CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt 7
KHUNG CẢNH TRUYỀN TIN(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 12
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI- ĐGM GB. Bùi Tuần. 33
HOA MÂN CÔI- ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên. 40
THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI, CẦU CHO CHÚNG CON- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 45
KINH MÂN CÔI – Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc. 51
MẸ MÂN CÔI– Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 57
TRÀNG HẠT MÂN CÔI ĐƯA TÔI VỀ TRỜI- Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa 64
MẸ ĐẦY ƠN PHƯỚC- Radio Veritas. 70
CHIÊM NGẮM LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA QUA KINH MÂN CÔI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 74
VIỆC ẤY SẼ XẢY RA CÁCH NÀO?– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB 78
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI- Lm. FX. Đào Trung Hiệu 82
CẦU NGUYỆN VÀ CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 89
HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 93
MAI KHÔI: BÔNG HỒNG ĐẸP, VIÊN NGỌC QUÝ- Lm Anrê Đỗ Xuân Quế 100
TÔI LÀ NỮ TỲ CỦA CHÚA- Trích Manna. 104
MARIA THẬT DỊU HIỀN – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR.. 108
KINH MÂN CÔI- Lm. Jos. Nguyễn Văn Phán. 112
KINH MÂN CÔI- Trích Logos Năm B.. 117
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ”.
Bài trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: “Ngươi đang ở đâu?” Ông đã thưa: “Con đã nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp”. Chúa phán bảo ông rằng: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?” Ađam thưa lại:”Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn”. Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: “Tại sao ngươi đã làm điều đó?” Người phụ nữ thưa:”Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn”. Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: “Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”. Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi (c. 1a).
1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
BÀI ĐỌC II: Cv. 1,12-14
“Họ kiên trì cầu nguyện cùng Bà Maria, Mẹ Chúa Giêsu”.
Bài trích sách Tông Đồ Công Vụ.
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Cây Dầu mà trở về Giê-ru-sa-lem, núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, bằng quãng đường được đi trong này sa-bát. Và khi đã trở vào thành, các ông lên lầu gác, nơi Phê-rô và Gio-an, Gia-cô-bê và An-rê, Phi-líp-phê và Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô và Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê và Si-mon Giê-lô-tê, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê, trú ngụ. Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria Mẹ Chúa Giêsu với các anh em Người.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 1, 28
All. All. – Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – All.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận. Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KHUNG CẢNH TRUYỀN TIN(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giê-su đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần chăm lo Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuổi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẳm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mầng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giê-su lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Ma-ri-a đã ở bên Giáo Hội với trọn tấm lòng hiền mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo nên người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 12-14)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giê-su khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Trở về nhà, các ông lên lầu trên:
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giê-su. Như vậy nơi mà Đức Giê-su cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:
Việc kể tên mười một Tông Đồ nêu lên một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
Chuyên tâm cầu nguyện:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
Mấy người phụ nữ cùng với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su:
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giê-su: “Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước Đức Trinh Nữ được kể ra. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Ki-tô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Ma-ri-a cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giê-su đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ Giáo Hội của Ngài khi nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà”, và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
Anh em của Đức Giê-su:
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giê-su, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (x. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, ông Giô-xết, ông Giu-đa và ông Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giê-su ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giê-su. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ đã thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Các Ki-tô hữu Ga-lát bị những người Ki-tô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giê-su, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5):
Thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giê-su: “Khi thời gian đến hồi viên mãn”. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Ki-tô.
Trong kiểu nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”, động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa.
Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. Trong kiểu nói: “Sinh làm con một người đàn bà”, động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giê-su đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giê-su chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7):
Câu nói: “Để chứng thực anh em là con cái”, bắt đầu với giới từ “hoti” có thể được hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay “nên” (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Ki-tô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Ki-tô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa “nên anh em là con cái” hơn.
Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Ki-tô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Ki-tô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Sự kiện Ngôi Lời nhập thể tạo nên mối liên hệ sâu thẳm nhất giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy, đó là lòng tốt, nhân từ và yêu thương của Người trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mỏng dòn trong cung lòng thanh sạch của Đức Nữ Trinh, tất cả đã xảy ra một cách nhanh chóng, không bất kỳ nghi lễ nào. Thánh Lu-ca kể câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a hết sức giản dị. Chúng ta nên trân trọng gìn giữ những lời Thiên Chúa này và thường hằng sử dụng chúng, chẳng hạn như đọc kinh Truyền Tin và suy niệm Năm Sự Vui.
Khung cảnh truyền tin (1: 26-27):
- “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng”: Câu này đóng chức năng nối kết hai bài trình thuật Truyền Tin vào với nhau: hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ kỹ thuật đối xứng nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: Cựu Ước và Tân Ước, hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: ông Da-ca-ri-a, vị tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và Đức Ma-ri-a, cô thôn nữ ở miền quê hẻo lánh làng Na-da-rét, và đặc biệt hai hài nhi của họ: Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su.
– “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét”: Câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh phụng vụ của Đền Thờ, nhưng tại một tư gia trong khung cảnh đời thường của một làng quê Na-da-rét thuộc miền Ga-li-lê, miền đất theo truyền thống được gọi là miền đất của dân ngoại.
- “Gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se”: Sự kiện mặc khải được trao ban cho người mẹ tương lai chứ không cho người cha như câu chuyện truyền tin trước cốt là giúp độc giả dễ dàng nhận ra mối quan hệ hỗ tương và sự khác biệt tận căn về nguồn gốc, địa vị, sứ vụ giữa hai con trẻ được truyền tin này trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
– “Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a”: Đây mới thật sự là ý nghĩa cốt yếu mà bản văn muốn truyền đạt: đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Nhờ ơn Chúa, bà Ê-li-sa-bét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn Ma-ri-a chỉ mới “đính hôn”, Mẹ chưa thể chung sống với vị hôn phu tương lai của mình là ông Giu-se, vì thế Đức Trinh Nữ sắp thụ thai mà không có bất kỳ sự kết hợp phái tính. Việc sinh hạ của Gioan đã là một kỳ tích, còn việc sinh hạ của Chúa Giê-su lại còn kỳ diệu hơn nhiều.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Đức Trinh Nữ (1: 28-37):
A-Lời Chào của sứ thần (1: 28):
- “Sứ thần vào nhà trinh nữ”: Với hoạt cảnh truyền tin cho Đức Ma-ri-a, chúng ta rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem, thành đô của Do thái giáo, thuộc miền Giu-đê được xem là thuần chủng và thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả, thuộc làng quê Na-da-rét nhỏ bé, khiêm hạ, của miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì một đôi vợ chồng tư tế đã cao niên, biểu tượng của những truyền thống Ít-ra-en cổ kính và trung tín, bây giờ chúng ta gặp cô Ma-ri-a, đã đính hôn với chàng Giu-se, hướng đến cuộc sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh nầy mà sứ thần đã truyền tin cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
– “Mừng vui lên”: Đây cách thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, tuy nhiên “mừng vui lên” cũng là lời mời gọi của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9; Xp 3: 14-15). Như vậy lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Mẹ đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
– “Hỡi bà đầy ân sủng”: Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”). Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh đã dạy rằng “Lời chào long trọng đặc biệt và chưa từng nghe này minh chứng rằng mọi thiên ân được đặt trên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ được ban cho tất cả ân ban của Chúa Thánh Thần, điều này muốn nói rằng Mẹ không bao giờ chịu quy phục vào lời nguyền, nghĩa là, được gìn giữ khỏi mọi tội lỗi. Những lời này của thiên sứ trong bản văn này hình thành nên một trong những nguồn mặc khải tín điều về Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội”(x. Pius IX, ineffabilis Deus; Paul VI, Creed of the people of God).
– “Thiên Chúa ở cùng bà”: Lời nói nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng khó khăn mà Thiên Chúa giao phó cho họ để trấn an họ , như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ.
Trong lời chào này, lời này không đơn giản là một lời cầu chúc: “Nguyện xin Đức Chúa ở cùng bà”, nhưng một lời khẳng định: “Đức Chúa ở cùng bà”, được liên kết chặc chẽ với biến cố Nhập Thể. Thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích ý nghĩa của lời chào độc đáo này khi đặt những lời này trên môi miệng của sứ thần: “Thiên Chúa ở với bà hơn Ngài ở với tôi; Ngài ở trong trái tim bà, Ngài mặc lấy hình hài ở trong bà, Ngài làm đầy tâm hồn bà, Ngài ở trong cung lòng bà” (Sermo de Nativitate Domini, 4).
Nguồn gốc phàm nhân của Đức Giê-su (1: 29-33):
a-Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 29):
- “Nghe lời ấy, bà rất bối rối”: Đức Ma-ri-a bối rối vì sự hiện diện bất ngờ của sứ thần, một người thuộc thiên giới, và vì kinh nghiệm của những người thật sự khiêm hạ khi đón nhận lời khen ngợi về bản thân mình.
– “Và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”: Lời chào của sứ thần thì khác thường so với lời chào thông thường mà người Do thái thường ngày chào nhau: “Bình an” (“Salom”). Vì thế, Mẹ muốn hỏi cho biết lời chào ấy có ý nghĩa gì. Đó là dịp, là cơ hội sứ thần giúp cho cô biết nguồn gốc phàm nhân của Đấng Mê-si-a mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ của Đấng ấy.
b-Câu trả lời của sứ thần (1: 30-33):
- “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”: Sứ thần trấn an Đức Ma-ri-a để giúp cô vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu mà một phàm nhân thường kinh qua khi Thiên Chúa ban cho người ấy một ơn gọi đặc biệt. Sự kiện Đức Ma-ri-a cảm thấy nỗi sợ hãi này không hàm chứa một chút dấu vết bất toàn nào ở nơi Mẹ: nỗi sợ hãi của Mẹ là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên khi con người đối diện với thực tại thần linh. Sự bất toàn sẽ được nêu lên giả như người ta không vượt qua nỗi sợ hãi này hay bỏ ngoài tai lời khuyên của người trong vị thế giúp đỡ, ở đây đó là vai trò của sứ thần đối với Đức Ma-ri-a.
31-33. Sứ thần Gáp-ri-en nói cho Đức Trinh Nữ biết rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Đấng Mê-si-a cao cả vì Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Lời loan báo của sứ thần gợi nhớ những sấm ngôn thời xưa báo trước những đặc ân dành cho Đấng Mê-si-a, hậu duệ của vua Đa-vít. Đức Ma-ri-a, rất thông thạo Kinh Thánh, rõ ràng nhận ra rằng Mẹ được tiền định làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân tộc Mẹ đang mong đợi.
Trong lời giải đáp này, thánh Lu-ca diễn tả nguồn gốc, địa vị, sứ vụ tương lai của Chúa Giê-su bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước tiên báo về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Cuộc sinh hạ này ứng nghiệm hai sấm ngôn quan trọng đối với cộng đoàn của thánh Lu-ca cũng như cộng đồng của thánh Mát-thêu. Sấm ngôn thứ nhất là của Is 7: 14 trong đó chính người mẹ sẽ đặt tên cho con, ở đây chính Đức Ma-ri-a sẽ đặt tên cho con là Giê-su. Ở đây thánh Lu-ca không giải thích ý nghĩa của tên này cho độc giả biết, nhưng sẽ gán cho tên ấy tước hiệu “Đấng Cứu Thế” ở 2: 11. Sấm ngôn thứ hai là của ngôn sứ Na-than trong đó Thiên Chúa đã tuyên bố với vua Đa-vít: “Người sẽ là con của Ta…Ngai vàng của Người sẽ bên vững mãi mãi” (2Sm 7: 14-16).
Nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su (1: 34-37):
a-Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 34):
- “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”: Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ Kinh Thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Việc Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn đồng trinh cũng được lưu ý về một sự khác biệt lớn lao trong sơ đồ truyền tin. Người thiếu nữ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của vị tư tế. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó là một dấu hiệu thiếu niềm tin nhưng như câu hỏi để xin được soi sáng thêm. Chính vì Đức Ma-ri-a đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ tận căn trong Kinh Thánh, trong đó không thấy bất cứ trường hợp nào nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính; điều này hoàn toàn khác với trường hợp vị hôn phu của bà Ê-li-sa-bét, ông biết rõ lịch sử của tổ phụ Áp-ra-ham giống như trường hợp của ông, thế mà ông không tin, như lời xác nhận của sứ thần (1: 20). Để trả lời cho vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu ra, sứ thần giải thích cặn kẻ trong ba câu (1: 35-37) ngỏ hầu Đức Ma-ri-a hiểu rõ nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ Đấng ấy.
b-Câu trả lời của sứ thần (1: 35-37):
- “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Trước hết, sứ thần soi sáng cho Mẹ hiểu việc thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh như thế nào. Câu trả lời của sứ thần gồm ba vế, mỗi vế sứ thần sẽ mặc khải dần dần nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
– Vế thứ nhất: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” gợi nhớ bài trình thuật của sách Sáng Thế, theo đó Thánh Thần bay lượn trên mặt nước đem lại sự sống cho muôn loài muôn vật (St 1: 2), bấy giờ Ngài ngự xuống trên Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và thổi hơi sự sống vào trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Đức Giê-su được thụ thai và tạo nên hình hài trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Vì thế, việc Đức Ma-ri-a thụ thai và sinh con là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không do sự can dự của bất kỳ phàm nhân.
– Vế thứ hai “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” gợi nhớ hình ảnh “đám mây rợp bóng” trên Lều Hội Ngộ (Xh 40: 35) hay Hòm Bia Giao Ước (Ds 9: 18; 10: 34). Hình ảnh đám mây là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, cũng là một trong những dấu chỉ khả giác của Chúa Thánh Thần. Qua kiểu nói này, sứ thần sánh ví Đức Ma-ri-a với Lều Hội Ngộ hay Hòm Bia Giao Ước, nơi Thiên Chúa sẽ ngự đến và hiện diện giữa dân Ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
– Về thứ ba “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” là câu kết luận được rút ra từ hai vế trên. Sứ thần khẳng định rằng người con mà Đức Trinh Nữ sinh ra không là Nghĩa Tử của Thiên Chúa, nghĩa là một hậu duệ của vua Đa-vít được Thiên Chúa chọn và ban cho vương quyền của vua Đa-vít, nhưng là “Đấng Thánh” như Chúa Thánh Thần. Đây là một trong những tước hiệu rất cổ kính mà Giáo Hội tiên khởi dùng để tuyên xưng Thần Tính của Đức Giê-su (Cv 3: 14; 4: 27, 30). Vì thế, Đấng Thánh được sinh ra làm người hoàn toàn do tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Người đích thực là Con Thiên Chúa nhập thể.
Qua hai lời giải đáp trên, sứ thần cung cấp một khoa Ki-tô học. Lời giải đáp thứ nhất cho Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Còn lời giải đáp thứ hai thì cho thấy rằng Chúa Thánh Thần tác động trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm cho Đức Giê-su trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị giữa Người với Thiên Chúa là Cha của Người.
Khoa Ki-tô học này cũng bày tỏ ân ban độc nhất vô nhị được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Đức Pi-ô IX đã giải thích đặc ân làm mẹ của Đức Trinh Nữ trong ánh sáng ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Từ muôn thuở Thiên Chúa đã chọn một người mẹ thích hợp cho Người Con Một của Ngài, từ người mẹ này Người Con này, sau khi đã trở thành người, phải sinh ra khi thời gian đến hồi viên mãn: và Người Con này tiếp tục ngắm nhìn Mẹ hơn mọi thọ tạo khác, đến độ Người đã chỉ ngắm nhìn một mình Mẹ” (Pius IX, ineffabilis Deus, 2). Còn Đức Pi-ô V thì nhấn mạnh công trình của Chúa Thánh Thần, “Đấng vào lúc thụ thai và sinh Con đã nâng đỡ Đức Mẹ Đồng Trinh để đem lại sự thành công cho Mẹ trong khi vẫn không đụng chạm đến đức trinh khiết thường hằng của Mẹ” (St Pius V Catechism, I, 4, 8). Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI nhắc lại cho chúng ta chân lý đức tin này: “Chúng tôi tin rằng Đức Ma-ri-a, mãi mãi vui hưởng đức trinh khiết, đã là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô” (Creed of the people of God, 14).
36.“Kìa bà Ê-li-sa-bét người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai”: Dù Đức Ma-ri-a không xin một dấu chỉ như ông Da-ca-ri-a (1: 18), nhưng để bảo đảm tính xác thực sứ điệp của mình, sứ thần cho Đức Ma-ri-a một dấu chỉ, ngược hẳn với dấu chỉ mà ông Da-ca-ri-a nhận được, dấu chỉ ấy không là một hình phạt nhưng là một ân ban: người bà con của cô vốn là son sẻ và cao niên nay đã có thai. Việc bà Ê-li-sa-bét thụ thai Gioan Tẩy Giả tương tự như những gì Kinh Thánh nói về bà Xa-ra thụ thai I-xa-ác (St 18: 14).
– “Nay đã có thai được sáu tháng”: Thông tin này đóng chức năng kết nối hai hoạt cảnh truyền tin về Gioan và về Đức Giê-su. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Ma-ri-a bởi vì bà Ê-li-sa-bét vẫn còn ẩn mình, không ai hay biết (1: 24).
- “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”: Lời khẳng định này, lập lại lời khẳng định cho tổ phụ Áp-ra-ham trong hoạt cảnh truyền tin Cựu Ước (St 18: 14), thật có ý nghĩa biết bao đối với Đức Ma-ri-a và đối với chúng ta hiện nay trong hoạt cảnh truyền tin Tân Ước. “Rất nhiều điều con người tưởng không thể làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Người đã làm cho bà Ê-li-sa-bét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Ma-ri-a đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
c-Lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a (1: 38):
- “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Dù rằng không có gì Thiên Chúa không làm được, nhưng Thiên Chúa không làm một mình, nhưng muốn con người cùng cộng tác với Ngài. Để cho Con Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của Đức Ma-ri-a. Một khi biết được chương trình của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a hoàn toàn vâng phục ý muốn Thiên Chúa. Mẹ nhận ra sự bất tương xứng giữa điều Mẹ sẽ trở thành “Mẹ Thiên Chúa” và điều cô là một thôn nữ làng quê Na-da-rét vô danh tiểu tốt. Tuy nhiên, đây là điều Chúa muốn xảy ra. Vì thế, với tấm lòng khiêm hạ, Đức Ma-ri-a đáp trả một cách trọn hảo tiếng gọi của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin của Mẹ.
Khi tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Ma-ri-a cụ thể phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang, sinh hạ, dưỡng dục và sau hết là ban tặng cho nhân loại một Đấng Cứu Độ vừa là Con của Thiên Chúa vừa là con của Đức Ma-ri-a: “Cuộc sống của Đức Ma-ri-a đã vĩnh viễn được ghi dấu, bởi vì cô chấp nhận vĩnh viễn trở thành nữ tỳ của Chúa. Nơi cô, Lời đã đi vào, Lời Hằng Sống ấy và cuộc phiêu lưu của Lời ấy giữa loài người trước tiên dựa vào niềm tin của chính cô. Kẻ nào chấp nhận đón tiếp Lời, thì nơi kẻ ấy Lời Thiên Chúa bám rễ, thành hình, biến đổi cuộc đời của kẻ tin vào Đức Giê-su, chứ không chỉ là lắng nghe những lời Người nói với chúng ta. Tin vào Đức Giê-su chính là đón tiếp chính Người, là Lời Hằng Sống đang đến trong chúng ta để phân cực, để tái định hướng toàn thể cuộc sống chúng ta” (Lucien Daloz, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, 16).
– “Xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói”: Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa; tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ trọn vẹn tình yêu của Ngài được gói trọn ở nơi Con Một của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời “Xin Vâng” tròn đầy: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Lời xin vâng của Đức Ma-ri-a là kết quả của một cuộc đối thoại chân thành trong đó Mẹ đã thẳng thắn nêu lên không một chút sợ hãi những gì Mẹ không hiểu, cho đến khi chạm đến quyền năng Thiên Chúa vượt quá khả năng hiểu biết của Mẹ, chỉ khi đó Mẹ mới đáp trả bằng tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin tưởng và phó thác của mình. “Ở nơi Đức Ma-ri-a chúng ta không gặp thấy bất kỳ dấu vết của các trinh nữ khờ dại, họ vâng lời mà không suy nghĩ. Đức Ma-ri-a chăm chú lắng nghe những gì Thiên Chúa muốn, trăn trở với những gì Mẹ không hiểu và hỏi cho ra lẽ những gì Mẹ không biết. Sau đó Mẹ phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa: ‘Vâng, tôi đây là tôi tớ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’. Đó không là kỳ diệu sao? Lạy Đức Trinh Nữ, thầy dạy của chúng con trong tất cả những gì chúng con làm, xin hãy chỉ cho chúng con ở đây rằng vâng phục Thiên Chúa không là quỵ lụy, không tránh né tiếng nói lương tâm của mình. Chúng con phải đi vào trong lòng mình để khám phá ‘sự tự do của con cái Chúa’ (x. Rm 8: 21)” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 173).
Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a như sau: “Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Mẹ tự do cộng tác vào công trình cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Mẹ” (LG, 56). Đức Gioan Phao-lô II ca ngợi sự tự do của Đức Ma-ri-a nhờ sự vâng phục của lòng tin: “Giáo Hội cũng không thể quên Đức Ma-ri-a ‘kẻ đã tin’ (Lc 1: 45). Mẹ Ma-ri-a đã đi vào lịch sử cứu độ thế giới nhờ vâng phục của lòng tin. Mà trong bản chất sâu xa nhất, tin chính là khai mở trái tim nhân loại trước ân ban, ân ban Thiên Chúa tự hiến trong Chúa Thánh Thần. Đâu có Thánh Thần, đó có tự do. Khi Thiên Chúa tự khai mở cho con người trong Chúa Thánh Thần, sự tự khai mở đó vừa mặc khải cho con người về Chúa, vừa ban cho con người sự tự do tròn đầy. Mẹ Ma-ri-a là người tự do trọn vẹn nhờ sự ‘vâng phục của lòng tin’” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI- ĐGM GB. Bùi Tuần
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HOA MÂN CÔI- ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
“Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền” (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời “Vãn Mân Côi” cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là “vườn Rôsa” – vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
“Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy” (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: “Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy” (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
“Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh” (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy” (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen
THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI, CẦU CHO CHÚNG CON- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào tháng Mười, tháng Mân Côi, hình ảnh Đức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
Đức Maria đầy ơn phúc
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Mẹ có phúc vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ có phúc vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Chúa Giêsu là Quả Phúc lòng Mẹ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại lời mừng chúc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Mẹ tìm mọi phương thế để chúng ta được hạnh phúc. Một trong những phương thế ấy là hiện ra dạy chúng ta đọc Kinh Kính Mừng, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn hầu đạt tới cõi trời vinh phúc.
Truyền khẩu rằng, trước thế kỷ XII, chưa có Kinh Kính Mừng. Các tín hữu với lòng mến Mẹ đã hái hoa hồng kết thành triều thiên dâng kính Mẹ, miệng ngâm nga mừng hát Thánh Thi. Có anh lái buôn vì lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn hái hoa dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù, thay vì hái hoa dâng Mẹ, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin vì nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ vậy. Sáng kiến ấy được nhiều người thực hành theo. Đó là gốc tích kinh Kính Mừng hay kinh Mân Côi.
Khởi đi từ lời của sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet : ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”, Giáo hội đã dùng để chúc khen Mẹ. Đồng thời, thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
Chuỗi Ngọc Mân Côi
Tại sao tràng hạt lại gồm năm ngắm ?
Không biết tràng hạt phát xuất từ tôn giáo nào, vì không chỉ có Công Giáo có, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
Tại sao lại có tràng hạt mười lăm ngắm ?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở nấm mồ, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi diễn tả niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ.
Tại sao lại có ba mùa Vui – Thương – Mừng?
Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569. Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui) ; Tử Nạn (Thương) ; đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ngày 16/10/2002 II trong Tông Thư gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II thêm vào Năm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu chuộc loài người.
Tại sao đọc 150 kinh kính mừng?
Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Nên đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh. Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn cứu độ.
Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Vì muốn con cái mình hạnh phúc, nên mỗi lần hiện ra là một lần nhắn nhủ : “Hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Vậy, hãy biến đời mình thánh chuỗi Mân Côi.
Thế thì, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng, bởi “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng” (St Bênađô).
Nhiều bạn trẻ cho rằng : Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không đâu, Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học cho chúng ta kinh nghiệm : động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro, nam sinh nữ tú chê ông quê mùa, mà không hay biết ông là người thầy của mình.
Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa. Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ” (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: “Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa quyết định mời gọi tất cả các tín hữu, trên toàn thế giới, lần hạt Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười là tháng Đức Mẹ, để hiệp thông và ăn năn đền tội cùng toàn thể dân Chúa, đồng thời cầu xin rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi quỷ dữ, là kẻ luôn tìm cách tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và chia rẽ với nhau.
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Mân Côi, xin cho mỗi người chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI – Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tràng hạt Mân Côi
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ «Mân Côi» phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ.
«Kính Mừng» có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn ; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giê-su, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ MÂN CÔI– Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
TRÀNG HẠT MÂN CÔI ĐƯA TÔI VỀ TRỜI- Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa
Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ ĐẦY ƠN PHƯỚC- Radio Veritas
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
CHIÊM NGẮM LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA QUA KINH MÂN CÔI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong Tông huấn về việc tôn sùng Đức Maria, Đức Thánh Cha Phao-lô VI dạy:
“Một yếu tố quan trọng của chuỗi Mân côi là yếu tố suy niệm. Không suy niệm, chuỗi Mân côi trở thành một xác không hồn…” (Tông huấn về việc tôn sùng Đức Maria của Đức Thánh Cha Phaolô VI.)
Hưởng ứng lời dạy của Đức Giáo hoàng Phao-lô VI, khi lần hạt Mân côi, chúng ta cần suy niệm và chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta để sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.
Chiêm ngắm tình thương của Chúa Giê-su trong năm sự vui
Gẫm thứ nhất: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép, là Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn… lại chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ bé trong lòng Mẹ Maria, chờ ngày được sinh ra làm người để hy sinh thân mình cứu độ muôn dân. Điều nầy cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại lớn lao không thể nào tả xiết!
Gẫm thứ ba: Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su trong hang đá.
Không có cung vàng điện ngọc nào trên thế gian xứng đáng cho Thiên Chúa ngự trị, thế mà khi hạ sinh xuống thế làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nhà, chọn máng súc vật làm nôi, để đến ở cùng nhân loại, để chia sẻ cảnh lầm than khốn đốn của phận người. Điều nầy cho thấy Thiên Chúa rất mực khiêm nhường và sẵn sàng chấp nhận mọi sự khốn khó vì lòng yêu thương chúng ta.
Chiêm ngắm tình thương của Chúa Giê-su trong năm sự thương
Gẫm thứ nhất: Chúa Giê-su đổ mồ hôi máu.
Vì mang thân phận yếu đuối của kiếp người, Chúa Giê-su khiếp sợ hãi hùng khi đối diện với cuộc khổ hình sắp đến, đến nỗi phải toát mồ hôi máu! Dù vậy, Ngài vẫn vâng theo ý Chúa Cha, uống cạn chén đắng Cha trao để cứu độ loài người. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Giê-su chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đau thương để cho muôn người được thoát khỏi án phạt đời đời và được hưởng phúc ngàn thu.
Gẫm thứ hai: Chúa Giê-su chịu đánh đòn.
Đấng đầy quyền uy phép tắc, chỉ cần phán một lời là sóng yên biển lặng… đã để cho con người hèn mọn lột áo ra, quất lên thân thể Ngài những ngọn roi ác nghiệt làm cho máu thánh Ngài tươm ra khắp toàn thân! Thiên Chúa đã phải chịu đánh đòn đau đớn và nhục nhã như thế để đền tội cho chúng ta. Lòng thương xót Chúa lớn lao biết chừng nào!
Gẫm thứ ba: Chúa Giê-su đội mão gai.
Không có vương miện nào trên thế gian này dù được nạm bằng kim cương hay ngọc quý xứng đáng cho Chúa Giê-su đội lên đầu vinh hiển của Ngài; Vậy mà Ngài lại phải chịu đội vòng gai, với nhiều mũi gai nhọn sắc cắm ngập vào trán, vào đầu… khiến máu châu báu của Ngài rỉ ra đầm đìa trên khuôn mặt. Lòng thương xót của Ngài thật bao la.
Gẫm thứ tư: Chúa Giê-su vác thánh giá.
Chúa Giê-su là Chúa tể trời đất, là Vua của toàn thể vũ trụ… đã để cho người phàm bắt Ngài vác thập giá, lảo đảo tiến lên đồi Can-vê, và vì không còn hơi sức nên Ngài đã phải ngã xuống nhiều lần, rồi bị lột trần chẳng còn áo che thân…
Gẫm thứ năm: Chúa Giê-su chết trên thập giá.
Đấng tạo dựng và thông ban sự sống cho các thiên thần và loài người, giờ đây trở thành một thây ma thảm hại, không còn hơi thở, không còn sự sống… cuối cùng bị mai táng trong mồ…
Có tình yêu nào cao vời khôn ví như tình Chúa yêu ta! Chúa Giê-su xem chúng ta là bạn chí ái của Ngài nên đã nộp mình chết thay cho chúng ta. Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của Chúa tể trời đất đã hy sinh mạng sống mình, chết thay cho những con người hèn mọn trên trái đất này được sống.
Như thế, các mầu nhiệm Mân-côi có thể khắc sâu vào tâm khảm chúng ta hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đã yêu thương nhân loại hết lòng hết sức… nên đã chấp nhận chịu khổ hình và chết thay cho muôn người được sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi lần hạt Mân côi, xin cho chúng con biết chiêm ngắm lòng thương xót bao la của Chúa, để tôn vinh chúc tụng tình yêu Chúa dành cho chúng con và quyết sống cho xứng với tình yêu cao vời của Chúa. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
VIỆC ẤY SẼ XẢY RA CÁCH NÀO?– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hy thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI- Lm. FX. Đào Trung Hiệu
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức…
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi ! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”.
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”
Êm đềm mà thấm lâu…
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua… đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.
Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại…
Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
CẦU NGUYỆN VÀ CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau…
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc… Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
– Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
– Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
– Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu trên thế giới cùng đọc kinh Mân Côi hằng ngày trong suốt tháng 10 này. Ngài cũng mong rằng cộng đoàn tham gia hiệp thông, sám hối, cùng thỉnh cầu Đức Maria và Tổng lãnh thiên thần Micae bảo vệ Giáo hội khỏi quỷ dữ – là kẻ luôn muốn tìm cách chia rẽ chúng ta khỏi Thiên Chúa và anh chị em. Trước khi lên đường tông du đến các quốc gia vùng Baltic, Đức Phanxicô đã gặp cha Fréderic Fornos, dòng Tên, giám đốc “Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu cùng Đức Thánh Cha” và đề nghị cha quảng bá lời kêu gọi này đến với các tín hữu trên thế giới.(Vatican News, 29/9/2018.)
Các Đức Giáo Hoàng đều cổ võ việc đọc kinh Mân Côi, nhất là trong các gia đình.
Đức Piô IX khuyên nhủ: “Kinh Mân côi là kho tàng quý giá của Giáo hội…hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.Đức Lêô XII thiết lập tháng Mân Côi. Đức Piô X khẳng định: “Nếu các con muốn cho gia đình mình hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối”.
Đức Piô XI huấn dụ: Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.Đức Thánh Cha Piô XII mời gọi các bạn trẻ : Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục: Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết : Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi. Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”. (Tông thư Kinh Mân Côi).
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi, đặc biệt là giờ kinh tối gia đình.
Hơn bao giờ hết, gia đình đang bị các sự dữ tấn công; thế giới đầy những biến động đe dọa hòa bình công lý. Mỗi Gia đình hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thực hiên ba lời dạy của Đức Mẹ Fatima : Hãy ăn năn, hãy tôn sùng Trái tim Mẹ, hãy năng lần hạt Mân Côi để được Chúa thương xót.
Giờ kinh tối trong gia đình chính là giờ “ngồi bên nhau” và “cùng nhau ngồi bên Mẹ, ngồi bên Chúa”, là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều thuốc thần tiên xây dựng gia đình hạnh phúc. Kinh nguyện gia đình là phương thế hữu hiệu của việc giáo dục đức tin cho con cái và là chất keo xây dựng gia đình hạnh phúc. Thế nhưng, phương thế này đang bị các gia đình Công Giáo lãng quên và thay vào đó bằng những phương thế giải trí: phim ảnh, truyền hình, máy vi tính, game, điện thoại, những cuộc vui chơi bên ngoài gia đình…Do đó, để củng cố đức tin cho cả nhà và xây dựng mái ấm hạnh phúc, mỗi gia đình đã tổ chức những giờ kinh tối trong gia đình.
Suốt tháng 10, mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của đoàn con cái dành cho Mẹ hiền. Qua Kinh Mân Côi, đoàn con thảo đọc đi đọc lại cả trăm cả ngàn lần kinh Kính Mừng, như trăm ngàn đóa hoa hồng dâng kính Mẹ từ ái.
Chất lượng kinh nguyện của từng gia đình tỷ lệ thuận với đời sống hạnh phúc. Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã từng nhắn nhủ: “Chúng ta hãy thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người chúng ta. Mà tình yêu này được bắt đầu ở đâu? Ở ngay gia đình của chúng ta. Nó được bắt đầu ra sao? Ở việc gia đình cùng nhau cầu nguyện”.
Chuỗi Mân Côi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối.
Lần chuỗi Mân Côi, cả gia đình cùng đọc những kinh trọng nhất trong đạo: Kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Cứu Thế đã dạy; Kinh Kính Mừng gồm lời chào của sứ thần Gabriel và lời ca tụng Đức Mẹ của bà Êliazabeth; Kinh Sáng Danh là lời tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của Hội Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm là các mầu nhiệm trong đời Chúa Cứu Thế và Đức Mẹ. Ví dụ suy gẫm thứ hai mùa Vui, Đức Bà đi thăm bà Êliazabeth, cần phải cố gắng bắt chước Đức Mẹ thực hiện đức yêu thương ngay trong gia đình, với bà con, với mọi người. Thứ hai mùa Mừng, Chúa Giêsu lên trời, cần phải suy rằng cuộc đời này phải ăn thì phải làm lụng, buôn bán nhưng phải cố gắng nhớ đến mục đích đời này là để chuẩn bị về với Chúa đời sau, nên phải ăn ở lương thiện, tránh gian tham lỗi công bằng… Các mầu nhiệm khác cũng tương tự như thế. Đó là cách lần hạt hữu ích nhất.
Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người công giáo họp nhau lại. Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa”. Chuỗi hạt Mân Côi nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ Maria. Cầm Chuỗi Mân Côi trên tay, chúng ta sẽ thấy mình được tăng thêm nghị lực, sống vươn lên với niềm Tin, Cậy, Mến. Chuỗi hạt Mân Côi mang đến vô vàn ơn phúc huyền diệu cho mỗi người, mỗi gia đình.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào : khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”. Kinh Mân Côi chính là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lập đi lập lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng cỏ ấp ủ qua Thập giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi, để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn người tín hữu là những nhà “tu hành” nghĩa là “tu thân bằng việc hành đạo”, thì Kinh Mân Côi chính là hành trang gọn nhẹ đeo cổ tay giúp thánh hóa bản thân gia đình và xã hội. Theo nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta quyết tâm sống theo lời Mẹ trong dịp hiện ra lần cuối tại Fatima là “hãy siêng năng lần hạt”. “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi trong mỗi ngày sống, nhờ đó chúng con được hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MAI KHÔI: BÔNG HỒNG ĐẸP, VIÊN NGỌC QUÝ- Lm Anrê Đỗ Xuân Quế
Mân Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai Khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai Khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính Mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính Mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính Mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai Khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai Khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai Khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau là thánh Đaminh đã lập ra chuỗi Mai Khôi. Vì thế, trong dòng Đaminh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho thánh Đaminh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đaminh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo Công giáo. Thánh Đaminh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai Khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai Khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đaminh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai Khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đaminh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai Khôi và thành lập các hội Mai Khôi.
Nguồn gốc Lễ Mai Khôi
Ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai Khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai Khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai Khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai Khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi
Trên đây là nguồn gốc của Chuỗi Mai Khôi và Lễ Mai Khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai Khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai Khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai Khôi và lễ Mai Khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
TÔI LÀ NỮ TỲ CỦA CHÚA- Trích Manna
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MARIA THẬT DỊU HIỀN – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Mỗi năm tháng 10 về, Giáo Hội dành riêng để tôn kính và làm các việc lành phước đức để dâng kính Đức Mẹ. Tháng 10 là tháng, Giáo Hội khuyên nhủ con cái Mẹ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi và mau mắn đến với Mẹ. Hôm nay, Giáo Hội mừng kính lễ Mẹ Mân Côi. Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, noi gương bắt chước Đức Mẹ và qua Mẹ chúng ta đến với Chúa. Chúng ta càng ngày càng yêu mến Mẹ, càng ngày càng làm cho nhiều người hiểu biết Mẹ và tôn kính Mẹ.
Nói đến Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bao giờ cùng, thánh Bênađô đã viết: ”Nói về Mẹ không bao giờ cùng“ (De Maria numquam satis). Ngôn ngữ, chữ viết của trần gian, của con người sẽ không bao giờ lột tả được hết về Mẹ. Lễ Mân Côi được mọi người biết và mừng rất trọng thể vào năm 1571 khi Mẹ Maria ban ơn cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Népante. Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho phổ biến thánh lễ Mân Côi rộng rãi trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã viết nhiều thông điệp nói lên tầm quan trọng của Lễ Mân Côi dưới triều đại của Ngài.Và ngày nay, Giáo Hội hoàn vũ và đặc biệt Hội Thánh Việt Nam luôn hân hoan mừng lễ Mẹ Mân Côi một cách trọng thể và dạt dào tình thương.
Vâng, Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra trên thế giới, lần nào Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại ăn năn sám hối và siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Với Kinh Mân Côi, chúng ta hiểu được lịch sử cứu rỗi. Bởi vì, qua năm sự vui, lịch sử cứu độ được bắt đầu khi Mẹ nói lời xin vâng làm theo ý Chúa. Với năm sự thương, cả lịch sử cứu độ được tỏ lộ qua sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Với năm sự mừng, lịch sử cứu độ được hoàn thành khi Chúa chết và ba ngày sống lại. Kinh Mân Côi là cuốn Kinh Thánh thu gọn. Đọc kinh Mân Côi chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Mẹ và chỗ đứng, địa vị của Mẹ trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta hãnh diện vì Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Chính Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện và cũng chỉ có Mẹ được diễm phúc ấy.
Tên của Mẹ thật dịu hiền. Ai nghe danh thánh Mẹ cũng cảm phục sự hiền lành, đơn sơ, trong trắng, thánh thiện của Mẹ. Mẹ Maria đã hiện ra ở Fatima với ba trẻ là Lucia, Phanxicô va Jacinta. Mẹ khuyên nhủ các em phải siêng năng lần chuỗi Mân Côi và loan báo cho nhiều người lần chuỗi Mân Côi, ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với Bernadette, tay Mẹ đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ bảo Bernadette lần hạt, rồi Mẹ cũng đọc kinh lạy Cha và kinh Sáng danh. Mẹ hiện ra nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới và ở đâu Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại, con người phải siêng năng lần chuỗi, cải tà qui chánh, ăn năn trở lại. Mẹ đã công khai xác nhận hiệu quả của việc lần hạt Mân Côi. Các Đức Thánh Cha đã luôn khuyến khích, khuyên nhủ Giáo Hội yêu mến Mẹ và siêng năng lần hạt Mân Côi. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết nhiều Tông thư nói về Mẹ, Ngài viết: ”Sau việc đọc kinh Nhật Tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhứt, hữu hiệu nhứt mà gia đình công giáo được khuyến khích đọc“. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã luôn tin tưởng, cậy trông Mẹ. Ngài đã dâng triều đại Giáo Hoàng của Ngài cho Mẹ: ”Totus Tuus“ . Toàn thân của Đức Giáo Hoàng là thuộc về Mẹ.
Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Nhân loại, Giáo Hội ca tụng Mẹ vì nhờ Mẹ mà Đấng cứu độ được sinh ra nơi trần thế này. Với Kinh mân Côi chúng ta đi từng biến cố trong lịch sử cứu rỗi: biến cố của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đời sống đức tin của chúng ta sẽ được đảm bảo nếu chúng ta bám chặt lấy Chúa và đi từng chặng đường cứu rỗi qua việc đọc kinh Mân Côi. Lần chuỗi là hình thức đạo đức bình dân nhất mà lại có hiệu quả cứu rỗi nhất bởi vì kinh Mân Côi ai cũng có thể đọc được, suy gẫm và chiêm ngắm Chúa Giêsu và Mẹ Maria cách dễ dàng. Chúng ta có thể lần chuỗi riêng, chung trong nhóm, trong gia đình hay trong Nhà thờ. Kinh Mân Côi quả là giây bền đỗ của mọi người.
Lời kinh Mân Côi quả là đẹp biết bao vì khi chúng ta cất lên kinh Kính Mừng là chúng ta chào Mẹ và chúng ta cao rao tình yêu bao la của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, danh Thánh Mẹ thật cao vời; Chúng con chạy đến Mẹ Dâng tràng chuỗi Mân Côi; Mẹ mỉm cười hiền dịu Mẹ lần chuỗi với chúng con Ave Maria, Ave Maria
kính chào Mẹ Maria Mẹ tràn đầy ơn phúc hơn mọi người thiếu nữ, cung lòng Mẹ trắng trong, con Chúa ngự nơi Mẹ.
Quả phúc bởi lòng Mẹ Giêsu, Con Thiên Chúa… Amen…Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI- Lm. Jos. Nguyễn Văn Phán
Người Việt Nam chúng ta có một lòng kính mến Đức Mẹ rất đặc biệt, có chuyện gì là mình hay chạy đến với Đức me. Vậy những người năng đến với Đức Mẹ Maria tôi xin được mạn phép tạm chia ra ba thành phần:
*1- Đến với Mẹ để xin xỏ vòi vĩnh vì nghĩ rằng Mẹ ban muôn ơn lành cả hồn lẫn xác, cả trong lẫn ngoài nên đến với Mẹ tha hồ mà xin, thiếu gì xin đó, cần gì xin ngay. Xin khỏi bệnh, xin cho con ngoan học giỏi, xin đỗ đạt bằng cấp, xin có việc làm, xin gia đình bớt chiến tranh, xin làm ăn trúng mánh có tiền, xin trúng xổ số số cặp…
*2-Đến với Mẹ nặng tìmh cảm, sướt mướt, nhõng nhẽo… Người Việt Nam tình cảm dạt dào, rồi đa cảm nên hay đến mẹ nhiều hơn. Nói rằng đến với mẹ dễ nói dễ thưa gửi trình bày hơn, và lòng mẹ cũng dễ động lòng, dể cảm thông con cái hơn… Do đó một số người dành nhiều tình cảm với Mẹ Maria hơn là với Chúa. Tối ngày lân la bên Mẹ, tượng ảnh Mẹ to đùng, kinh hạt rân ran hát hò om sòm…
*3- Đến với Mẹ mong nuốn tha thiết thay đổi cuộc sống. Có thể do chính bản thân họ khao khát hay người thân của họ mong mỏi thay cho họ bằng việc cầu nguyện, thân thưa với Mẹ. Điểm ba này hợp với lời Mẹ kêu gọi con cái nhân loại: Hãy sám hối cải thiện đời sống và siêng năng lần hạt.
Nhiều chuyện lạ và những chứng nhân làm chứng cách hùng hồn về những biến chuyển đổi đời của họ. Trong đó có một số nhờ việc đi hành hương… nhưng hành hương của Việt Nam ta hơi bị lạm dụng, thường là phối hợp hành hương cùng với đi nghỉ mát tắm biển vui chơi, tranh dành chỗ ngồi trên xe, cãi nhau nơi để đồ dùng cá nhân như gầm ghế hay ngăn gác trên đầu, không có người đồng hành đúng nghĩa bằng cả tấm lòng khao khát mãnh liệt thay đổi cho từng trường hợp cụ thể của mỗi người hành hương…
Vậy thì trong ba loại người đến với Đức Mẹ, hiện giờ tôi đang ở trong loại nào?
Kinh Mân Côi là lời kinh của người đang yêu. Tình yêu luôn mộc mạc giản dị, đơn sơ nhỏ bé… không phải những lời lẽ cầu kỳ văn hoa bóng bẩy chải chuốt. Do đó lời kinh không phải chỉ dành cho những ông bà già thừa thãi không biết làm gì mang tràng hạt ra lần hột cho qua giờ, cho qua tuổi già. Vì thế có người rất trẻ, có người bằng cấp đầy mình, có người địa vị cao vút tầng mây, có người giàu có gia tài kếch sù… mỗi ngày vẫn cứ âm thầm lặng lẽ an bình thanh thản lần chuỗi Mân Côi. Lý do duy nhất là họ đang yêu.
Còn những người không yêu thì viện đủ lý do ra chối từ thoái thác, nét mặt bộ dạng ta đây kẻ cả là người lớn rồi nên không cần đụng đến những lời kinh dành cho trẻ con và ông bà già lẩm cẩm nhạt nhẽo lê thê vô vị!
Vậy tôi đang là người giàu có tình yêu hay nghèo nàn tình yêu nhỉ? Xem có đọc kinh Mân Côi không là trả lời được liền!
Kinh Mân Côi là lời kinh của người hèn mọn
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Khởi đầu, hình thành kinh Mân Côi là của những người bình dân, hèn mọn, cù lần… Các giáo sĩ ngày ngày đọc Thánh Vịnh, có tới 150 Thánh Vịnh và toàn là bằng tiếng La Tinh. Do đó giáo dân ta cũng là thuộc loại bình dân, hèn mọn, chữ nghĩa mù mịt, ngôn ngữ không thông, sách vở chẳng có… thế là “chơi” luôn 150 kinh Kính Mừng, ngang ngửa với giáo sĩ chứ bộ! Vậy thì không chối cãi vào đâu được là khởi đầu kinh Mân Côi của người hèn mọn và dành cho người hèn mọn, bình dân…
Vậy, đứng trước mặt Chúa ai dám vỗ ngực tự xưng mình thuộc loại “sang” không thèm đọc kinh Mân Côi? Mọi người, giống như Mẹ, đều nhận mình là mọn hèn, thế là tất cả cùng đọc kinh Mân Côi nhé!
Một kinh nghiệm
Dù ít nhiều nên khuyến khích trẻ con đọc kinh mân côi. Tuy chưa hiểu biết gì, rồi lớn lên sẽ hiểu, sẽ thấy tác động ảnh hưởng vào cuộc sống người tín hữu ấy. Có những cách ràng buộc như từ cha mẹ đến từng đứa con, mỗi người một ngắm và lần hạt một chục, động viên trẻ nhỏ chuyên cần duy trì để chuỗi mân côi không bị thiếu, không tròn đủ năm mươi! Kinh nghiệm cho tôi thấy, duy trì cho đến khi trưởng thành và tự mình lần đủ năm chục mỗi ngày cho chắc ăn, đôi khi lại đọc thêm một chục là phần của riêng mình phải giữ nữa…
Đọc kinh Mân Côi là suy gẫm những Mùa theo Lời Chúa. Thứ hai Mùa Mừng: xin cho ái mộ những sự trên trời. Yêu mến những sự trên trời ngay trên mặt đất này (khát khao – tìm kiếm – gặp gỡ – sứ vụ). Sống Vương Quốc Tình Yêu ngay hôm nay và loan báo sự sống của Vương Quốc này. Suy gẫm Lời Chúa ngỏ với mình để biến đổi cuộc sống và cảm nhận được niềm vui hạnh phúc nhắc đi nhắc lại tới mười lần: Kính mừng Maria Mẹ Đầy ơn phúc vì Thiên Chúa ở với Mẹ và tôi cũng rất hạnh phúc khi tôi hoán cải cảm nhận có Chúa ở cùng tôi! (Ân Ban chính mình Ngài đấy!). Đọc Kinh Mân Côi không phải chỉ là ca tụng Mẹ nhưng còn nhắc đi nhắc lại cho tôi niềm ân ban hạnh phúc mà tôi có được do lòng thương yêu âu yếm của Chúa nữa!
Để kết thúc phần trình bày này, thiết tưởng nên nhắc lại nguyên tắc mục vụ đã được quyển Giáo Lý Rô-ma nêu ra:
Tất cả mục đích của giáo lý và lời giảng dạy phải được đặt trong Tình Yêu vĩnh cửu. Dù có thể trình bày thật khéo léo điều phải tin, cậy hay làm, nhưng điều chính yếu là phải làm nổi bật lòng yêu mến Chúa, để mọi người hiểu rằng mọi hành vi tốt theo đúng nghĩa Kitô giáo không có nguồn gốc nào khác ngoài Tình Yêu và không có cùng đích nào khác ngoài Tình Yêu.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI- Trích Logos Năm B
Một trong những bộ phim được nhiều người ưa thích và đã chiếu rộng rãi trên đài truyền hình. Đó là bộ phim Tây Du Ký. Tuy nhiên, có một số điều người ta ít biết đến chung quanh bộ phim này.
Tây Du Ký là một bộ tiểu thuyết mang tính chất thần thoại của nhà văn Trung Quốc là Ngô Thừa Ân. Tác phẩm này bắt nguồn từ một câu chuyện có thật : vào đời Đường bên Trung Hoa có một nhà sư tên Trần Huyền Trang (602-664) đã dấn bước vào cuộc hành trình gian khổ sang nước Ấn Độ để lấy kinh Phật đem về. Sau 17 năm đầy thử thách, nhà sư Trần Huyền Trang đã thỉnh được kinh Phật đem về.
Tây Du Ký đã được tiểu thuyết hóa và chuyển thể thành phim với những nhân vật nổi tiếng như Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Trư Bát Giới… Họ đã cùng nhau lên đường về Tây Trúc, Ấn Độ để thỉnh kinh Phật. Thầy trò Đường Tăng phải trải qua bao thử thách, gian nguy mới lấy được kinh Phật mang về.
Đối với người Phật Giáo Trung Hoa, Kinh Phật đã có một cuộc hành trình đầy gian khổ để đến được đất nước Trung Hoa và làm cho Đạo Phật được phát triển mạnh mẽ ở đất nước này.
Còn đối với chúng ta, những người kitô hữu, Kinh Mân Côi cũng trải qua một cuộc hành trình dài trong lịch sử để hình thành và phát triển trong Giáo Hội. Có thể nói : Kinh Mân Côi chính là một cuộc hành trình Đức tin. Tràng hạt Mân côi là con đường tuy đơn sơ nhưng rất dễ đi để giúp ta tiến về quê Trời.
– Xét về mặt hình thể :
Tràng hạt mân côi hay là chuỗi hạt mân côi là một vòng dây khép kín tượng trưng cho một đường tròn hoàn hảo. Vòng dây đính các hạt tròn được làm bằng nhiều chất liệu : gỗ, đá, kim loại… Mỗi hạt tròn được dùng để “đánh dấu” như các cột mốc trên đường đi của kinh Mân Côi. Cứ 10 hạt lại có một khoảng cách, ghi dấu bằng một hạt riêng biệt. Điều đó cho thấy : chuỗi hạt chính là một cuộc hành trình được đan dệt bằng nhiều chặng đường và cột mốc.
– Xét về mặt ý nghĩa :
Chuỗi hạt mân côi luôn bắt đầu từ cây Thánh Giá, trải qua hành trình của các kinh Kính Mừng, rồi lại trở về với cây Thánh Giá. Như thế, tràng hạt Mân Côi chính là cuộc hành trình của Thập Giá. Tràng hạt phản ánh cuộc hành trình đức tin của Mẹ Maria, cuộc hành trình lặp lại cuộc hành trình Thập Giá của Chúa Giêsu để bước vào vinh quang Phục Sinh cùng với Ngài.
Tràng hạt Mân Côi, cuộc hành trình xuyên qua lịch sử
Vào thế kỷ XII, 150 thánh vịnh của thánh vương Đavit quá dài và không thông dụng với giới bình dân. Vì thế, người ta đã đọc 150 Kinh Lạy Cha thay thế 150 Thánh Vịnh. Sau đó, người ta đổi 150 Kinh Lạy Cha bằng 150 Kinh Kính Mừng. Do đó, thánh Đaminh đã gọi kinh mân côi là “Thánh Vịnh Đức Mẹ”. Khởi đầu, người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, sau đó thay thế bằng những loại hạt khác. Cuối cùng, đã hình thành tràng hạt mân côi như ngày nay.
Thời đó, người ta đọc 150 Kinh Kính Mừng cùng với 150 Kinh Lạy Cha. Nghĩa là mỗi Kinh Kính Mừng một Kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XV, 150 Kinh Kính Mừng được chia thành 3 chuỗi 50, tức năm “chục” kinh Kính Mừng. Mỗi “chục” kinh Kính Mừng đọc một kinh Lạy Cha.
Ngày nay, 150 Kinh Kính Mừng được gồm tóm trong 15 mầu nhiệm được rút ra từ Phúc Âm và được chia thành 3 phần : mùa Vui, mùa Thương và mùa Mừng. Do đó, có thể nói : tràng hạt mân côi chính là cuốn Phúc Âm “bỏ túi”, được rút gọn cho mọi người.
Ngoài ra, lịch sử Giáo Hội còn ghi lại những biến cố phi thường của Kinh Mân Côi :
– Đầu thế kỷ XII, Đức Mẹ đã soi sáng cho thánh Đaminh truyền bá Kinh Mân Côi như một vũ khí để đánh tan bè rối Albigeois nổi lên chống phá Giáo Hội.
– Thế kỷ XVI, nhờ Kinh Mân Côi, Giáo Hội đã chiến thắng quân Hồi Giáo ở vịnh Lépante vào ngày 07/10/1571.
– Tại Lộ Đức, nước Pháp, Đức Mẹ hiện ra với cô Bernadette, đeo tràng hạt vàng ở cánh tay phải và đọc Kinh Mân Côi với cô.
– Năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ hiện ra với 3 trẻ em : Lucia, Phanxicô và Giaxinta và thúc giục : “Các con hãy tiếp tục lần hạt mân côi hằng ngày”. Đức Mẹ còn tuyên bố : “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”.
Tràng hạt mân côi, chuỗi ngọc thiêng liêng ngời sáng, đã giúp Giáo Hội vượt qua bao biến cố đau thương trong lịch sử.
Tràng hạt Mân Côi, cuộc hành trình đức tin
Khi chúng ta lần hạt Mân Côi là chúng ta đang dõi theo bước chân của Mẹ Maria trên cuộc hành trình đức tin. Đó là cuộc hành trình khởi đầu từ Đức Kitô và qui huớng về Đức Kitô. Chúng ta thấy được điều đó khi xét đến các kinh đọc trong khi lần chuỗi Mân Côi :
Kinh Lạy Cha : là kinh cầu nguyện do chính Chúa Giêsu dạy.
Kinh Kính Mừng : là lời chào của sứ thần Gabriel : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Đó cũng là lời chào của bà Êlisabeth : “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42).
Kinh Sáng Danh : quy chiếu mọi loài trong mọi thời về Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng luôn ấp ủ mọi người trong tình yêu.
Hơn nữa, khi đọc Kinh Mân Côi là chúng ta đi theo bước chân của Mẹ Maria trên con đường khổ giá. Mỗi chặng đường là một cột mốc đánh dấu sự hy sinh từ bỏ. Con đường Mân Côi, như chúng ta đã thấy, là con đường bắt đầu từ thập giá và kết thúc dưới thập giá. Qua 3 mùa Vui, Thương, Mừng, Đức Mẹ dẫn ta qua những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu và cuộc đời Mẹ. Vì thế, khi đọc Kinh Mân Côi, chính là lúc chúng ta được Mẹ Maria dẫn dắt đến cùng Chúa Giêsu con yêu dấu của Mẹ.
Trên cuộc hành trình đức tin của mỗi người kitô hữu, những hạt Kinh Mân Côi chen lẫn những giọt mồ hôi và nước mắt cũng đang nảy mần vươn lên thành cây rồi thành bông, những bông hồng tươi thắm dâng lên Thiên Chúa.
Trên cuộc hành trình đức tin của người kitô hữu, mỗi hạt Kinh Mân Côi còn là một “điểm nhấn” của niềm tin giúp chúng ta đi đúng đường về quê trời. Khi lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng hằng ngày, là ta lặp đi lặp lại lời nguyện cầu tha thiết với Mẹ Maria. Đó chính là “điệp khúc tình yêu” không thể thiếu trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện cổ tích “Cậu bé tí hon”. Ngày xưa, cậu bé tí hon cùng với người chị sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cha có mẹ rất hạnh phúc. Nhưng từ ngày mẹ chết đi, cha lấy người mẹ kế, cậu bé tí hon và người chị bắt đầu sống trong cảnh bất hạnh : bị dì ghẻ hành hạ và hất hủi.
Một ngày nọ, bà dì ghẻ dẫn cậu bé tí hon và chị cậu vào rừng sâu, rồi bỏ đó cho thú dữ ăn thịt. Vì là đứa bé thông minh nên cậu bé tí hon mang theo một túi đầy những viên sỏi. Cậu bỏ những viên sỏi dọc đường đi để đánh dấu. Sau khi bị bỏ rơi trong rừng, cậu bé đã dẫn chị mình đi theo dấu những viên sỏi để về nhà bình yên vô sự.
Những hạt Kinh Mân Côi trên đường dương thế, cũng chính là những “viên sỏi” đánh dấu đường đi, hướng dẫn ta đi đúng đường về quê hương đích thật ở trên trời. Chúng ta hãy nghe lời Mẹ Maria dạy để siêng năng lần hạt mân côi hằng ngày.