CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NHƯ TA ĐÃ YÊU THƯƠNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
HAI GIỚI RĂN (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 14
GIỚI RĂN CAO TRỌNG NHẤT- Chúa giải mục vụ của Jacques Herviuex 24
MỘT CUỘC TRANH CÃI HỮU NGHỊ- Chú giải của Maurice Brouard 27
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 30
GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 46
LUẬT TỐI THƯỢNG- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 60
VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 64
TÌNH YÊU LÀ SỰ HOÀN THIỆN CỦA CON NGƯỜI– Lm. GB Trần Văn Hào, SDB 72
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 79
YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB.. 84
HÔM NAY THIÊN CHÚA CẦN NGƯỜI MẪU- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ 88
GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ- Lm Gioan M. Nguyễn Đức Hùng CRM 92
MỘT TÌNH YÊU DUY NHẤT- Trích Niềm Vui Chia Sẻ. 97
LỀ LUẬT BÓP CHẾT CON TIM – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 101
THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA QUA VIỆC PHỤC VỤ THA NHÂN- Lm Inhaxiô Trần Ngà 105
LÒNG KÍNH MẾN CHÚA- Lm. Minh Vận, CRM.. 109
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 114
THƯA THẦY ĐÂU LÀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT?- Lm. Việt Toàn. 118
HOÀN HẢO HƠN- Lm P. Huỳnh Ngọc Tiên. 121
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT (*) – Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 124
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Trích Logos B.. 131
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 136
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Hỡi Israel, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi”.
Trích sách Đệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.
“Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.
“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47-51ab
Đáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến luỹ, cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Đá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài.
BÀI ĐỌC II: Dt 7, 23-28
“Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu”.
Trích thư gởi cho tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Đức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.
Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 12, 28b-34
“Đó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.
Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Đó là lời Chúa
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
NHƯ TA ĐÃ YÊU THƯƠNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).
“Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).
– Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
– “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.
“Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là…
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
HAI GIỚI RĂN (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa”, trong khi Tân Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa và yêu người”.
Đnl 6: 2-6
Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, chứa đựng lời tuyên tín nổi tiếng của Ít-ra-en: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”.
Dt 7: 23-28
Thư gởi tín hữu Do thái khẳng định chức tư tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví hơn chức tư tế của Cựu Ước.
Mc 12: 28-34
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với một kinh sư trong đó Đức Giê-su hiệp nhất “Mến Chúa” với “yêu người”.
BÀI ĐỌC I (Đnl 6: 2-6)
Bản văn này, đỉnh cao sứ điệp của sách Đệ Nhị Luật, giải thích giới răn thứ nhất của Thập Giới, được đặt trên môi miệng của ông Mô-sê.
Mến Chúa đối với Ít-ra-en:
Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa duy nhất mà con người không chỉ kính sợ nhưng còn phải yêu mến hết lòng hết dạ và hết sức nữa. Đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã bảy tỏ cho dân Ngài, mỗi người phải trọn tình vẹn nghĩa với Thiên Chúa của mình.
Dân Chúa chọn đã hiểu sự mới mẽ tận mức của giới răn này đem lại cho tôn giáo của họ một tính chất đặc thù. Họ đã tuyên xưng giới răn này và đặt giới răn này vào trung tâm của kinh nguyện được gọi kinh Shê-ma (“Nghe đây”), mà suốt nhiều thế kỷ qua những tín hữu đạo hạnh của Ít-ra-en thường ngày đọc vào ban sáng và ban chiều. Vào thời đó, lời tuyên tín này được tôn kính đến mức người ta ghi trên những mảnh vải và cuộn vào hộp kinh để mang trên cánh tay hay trên trán. “Mến Chúa” phải được bày tỏ qua thái độ “kính sợ Chúa”, tuân giữ các giới răn của Ngài và bận lòng thông truyền đức tin.
Kính sợ Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài:
Kiểu nói Kinh Thánh: “Kinh sợ Chúa”, không có nghĩa sự sợ hãi; đây là thái độ tôn kính đầy niềm tin, khi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa. Tuân giữ các giới răn là bổn phận xuất phát từ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Sách Đệ Nhị Luật được trình bày như bài giáo lý về Giao Ước. Để đáp trả sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Ngài, dân Ít-ra-en phải trung thành với Thập Giới, nền tảng của Giao Ước. Thiên Chúa đã hứa cho dân du mục này một miền đất trong đó họ sẽ được an cư lạc nghiệp và trở thành một quốc gia vĩ đại. Thay vì sa mạc khô cằn nắng cháy, Thiên Chúa đã hứa cho họ “một miền đất tràn đầy sữa và mật ong” với điều kiện là tuân giữ các giới răn của Ngài.
Thông truyền đức tin:
Tầm quan trọng của việc giáo dục tôn giáo trong gia đình là lời kêu gọi khẩn thiết của tác giả sách Đệ Nhị Luật. Lời kêu gọi này được lập đi lập lại nhiều lần (Đnl 4: 9; 6: 20; 32: 7). Tác phẩm của ông là lời cảnh giác thường hằng coi chừng những nguy hiểm của môi trường ngoại giáo chung quanh. Việc gìn giữ các truyền thống và bận lòng thông truyền đức tin thuộc vào những đòi hỏi căn bản tất yếu đối với sự tồn vong của dân Ít-ra-en.
Sách Đệ Nhị Luật thấm đẫm tính nhân bản cũng như tính siêu việt. Thiên Chúa mà sách trình bày là một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài, dân mà Ngài bày tỏ lòng trìu mến và xót thương. Sách Đên Nhị Luật mang dấu ấn giáo huấn của các ngôn sứ lớn như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, đồng thời sách chuẩn bị sứ điệp của Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Dt 7: 23-28)
Sau khi đã chứng minh Đức Ki-tô đã sở hữu những phẩm trật tư tế – liên đới với loài người và được Thiên Chúa đặt làm tư tế – tác giả sẽ cho thấy những nét khác biệt giữa chức tư tế của Đức Ki-tô và chức tư tế của Cựu Ước. Tác giả nhắm đến tác vụ trung gian của Đức Ki-tô phục sinh.
Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời:
Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời; Ngài là Đấng trung gian hoàn hảo vì “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến gần Thiên Chúa”. Vị thượng tế Do thái mỗi năm một lần bước vào nơi cực thánh để cầu bầu cho dân vào ngày lễ Xá Tội, còn Đức Giê-su, “thật ra, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ”.
Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn:
Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn. Nếu trong cuộc sống tại thế, Ngài đã tự mình liên đới với những người tội lỗi, từ nay Ngài “được nâng cao vượt các tầng trời”, nghĩa là dự phần vào tính siêu việt của chính Thiên Chúa. Trái lại, các tư tế theo luật Mô-sê, những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, phải dâng lễ tế hy sinh, “trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội thay cho dân”.
Đức Giê-su được đặt làm tư tế với lời thề:
Cuối cùng, một lần nữa tác giả trích dẫn Tv 110 để nhấn mạnh phẩm trật tư tế đặc biệt của Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thượng Tế với lời thề, còn các tư tế theo luật Mô-sê thì không có lời thề. Quả thật, Thánh Vịnh nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Bản văn này đã đến sau này, nghĩa là sau ông Mô-sê, hàm chứa một giai đoạn cao cả trong Mặc Khai và loan báo một mức độ hoàn hảo, mà Đức Giê-su thực hiện với tư cách là Con Thiên Chúa. Tác giả ngỏ lời cách tinh tế với các Ki-tô hữu gốc Do thái trong số họ chắc chắn có những tư tế của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
TIN MỪNG (Mc 12: 28-34)
Thánh Mác-cô cũng như thánh Mát-thêu đặt cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một kinh sư này vào những ngày Đức Giê-su giảng dạy tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc đối thoại này liên quan đến điều răn nào là quan trọng nhất trong số 613 giới luật Cựu Ước (365 điều cấm và 248 điều buộc), một đề tài thường được đặt ra cho các kinh sư Do thái. Câu trả lời của Đức Giê-su phối hợp hai câu trích dẫn Cựu Ước: Đnl 6: 4-5 và Lv 19: 18, quả thật nhấn mạnh tính chính thống lời dạy của Ngài như một kinh sư Do thái và minh chứng Ngài đi cho đến tận ngọn nguồn của sự việc. Cuộc đối thoại này quan trọng không chỉ vì sự độc đáo của nó mà còn vì điểm nhấn của nó trên những tư thế nội tâm.
Bản văn này có thể chia làm bốn phần được cấu trúc theo hình thức “đối xứng xen kẻ” như sau:
A-Vị kinh sư hỏi (12: 28).
B-Đức Giê-su trả lời (12: 29-31).
A’-Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33).
B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34).
A-Vị kinh sư hỏi (12: 28):
- “Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau”: Câu này được dùng để nối kết cuộc tranh luận trước đó với cuộc đối thoại theo sau. Ông kinh sư này là một trong những người chứng kiến cuộc tranh luận của Đức Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại.
– “Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi”: Khi thấy Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc về cuộc sống mai hậu cách khúc chiết, mạch lạc dựa trên nền tảng Kinh Thánh, vì thế ông chân thành muốn hỏi Đức Giê-su để mong gặp thấy một giải đáp. Thái độ thành tâm thiện chí muốn hiểu biết của ông khiến cuộc nói chuyện thành một cuộc học hỏi chân thành và cởi mở hơn là một cuộc tranh luận (khác với Mt 22: 35 và Lc 10: 25).
– “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”: Vị kinh sư nêu câu hỏi nầy không có bất kỳ ác ý nào. Câu hỏi của ông thật sự phản ảnh nỗi bận lòng của trường phái kinh sư vào thuở đó.
Các kinh sư đều xem lề luật là ý muốn của Thiên Chúa, vì thế, thực thi lề luật chính là trung thành với Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng tìm cách cách mở rộng lề luật cách vô hạn định ra thành muôn vàn điều luật và quy tắc để làm thế nào lề luật có thể được thực thi trong mọi cảnh huống cuộc sống của dân Chúa chọn. Còn khuynh hướng thứ hai thì cố tìm cách thu gọn lề luật vào trong một câu cô động cái tinh thần cốt yếu của lề luật.
Thật ra, cả hai khuynh hướng: mở rộng cũng như thu gọn lề luật, vẫn thường hằng hiện diện trong những cuộc tranh luận giữa các kinh sư với nhau. Có những người tin trong luật có những vấn đề nặng nhẹ khác nhau, có nhiều nguyên tắc đáng xem là quan trọng hơn mà người ta phải lãnh hội và thi hành trước nhất. Nhưng có nhiều người khác cực lực chống lại, họ chủ trương rằng một nguyên tắc nhỏ nhặt cũng có tính bắt buộc y như một nguyên tắc quan trọng nhất, vì thế cố phân biệt chỗ khác nhau tương đối giữa chúng, là điều vô cùng nguy hiểm.
Khi hỏi Đức Giê-su như thế, vị kinh sư chân thành muốn biết trong số 613 điều luật Cựu Ước (gồm 365 điều cấm và 248 điều buộc) điều răn nào Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước và làm cách triệt để.
B-Đức Giê-su trả lời (12: 29-31)
- “Điều răn đứng hàng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất…’”: Đức Giê-su trích dẫn Đnl 6: 4-5, đây là bản văn đầu tiên trong số ba bản văn (Đnl 6: 4-9; 11: 13-21; Ds 15: 37-41) đã trở thành kinh “Shê-ma” (“Nghe đây”) được xem như kinh “Tin Kính” của Do thái giáo và được những người Do thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần. Giới răn mến Chúa phát xuất từ bản tính của Người là Thiên Chúa duy nhất. Bổn phận mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” không nhằm quy chiếu đến những phần riêng biệt của con người, nhưng nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Chúa tận mức, một cách tuyệt đối. Kinh Shê-ma được chép lại trên một tấm vải nhỏ cuộn vào một hộp nhỏ bằng da mà người Do thái ngoan đạo đeo trên trán và trên cườm tay khi cầu nguyện như nhắc nhở tín điều của tôn giáo mình.
- “Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”: Dù chỉ được hỏi một điều răn, Đức Giê-su nói thêm điều răn thứ hai khi trích dẫn Lv 19: 18b (x. Rm 13: 9; Gl 5: 14; Gc 2: 8). Khi trích dẫn câu này, Chúa Giê-su sửa đổi một điểm. Trong nguyên văn, “người thân cận” được giới hạn chỉ trong vòng người Do thái chứ không bao gồm dân ngoại như câu mở đầu của huấn lệnh này cho thấy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19: 18a). Nhưng trong câu trích dẫn của Chúa Giê-su, yêu “người thân cận” phải bao gồm với hết mọi người và đạt tới mức độ cao nhất như yêu chính mình: “thương người như thể thương thân”, vì theo lẽ tự nhiên, ai nấy đều quý trọng, yêu thương bản thân hơn người khác.
Giáo Huấn của Đức Giê-su mang tính mới mẽ khi Người ghép chung hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” vào với nhau. Trước đó, chưa có một kinh sư nào làm như vậy. Trong bản văn của thánh Mát-thêu, điều răn “Yêu người” đồng nhất với điều răn “Mến Chúa”: “Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy” (Mt 22: 39); còn trong bản văn của thánh Mác-cô, hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” được đặt bên cạnh để chuẩn bị cho việc lượng giá chúng ngang bằng giá trị: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12: 31). Trong Tân Ước, lời giải thích về “Mến Chúa” và “Yêu người” của thánh Gioan là hay nhất: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’” (1Ga 4: 20).
A’-Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33):
- “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng”: Vị kinh sư này tán đồng câu trả lời của Đức Giê-su và bình phẩm câu trả lời của Người mà không có bất kỳ hậu ý nào về sự thù ghét hay châm biếm. Thật ra, vị kinh sư chỉ lập lại hai câu Kinh Thánh Chúa Giê-su đã trích dẫn, với từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn.
– “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác”: Trước hết, ông nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa.
- “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu mến người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”: Rồi, ông kết luận rằng “mến Chúa và yêu người” phải được coi trọng hơn mọi hy lễ. Lời này của vị kinh sư khiến chúng ta liên tưởng đến Hs 6: 6 và 1Sm 15: 22.
Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không cố ý khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị hủy bỏ, nhưng đã trở nên tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê phán nền phụng tự Đền Thờ như thế (1Sm 15: 22; Tv 51: 20t; 40: 7; Cn 21: 3), đặc biệt với các ngôn sứ như ngôn sứ Hô-sê: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6: 6; x. Is 1: 11-17).
Vì thế, không cần phải giải thích lời của ông như lên án nền phụng tự Đền Thờ. Trong trật tự của ông, mến Chúa và yêu người là những nguyên tắc hàng đầu của nền phụng tự Đền Thờ, là linh hồn của mọi hy lễ dâng tiến Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây, một nhà thần học Do thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34):
- “Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy”: Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su thường có cái nhìn về giai cấp lãnh đạo Do thái rất tiêu cực, nhưng ở đây Người nhận định câu trả lời của vị kinh sư này rất tích cực.
– “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”: Còn hơn tương lai, ở đây Nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay và xem ra có một chiều kích không gian. Việc ông hiểu đúng điều gì là quan trọng trong lề luật Cựu Ước đặt ông gần với Nước Thiên Chúa đang đến và chuẩn bị ông đón nhận nước đó một cách thích đáng (x. 10: 13-16).Ẩn sau những hỏi đáp này, chính là cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giê-su với một người kinh sư chân thành cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào.
– “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa”: Câu này chuẩn bị cho câu chuyện tiếp theo sau, trong đó Đức Giê-su chất vấn các kinh sư về chân tính của Đấng Mê-si-a.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN-Năm B
GIỚI RĂN CAO TRỌNG NHẤT- Chúa giải mục vụ của Jacques Herviuex
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với những đoạn trước. Có một thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh luận xem giới luật này hay giới luật nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được tới 630 giới luật của Cựu Ước: Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10 điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng không phải vậy, Ngài lại đọc những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo (tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel (Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái hồi ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).
Câu trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu 32, người này thực ra chỉ biết lặp lại hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng: Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh (từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa) rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa ” (c.34a). người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca (10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào theo kiểu vừa nói nữa.
Ẩn sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một người Biệt phái cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt. Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MỘT CUỘC TRANH CÃI HỮU NGHỊ- Chú giải của Maurice Brouard
Bối cảnh.
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.
Mở đầu.
Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.
Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.
Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?
Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.
Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.
Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.
Thương yêu đồng loại như chính mình.
Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Câu hỏi.
Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc : một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống ; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.
– Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.
– Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Đnl 6,2-6)
Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ “hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần : “Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em”.
Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.
Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.
Đáp ca (Tv 130)
Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu : “Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất ?”. Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng : 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu : (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất ; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi ; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi ; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội ; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần ; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì ?”. Giáo lý viên đáp : “là Yêu Thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề : “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói : Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau ; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương ; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ : 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo ; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí !
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao ? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao ? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói “Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước” và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.
Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau : thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.
2/ Nhưng thương người là thương ai ? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra : Nhưng thương người là thương ai ? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là : ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.
Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương : ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.
3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại : cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc :
. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
* 2. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu : “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua chuột đáp : “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi : “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính ?” Nhưng vua chuột đáp : “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Mến Chúa yêu người
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau :
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ : “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình : Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói : “Mẹ ơi ! Con thương Mẹ !” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi : “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi : “Những cái hôn của mẹ đâu ?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo : “Mẹ thương con. Con biết mà phải không ?”
*
Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu : “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất ?” Người đáp : “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai : Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất : “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết : “Nếu ai nói : “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).
Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu ? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.
Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu : “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.
Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả : “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói : “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định : “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
*
Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.
Xin cho chúng con luôn xác tín : Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói : “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm ?” Anh đáp lại : “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau :
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
Chuyện minh họa
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ : “Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân !”
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng : Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình ; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa :
- Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng : người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
- Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
- Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
- Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu “Và tha nợ chúng con”, chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
GIẢI TÁN
Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ điều răn ấy.
Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định : “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31).
Thánh Phaolô nói :”Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,13). Thánh Tông Đồ còn khẳng định thêm :”Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức Ái.
Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Đnl 6,2-6
Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là :”Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.
Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.
Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2 : Dt 7,23-28
Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư Tế của Đức Giêsu. Chứùc Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy :
– Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.
– Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn.
– Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
+ Bài Tin mừng : Mc 12,28b-34
Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tùy theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất.
Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hai giới răn trọng nhất
GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.
+ Giới răn trong Cựu ước.
Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.
Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu :”Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.
Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.
Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật. Ôâng Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứ luật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.
Giới răn trong Tân ước.
Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ !
Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng : khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.
Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Isrel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5 :”Hỡi Israel, hãy nghe đây : Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em :”Còn đây là giới răn thứ hai : ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18-34).
Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu : Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều :”Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó”(J. Hervieux)
* Hãy yêu tha nhân. Tha nhân là ai ? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân” mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.
* Như chính mình ngươi. Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ
Liên hệ giữa hai giới răn.
Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một. Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.
Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được.
Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Phạm văn Phượng).
Tình yêu và hành động.
Nếu thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói :”Tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói :
Thương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào
- a) Mến yêu Chúa.
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những lời Chúa dạy :
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23).
- b) Yêu tha nhân.
Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này :”Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy”(Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn :”Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.
Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.
Ngay bên Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực :”Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Tư tưởng của ngài cũng giống như ở trên.
- c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu ?
Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình : Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào ? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Chúa nồng nạn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói :”Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.
Thành quả của hai giới răn đó.
Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau :
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu,
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu. Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài, Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi, Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Chúng ta có thể quả quyết : Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA.
Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời cũng phải thương yêu anh em như chính mình. Yêu anh em như mình là chuyện khó vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của ta.
Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết :”Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu mến Chúa được”(1Ga 4,20)..
Theo lời thánh Giêrônimô khi Thánh Tông Đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái :”Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân :”Sao cha giảng điều ấy hoài” ? Thánh Tông Đồ đã trả lời :”Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được duy một điều đó là đủ rồi”.
Đức Giêsu đã phán :”Các con muốn được người ta làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm :”Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.
Napoléon tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène
Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh Kinh “cái ác giết ác nhân”(Tv 33,22).
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất :”Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.
Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời). Lời ấy được lấy lại trong Ôâsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài : dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.
Truyện : Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói :”Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm” ? Anh đáp lại :”Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó” ?
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay : Hỏi :”Ta sống ở đời này để làm gì” ? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói :”Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
LUẬT TỐI THƯỢNG- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?
3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay.Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Ðạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu, trích dẫn sách Đệ nhị luật, đáp: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và tâm trí của ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Chúa Giêsu nói thêm điều mà vị tiến sĩ Luật không hỏi: “Giới răn thứ hai giống như giới răn thứ nhất: ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Cả giới răn thứ hai này Chúa Giêsu không sáng chế ra, nhưng ngài lấy lại từ sách Lêvi. Sự mới mẻ của Ngài hệ tại đặt hai giới răn này chung với nhau – mến Chúa và yêu người – qua đó Ngài tỏ lộ rằng hai giới răn ấy không thể tách biệt, nhưng bổ túc cho nhau. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bình giải rất hay về vấn đề này trong Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”.
Cũng đặt vấn nạn về điều răn lớn nhất, nhưng Tin Mừng Luca cho ta một câu hỏi lý thú và sâu sắc: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10,25). Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy điều răn quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất trong toàn bộ cuộc sống con người là điều răn yêu thương: yêu thương Thiên Chúa trước hết và trên hết, rồi đến yêu thương người lân cận như Chúa Giêsu đã yêu thương ta. Yêu mến Chúa nên yêu thương người lân cận, và yêu thương người lân cận chứng tỏ ta có lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu thương Chúa và tha nhân ấy làm ta trở nên giống Chúa, được chia sẻ phẩm chất của Ngài, nghĩa là có sự sống đời đời như Ngài.
Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Ngài đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.
Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.
Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.
Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.
Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.
Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.
Yêu tha nhân như chính mình.
Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.
Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Việc làm của Đức tin là Đức ái.
Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.
Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở : “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng : “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì ? Đức tin ấy có thể cứu họ được không ? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói : “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì ? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói : “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).
Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.
Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÌNH YÊU LÀ SỰ HOÀN THIỆN CỦA CON NGƯỜI– Lm. GB Trần Văn Hào, SDB
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.
Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.
Giới răn quan trọng nhất
Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.
Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.
Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.
Yêu như Chúa yêu
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.
Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”
Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.
Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.
Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?
Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:
Mến Thiên Chúa thì ta phải:
Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.
Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).
Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).
Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).
Yêu người thì ta phải:
Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.
Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).
Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).
Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11 ; 2Cr. 5, 14).
Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB
Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.
Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!
Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).
Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?
Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÔM NAY THIÊN CHÚA CẦN NGƯỜI MẪU- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”. Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
Con người tự do chọn lựa
Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn
Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- Năm B
GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ- Lm Gioan M. Nguyễn Đức Hùng CRM
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.
Thưa các bạn,
Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).
Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.
Các bạn kính ái!
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…
Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!
Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!
Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.
Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?
Các bạn ạ!
Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?
Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!
Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MỘT TÌNH YÊU DUY NHẤT- Trích Niềm Vui Chia Sẻ
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỀ LUẬT BÓP CHẾT CON TIM – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.
Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.
Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.
Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.
Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.
Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.
Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA QUA VIỆC PHỤC VỤ THA NHÂN- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Trong đạo Do-Thái, từ “Mười Điều Răn” Đức Chúa Trời ban cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, các thầy Ráp-bi diễn giải thêm thắt thành 613 điều khoản, trong đó có 248 điều buộc và 365 điều cấm.
Khi có người thông luật đến hỏi xem điều răn nào trọng nhất trong số 613 khoản luật ấy, Chúa Giê-su trả lời ngay: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mác-cô 12, 29-31)
Chúa Giê-su nhập hai giới răn thành một
Điều răn mến Chúa được ghi trong sách Đệ Nhị Luật, điều răn yêu người được chép ở sách Lê-vi, thuộc về hai bộ sách khác nhau đã được Chúa Giê-su liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu người.
Thế nhưng, có nhiều tín hữu vẫn xem việc mến Chúa và yêu người là hai điều riêng biệt, chẳng liên hệ gì đến nhau. Người ta tưởng có thể hết lòng tôn kính phụng thờ Thiên Chúa nhưng đồng thời vẫn ghét bỏ, bạc đãi con người.
Chúa Giê-su phá bỏ quan điểm sai lầm đó khi nối kết giới răn mến Chúa và yêu người thành một và Người nhấn mạnh rằng chính khi yêu người cũng là lúc mến Chúa và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương anh chị em chung quanh và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.
Tại sao lại như thế? Thiên Chúa và con người chỉ là một
Khi Sao-lê bắt bớ các tín hữu đầu tiên theo Chúa Giê-su, ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Người lên tiếng quở trách: “Sao-lê! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?”
Thực ra, lúc bấy giờ, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa Giê-su thôi, còn Chúa Giê-su thì đã phục sinh và lên trời rồi thì làm sao có thể bắt bớ Người được. Vậy mà Chúa Giê-su không hạch ông: “Tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu của Ta”, mà lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta” (Cv 9, 4).
Sở dĩ Chúa nói như vậy là vì các ki-tô hữu là hiện thân của Chúa, là những chi thể trong thân mình Người, nên ai bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.
Đặc biệt qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Người đồng hóa mình với những anh chị em chung quanh khi phán rằng: “Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” và “những gì các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. (Mt 25, 40.45)
Dựa vào lời dạy trên đây của Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI, qua sứ điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” cũng xác nhận rằng Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết:
“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. Người phán: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40) Như thế, mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu… (sđd số 15)
Việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người.
Phát xuất từ sự thật Thiên Chúa đồng hóa với con người và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI dạy rằng việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người, không được phép xao lãng một trong hai. Ngài viết: chúng ta “không thể tách rời tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vì cả hai chỉ là một giới răn duy nhất.” (sđd số 18)
Qua số 22 trong sứ điệp nầy, Ngài viết tiếp:
Vì thế, “tình yêu đối với các quả phụ, kẻ mồ côi, người bị tù đày, người bệnh tật và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thì cũng thiết yếu đối với Hội Thánh như là cử hành các bí tích và rao giảng Tin Mừng. Hội Thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban các bí tích và rao giảng Lời Chúa.” (sđd số 22)
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa tự đồng hóa mình với con người và mỗi người thật sự là một phần thân thể của Chúa là một sự thật lớn lao cao cả trước mắt mọi người; thế mà tiếc thay, không mấy ai nhìn thấy, không mấy người nhận ra; mà vì không nhận ra sự thật cao cả nầy nên con người liên tục gây ra vô vàn đau thương, bất hạnh cho nhau trên cõi đời nầy.
Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con và cho toàn thể nhân loại, để Người khai mở tâm hồn mọi người nhận ra sự thật vĩ đại nầy; nhờ đó, nhân loại sẽ luôn được sống trong hòa bình và yêu thương.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
LÒNG KÍNH MẾN CHÚA- Lm. Minh Vận, CRM
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Giới Luật Trọng Đại Tuyệt Đối
Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.
Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:
* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,
* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,
* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,
* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,
* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:4-9).
Lý Do Giới Luật Chúa Truyền
Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: “Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc” (Deut 10:13).
Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: “Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,
* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy” (Deut 11:26-28).
Những Dấu Chỉ Lòng Chúa Yêu Thương
Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?
Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.
Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.
Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy” (Is 66:12-13).
Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: “Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết” (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.
Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt… Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.
Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh “Lạy Cha”, các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.
Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.
Kết luận
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: “Phải kính mến Chúa”, hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: “Con hãy đọc lời: “CHA YÊU CON” trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng”. Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
THƯA THẦY ĐÂU LÀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT?- Lm. Việt Toàn
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: “thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất ” của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa:”Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình” và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm:”không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy”.
Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.
Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.
Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề:” làm việc này, việc kia có tội hay không ” đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.
Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.
Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.
Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.
Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.
Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
HOÀN HẢO HƠN- Lm P. Huỳnh Ngọc Tiên
Chúa Giêsu đã từng phán: “Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: “Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ.”
Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi…” Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): “Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình…” Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: “Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh”.
Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Vậy Phaolô quả quyết rằng: “Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời”. Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.
Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.
Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: “Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT (*) – Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực,và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”(Mc 12,33)
Kính thưa anh chị em.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta cũng dư biết. Ở đây tôi chỉ xin được đưa ra một vài nhận định để rồi sau đó chúng ta cố rút ra một vài bài học thực tế cho chúng ta.
Trước hết là vấn đề được đặt ra với Chúa hôm nay.
Đây là vấn đề vốn được bàn cãi rất nhiều trong giới rabbit Do thái.
Vào thời của Chúa Giêsu thì Luật được coi là chính thức gồm 613 điều trong đó có 248 điều buộc phải làm và 365 điều cấm không được làm.
Vấn đề mà người luật sĩ đặt ra với Chúa hôm nay không phải là vấn đề con số nhưng là giá trị. Trong số những khoản luật đó, khoản nào là quan trọng nhất?
Để trả lời, Chúa Giêsu đã trưng ra hai điều luật tương đối được nhiều người cho là quan trọng. Điều thứ nhất như sau:
“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Giavê Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất”
Đây là điều mà người Do thái coi là hết sức quan trọng. Chính vì thế mà
+ họ phải được đọc câu này lên mỗi khi khởi sự giờ thờ phượng trong nhà hội,
+ những người Do thái ngoan đạo còn ghép câu này lại trong các thẻ bài bằng da rồi đeo trên trán và trên cườm tay để đọc mỗi khi cầu nguyện
+ Rồi còn được chép lên một tấm bảng đặt vào trong một hộp nhỏ hình trụ gọi là Mezuzah để treo lên trước cửa nhà cũng như trên cửa các phòng trong nhà, để nhắc cho người ta nhớ đến Chúa lúc đi ra cũng như đi vào.
Khi Chúa Giêsu trích dẫn câu này và coi như một điều răn quan trọng, thì ai cũng thấy điều đó là quá đúng rồi, không còn phải bàn cãi chi nữa.
+ Tiếp đến Chúa trưng ra một câu thứ hai. Câu này được trích từ sách Lêvi 19,18.”Hãy yêu thương người lân cận như chính mình” Trong câu này, Chúa Giêsu có sửa đổi lại một chút. Sách Lêvi xác định rất rõ kẻ lân cận là người Do thái, chứ không bao giờ bao hàm cả những người ngoại bang, là kẻ mà dân Do thái được phép thù ghét. Còn Chúa khi trích dẫn câu này thì Ngài không xác định, cũng không giới hạn đối tượng của nó. Như vậy Ngài đã lấy một điều luật cũ rồi đổ vào đó một ý nghĩa mới.
Và sau đây mới là điều hoàn toàn mới: Chúa ghép chung hai điều răn này lại với nhau. Trước đó chưa hề có một rabbit nào dám làm như vậy. Với việc ghép chung lại như thế, Chúa muốn xác định một cách dứt khoát đạo của Chúa là đạo Tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Và Ngài cũng ngụ ý dạy rằng phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa là yêu thương người khác.
Ông kinh sư hôm nay quả là một người rất thông minh. Ông nắm bắt được ý của Chúa một cách rất nhanh. Ông cũng là người biết tôn trọng sự thật, dám công khai nhìn nhận những điều Chúa dạy là đúng là phải trước mặt mọi người.
Nội dung câu chuyện đơn sơ như vậy, nhưng nó cho chúng ta thấy cốt lõi đạo của Chúa nằm ở chỗ nào: Nằm trong hai tiếng yêu thương.
Thánh Gioan Tông đồ viết: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu. (1Ga 1, 7- 8).
Albert Camus một nhà văn lớn của Pháp tuy không có cảm tình gì mấy với Chúa Giêsu nhưng ông cũng đã nói một cách rất chân thành: “Nếu tôi phải viết một cuốn sách về luân lý, thì cuốn sách ấy sẽ dài 100 trang, mà 99 trang để trống, trên trang cuối cùng, tôi sẽ viết: tôi chỉ biết có một nghĩa vụ, và nghĩa vụ đó là yêu thương.”
Pascal cũng đã từng nói: “Tất cả những gì không dẫn đến yêu thương đều là giả tạo.”
Léon Bloy “Bạn sống như thế nào đối với người bạn thân của bạn mỗi ngày: kính trọng hay khinh khi? Nào bạn không biết rằng Đức Kitô ở giữa mọi người, Ngài đảm nhiệm tất cả, gánh chịu tất cả, đau khổ vì tất cả. Bởi thế, xúc phạm đến một người là xúc phạm đến Ngài, hạ nhục một người là hạ nhục chính Ngài, nguyền rủa một người là nguyền rủa chính Ngài, giết hại một người là giết hại chính Ngài”
Mục tiêu của toàn bộ Kinh thánh cũng chính là lòng bác ái yêu thương.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô viết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là tình mến, vì kẻ yêu người là chu toàn lề luật.”
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, mà là để kiện toàn. Và Ngài kiện toàn lề luật bằng cách qui mọi giới răn và lệnh truyền vào giới răn: mến Chúa yêu người. Luân lý Kitô-giáo do đó không phải là một hệ thống gồm những điều phải làm và những điều không được làm, mà thiết yếu là con đường dẫn đến sự sống và hạnh phúc thật.
Không có tình yêu cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương điều đó mới đẹp làm sao!
Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:
– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất chợt một ứng viên trả lời:
– Đó là “Tình yêu” .
Hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau”
Tại đất nước Bangladesh, một trong những nước nghèo nhất thế giới, có một người đàn ông nọ đi bộ về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xương thợ.
Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại ngồi nghỉ dưới bóng cây ven đường và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Khuôn mặt tiều tụy của ông khiến người đi đường tương ông là một người hành khất kiệt sức và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu.
Khi thức giấc người công nhân già hết sức ngạc nhiên thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy nhữ đồng xu. Số tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công thợ của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã là một người hành khất bất đắc dĩ.
Trên đường về nhà, ông nhìn thấy nhiều người ăn mày đui mù tàn tật, ông lặng lẽ chia đều cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo ấy hiểu được: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là một niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng.
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách,
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“ Điều các con làm cho
người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”.
Mẹ Têrêxa Calcutta
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Trích Logos B
Ngày 16/5/2004 là một ngày đặc biệt : Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước Gianna Beretta Molla lên bậc hiển thánh.
Tại sao chị Gianna Beretta Molla, một người phụ nữ bình thường đã trở thành thánh ? – Thưa, vì đó là một người mẹ đầy can đảm.
Gianna là một bác sĩ công giáo, sinh năm 1922 tại Bắc Ý. Cô có chồng là kỹ sư Pietro Molla và 3 người con. Năm 1961, Gianna mang thai lần thứ tư. Nhưng niềm vui chưa trọn vẹn thì hai vợ chồng nhận đươc tin dữ : Gianna bị ung thư (tử cung). Vì là 1 bác sĩ, Gianna hiểu rõ bệnh trạng của mình. Chị phải đứng trước một chọn lựa thật khó khăn : một bên là mạng sống mong manh của đứa con, một bên là mạng sống của chính mình. Chị phải chọn lựa: hoặc là phá thai và cắt bỏ bướu ung thư, cách này an toàn cho người mẹ hơn ; cách thứ hai : chỉ cắt bỏ bướu ung thư mà không đụng đến thai nhi. Cách này cứu được đứa con, nhưng mạng sống của người mẹ bị đe dọa nặng nề.
Gianna đã chọn cách thứ hai. Sau khi các bác sĩ mổ lấy hài nhi ra cách an toàn, Gianna đã sung sướng ôm lấy con vào lòng. Sau đó, bệnh của Gianna đã trở nặng và vào ngày 28/4/1962, Gianna đã trút hơi thở cuối cùng. Chị đã chết để cho con mình được sống. Chị đã chết vì tình yêu.
Thánh nữ Gianna Beretta đã đi theo con đường tình yêu mà Chúa Giêsu đã đi. Hôm nay, Chúa Giêsu đã xác định lại con đường tình yêu đó qua việc khẳng định lại giới răn trọng nhất là : mến Chúa yêu người (101 giai thoại các thánh, Luy Gonjaga Maria, tr. 90).
Giới răn trọng nhất
Bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay thuật lại câu chuyện một luật sĩ đến chất vấn Chúa Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Có lẽ giới luật sĩ coi đây là câu hỏi khó trả lời. Họ rất muốn nhìn thấy Chúa Giêsu lúng túng trước câu hỏi này. Vấn nạn này khó trả lời vì trong đạo Do Thái có 613 khoản luật được đặt ra dựa trên Mười Điều Răn. Thế nhưng, toàn bộ lề luật không cho biết điều luật nào trọng nhất.
Hơn nữa, những luật sĩ cùng mang một quan niệm như những người Do Thái thời bấy giờ : giới răn được chú trọng nhất là giới răn hướng về Thiên Chúa. Như trong bài đọc I, trích sách Nhị Luật, ông Môisen nhấn mạnh cho dân Do Thái thấy điểm quan trọng của điều răn kính mến Chúa : “Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi”.
Trải qua bao thế hệ, người Do Thái đã tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên, kính mến Chúa chưa phải là giới răn duy nhất quan trọng. Vì giới răn đó chỉ có chiều dọc hướng về Thiên Chúa mà thiếu chiều ngang hướng về con người.
Chúa Giêsu đã đưa ra giới răn trọng nhất là giới răn “kép” gồm hai giới răn song hành với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức và yêu mến tha nhân như chính mình”.
Điều trọng nhất của giới răn này là Chúa Giêsu đã coi việc “yêu mến tha nhân” ngang hàng với việc “yêu mến Thiên Chúa”. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã nâng lề luật cũ lên một tầm cao hơn, trọn hảo hơn. Ngài không đến để phá bỏ lề luật, nhưng để hoàn thiện lề luật. Điều đó còn cho thấy một nét cao cả trong mầu nhiệm cứu chuộc : Thiên Chúa đã xuống thế làm người để nâng loài người lên ngang hàng Thiên Chúa trong tình yêu, trở thành đối tượng bình đẳng trong tình yêu.
“Yêu người” chính là “mến Chúa”
Hôm nay, Chúa Giêsu đã nâng “luật yêu người” ngang tầm với “luật mến Chúa” và kết hợp thành một giới luật duy nhất : “Mến Chúa yêu người”. Cũng giống như người Do Thái ngày xưa, chúng ta thường chỉ chú trọng đến việc “mến Chúa” hơn là “yêu người”. Chúng ta cũng chỉ quan tâm giữ trọn luật “ngày Chúa Nhật” nghĩa là đi dâng lễ ngày Chúa Nhật hơn là thực thi bác ái trong đời sống. Thánh Gioan đã khẳng định một cách mạnh mẽ : “Nếu ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20). Hơn nữa, Chúa Giêsu còn đồng hóa mình với những kẻ bé mọn thấp hèn. Vì thế, nếu chúng ta yêu mến phục vụ tha nhân là yêu mến phục vụ chính Chúa. Còn nếu chúng ta ghét bỏ khước từ tha nhân là ghét bỏ khước từ chính Chúa (Mt 25, 31-39).
Tuy nhiên, nếu chỉ “yêu người” theo cách thức thế gian, nghĩa là không xây dựng tình yêu nhân loại trên nền tảng lòng yêu mến Chúa, thì đó chỉ là “tình người” nhất thời, vị kỷ và mau lụi tàn. Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Chỉ có lòng yêu mến Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt, dài lâu và vô vị lợi.
“Mến Chúa yêu người”, con đường ngắn nhất về trời
Sau khi nghe Chúa Giêsu giải thích và hướng dẫn về giới răn trọng nhất, vị luật sĩ kia đã thấu hiểu lời Chúa dạy và Chúa Giêsu đã khen ngợi ông : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Một cách gián tiếp, chúng ta có thể hiểu rằng : mến Chúa, yêu người chính là con đường ngắn nhất giúp chúng ta đạt tới Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, đó không phải là con đường một chiều, trái lại luôn có hai chiều song hành với nhau: một chiều hướng về Thiên Chúa, một chiều hướng về tha nhân.
Chúng ta có thể tạm ví con đường mến Chúa yêu người giống như “đường rầy xe lửa”. Chuyến tàu tốc hành của đời người sẽ mau chóng về đến đích nếu luôn chạy vững vàng trên “hai đường ray” mến Chúa yêu người.
Ngày 31/10/2006, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đà Lạt cùng với các linh mục trong Giáo phận đã cử hành lễ giỗ 33 năm của Đức Cha Jean Cassaigne, người cha vĩ đại của những người cùi Di Linh, cũng là người thiết lập trại cùi Di Linh.
Sau 15 năm làm Giám mục địa phận Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống với những người cùi ở Di Linh, trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi âm u, với những người cùi quê mùa chất phác. Cuối cùng, ngài đã chết ở giữa họ như một chứng nhân tình yêu. Hiện nay, ngôi mộ của ngài vẫn hiện diện ở giữa trại như là một chứng tích hùng hồn nhất về tình yêu quảng đại vị tha.
Điều gì khiến một giám mục có quyền sống an nhàn sung sướng, đã từ bỏ mọi sự để đến sống giữa những người cùi khốn khổ ? Tất cả vì lòng mến Chúa yêu người. Có lẽ chuyến xe cuộc đời của Đức cha Cassaigne chở đầy ắp yêu thương đã về nơi vĩnh cửu. Nhưng với gương sáng của lòng mến Chúa yêu người, ngài tiếp tục đưa nhiều người về với Chúa, xứng với danh hiệu mà Giáo phận Đà Lạt đã đặt cho ngài : “Ông tổ của công cuộc truyền giáo tại Di Linh”.
Ước gì cuộc đời chúng ta cũng là một chuyến xe được thúc bách bởi lòng mến Chúa yêu người, cũng đưa được nhiều người về với tình yêu Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm B
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Dân Do thái được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn giữa bao dân tộc khác. Ngoài việc thiết lập Giao ước, Thiên Chúa còn ban cho họ Mười Điều Răn được khắc trong hai Bia Đá, qua đại diện ông Môisê trên núi Sinai. Đó là luật căn bản, nhưng với thời gian, trải qua nhiều thế hệ, giới lãnh đạo Do thái đã giải thích thêm thành 613 điều, chia ra 248 điều tích cực phải làm, và 365 điều cấm làm. Khi đặt ra nhiều luật lệ như thế, thì họ không biết điều nào quan trọng hơn cả.
Chính vì thế, có một nhà luật sĩ tìm đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đức Giêsu đưa ra hai điều: một trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Đnl 6,5). Và một trong sách Lêvi: “Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19,18). Đó là hai điều căn bản, quan trọng nhất , thật rõ ràng và đầy đủ. Chỗ khác Chúa nói: toàn bộ Thánh kinh và các lời ngôn sứ đều qui tóm lại hai điều đó là: Mến Chúa yêu người thôi.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Thánh Gioan tông đồ nói rằng: nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người cùng chung sống mà chúng ta không yêu thương, thì làm sao yêu mến Đấng vô hình được .
Thật vậy, Đức Chúa Trời ban 10 điều răn, nhưng chỉ dành 3 giới đầu trong việc thờ phượng kính mến Chúa, còn lại 7 giới răn sau, Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Như vậy, Chúa coi việc đối xử với tha nhân là thước đo lòng yêu mến Chúa. Thế thì, tại sao ta phải thương yêu tha nhân? Thưa vì :
Tha nhân là hình ảnh của Chúa (St 1, 26). Ta yêu Chúa thì phải yêu những gì thuộc về Chúa.
Tha nhân là chi thể của Chúa. Nói theo tư tưởng của thánh Phaolô về mầu nhiệm hiệp thông. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, còn tất cả chúng ta là chi thể của nhau (1Cr 6,15).
Tha nhân là giá máu cứu chuộc của Đức Kitô. Đức Kitô đã trả giá rất cao để cứu độ từng người chúng ta, nên chúng ta cũng phải biết kính trọng tha nhân.
Tha nhân là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngày chúng ta lãnh Bí tích rửa tội, đã trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị, vậy ta phải tôn kính đền thờ sống động này (1Cr 6, 19).
Ấy thế mà thưa anh chị em, thế giới càng văn minh thì dường như phần đông nhân loại trái tim lại hẹp hòi ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ. Vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Đó là nền văn minh của sự chết “.
Mặc dầu thế giới văn minh, nhưng vẫn còn rất nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này tốt đẹp và ban cho con người trí óc thông minh. Thế mà tại sao vẫn còn tình trạng thiếu thốn đói khát như vậy?. Thưa bởi vì con người thiếu tình liên đới quan tâm đến nhau.
Phần lớn của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, tủ áo của những nhà tỉ phú, của những đại gia kếch sù.
Người ta bỏ ra hàng bao nhiêu tiền của để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng trong khi đó người ta sẵn sàng giết chết những đứa con ngay từ trong dạ mẹ.
Người ta bỏ bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền bạc, thời giờ đi du lịch nước này nước nọ chơi được, nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ đi thăm viếng những người đau yếu, bệnh tật, những người neo đơn bị con cháu bỏ rơi trong những khu ổ chuột ngay trong làng xóm ngỏ chúng ta.
Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta chết vì đói lòng thương xót, đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay con người rất cần những tấm lòng yêu thương, đồng cảm, chia cơm xẻ áo cho nhau.
Xin anh chị em nhớ cho rằng: Ngày nhắm mắt lìa đời, khi đối diện trước mặt Thiên Chúa là người Cha nhân lành. Chúa không hỏi chúng ta mỗi ngày con đi mấy lễ, con vào mấy hội đoàn, con đọc mỗi ngày bao nhiều kinh…. Nhưng chỉ hỏi một điều duy nhất là con có yêu mến Ta không?. Mà thước đo lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.
Cầu mong cho mỗi chúng ta, ngày sau hết được nghe những lời Chúa mời gọi: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời mà Cha Ta đã dành sẵn cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”(Mt 25, 34-35). Amen.