CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KIÊN QUYẾT LOAN BÁO THẬP GIÁ(*)– Chú giải của Noel Quession 5
LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN VÀ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 13
LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt 22
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux 27
NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 38
TIN THEO ĐỨC KITÔ– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 57
TƯỞNG LẦM- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 72
THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 76
ĐỨC TIN SỐNG– PM. Cao Huy Hoàng. 89
THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 94
NGƯỜI TA BẢO THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 99
VẤN NẠN ĐAU KHỔ- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 104
ĐỨC TIN VÀO CHÚA GIÊSU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm Đaminh Trần Đình Nhi 110
CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?- Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.. 118
QUA ĐAU KHỔ THẬP GIÁ TỚI VINH QUANG PHỤC SINH – Lm Trần Bình Trọng 124
ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC GIÊSU LÀ AI?- Lm Inhaxiô Trần Ngà. 128
ĐỨC TIN (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 132
NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 138
THẦY LÀ ĐỨC KITÔ- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 143
TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ- Trích Logos B.. 147
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
1) Tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi cầu khẩn, vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi, trong ngày tôi kêu cầu Chúa.
2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con!”
3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng ta rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác; tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi.
4) Bởi người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh.
BÀI ĐỌC II: Gc 2, 14-18
“Ðức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Bài trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Ðức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người sẽ nói: “Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm”. Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
All. All. – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – All.
PHÚC ÂM: Mc 8, 27-35
“Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
KIÊN QUYẾT LOAN BÁO THẬP GIÁ(*)– Chú giải của Noel Quession
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:
“Đây là gì?” (Mc 1,27).
“Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy” (Mc 2,12).
“Ông ấy mất trí rồi ” (Mc 21).
“Thực sự ông này là ai ” (Mc 4,41).
“Tất cả mọi người đều kinh ngạc” (Mc 5,20).
“Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2).
“Đó là ma” (Mc 6,49).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên liïch sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ “Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy”.
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”
Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời “Tuyên xưng đức tin” nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị “Christos” “Meshiah” trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”. Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’. “Bí mật về Đấng Mêsia” là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: “Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: “Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời”. Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó “một cách quả quyết” không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự “hiện diện” của Ngôi Lời Thiên Chúa. “Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1) “Người nói Lời cách quả quyết”. Con Người phải bị giết và sống lại; chữ “phải” này làm chúng ta chìm đắm trong “ý định đời đời và không hiểu được” của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh “Tin kính” đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Oâng vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh “Tin kính” thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấ
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó “cho chúng ta”, cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: “Anh em nói Thầy là ai?” Người hỏi: “Anh em nói anh em là người thế nào?”. Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN VÀ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV nầy được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung nầy tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn nầy được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính nầy chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ nầy, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ.
Người Tôi Trung nầy là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui” 50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).
Dung mạo của Đức Ki tô.
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung nầy chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
Đức tin không việc làm là đức tin chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên nầy được một ví dụ cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.
So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô:
Khi tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3: 20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa nầy không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa nầy, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình nầy mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.
Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài:
Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận nầy, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.
Thật ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-ô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều nầy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên Chúa” (Mc 11-16).
Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a nầy thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là chân tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm nầy? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a theo nghĩa một vị vua toàn thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc nầy các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút nầy, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) nầy.
Phản ứng của thánh Phê-rô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu có thể bị đau khổ.
Phản ứng của Đức Giê-su:
Đức Giê-su phản ứng rất quyết liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7); Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ để đạt đến vinh quang nầy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời nầy vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.
Những lời nầy âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN-Năm B
LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Ngày nay có nhiều kẻ nhắc đến Chúa Giêsu, ca tụng con người và sự nghiệp giải phóng của người; nhưng cũng lắm kẻ không biết đúng Người là ai, nên hoặc sinh nghi ngờ đố ky, hoặc phớt lờ không muốn nghe nói đến. Còn đối với ta. Chúa Giêsu là ai? Một bóng ma ám ảnh hàng thế kỷ? Một quan toà phải đối chất vào phút chót? Một kỷ niệm đáng nhớ? Một bảo đảm cho thành công? Một chướng ngại trong sơ yếu lý lịch? Câu trả lời đúng, chính là xác tín Người là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống của ta và làm cho cuộc sống cùng thái độ sống hằng ngày của ta phù hợp với Tin Mừng và Giáo Hội của Người.
Vì tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ là noi gương Người để sống bác ái huynh đệ. Tin là tuyên xưng sự cứu rỗi của nhân loại là hoàn toàn ở nơi Chúa Giêsu, rằng chỉ mình Người mới có thể mặc khải trọn vẹn và đã mang đến đầy đủ cho ta ơn cứu rỗi bằng cuộc sống và cái chết-phục sinh của Người.
Để đi đến cùng đích đời mình và hoàn thành sứ mệnh, Chúa Kitô phải từ bỏ hết ý muốn riêng tư (8,33), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt của quần chúng (cc 28-29) cùng ngay cả mạng sống bản thân (c.31). Người phải từ bỏ tất cả để được Đấng là Tất Cả. Đấy là con đường tất yếu cho những ai muốn sự sống thật, hạnh phúc thật. Và Chúa Giêsu cũng dạy cho các kẻ muốn đi theo con đường này (cc 34-35). Bởi vì mọi cái ngoài Thiên Chúa chỉ mang lại những hạnh phúc thoáng qua. Thiên Chúa muốn chúng như là những phương tiện, những bậc thang để dẫn đến Ngài. Từ bỏ những phương tiện hấp dẫn này (nghĩa là coi chúng chỉ như phương tiện) luôn luôn gây đau đớn cho ta. Vác thập giá theo Chúa Kitô là như thế. Nhưng có vậy mới đạt đích như Người.
Kitô-hữu là ai?
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xủ tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.
Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).
Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?
Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.
Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.
Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).
Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).
LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)
Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của “Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).
Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).
Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).
Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).
Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).
Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 – 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.
THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)
Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Is 50,5-9a) : Hình ảnh Người Tôi Tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
– Tin Mừng (Mc 8,27-35) : Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết Ngài sắp chịu nạn chịu chết.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Đức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.
– Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.
– Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 50,5-9a)
Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Đệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13—53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.
Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
Người Tôi Tớ này là ai ? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Đấng Messia. Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này : Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
Đáp ca (Tv 114)
Tâm tình của người tín hữu trung kiên : dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
Tin Mừng (Mc 8,27-35)
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần :
a/ Đức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh : có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Đức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12 : “Thầy là Đức Kitô”.
b/ Sau đó Đức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
– Các câu 33-35 “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
. “Ai muốn theo tôi” nghĩa là ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu (“đi theo” ai là làm môn đệ cho người đó)
. “Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. “Vác thập giá mình” : Kiểu nói này có nhiều nghĩa : a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử ; c/ câu 35 giải thích câu 34 : “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.
Bài đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau : “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giêsu là ai ?
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri : họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai ? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết :
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng : Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quo vadis” : quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Đế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quo vadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức Giêsu trả lời : Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời : Thầy là Đức Kitô con TC hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy !
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. CG đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài : ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai ?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì ? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
* 2. Từ bỏ chính mình
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc : “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ : “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin :
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
– Họa mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ ?
– Họa mi ơi ! đời cần hoa chi cho thương đau ?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng ?
– Kể cả sinh mạng em.
– Họa mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
*
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực : Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
*
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng : chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Hai loại đức tin
Có hai loại đức tin : Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô… Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng ; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.
Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin : cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.
Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại : vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ : “Người ta nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Đức Giêsu còn hỏi tiếp “Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
Đức tin và việc làm
Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.
Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.
Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho nên Thánh Giacôbê nói : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa trái của đức tin là tình yêu
Hoa trái của tình yêu là phục vụ
Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
Nhận ra Đức Giêsu
Nhận ra Đức Giêsu là Kitô
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi : “Anh em bảo Thầy là ai ?”, Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44 ; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18 ; 8,17.21). Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình : “Thầy là Đức Kitô.” Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng : một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Đức Kitô đó không phải là Đức Kitô Giêsu.
Đức Kitô : Con Người chịu đau khổ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng “để cho Ngài phải thấy sự hư nát” (Tv 16,10 bản LXX). Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông : “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông : “Hãy đi sau Ta”. Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1C 1,25)
Thân phận của người môn đệ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. “Nếu ai muốn đi sau Ta”. Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. “Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn.” (Ga 21,18). Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời ; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
- Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Đức Giêsu trên đường thập giá.
- Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển / biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo công lý và hòa bình.
- Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.
- Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Thánh Kinh nói “Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
GIẢI TÁN
Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo”.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIN THEO ĐỨC KITÔ– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
- DẪN NHẬP
Đức Giêsu là ai ? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục lặp lại câu hỏi ấy. Thậm chí có người phủ nhận con người lịch sử của Đức Giêsu và coi đó chỉ là một con người huyền thoại.
Ngày xưa, người Do thái coi Đức Giêsu chỉ là một vị tiên tri có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Eâlia hay một tiên tri nào đó. Riêng ông Phêrô biết con người thật của Đức Giêsu, ông đã tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô”. Tuy thế, đối với ông, Đấng Kitô có tính cách trần tục, Đấng Kitô vinh hiển, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu.
Nhưng Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô, không phải là Đấng Kitô vinh hiển theo kiểu thế gian, mang mầu sắc chính trị, mà là Đấng Kitô bị đau khổ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Tiếp đó Đức Giêsu tuyên bố lập trường của Ngài cho các môn đệ và dân chúng : nếu ai muốn theo làm môn đệ Ngài thì phải thi hành hai điều kiện, đó là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày.
Vậy chúng ta phải theo Đấng Kitô nào ? Đấng Kitô vinh hiển hay Đấng Kitô bị đau khổ ? Nếu muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chọn Đấng Kitô bị đau khổ và đi theo đường lối của Ngài, đó là đường khổ giá, nhưng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ và được thừa hưởng Nước Trời vinh quang.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 50,5-9a.
Đây là đoạn văn được gọi là “Bài ca thứ ba” của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Đoạn văn này được viết phỏng theo kiểu những lời tâm sự của Giêrêmia.
Người Tôi Trung tự nhận là môn đệ của Giavê, có sứ mạng đem những lời Thiên Chúa truyền cho ông mà loan báo và dạy dỗ. Sứ mạng ấy khiến người ta ghen ghét, ngược đãi dưới nhiều hình thức, nhưng một nguồn sức mạnh mãnh liệt nâng đỡ ông thi hành nhiệm vụ. Ôâng đã thắng vượt sự buồn lo đó bằng một lòng tín thác không lay chuyển vì ông tin tưởng rằng Thiên Chúa không ngừng đến cứu giúp ông.
Người Tôi Tớ này được hiểu là Đức Kitô, một người Tôi Tớ tuyệt hảo nhất. Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Từ đó, Ngài đã được sức mạnh phi thường trong tâm hồn. Thật là mẫu gương sáng ngời cho chúng ta, các môn đệ của Ngài.
+ Bài đọc 2 : Gc 2, 14-18.
Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin trong hành động. Ngài khẳng định :”Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”. Cả đức tin lẫn hành động đều cần thiết và luôn phải đi đôi với nhau, không thể tách rời .
Ngài còn đưa ra một mẫu gương sống bác ái huynh đệ để định nghĩa và dẫn giải về đức tin sống động. Điều đó muốn nói rằng: giá trị của đức tin chúng ta tùy thuộc ở mức độ bác ái đối với mọi người anh em của chúng ta.
+ Bài Tin Mừng : Mc 8,27-35.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần :
-Đức Giêsu muốn các môn đệ phản ảnh cho Ngài biết dư luận của dân chúng về Ngài là ai ? Các môn đệ cho biết : theo dư luận quần chúng thì Ngài là một tiên tri, một đại tiên tri có quyền làm được những dấu lạ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cho Nhóm 12 :”Thầy là Đấng Kitô”.
-Sau đó, Đức Giêsu tiết lộ cho các ông biết về cuộc khổ nạn của Ngài :”Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Ôâng Phêrô, tuy công nhận Ngài là Đấng Messia, nhưng niềm tin này mới là tạm thời : nó không chấp nhận Đấng Messia phải chịu đóng đinh. Các ông không thể hiểu nổi.
Trước sự bỡ ngỡ của Nhóm 12, Đức Giêsu đã khẳng định với tính cách quyết liệt :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Theo Đức Kitô bị đóng đinh
ĐỨC KITÔ LÀ AI ?
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ta ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi : Giêsu Kitô, ông là ai ? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách … nói về Chúa Giêsu.
Bối cảnh việc tuyên xưng.
Thánh Marcô kể : bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan sẽ chảy xuống phía nam. Người ta gọi nơi này là Cêsarêa của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Cêsarê, tức là tên của hoàng đế La mã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Ngoài ra, Chúa Giêsu sắp kết thúc việc rao giảng ở Galilê, nay mai sẽ lên đường đi Giêrusalem, chặng đường cuối cùng kết thúc ở đồi Calvê, trong khúc quanh này, đã đến lúc Chúa phải sửa soạn giai đoạn chót cho các Tông đồ.
Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ xem ý kiến của quần chúng và của các ông về Ngài như thế nào. Ngài muốn biết ý kiến của các ông, sau đó Ngài mới tiết lộ cho các ông về con người thật của Ngài.
Theo dư luận quần chúng.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ :”Người ta nói Thầy là ai” ? Các ông đáp liền :”Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó”(Mc 8,28),
Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Eâlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri : họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.
Theo ý kiến các môn đệ.
Chúa Giêsu lại hỏi các ông :”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai” ? Ôâng Phêrô tức khắc trả lời :”Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29).
Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ Nhóm này.
Tước vị “Christos” “Messiah trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel : Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi để đến “ hoàn tất lịch sử”. Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.
Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thưở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 va 12).
Theo sự tiết lộ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết :”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”(Mc 8,31).
Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào”(Ga 3,16-18)
TIN THEO ĐỨC KITÔ.
Theo Đức Kitô nào đây ?
Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”(Mc 8,34-35).
Chúa Giêsu bảo ai muốn theo Ngài vì Ngài là Đấng Kitô, nhưng phải theo Đấng Kitô nào ? Theo Đấng Kitô vinh hiển như người Do thái thường quan niệm hay Đáng Kitô đau khổ như Người mới tiết lộ ?
Trở lại bài đọc 1, ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ nào đó, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là ngươi tôi tớ ấy.
Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy ! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường Thánh giá : ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.
Truyện : Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.
Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ôâng cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras :
– Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông ?
Barras trả lời :
– Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.
Những điều kiện để theo Chúa.
Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Hai điều kiện này xem ra ít ỏi như khó ăn lắm.
- a) Phải từ bỏ chính mình.
Từ bỏ chính mình để nhận lấy Thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.
Ngoài ra, việc từ bỏ chính mình, đứng về phương diện triết học ngày nay, thì là một sự “tha hoá, vong thân”, mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hoá nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời.
Lý tưởng mà thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hoá” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hoá”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).
Vác thập giá mình.
Thập giá, theo Tin mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.
Như vậy, kiểu nói “vác thập giá mình” có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.
Chấp nhận đau khổ trong đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật giáo chủ trương ? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.
Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồån mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Truyện : Nữ thủ tướng Golda Meir
Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết : “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại ích lợi cho mình hơn.
Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).
Đường đưa tới vinh quang
Chúng ta thấy dòng Mến Thánh giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa :”Per crucem ad lucem” : qua thập giá tới vinh quang. Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày thứ sáu tuần thánh mới tiến tới ngày Chúa nhật Phục sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo Phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.
Thập giá không còn là cái gì ghê ârợn mà là vinh quang. Chúng ta thường hát :”Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát”.
Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta “sợ” thập giá, người ta “ngại” hy sinh, người ta “tránh” từ bỏ… Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói :“Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử” : không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con ?
Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata :”Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô”(Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.
Truyện : Cưa bớt thập giá.
Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.
Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.
Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.
Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.
Thi sĩ Robert Browning Hamilton tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau :
“Tôi bước đi một dặm đường với Nữ thần Lạc Thú, Nàng vuốt ve tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan tí nào qua những điều nàng nói.
“Tôi lại bước đi một dặm với Nữ thần Đau Khổ, Nàng chả nói với tôi lời nào, Nhưng tôi lại học được biết bao điều Khi nàng bước đi bên cạnh tôi…”
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
TƯỞNG LẦM- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Cộng sản, chính trị…
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.
Gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.
Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Các Mác đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.
Thao thức tìm kiếm
Ignace sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.
Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20.
Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.
Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới : tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.
Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.
Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.
Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.
Đỉnh cao danh vọng.
Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.
Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.
Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các “mệnh phụ phu nhân” cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.
Thất vọng
Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.
Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.
May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một “Hội nghị về Hòa bình thế giới” được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.
Chán nản
Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.
Lý tưởng huyền diệu
Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu ?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.
Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ : chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.
Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người : Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Sô Viết đối xử với công dân của họ.
Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.
Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.
Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai?” là thao thức cho những ai khao khát chân lý.
Ba bức chân dung về Đức Giêsu
Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”. Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào đó. Họ cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Êlia, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giêrêmia, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giêsu cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
“Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.
Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?
Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.
– Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).
– Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
– “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.
Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ – chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.
Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.
Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN SỐNG– PM. Cao Huy Hoàng
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI TA BẢO THẦY LÀ AI?- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình…
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
VẤN NẠN ĐAU KHỔ- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại”
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: “Đời là bể khổ.”
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ của Giavê”.
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng c&oacoacute; thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.”
“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: “Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5;8b).
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN VÀO CHÚA GIÊSU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm Đaminh Trần Đình Nhi
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
Đức tin vào Chúa Kitô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?- Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
Phêrô sau khi được điểm 10 vì trả lời xuôi câu hỏi Giêsu là ai, lại bị ngay điểm 0, vì chẳng hiểu gì về đường lối của Thiên Chúa : “Satan, hãy lui lại đàng sau, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”
Tư tưởng của Thiên Chúa là Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Rồi sau đó Đức Giêsu dạy các môn đệ phải từ bỏ mình và hãy “vác thập giá” mà đi theo Chúa.
Nếu vác thập giá có nghĩa là mang thánh giá, đeo thánh giá, thì nhiều người trong chúng ta – nhất là các bà các cô, và các chàng hippy cao bồi xưa đã thực thi Lời Chúa triệt để : Họ mang thánh giá trên ngực, giờ họ mang toòn teng cả 2 lỗ tai. Có thời thánh giá nhỏ, có lúc mang thánh giá thật to. Lúc vàng, lúc gỗ….
Mang thánh giá như vậy cũng có điều tốt, vì một cách nào đó làm cho bóng thánh giá hiện diện đó đây. Nhưng cũng có khi – và nhiều khi – không mang những thánh giá như vậy mà vẫn là vác thánh giá thật. Những thánh giá thật đó là những thánh giá nào ? Ta hãy nương theo thánh Giêronimo, để liệt kê 4 loại thánh giá :
Thánh giá vì đạo
-Thánh giá vì đạo đạt tới bậc cao là chết vì đạo, cho dù chết trên thập tự hay chết vì thú dữ xé thây, hay chết vì lưỡi gươm lý hình, thì cũng là vác thập giá tử vì đạo.
Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Kitô giáo, ở Roma xa xôi, xa về không gian lẫn thời gian ; ở những nước gần chúng ta hơn như Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines ; hoặc ngay tại quê hương đất nước chúng ta, cách đây hơn 100 năm thôi : đã có bao nhiêu kẻ vì muốn theo Chúa Kitô mà đã phải vác lấy thập giá tử vì đạo này. 117 + 1 vị còn đó, lễ kính ngày 24/11: thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo. Nhật có Phaolo Miki và các bạn, lễ kính 6-2. Đại Hàn có 103 vị tử đạo được ĐGH JP2 đến Seoul phong thánh 1984, lễ mừng 20-9: thánh Kim Taegon và Chung Hasan cùng các bạn. Phi Luật Tân có thánh Laurenso Ruiz và các bạn, kính ngày 28-9 ; và những vị tử đạo tiên khởi Roma, kính ngày 30-6.
Thánh giá vì đạo ở đỉnh cao là Tử vì đạo.
-Thánh giá vì đạo ở bậc trung là những bách hại vì đạo : vì là người công giáo, vì là người theo Đức Kitô mà ta bị trù dập, mất việc, xếp ở cột 12 trong sơ yếu lý lịch !
Cũng có thể được xếp vào bậc trung thánh giá vì đạo, là loại thánh giá đặc biệt, không phải vì đạo mà là do Đạo gây ra. Trong lịch sử ta thấy điển hình có Galilê, bị chính Đạo o ép suýt bị hoả thiêu khi ông chứng minh trái đất quay chứ không phải mặt trời chạy.
Vào khoảng năm 1990, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đi “ad limina” ở Roma về, ngài vui mừng, chia sẻ : lần này Toà Thánh đã xem tôi là người công giáo rồi ! Là vì trong quá trình sống chung với anh em sau năm 1975, ngài đã bị báo cáo này nọ, chẳng hạn ngài là giám mục chưa đến nỗi “quốc doanh” nhưng là loại “công tư hợp doanh.”
Có những bổn đạo “được” cha xứ để ý cách riêng, gọi thẳng ra là trù dập, o ép. Thánh giá bởi đạo là thế, tuy không phổ biến, không nhiều, nhưng cũng khá nặng. Nặng hạng trung.
-Thánh giá vì đạo ở bậc thấp là tuân giữ lề luật của đạo. Chẳng ai bách hại trù dập vì đạo, chẳng ai chặt đầu đóng đinh vì đạo, thì ở mọi thời ta vẫn còn phải vác thập giá vì đạo loại cấp thấp này : Ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh, đi lễ …, đó là những thánh giá do đạo mà ta phải vác nếu ta muốn theo Đức Kitô.
Thánh giá do Chúa [Quan Phòng]
Có khi là chính Chúa gửi tới, có khi là Ngài quan phòng để cho sự việc xảy ra. Thánh giá loại này bao gồm tất cả những bệnh tật, lo âu, sợ hãi, chán nản, thất bại, mà ta gặp trong cuộc sống. Bi quan hơn một chút, thì cả cuộc sống là thập giá.
“Đã mang tiếng khóc chào đời” – chẳng bé thơ nào – chẳng ai bước chân vào đời mà nở nụ cười cả. Phật thì bảo : Đời là bể khổ. Bởi đó có thể nói thánh giá loại này được gọi là khổ giá. Nếu vác cho khéo sẽ thành thánh giá.
-Hiệp sĩ Phanxicô vì một cơn bệnh thập tử nhất sinh mà hoán cải thành thánh. Khổ giá biến thành thánh giá.
-Anphôngsô thất bại trước một vụ kiện mà quay về với Chúa. Khổ giá thành thánh giá.
Nhiều người do cha mẹ chết sớm, vác thập giá nuôi bầy em, mà nên những vĩ nhân. Nhiều bạn trẻ thi rớt, nhiều bạn trai bị bồ đá, đau quá, dốc quyết đi tu, đỗ cụ làm cha !
Thập giá do ma quỉ
Ma quỉ có thật chứ không phải chuyện huyền thoại, thần sầu quỉ khốc đâu. Và ma quỉ lại không ở yên. Ma quỉ hành động, hành động tích cực. Cứ đọc sách Job thì biết. Những trang đầu của sách Sáng Thế cũng vậy. Và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu, quỉ ma cũng không buông tha Ngài.
Vì thế thập giá do ma quỉ là những chước cám dỗ: mưu ma chước quỉ. Ở thời nào cũng có, ở nơi nào cũng có, ở lứa tuổi nào cũng có, ở ngành nghề nào cũng có.
Nghề buôn thì có cám dỗ làm giàu bằng con đường tắt, con đường lậu ; nghề xây cất thì có cám dỗ xây một, cất (giấu) hai.
Tuổi trẻ có cám dỗ về ăn chơi phung phí. Tuổi già có cám dỗ về kể lể thành công. Học sinh có cám dỗ cóp bài, tìm phao. Công nhân có cám dỗ câu giờ lao động.
Người chồng có cám dỗ thấy vợ người khác duyên dáng thuỳ mị hơn bà xã ở nhà. Người vợ có cám dỗ thấy chồng nhà bên cạnh tháo vát lanh lợi hơn ông chồng nhà mình…
Ta không thể kể xiết, bởi có những cám dỗ tinh vi mưu mô hơn nữa kìa. Nhất là những cám dỗ len lỏi vào cả trong việc đạo đức cầu kinh.
Vác những cám dỗ đó, mà không sa vào những cám dỗ đó, nhưng vác đem đi xa : chứ không phải sa chước cám dỗ (trong kinh Lạy Cha) – quả là một cách vác thập giá theo chân Chúa.
Thánh giá do chính mình
Đây là tên gọi của những hy sinh, hãm mình. Hy sinh, hãm mình là những điều mình đáng ra không phải làm, nhưng mình làm thêm. Đáng ra mình được hưởng, nhưng mình không hưởng.
Được xem Tivi giải trí, mình hãm mình không xem.
Không phải quét nhà, nhưng hy sinh cầm cái chổi…
Người ta kể Phanxicô thường rắc thêm tro vào thức ăn, để ăn bớt ngon hơn hầu hãm mình. Mặc áo, thì lót thêm ít vải gai bố hầu ép thân ép xác (như mặc áo nhặm).
Phải đi với người ta một dặm, mình hi sinh đi thêm một dặm nữa.
Gương các vị thánh về hy sinh cũng đầy dẫy, và trong gia đình, gương hi sinh của cha mẹ anh chị cũng không thiếu.
Mẹ thức thêm để vá cho con chiếc áo, cha làm thêm giờ để lo cho con một món đồ chơi. Mẹ nhịn miếng thịt để cho con trai lớn, bố nhường trái chuối cho bé út trong nhà.
Trên đây là ta dựa theo cách liệt kê của thánh Giêrônimo để mô tả 4 loại thập giá mà ta thường phải vác : thập giá vì đạo, thập giá vì Chúa, thập giá do ma, thập giá bởi mình.
Nhưng cũng có nhiều cách vác.Vác mà càu nhàu lẩm bẩm thì giá đã nặng lại nặng thêm mà không sinh ích gì. Còn vác cùng với Chúa, theo chân Chúa, thì ánh sáng mới loé ở chân trời.
Per crucem ad lucem : qua thập giá đến ánh sáng là một châm ngôn của Dòng Mến Thánh Giá, được sáng lập từ Việt Nam. Và gẫm Năm Sự Thương, thứ tư thì ngắm : Đức Chúa Giêsu vác thánh giá – Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Hãy “vác thánh giá theo chân Chúa,” sẽ thấy tương lai tươi sáng cuối đường hầm vậy.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
QUA ĐAU KHỔ THẬP GIÁ TỚI VINH QUANG PHỤC SINH – Lm Trần Bình Trọng
Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Đấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải cách xã hội tài ba, một tướng lãnh lừng danh, bách chiến bách thắng để có thể lật đổ ách thống trị của ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời vua Hêrôđê và đưa dân tộc họ lên hàng số một, làm bá chủ hoàn cầu. Ngay cả các tông đồ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến phép lạ Người làm, cũng còn nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế.
Tới lúc mà Đức Giêsu muốn biết xem người ta nói gì về Người khi hỏi các tông đồ: Người ta bảo Thầy là ai (Mc 8,27)? Sau khi họ thuật lại về việc người ta gán cho Thầy các ông là nhân vật nọ nhân vật kia như ông Gioan Tẩy Giả, ông Êlia hay một ngôn sứ nào đó trong Thánh kinh, thì Chúa muốn biết xem các tông đồ nghĩ Người là ai? Đối với Đức Giêsu, người ta bảo Người là ai không quan trọng cho bằng việc các tông đồ bảo Thầy của họ là ai. Phêrô đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29).
Mặc dù nhận ra Thầy mình là Đấng Kitô, thánh Phêrô vẫn chưa hiểu đủ về bản tính của Đấng Kitô cũng như vai trò và sứ mệnh của Người. Nói cách khác tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Đức Kitô lúc đó còn giới hạn và mơ hồ. Do đó các tông đồ không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình có thể chịu đau khổ. Đối với các tông đồ thì việc Thầy họ chịu đau khổ không thể nào chấp nhận được. Vì thế ông Phêrô lên tiếng can ngăn Thầy mình khỏi phải chịu đau khổ. Ông muốn Đấng Kitô đi theo đường lối của loài người, nghĩa là tránh cảnh khổ nạn. Sở dĩ có sự can ngăn như thế là vì các tông đồ chưa hiểu lời Thánh kinh. Các ông chưa biết rằng người đầy tớ của Giavê chịu đau khổ mà ngôn sứ Isaia nói đến hôm nay ám chỉ về Đấng Cứu thế, là Thầy của họ. Và trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng áp dụng lời tiên tri về người đầy tớ của Giavê về cho Người.
Để loại bỏ những quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế, Đức Giêsu lập tức tiên báo về cuộc khổ hình và tử nạn mà Người sẽ phải chịu. Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của Người. Và sau này Chúa còn tiên báo hai lần nừa về của khổ nạn của Người. Như vậy Đức Giêsu cho ta thấy điều nghịch lí của đạo Kitô giáo. Khi ta chịu đau khổ thiệt thòi vì yêu mến Chúa, ta sẽ tìm được sự sống mới trong Chúa. Do đó mà thánh Augustinô mới đặt bút viết: Đâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa Cứu thế đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Người tín hữu không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp những đau khổ về phần xác như bệnh tật hoặc phần tinh thần như những lo âu, sợ hãi, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi phải mang bệnh tật về phần xác hay tinh thần và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ý nghĩa và ơn ích thiêng liêng. Chịu đau khổ như vậy vì lòng mến Chúa, thì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa để cầu cho phần rỗi linh hồn. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28).
Lời cầu nguyện xin cho được chịu đau khổ vì yêu mến:
Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa!
Chúa đã chấp nhận đau khổ vì yêu mến loài người.
Con xin dâng lên Chúa những đau khổ của con
về phần xác, phần hồn và tinh thần:
những nỗi lo âu, sợ hãi, cơ đơn và buồn chán
những hiểu lầm và nghi kị,
những thiệt thòi và tủi hổ của đời con.
Xin Chúa đến ở bên con và đồng hành với con
để biến đổi đời sống con. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC GIÊSU LÀ AI?- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai? ” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 27-28).
Như thế, người Do-thái đương thời không biết đích xác Chúa Giê-su là ai. Họ tưởng Ngài chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Ngài là ngôn sứ Ê-li-a xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Ngài là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? ” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8, 29).
Thế là ngoài Phê-rô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giê-su. Phê-rô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta bày tỏ nhận định của ta về Ngài: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”
Thầy là Thẩm phán khắt khe
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng Chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một vị Thẩm phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giê-su, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ Chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”
Thầy là một vị Thần tài
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một ông Thần tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hoa trái hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”
Thầy là tấm phao cứu hộ
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giê-su là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Ngài… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ cần đến Ngài như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao!”
Thế là đối với một số người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm phán khắt khe, một Thần tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giê-su: “Dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Ngài nhận định về Ngài như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Ki-tô là ai, Chúa Giê-su liền bày tỏ cho họ biết Ngài chính là Đức Ki-tô, nhưng không phải là một “Đức Ki-tô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Ki-tô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Ngài tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31).
Ước gì, đừng có ai trong chúng ta xem Chúa là Thẩm phán khắt khe để rồi đến với Chúa vì sợ bị phạt chứ không vì lòng yêu mến; thờ Chúa như Thần tài để xin ân huệ và lợi lộc cho mình hoặc xem Chúa như tấm phao và chỉ tìm đến Chúa khi gặp gian nan nguy khốn.
Dostoyevsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giê-su làm thần tượng của mình và đã tuyên xưng:
“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Ki-tô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Ki-tô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Ki-tô hơn là chiều theo chân lý” ( Thư gửi bà Von Vizine ).
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: “Về phần con, con bảo Thầy là ai?”, Thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm thần tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.(Mc 8,34)
Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai.” hôm nay Ngài cũng muốn đặt cho mỗi người chúng ta.
Có thể trả lời hai cách.
Hoặc trả như Phêrô: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”(Mc 28,27)
Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng dó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là một xác tín của bản thân.
Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy.
Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người phải có câu trả lời riêng của mình.
Anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thể theo nổi nên dễ làm nản lòng. . . nhưng đồng thời Thầy cũng là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời con.
MỘT NGƯỜI GÂY PHIỀN TOÁI
Vâng! Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đi ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Tin mừng hôm nay kể lại: Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và Người nói với họ rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.(Mc 8,34-35)
Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm ngặt và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai…. Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.
Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được!
Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh.
Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.
Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối. . . làm nhiều người đau khổ.
Vâng! Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc có thể tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.
NHƯNG CHÚA LÀ NGƯỜI MÀ TA CẦN ĐẾN NHẤT
Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.
Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều mơ ước. Có những mơ ước dễ nhìn thấy như những mơ ước về một cuộc sống giầu sang, một cuộc sống có đầy đủ mọi phương tiện, mơ ước về một sự thành đạt để đuợc sống cao hơn, sung sướng hơn v.vv. Nếu chỉ dừng lại ở những mơ ước thường ngày, có liên quan đến cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt như thế thì có lẽ sự hiện diện của Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta.
Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn một chút nữa, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của con người còn có nhiều mơ ước khác, Chúng thầm kín, thâm sâu, luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu. . . nhiều khi chính mình cũng không thể ý thức được hết. Đó là những ước mơ có liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của đời người. Chúng ta vẫn nhận ra mình luôn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ về cái gì chân thật, hoàn hảo, vĩnh cửu. . . nghĩa là mơ ước người chân lý, về sự toàn thiện.
Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó của chúng ta?
Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống : “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận…. trong khi sự sống thân xác chỉ là một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngấm trong đêm dài bất tận. Ngài còn là đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn vẹn.
Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thể thiếu.. . mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng.
Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay :”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai Ai”.
CÔNG VIỆC PHẢI LÀM:TIN TƯỞNG VÀO CHÚA.
Có người kể lại giấc mơ của mình như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:
– Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm rồi quăng chúng vào không trung. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên
– Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao?
Chúa Giêsu mỉn cười nắm lấy tay tôi và nói :
– Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng”.
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì qủa thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, và tôi giật mình thức giấc.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhận biết Đức Kitô
Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: “Chúa Giêsu là ai?” Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi : “Các con bảo Thầy là ai? ” Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.
Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.
- Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;
- Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc sống;
- Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;
- Người làm cho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;
- Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;
- Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện, Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loại cả xác lẫn hồn.
Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa “làm”, chúng ta đi đến kết luận : “Người là Đấng Mêssia” (tiếng Hy lạp là : Đức Kitô)”. Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, “Người ta bảo Thầy là ai?” Phần lớn trả lời “người làm việc ” không hơn không kém các tiên tri trước Người. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai? ” Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời : “Thầy là Đức Kitô! ” Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một “sinh vật phải chết”, cái chết của Chúa “gắn” liền với Thập giá; Người “giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc” của sự chết.
Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa : “Thầy là Đức Kitô”. Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời : “Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại” mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết : “Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ”, Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.
Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.
Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như “chìa khóa” Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác “chìa khóa” nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô “chìa khóa” Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để “cởi trói” những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ “ràng buộc” họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.
Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh
Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.
Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn : Cả cuộc đời Người là một lời “xin vâng” không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời “từ chối” luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu : để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngai vàng của Người là cây Thập giá.
Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một : “Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo”, vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.
Quả thật, Thánh giá là “hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.
Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu “hy sinh”. Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
THẦY LÀ ĐỨC KITÔ- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Trong những tháng ngày cuối cùng sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn làm một cuộc trắc nghiệm hỏi xem các môn đệ dân chúng hiểu gì về Ngài. Người ta nói Thầy là ai?. Và các ông đã trả lời: “Người thì bảo là Gioan tẩy giả; kẻ khác lại bảo là Êlia hay một ngôn sứ nào đó…” (Mc 8,28). Qua những câu trả lời trên cho chúng ta thấy rằng, dân chúng không nhận ra khuôn mặt của Đấng cứu thế.
Lý do dân chúng không hiểu là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng của các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.
Đến lượt Chúa hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện cho nhóm 12 trả lời: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29). Câu trả lời của Phêrô thật chính xác, làm cho Chúa rất hài lòng. Tuy nhiên, không phải tự nhiên Phêrô nói được như thế, nhưng là nhờ ơn trên mặc khải cho ông biết.
Phần thứ hai của bài Tin mừng, Đức Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo. Vì chưng, “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống ” (Mc 8, 34-35).
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất, nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải là dễ. Vì không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó là qui luật tất yếu trong hành trình đi theo Chúa. Nên Chúa mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Mc 8, 34). Thế nhưng, trước khi Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ đi theo Chúa thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi.
Ngài từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp để theo chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi để theo chúng ta. Từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi rao giảng Tin Mừng để theo chúng ta. Từ bỏ ý riêng, để xin vâng theo thánh ý Chúa Cha để theo chúng ta. Từ bỏ mạng sống để làm giá cứu chuộc cho muôn người để theo chúng ta. Và đỉnh cao của sự từ bỏ đến tận cùng ấy là khi Ngài chết trần trụi trên thập giá. Đến nỗi không còn chút hơi thở. Không còn một giọt máu, mất hết danh dự. Nói tóm lại để theo chúng ta, Chúa đã từ bỏ không còn gì cả.
Và trước khi Chúa mời gọi chúng ta vác thập giá đi theo Chúa thì Ngài đã vác trước rồi. Ngài không chỉ vác thập giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, mà còn là thập giá trải dài suốt cuộc đời Ngài. Thập giá bởi kiếp sống nghèo. Thập giá bị người đời ngược đãi. Thập giá do môn đệ phản bội. Thập giá bị dân chúng loại trừ. Thập giá bởi tội lỗi nhân loại đè nặng trên vai, nên nhiều lần Chúa ngã quỵ xuống đất, nhưng rồi Ngài lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng lên Núi Sọ, lúc đó lại mở ra con đường phục sinh vinh hiển.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đi con đường từ bỏ, con đường thập giá để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta ai muốn làm môn đệ của Ngài, thì cũng phải đi theo con đường từ bỏ như Ngài.
Từ bỏ những của cải chóng qua để được của cải hạnh phúc vĩnh cửu đời sau; từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa, đời sau Chúa sẽ làm theo ý ta.
Chúa không đòi chúng ta từ bỏ những điều vĩ đại lớn lao, nhưng là những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thường ngày.
Chẳng hạn như: mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ thì cố gắng ngồi ở trong nhà thờ tham dự, đó là một chút từ bỏ mình. Tắt tivi để đọc kinh chung gia đình là một chút từ bỏ. Không chiều theo những thói hư tật xấu như là rượu chè, bài bạc, cá độ…. Kìm hãm miệng lưỡi không nói hành nói xấu hay phê bình người khác cũng là một hi sinh từ bỏ.
Rồi Chúa không bảo chúng ta đi tìm thánh giá, nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thánh giá mình. Mỗi người một thánh giá, mỗi ngày một thánh giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt trên vai chúng ta một thánh giá nặng quá sức đâu.
Những thánh giá trong đời sống hằng ngày. Ví dụ như: thánh giá trong đời sống gia đình; thánh giá do Chúa an bài gửi đến như: bị bệnh tật, bị hiểu lầm, bỏ vạ cáo gian.
Ước gì là những người đi theo Chúa, niềm tin của chúng ta được thể hiện bằng thái độ sống từ bỏ những đam mê bất chính. Đồng thời, vui lòng vác Thánh giá mình theo Chúa mỗi ngày. Với ý thức sống như thế, là chẳng những chúng ta sống làm chứng cho Chúa, nhưng còn là lời tuyên xưng sống động “Thầy là Đức Kitô”. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ- Trích Logos B
Dưới triều đại của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên đã ra đời vào năm 1984 tại Rôma. Vào ngày 15/8/2000, tức 16 năm sau, Đại Hội Giới Trẻ lần thứ 15 lại được tổ chức tại Rôma. Nhưng Đại Hội Giới Trẻ lần này để lại nhiều ấn tượng trong lòng các bạn trẻ vì đó cũng là Năm Thánh 2000. Có 2 triệu bạn trẻ từ 159 quốc gia đã đến Rôma để tham dự Đại Hội.
Một trong những điều gây ấn tượng là các bạn trẻ đã cử hành nghi thức bước qua cửa Đền Thánh Phêrô để nhận lãnh ơn toàn xá. Lễ nghi diễn ra thật cảm động biết bao !
Điều gây ấn tượng khác là trong đêm canh thức với 2 triệu bạn trẻ tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II đã hỏi các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu : “Các con nói Đức Giêsu là ai ?”.
Đức Cố Giáo Hoàng muốn các bạn trẻ : trước hết hãy nhận biết Chúa Giêsu là ai, rồi sau đó can đảm đi theo Ngài. Đức Cố Giáo Hoàng đã nhấn mạnh : đi theo Chúa “đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường. Sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến nỗi giống như một cuộc tử đạo mới, cuộc tử đạo của những người được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh…” (ĐGH Gioan Phaolô II, 19/8/2000).
Tâm tình của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dành cho các bạn trẻ đã dẫn đưa chúng ta trở về với câu hỏi của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ ngày xưa mà Tin Mừng theo thánh Marcô đã thuật lại : “Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Quả thật, Chúa Giêsu đã mong muốn các môn đệ : trước hết, hãy khám phá xem Ngài là ai ? Sau khi đã xác tín vào Ngài, các ông can đảm và trung thành đi theo Chúa với thập giá vác trên vai.
Theo Chúa, một cuộc kiếm tìm và khám phá không ngừng
Muốn đi theo ai, muốn gắn bó đời mình với ai, người ta phải tìm hiểu và khám phá xem người đó là ai, xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ của Ngài tìm hiểu và nhận biết Ngài là ai trước đã, rồi mới đi theo Ngài. Trong lần tuyển chọn các môn đệ đầu tiên, Anrê cùng một môn đệ khác đã đi theo Chúa và hỏi Ngài : “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?”. Chúa Giêsu quay lại và nói : “Hãy đến mà xem !”. Họ đã đến ở với Ngài ngày hôm ấy, rồi sau đó đã đi theo Ngài (Ga 1, 35-39). Chúa muốn tự các môn đệ tìm hiểu Chúa rồi mới đi theo Ngài.
Khi đặt ra câu hỏi : “Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?”, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ hiểu rõ dung mạo của Ngài và con đường Ngài đang đi.
Dung mạo thật của Ngài chính là dung mạo của Đức Kitô, Đấng được xức dầu. Ngài là người thật và là Chúa thật. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ đó là dung mạo về người Tôi Tớ Đau Khổ đã được tiên tri Isaia phác họa trong bài đọc I, trích dẫn bài ca về Người Tôi Tớ Giavê. Bản thân Người Tôi Tớ Giavê này là vô tội nhưng phải gánh chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người. Hình ảnh về người Tôi Tớ Đau Khổ này được áp dụng cho Chúa Giêsu, Đấng Messia, Đấng đã chịu nạn chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc loài người.
Còn con đường Ngài đang đi đó chính là con đường đau khổ : “Ngài sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau 3 ngày sẽ sống lại”. Chúa Giêsu không muốn che giấu con đường đau khổ đó trước mắt các môn đệ. Ngài muốn các ông nhận thức rõ ràng đi theo Chúa là chấp nhận đau khổ để đi vào con đường thập giá dẫn đến đỉnh Núi Sọ.
Thánh Phêrô đã nhận ra dung mạo “Đấng Kitô” nơi Chúa Giêsu nên đã thay mặt anh em tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô”. Quả thật, đó là lời tuyên tín vừa xác thực lại vừa mạnh mẽ. Nhưng tiếc thay, thánh Phêrô nhận thức được dung mạo đích thực của Chúa Giêsu, trả lời được Chúa Giêsu là ai, nhưng ngài lại không nhận ra được con đường Chúa Giêsu phải đi. Đúng hơn, thánh Phêrô đã không chấp nhận con đường thập giá, con đường đau khổ mà Chúa Giêsu đang đi tới. Vì thế, thánh Phêrô đã ngăn cản Chúa, khiến Ngài đã trách mắng thánh Phêrô nặng lời.
Theo Chúa phải từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày
Chúa Giêsu đã đưa ra điều kiện cho những ai muốn theo Chúa : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. Phải chăng từ bỏ mình và vác Thập giá là hai hành vi dẫn con người ta đến chỗ hủy diệt chính mình ? Quả đúng như vậy, theo Chúa là đi vào con đường tự hủy của Chúa.
Từ bỏ mình đó là hành vi tự hủy mình về phương diện tinh thần, một hành vi đi nghịch lại quan niệm thông thường của người đời : người ta luôn được khích lệ để giữ lại và bảo vệ tất cả những gì thuộc về mình, thuộc về “bản ngã” của mình. Nếu không giữ được bản sắc và những gì của mình, con người sẽ bị “vong thân”, nghĩa là tự đánh mất mình, tự hủy diệt mình. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường “tự hạ” đến tận diệt chính bản thân bằng cái chết khổ nhục trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Từ đó, Ngài mời gọi những ai theo Ngài cũng phải đi con đường từ bỏ như thế.
Vác thập giá đó là hành vi tự hủy diệt mình về phương diện thể lý. Theo luật của người Rôma, người tử tội sẽ vác cây thập giá của mình ra pháp trường để rồi sẽ bị đóng đinh vào chính cây thập giá đó. Như thế, người tử tội đã cộng tác vào chính việc xử tử mình. Đó chính là sự đau khổ và bất công đến tột cùng cho những ai bị tử hình trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã vác cây thập giá của chính mình, đã đi trên con đường khổ giá dẫn tới đỉnh đồi Canvê để chịu đóng đinh một cách nhục nhã. Chúa mời gọi những ai theo Ngài cũng phải đi qua con đường thập giá đó để đi vào vinh quang phục sinh.
Hôm nay, con đường theo Chúa của mỗi người kitô hữu còn là con đường đức tin. Trên con đường đó, chúng ta được mời gọi để tìm kiếm và khám phá ra dung mạo đích thực của Đức Kitô. Đức tin luôn đòi hỏi phải có việc làm, như lời thánh Giacôbê trong bài đọc II: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Việc làm của đức tin là gì nếu không phải là từ bỏ mình và vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa ?
Theo truyền thuyết kể lại : vào thế kỷ thứ IV, hoàng hậu Helen đã tìm được cây Thánh Giá mà trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Nhưng sau đó cây Thánh Giá đã lọt vào tay quân Persian. Vài năm sau, hoàng đế Heraclius đã lấy lại được cây Thánh Giá quý báu đó.
Sau khi cây Thánh Giá được phục hồi, đích thân hoàng đế Heraclius trong xiêm y sang trọng lộng lẫy vác Thánh Giá cùng đoàn rước từ Giêrusalem đến đồi Canvê. Hoàng đế lấy hết sức mình nâng cây Thánh Giá lên nhưng không nổi.
Thấy vậy, đức giám mục thành Giêrusalem mới nói với hoàng đế hãy cởi bỏ xiêm y sang trọng và mặc quần áo đơn giản, đi chân không để vác Thánh Giá như xưa Chúa Giêsu đã làm. Quả nhiên, sau đó hoàng đế đã vác được thánh giá lên đồi Canvê.
Cũng giống như vị hoàng đế kia, chúng ta chỉ có thể vác được thánh giá đời mình, nếu chúng ta biết cởi bỏ con người cũ, cởi bỏ cái tôi, cởi bỏ mọi đam mê trần thế, cởi bỏ mọi của cải vật chất và lạc thú trần gian. Lúc ấy, chúng ta mới thực sự xứng đáng là người môn đệ chân chính của Chúa Giêsu : người môn đệ luôn trung thành theo Chúa với thập giá vác trên vai.