể trong đời sống cộng đoàn, đó là họ hãy biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Đồng thời họ hãy luôn biết kiểm điểm chính mình để trở nên những con người thánh thiện không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha của họ. Cuộc đời chúng ta được xây dựng từng ngày với những cố gắng và thái độ thích hợp nhất là cầu nguyện để có thể đứng vững trước mặt “con người”.