CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
BÁNH HẰNG SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 5
TỪ LỜI HẰNG SỐNG ĐẾN BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông 12
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales 22
BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải mục vụ của Alain Marchabour. 29
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 33
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 50
BANH BỞI TRỜI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 65
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 70
TÔI LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 77
BÁNH SỰ SỐNG ĐẾN TỪ TRỜI- Lm. Gioan Trần Khả. 81
TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 84
THẦN LƯƠNG ĐỘ ĐƯỜNG- Lm. GB. Văn Hào, SBD.. 88
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm Vũ Đình Tường. 94
BÁNH TỪ TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 98
CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU – Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 102
BÁNH BỞI TRỜI- Lm Inhaxiô Trần Ngà. 106
LỜI HỨA VỀ SỰ SỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP.. 110
TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 116
HÃY ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU, BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 122
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 126
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH BỞI TRỜI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 129
BÁNH HẰNG SỐNG- Trích Logos B.. 134
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nhờ sức của nuôi ấy, ông mới đi tới núi của Thiên Chúa”.
Bài trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia đi một ngày đàng vào trong hoang địa. Khi đến nơi kia, và ngồi dưới gốc cây tùng, ông xin được chết mà rằng: “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con”. Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng. Và đây Thiên Thần Chúa đánh thức ông và bảo rằng: “Hãy chỗi dậy mà ăn”. Ông nhìn thấy gần đầu ông có chiếc bánh lùi và một bình nước: ông ăn uống, rồi ngủ lại. Thiên Thần Chúa trở lại đánh thức ông lần thứ hai và bảo: “Hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông liền chỗi dậy ăn uống, và nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.
BÀI ĐỌC II: Ep 4, 30 – 5, 2
“Anh em hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã sống”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em chớ làm phiền hà Thánh Thần của Thiên Chúa, vì trong Người, anh em được ghi ấn tín để chờ đợi ngày cứu chuộc đến. Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
All. All. – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – All.
PHÚC ÂM: Ga 6, 41-51
“Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống'”. Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Họ nói: “ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những “thính giả đầu tiên” của Đức Giêsu đã “phản đối” khi họ nghe nói về “Thánh Lễ” chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ . Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời”?
Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”.
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “ân sủng” hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu ‘hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ “chẳng có gì hấp dẫn”, bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của “sự hiện diện”, tiếng Hêbrơ gọi là “Shekinnar” có nghĩa là “sự cư ngụ thực sự” của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc “bình ca” hay nhạc “tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một “hồng phúc của Thiên Chúa”. Một thứ ân sủng: “Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa”.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
– Vai trò ưu tiên của “ân sủng”, một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha “lôi kéo”, “dạy bảo” và “đề nghị”. Nhưng con người có thể “lắng nghe” và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận “lắng nghe lời dạy của Chúa Cha” mới có thể bước vào mầu nhiệm “Bánh hằng sống”. Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: “Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: “Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ”. Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp” (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng…
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. “Ngôi vị Thiên Chúa” đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là “Đấng duy nhất” biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một “lỗ hổng”… một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc “sáng tạo đầu tiên từ hư không”.
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: “Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: “Tôi sẽ cho người ấy sống lại”.
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là “Đấng hiện hữu YAHVEH”. Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: “Tôi hiện hữu”, “Tôi là Bánh hằng sống”.
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề “sự sống”. Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống” (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về “Bánh hằng sống” (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do “cây hằng sống” mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. “Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa”. Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử”, sự sống không chết “này nhờ đức tin” đã được ban cho những người, không còn phải ăn “cây hằng sống”, nữa mà là “bánh hằng sống”: Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình”: Không ai đã thấy cái “vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một “sự sống” vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực “lý trí”. Nhưng tại sao chúng ta không để cho “Chúa Cha dạy bảo”? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự “dâng hiến” siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt” (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để “ban cho” chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?
Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên “cảm thấy được”; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: “Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn .
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
TỪ LỜI HẰNG SỐNG ĐẾN BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.
1V 19: 4-8
Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.
Ep 4: 30-5: 2
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình.
Ga 6: 41-51
Tin Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)
Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).
Bối cảnh lịch sử:
Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.
Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.
Hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.
Cuộc hành trình đến núi thánh.
Ngôn sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.
Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.
Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.
Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).
Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.
Sống theo Thần Khí:
Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).
Bắt chước Thiên Chúa:
Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:
Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.
Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.
TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)
Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.
Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi danh xưng “người Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).
Vấn đề đức tin:
“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.
Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”. Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.
“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:
Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).
Đức Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.
Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:
Những người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà hiểu cho được.
Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN-Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Bỏ qua “những lời sầm xì phản đối”
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài ‘diễn từ về Bánh hằng sống” đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là “Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: “Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.
Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:
– Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ “đám đông” hoặc “dân chúng” để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ “xầm xì phăn đối” để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X. Léon-dufour giải thích: “Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: “họ xì xầm, phản đối”, những khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (…) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy”. Có thể là Gioan thích dùng động từ “xì xầm phản đối” hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người” (“Lecture de l’evangile selon Jean”; cuốn 11, trang 152).
Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ nghĩ bụng: “Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”
Tiếp đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.
Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.
Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.
Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc Đức Giêsu khẳng định – lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là “con ông Giuse” chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước.
Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của “Diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới.
A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: “Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
BÀI ĐỌC THÊM
“Sâu thẳm lòng tin” (Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).
Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng.
Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải “đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: “Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người
“Chúng ta có tránh khỏi sầm xì không”. (H.Vulliez, trong “Dieu si proche, Năm B”, Desclée de Brouwer, tr. 137).
Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc “những củ hành và miếng thịt” của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.
Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ “xầm xì phản đối” đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ “bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy.
Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng…
Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ân ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?
Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 47-52)
Mặc khải: (cc. 47-51)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (c,52)?
Sự mặc khải tiến dần theo cách thức Sêmit, theo hình xoắn ốc được lặp lại bằng cách đào sâu suy nghĩ. Các câu 33 và 51 song song nhau: vẫn là đức tin vào Chúa Giêsu trổi vượt hơn hết, Người là Đấng cho mình là Lời của Thiên Chúa từ trời xuống. Tuy nhiên trong 51, thình lình sự chết được nhắc đến, như nguồn mạch sự sống, được xác định: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” Từ “thịt” làm liên tưởng đến lời tựa 1,14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Chính là sự nhập thể, nhưng ở đây được diễn tả theo cách: sự chết của Chúa Giêsu như nguồn mạch sự sống cho mọi người.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm (1,14)
Thịt đã trở nên bánh (6,51)
Có sự liên tục giữa sự nhập thể, sự chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Chính trong câu này mà sự mặc khải tỏ hiện cho mọi người, cùng với nguy cơ bị từ khước: ở đây người Do Thái “tranh luận”, tím kiếm lý lẽ (“làm sao”) thay vì sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (1 V 19,4-8) : Thiên Chúa sai thiên thần mang cho ngôn sứ Êlia bánh và nước, nhờ đó Êlia đã có đủ sức để hoàn thành cuộc hành trình lên núi Horép gặp Chúa.
– Đáp ca (Tv 33) : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”.
– Tin Mừng (Ga 6,41-51) : Đức Giêsu tiếp tục bài giảng về bánh trường sinh, dẫn đến ý tưởng “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.
Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”.
Tin Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là “đến với” và “tin vào” Chúa :
Việc “tin vào” Đức Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía :
– Phía Thiên Chúa : Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài : “Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn “lôi kéo” con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người do thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
– Phía con người : phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa. : “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta” (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người : “Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày : họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyện con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, “nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại, việc “tin vào” Đức Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
Bài đọc II (Êp 4,30-32–5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới : tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bánh hằng sống
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia : Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ MTC thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của MTC. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế : chúng ta có thể rước MTC hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của MTC.
-MTC là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng : nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được MTC đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.
-MTC còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương : Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta : Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
-MTC còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông ? Thưa chính là Phép Thánh Thể MTC. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong MTC, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích MTC, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. MTC quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép TC và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn MTC sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay : Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
* 2. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện “Thoại Khanh Châu Tuấn”. Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ : Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta : “Ta là bánh hằng sống”.
Nhưng phải thú nhận ngay rằng : Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu “Ta là bánh hằng sống” chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật : Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu :
1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào !
2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu “Trời đánh tránh bữa ăn” : khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.
Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng MTC thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy : Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa : Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu : như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại MTC mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm :
1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh : Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành MTC. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh rượu. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi “Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào”.
2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá… và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau : “Bình an”, amor “tình yêu thương”, Christus vincit “Đức Kitô chiến thắng”…
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
* 3. Bí quyết trường sinh
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
*
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn : cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải : “Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người : “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích : “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể : “Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).
Như vậy, “Sự sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
*
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Mất tinh thần
Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi : “Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con”.
Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói : “Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt”.
Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ ?
Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần : Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, “lương thực đi đường”. (Viết theo Flor McCarthy).
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng : “Tôi là bánh từ trời xuống… không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người :
- Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
- Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
- Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
- Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”, chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
– Trước lúc rước lễ : Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.
GIẢI TÁN
Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì ? Lấy đâu ra thứ lương thực đó ? Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.
Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết : Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó :”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm:”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.
Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống va øBánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 1V 19,4-8.
Tiên tri Êlia đứng lên chống đối viêc thờ kính ngẫu thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2 : Ep 4,30-32 – 5,2.
Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau ? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.
Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).
+ Bài Tin mừng : Ga 6,41-51.
Đức Giêsu đã tuyên bố:”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm : ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.
Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng : làm sao ông này có thể là bánh hằng sống từ trời xuống được ? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế ?
Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn được trường sinh bất tử
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần :
-Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
– Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
-Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.
TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối:”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống” ? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố :”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
Truyện : Bé cái lầm
Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.
Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.
TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.
Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa :”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna. So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).
Đức Giêsu lại nói tiếp:”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.
Truyện : Phép lạ ở Lanciano.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).
BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.
Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả :
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây
Thoát chốc mà già đã tới ngay.
Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa :”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.
Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống… Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.
Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.
Truyện : Thuốc bất tử hay thuốc tử ?
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng :
– Vị thuốc này có ăn được không ?
Người ấy đáp :
– Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng :
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng :”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)
Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Ta là Bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.
THÁI ĐỘ CỦA TA.
Tin hay không tin.
Khi Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư ?
Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ : việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý ! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin : đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson) ?
Muốn được đến với Chúa.
Đức Giêsu phán tiếp:”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học : Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Truyện : Hồng y Newman.
Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau:”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng:”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.
Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.
Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói:”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào ? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).
Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).
Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao qúy ấy.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH BỞI TRỜI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.
Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.
Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc
Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.
Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).
Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.
Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).
Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep
Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17 ; 2V 13).
Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.
Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 – 40).
Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.
Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Ðó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.
Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.
Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.
Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.
Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.
Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ hơn nữa vào sự hiện diện thực sự của Chúa trong phép Thánh Thể. Nhờ niềm tin và niềm vui này, chúng con sẽ hăng hái, nhiệt thành hơn trong việc dấn thân loan báo niềm vui Tin Mừng cho anh chị em.Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nếm hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÔI LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.
Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.
Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.
Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH SỰ SỐNG ĐẾN TỪ TRỜI- Lm. Gioan Trần Khả
Khát Trường Sinh
Ai trong chúng ta cũng muốn mình sống lâu và trẻ hoài. Nếu có cách gì làm cho mình khoẻ, trẻ và sống lâu thì chúng ta không ngại thử ngay.
Vào thế kỷ thứ 16 khi Kha Luân Bố tìm ra miền đất mới thì có tin đồn rằng miền đất mới có suối nước thần nếu ai tắm và uống nước đó sẽ trẻ trung hoài. Ponce de Leon đã quyết định đóng tầu đi thám hiểm đến miền đất mới để tìm giòng suối trẻ trung đó.
Hoàng Đế Chin của Trung Hoa, người xây Vạn Lý Trường Thành cũng rất sợ già và sợ chết. Một hôm người cận thần tâu trình rằng ở bên Biển Đông có hòn đảo địa đàng. Người dân trên đảo đã khám phá ra bí mật của sự sống trường sinh. Hoàng Đế liền cho lệnh chất vàng bạc châu báu lên tầu và khởi hành đi về Biển Đông để trao đổi lấy thuốc thần trường sinh.
Những ai coi phim tầu cũng rất quen thuộc với giấc mơ đi về miền núi xa xôi hoang vắng nào đó để tìm cho đuợc củ sâm ngàn năm. Củ sâm đó có sức làm cho người ta phục hồi sức sống, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu không chết.
Trẻ trung và sống lâu hạnh phúc là giấc mơ của con người ở mọi thời đại. Con nguời luôn luôn mong muốn sống mãi sống hoài. Nếu bị bệnh là lo tìm thày chạy thuốc. Nếu có khiếm khuyết về dung mạo hay hình dáng thì lo tìm cách sửa trị hoặc che đậy đi. Nhưng xưa nay chưa có ai thực hiện được hoài bão sống trường sinh như thế. Chỉ có một người hứa với chúng ta bí mật sống trường sinh và người đó đã thực hiện được. Vị đó là chính Đức Giêsu Kitô.
Bánh Sự Sống Từ Trời
Đức Giêsu đã qủa quyết với những người theo Ngài: “Ta là Bánh Hằng Sống bởi trời xuống… Ai tin vào ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống… Ai ăn bánh này thì khỏi chết, nhưng sẽ sống đời đời. Bánh ta ban là chính thịt ta để cho thế gian được sống” (Gio. 6:41-52).
Ponce de Leon đã vất vả thám hiểm tới miền đất mới để tìm giòng suối nước có sức làm trẻ trung, nhưng chẳng thấy. Hoàng đế Chin đến hòn đảo ở biển đông với vàng bạc châu báu để tìm đổi lấy bí mật trường sinh, nhưng chẳng có. Nhiều người tìm uống các dược chất để hy vọng có sức khỏe lâu bền, nhưng rồi cũng chết. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đến thánh đường này để nghe lời Chúa về sự sống đời đời, và để được ăn bánh trường sinh Đức Giêsu hứa ban. Chúng ta không phải vất vả trèo non lội suối hay đi đâu xa để tìm kiếm thuốc trường sinh. Chúng ta không phải bỏ tiền mua dược phẩm để được sống trường sinh. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là suối nước trường sinh đang hiện diện với chúng ta nơi đây, và chúng ta có thể tiếp nhận Ngài miễn phí. Tiếp nhận Ngài là chúng ta tiếp nhận sự sống đời đời. Tiếp nhận Ngài là chúng ta được bổ sức cho tinh thần sống.
Elia Được Dưỡng Sức
Elia trong bài đọc thứ nhất, đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng trong lúc buồn chán đó Thiên Thần của Chúa đã đến đánh thức ông dạy để được nuôi dưõng bằng bánh bởi trời. Ông đã nghe lời của Thiên Thần Chúa, chỗi dạy ăn bánh, và ông đã được bồi dưỡng có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình đi về núi thánh của Thiên Chúa. Giống như Elia, nhiều lần trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối vì những cám dỗ và tội lỗi, vì những nặng nợ vất vả trần thế. Chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần của Thiên Chúa qua Giáo Hội thức tỉnh chúng ta. Chúng ta cần chỗi dạy để nghe lời Chúa, và được bổ dưỡng bằng của ăn hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta có đủ sức cho cuộc hành trình đức tin. Chính lúc chúng ta thấy mệt mỏi vì phải thức khuya dạy sớm, làm việc nhiều giờ, vì vất vả lo lắng trong cuộc sống, là lúc chúng ta cần thức tỉnh, và chỗi dậy, để tiếp nhận của ăn hằng sống. Của ăn có khả năng nuôi dưỡng sức mạnh và bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta trên con đường đi về núi Thánh.
Dấu Có Sự Sống
Thêm vào đó, nguyên việc tin tưởng và tiếp nhận Đức Kitô là Bánh Sự Sống từ trời chưa đủ bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời trong mình. Tiếp rước Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta cần phải trở nên giống như Ngài. Chúng ta cần phải cố gắng sống như lời khuyên dạy của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác… Anh em hảy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau.” Thanh trang tâm hồn chúng ta bằng những nhân đức ấy; rồi biết lắng nghe lời của Thiên Chúa và thường xuyên đến thánh đường tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách sốt sắng là chúng ta có sự sống trường sinh trong mình ngay từ bây giờ. Sự sống đó chúng ta có thể cảm nghiệm được và những người chung quanh chúng ta cũng có thể nhận thấy nơi chúng ta.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:
Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại.
Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông.
Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 – 100 người nhiễm AIDS.
Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.
Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.
Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?
Là người ky-tô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, …tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?
Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.
Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
THẦN LƯƠNG ĐỘ ĐƯỜNG- Lm. GB. Văn Hào, SBD
Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành trình tới núi Khô-rep.
Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.
Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết…. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)
Bánh thần thiêng
Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá… được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.
Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu khải thị điều này trong câu chuyện nói với Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Hình tượng Thịt và Máu
Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.
Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”
Canh bạc điên rồ
Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ.
Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.
Kết luận
Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào?
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm Vũ Đình Tường
Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ’nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.
Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.
Từ chối nhận
Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,
‘Tôi là bánh từ trời xuống’
Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.
Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.
Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.
Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.
Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.
Căn bệnh tự mãn
Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.
Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.
Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.
Cửa tâm hồn
Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.
Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.
Cường điệu
Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.
Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.
Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi….. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh c.43
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TỪ TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.
Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần
Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.
Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.
Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.
Đức Giêsu là bánh từ trời
Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!
Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.
Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.
Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa
Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.
Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.
Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi?
Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU – Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
KHÔNG PHẢI LÀ ĐÃ CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU
Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giêsu đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.
Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ – những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giêsu lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”
Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ – là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giêsu đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giêsu quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!
Đối với Kitô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!
Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?
Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH BỞI TRỜI- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Thân xác con người cần được nuôi sống bằng những thực phẩm thông thường như bánh, cơm, thịt, cá…
Tuy nhiên, có những thứ khác tuy không là thực phẩm như cơm bánh nhưng cũng cần cho sự phát triển trí tuệ con người nên cũng được xem là lương thực – thường được gọi là lương thực tinh thần- như sách, báo và nhiều loại văn hoá phẩm khác.
Lại còn có những thứ “bánh” khác cao cấp hơn, tuy không phải là thực phẩm thông thường như cơm cháo, không phải là lương thực tinh thần như sách báo, nhưng rất cần cho con người được sống và tăng trưởng. Điển hình cho thứ “bánh” nầy là… người mẹ!
Nhà thơ Kiên Giang viết về người mẹ như một thứ ‘cơm bánh’ tối cần giúp ông lớn lên thành người:
“Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo.
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mõi mòn nhịp võng đưa,
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru…” (Trích: Khói trắng của Kiên Giang)
Mẹ là “bánh” cho con, một thứ bánh rất cần thiết cho con được sống còn; vì nhờ dạ mẹ mà con được tượng hình và được sinh ra; nhờ dòng sữa mẹ mà con tăng trưởng từng ngày; nhờ lời mẹ ru mà con được yên giấc; nhờ sự ấp yêu vỗ về của mẹ mà con được hạnh phúc; nhờ mẹ lo liệu thuốc men mà con thoát khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo; nhờ mẹ kiên trì dạy dỗ mà con được khôn ngoan; nhờ mẹ thương yêu mà con được trở thành người nhân ái…
Mẹ là thứ “bánh” tuyệt vời mà đời con không thể thiếu. Mẹ là lương thực quý báu giúp con lớn thành người.
Tuy nhiên, dù được xem là tấm “bánh” rất cần thiết nuôi con lớn thành người, nhưng người mẹ cũng chỉ là “bánh” thuộc trần gian nên không thể đem lại sự sống lâu dài cho con cái. Vì thế, nhân loại cần có một thứ “bánh” cao cấp hơn có thể mang lại cho họ sự sống đời đời. Đó chính là Chúa Giêsu, Người là “Bánh trường sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống” như lời Người phán:
“Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 48-51).
Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” từ trời xuống mà một nhân loại mới được khai sinh, muôn người được cứu độ; con người được nhận ra nhau là anh em con cùng một Cha trên trời.
Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” và luật yêu thương của Người mà nhân loại dần dần xóa bỏ những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, biết quên mình phục vụ tha nhân và yêu thương người khác như chính bản thân.
Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” được bẻ ra và trao ban mà các tín hữu được nên đồng huyết nhục với Chúa và nhận được sự sống đời đời do Người ban tặng.
Chúa Giêsu chính là “Bánh” từ trời xuống đem đến cho nhân loại cuộc sống hạnh phúc trên dương thế và cuộc sống vĩnh hằng trên thiên quốc.
Khi tự giới thiệu mình là “Bánh” cho trần gian, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người là Đấng tuyệt đối cần thiết cho sự sống và hạnh phúc của loài người, không có Người, nhân loại không thể tồn tại và có được bộ mặt nhân ái như hôm nay.
Muốn hấp thụ cơm bánh hằng ngày, người ta cho nó vào miệng rồi nhai và nuốt; còn muốn hấp thụ “Bánh bởi trời”, người ta phải đón nhận và tin vào Chúa Giêsu.
“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ.” (Ga 6, 35)
“Tôi bảo các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh.” (Ga 6, 48)
Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là đón nhận giáo lý của Người, noi gương bắt chước Người và sống như Người đã sống.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con đã không tiếc thời gian và công sức để kiếm cơm bánh nuôi sống thân xác mau hư nát nầy thì xin cho chúng con cũng đừng tiếc đầu tư thời gian và năng lực để đến với Chúa là “lương thực” thường tồn mang lại sự sống đời đời cho linh hồn chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỜI HỨA VỀ SỰ SỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Có một thứ bánh khác
Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: “Tôi là Bánh ban sự sống, bánh tiêu diệt sự chết.”
Lời loan báo này dựa trên một biến cố huy hoàng: năm chiếc bánh được hoá nên nhiều, làm cho cả đám đông được ăn no. Các thính giả coi biến cố này là một cử chỉ của một vị ngôn sứ, của một ông vua. Họ nghĩ rằng, cuối cùng, Đức Giêsu là vị thủ lãnh, chỉ nhờ quyền năng của lời, đã có thể nuôi đám đông đang bị đói, đồng thời hiệp nhất cả đám đông. Phải tôn Người làm vua, không chờ đợi gì cả. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối, Người trốn đi một mình.
Sau đấy, Người đã tuyên bố chính Người là bánh trường sinh, và cố gắng giải thích điều lạ lùng này cho dân chúng.
Quả thật, Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, quy tụ những kẻ theo Người thành một dân. Bánh này không chỉ là man-na Đức Chúa ban cho dân đang ở trong hoang địa thuộc giao ước cũ. Bánh này chính là Thiên Chúa tự hiến thành của ăn, của ăn đàng, tức là lương thực cho người đang hành trình. Thiên Chúa trở thành bánh cho con người: một mặc khải tuyệt vời, hoàn toàn vượt quá óc tưởng tượng của các thính giả.
“Tôi là bánh trường sinh.”
Lời tuyên bố không thể chấp nhận nổi.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của mặc khải này, người ta không thể tách rời diễn từ về bánh trường sinh với những điều Đức Giêsu thực hiện trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trong cả hai trình thuật này, có ba thực tại luôn đan kết với nhau như là những yếu tố của một mầu nhiệm duy nhất: bánh, đức tin và sự sống – Ăn, tin và chiến thắng sự chết.
Với cuộc phục sinh, Đức Ki-tô sẽ thực hiện việc hoá bánh ra nhiều đích thực: không chỉ là bánh ăn thông thường, nhưng là bánh ban sự sống. Từ nay, qua các buổi cử hành lễ tạ ơn, dấu chỉ này về cuộc phục sinh – tức là bánh ban sự sống luôn có tính hữu hiệu và có chiều kích phỗ quát. Nó không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Hai mươi thế kỷ sau, một Charles de Foucauld trong sa mạc Tamanrasset, hay bất cứ một vị linh mục nào, cũng đều thực hiện cử chỉ kỳ diệu này, cử chỉ đem lại sự sống, bắt đầu từ lời và hành động Đức Giêsu đã thực hiện.
Quả thế, mổi thánh lễ vẫn là một lời khẳng định dứt khoát rằng quyền lực tử thần không thể là tiếng nói cuối cùng. Lời khẳng định này được nói lên khi các Ki-tô hữu đang cùng nhau chia sẻ tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Đức Ki-tô, mặc dù họ vẫn đang bị cầm giữ trong thân xác, vẫn đang bị cơn đói hành hạ và vẫn đang bị cái chết đe doạ. Từ giữa những bóng tối của cuộc đời, họ cử hành mầu nhiệm về bánh ban sự sống và nhờ đó họ có thể dần dần thoát ra khỏi quyền lực của sự chết.
Có lẽ các Ki-tô hữu cần suy gẫm câu nói của Bernanos: “Ki-tô giáo của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu… Chúng ta yêu quý sự sống, chúng ta tin vào sự sống. Chúng ta biết rằng sự sống ấy không lừa dối chúng ta, và các lời hứa về sự sống sẽ không phai tàn.”
Phải tin mới hiểu được
Đức Giêsu vừa tuyên bố Người là bánh ban sự sống và các địch thủ từ chối bước theo Người vào trong lãnh vực Người muốn đưa họ vào. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là một người khoa trương: “Chúng tôi biết rõ ông ấy.” Tóm lại, họ muốn lôi Người vào trong những sắp xếp của họ. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là con ông Giu-se. Thế thôi… chấm hết.
Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính cách nghịch thường của những khẳng định Người đã nêu ra, đồng thời tố cáo quan niệm của các đối thủ. Quan niệm này chỉ là những suy nghĩ bình thường của con người, chứ không phải là quan điểm của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đề nghị họ phải thay đổi nhãn quan, thay đổi cách nhìn – có thể nói như thế – và đó là đức tin.
Biết bao lần người ta giản lược đức tin thành một chuổi những khẳng định cần được lặp lại mà không cần hiểu. Người ta tưởng rằng như thế là đủ và tự nhận mình thuộc về một nhóm ưu tuyển và do đó có quyền được thưởng. Người ta đâu biết rằng khi quan niệm như thế, họ đã biến đức tin thành một hành động mà không có sự tham dự của lý trí.
Theo Đức Ki-tô, đức tin là sức mạnh đem lại sự sống và mở ra những nhãn quan diệu kỳ. Đức tin không đề ra những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề của con người, nhưng làm thay đổi quan niệm, cách nhìn vấn đề của họ. Đức tin cho họ thoáng thấy một thứ ánh sáng mà họ sẽ không ngừng tiếp cận. Nhờ ánh sáng này, người tín hữu bước đi, khám phá và sống.
Như vậy, đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban. Nó không đến do lý luận hay do nôỵ lực của ý muốn con người. Chỉ có thể hiểu được đức tin khi chấp nhận đó là kết quả của ân ban. Dĩ nhiên, nỗ lực và thiện chí của con người sẽ giúp phần nào tiến trình này, nhưng cuối cùng, đó là chấp nhận mở ra trước ánh sáng được bày tỏ cho mình.
Chỉ có đức tin như thế mới giúp hiểu Đức Giêsu là bánh ban sự sống đích thực. Đức tin ấy đưa con người tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm hiệp thông, vào cuộc trao đổi. Ai hiểu được điều này, người ấy đạt được sự sống vĩnh cửu, bởi vì họ hiểu được thực tại sâu xa của tình yêu, một tình yêu mà ngay cả đến sự chết cũng không tiêu diệt được. Nói thế, vì tình yêu chính là nền tảng của thực tại.
Để cho Thiên Chúa lôi kéo
Giữa Đức Giêsu và các thính giả, có một khoảng cách khá xa, hay nói đúng hơn, một sự hiểu lầm.
Trước khi tự nhận là bánh trường sinh, Đức Giêsu đã muốn chia sẻ hương vị bánh của con người: ba mươi năm chuẩn bị với những bữa ăn hằng ngày, những bữa ăn trong ngày tang chế cũng như trong những ngày vui; ba mươi năm để cố gắng giúp con người hiểu được đâu là cơn đói thực sự, đổng thời làm cho họ nhận ra của ăn chính yếu Người trao tặng cho họ. Ba mươi năm để rổi nghe được một nhận xét đầy mỉa mai: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống.””
Tâm hồn của người không tin, có lẽ cũng là của chúng ta, đó là chỉ nhận ra Đức Giêsu là người chia sẻ bánh của con người chứ không muốn đón nhận Người là Đấng qua tấm bánh, muốn chia sẻ cuộc sống của chính họ. Dường như chúng ta chỉ muốn lãnh nhận bánh từ tay Đức Giêsu, chứ không muốn đón nhận chính Người.
Đàng khác, chúng ta thường có thói quen giản lược hành trình tôn giáo vào những cố gắng của riêng mình. Chúng ta nghĩ rằng mình là người đưa ra sáng kiến, và chúng ta chỉ quan tâm đến việc chiếm lấy Thiên Chúa. Thực ra, chính Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đến với chúng ta qua Con của Người. Đức Giêsu là Lời và là bánh từ trời xuống để chia sẻ cuộc sống với chúng ta trước khi chúng ta có sáng kiến về chuyện này. Qua Đức Giêsu, Đấng đã ăn bánh của con người trong ba mươi năm, Thiên Chúa dạy chúng ta biết rằng: có một thứ bánh để nuôi sống trong cuộc đời này, và có một thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu. Một bên là bánh của người phàm, một bên là bánh của Thiên Chúa. Hai thứ bánh này khác nhau.
Qua sự nhập thể của Đức Giêsu và qua bí tích Thánh Thể, chúng ta có biết để Thiên Chúa lôi kéo và hướng dẫn? Chúng ta có tin Đức Giêsu là bánh từ trời xuống? Chúng ta có dám tin vào lời hứa ban sự sống của Đức Giêsu?
Lạy Chúa,
mặc dù Chúa rất xa chúng con,
nhưng nhờ tình yêu, chúng con vẫn gần với Chúa.
Không hề có phân ly
giữa chi thể với vị thủ lãnh nhiệm mầu!
Chúa cho mọi người được dự tiệc
khi cử hành lễ tạ ơn.
Chính Chúa đã nói rằng
con có thể ăn thịt là Mình Chúa.
Điều ấy đã được viết lại,
không phải tự ý con nghĩ ra.
Thế mà có lúc tại sao con nghi ngờ
trong khi Lời Chúa quá rõ ràng như thế?
Paul Claudel.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6,51).
Kính thưa anh chị em.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe được trích từ bài giảng Bánh hằng sống. Đây là một trong những bài giang khó cắt nghĩa nhất của Chúa Giêsu. Xin Chúa mở lòng mở trí cho chúng ta để chúng ta hiểu được một phần nào Lời của Người.
Bây giờ chúng ta đi thẳng vào chủ đề.
Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Ngày xưa Thiên Chúa đã ban cho Dân Do thái “bánh bởi trời”. Bánh ấy có tên là Manna. Theo Chúa Giêsu thì Manna chỉ là của ăn tạm bợ, mau hư nát. “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết”. Manna chỉ là hình bóng cho một thứ lương thực khác mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Chúa Giêsu gọi lương thực đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Bánh đó trổi vượt và kỳ diệu hơn Manna xưa rất nhiều. “Tôi là bánh trường sinh… là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Tất cả những lời đó được nói ra với một sự quả quyết sắt đá xem chừng như không có gì làm thay đổi được. Nó đòi hỏi người nghe phải xác định một thái độ. Xem chừng như Chúa Giêsu không còn chờ đợi thêm nữa. Đã đến lúc trắng phải ra trắng đen phải ra đen.
Và quả đúng như thế. Người Do thái đã bắt đầu không còn cảm tình với Chúa nữa. Họ xầm xì về những gì Chúa nói. Mối quan hệ tốt đẹp giữa Chúa với họ trước đây bây giờ không còn. Nó đã bắt đầu trở nên mỗi ngày một xấu đi để rồi từ sự ngộ nhận này đến sự ngộ nhận khác người ta đã bắt đầu đi tới thái độ không chịu hiểu và sau đó là chống đối. Sự thay đổi và chống đối càng ngày càng trở nên quyết liệt.
Mặc kệ cho những lời xầm xí phản đối, Chúa Giêsu đã không nhường bước. Không những không nhẹ giọng, Ngài còn lên tiếng mạnh mẽ và quả quyết rằng Ngài từ Thiên Chúa mà đến, – rằng chỉ mình Ngài là người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Ngài có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ thuộc vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Ngài. Tin chính là khởi đầu đi từ dấu chỉ để học cho biết cách nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến… Và đó hẳn không phải là chuyện con người có thể một mình mà làm được. Nhưng chỉ có những ai được Chúa Cha lôi kéo mời đến được với Đức Kitô mà thôi: “Chẳng ai đến được với Tôi, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, lôi kéo người ấy…”.
Sau đó dựa vào những lời hứa và hình ảnh đã được tiên báo trong Cựu ước, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi chính bản thân Ngài.
Isaia xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Đức Giêsu khẳng định chính bây giờ là lúc lời hứa ấy được ứng nghiệm. Ngài còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy của tôi là lời dạy của Chúa Cha; Người mà các ông chỉ muốn coi là “Con ông Giuse” lại chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo từ trước.
Manna, lương thực lạ lùng thật, nhưng chỉ là tạm bợ, không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “Bánh hằng sống”, Bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ tặng ban, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, với những lời này Đức Giêsu đã muốn loan báo trước về cái chết của Ngài như một ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyện chuyển tiếp qua phần hai của “diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
Kính thưa anh chị em. Đó là nội dung những gì tôi muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay. Rất căng nhưng cũng rất sòng phẳng để từ đó chúng ta phải có một thái độ rõ ràng đối với Chúa. Chúa không thích thái độ nửa chừng mà “Nóng thì ra nóng, lạnh thì ra lạnh, hâm hâm nguội nguội ta sẽ mửa ngươi ra”
Ferdowsi (925–1020), thi sĩ người Ba tư sống vào thế kỷ 11 có kể một câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là một đoàn tùy tùng rất đông. Họ mang theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Và từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Tức khắc người ta thấy ngay được sự tham muốn đến tột độ bừng lên trong những con mắt của những người đi theo hộ giá nhà vua.
Bằng một cử chỉ rất vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:
– Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác mà quay về.
Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.
Đang đi bỗng ông nghe thấy có tiếng chân theo sau mình. Quay lại, và ông nhận ra đó người hầu cận được tiếng là trung thành nhất. Ông hỏi:
– Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng với số vốn ấy ngươi sẽ trở nên giàu sang ư?
Người hầu cận trung thành trả lời:
– Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.
Chúng ta hãy lặp lại một lời tương tự như thế đối với Chúa đi các bạn. “Lạy Chúa, đối với con, Chúa là kho tàng quí giá nhất vì Chúa là Thiên Chúa. Vâng Chúa là tất cả của con”
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy ;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU, BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá con người Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, sức mạnh của Lời Chúa, ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa nhật một khía cạnh khác nhau. Từ Bánh Bởi Trời là Chúa Giêsu đến Bánh Ban Sự Sống, Tấm Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa.
Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn cho chúng ta bầu không khí tại quê nhà của Chúa Giêsu và thái độ của những người đồng hương đến nghe Chúa giảng. Sau khi đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, kèm theo lời giải thích cho dân chúng về ý nghĩa của “dấu chỉ” ấy xong, Chúa Giêsu tuyên bố : « Ta là hằng sống bởi trời mà xuống » (Ga 6,51). Câu này khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Họ đâu có đón nhận Lời này. Họ coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết : ” Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống” (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói : “Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”, và Người thêm: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 44.47).
Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào ? Bánh từ trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời ? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không? Sự chống đối mà Chúa Giêsu đã gieo vào giữa những người Do Thái cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày hôm nay nếu chúng ta không trả lời được câu hỏi căn bản “Chúa Giêsu là ai?” trong đời sống kitô giáo của mình.
Trước chúng ta, nhiều người nam cũng như nữ đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này, và cá nhân họ đã có câu trả lời, họ đã đến với Chúa, đi theo Chúa và tận hưởng một cuộc sống vô tận tràn đầy tình yêu như Chúa hứa : “Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 44). Juan Casiano đã nói với các môn đệ mình rằng, “Hãy đến gần Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ đến gần anh em vì ‘không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta không lôi kéo kẻ ấy’ “. Lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng vẫn thúc bách chúng ta hôm nay, “Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).
Những lời này không chỉ dành cho một số người, không, Chúa nói những lời ấy là dành cho tất cả mọi người, những ai đang mệt mỏi với gánh nặng, những ai cảm thấy mình bị loại ra khỏi lời mời gọi của Chúa. Chúa thấu hiểu cuộc sống này nặng tới mức độ nào và Chúa còn thấy bao điều mệt mỏi trong tâm hồn chúng ta như : thất vọng, vết thương trong quá khứ, lầm lỗi trong hiện tại, những bất định và lo âu về tương lai. Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy đến! “.
Đón nhận Lời Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu mỗi ngày và đi vào trong sự hiệp thông thân tình với Chúa, ăn thịt Chúa, vì như Orgene nói : “Của ăn đích thực là mình Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời, nhập thể làm người giữa chúng ta”. Hãy đến với Chúa Giêsu, vì chính Người là Đấng được Chúa Cha đã sai vào thế gian làm Lương thực trường tồn, và vì điều này mà Chúa Giêsu đã hiến tế mạng sống mình, hiến trao thịt và máu Người làm của ăn cho chúng ta.
Vì thế, trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, những người đang lữ hành trên bước đường dương thế để nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái nơi mình, như xưa Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus. Hơn nữa, Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đạt tới chân lý và bình an. Mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng trong đức tin, đức cậy và đức mến; an ủi chúng ta giữa những thử thách của cuộc đời.
Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh.
Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống mật thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Con người có 2 phần: phần xác và phần hồn”. Hằng ngày, chúng ta cộng tác với ơn Chúa lao động để kiếm của ăn nuôi dưỡng thân xác, thì phần hồn cũng cần có lương thực dưỡng nuôi như vậy. Nhưng có một điều đáng lưu tâm là, của ăn dành cho thân xác thì chóng qua tạm bợ, còn của ăn linh hồn thì trường tồn vĩnh cửu, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, bánh Ta sẽ ban chính là cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Dân Do thái thời Chúa Giêsu, họ mơ ước được trường sinh bất tử, không bao giờ chết. Cho nên, khi thấy một người thân ra đi, thì niềm mơ ước ấy này càng tác động mãnh liệt hơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng và nói về bánh hằng sống, thì dân chúng kéo nhau tìm đến học hỏi.
Bài đọc I kể lại, sau những tháng ngày kiên trì đi theo Chúa, chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ Chúa trao. Cuối cùng, Êlia đã bị kẻ thù tìm cách thủ tiêu. Quá chán nản, ông xin cho mình chết trong hoang địa, khỏi rơi vào tay kẻ thù. Ông cầu xin rằng: Lạy Chúa đã đủ rồi, xin cất mạng tôi đi, vì tôi chẳng hơn gì các tổ phụ. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi người tôi tớ trung thành, Ngài sai thiên thần mang bánh và nước cho ông ăn, để lấy sức đi tiếp tục đi hết chặng đường về núi Horep, núi Thánh của Thiên Chúa, nơi dành cho những người Chúa chọn.
Nếu như ngày xưa Chúa sai thiên thần đem lương thực cho Êlia ăn để ông đủ sức đi về Núi Thánh của Chúa thế nào, thì ngày nay Thiên Chúa cũng ban bằng Bánh hằng sống, cho linh hồn chúng ta đủ sức tiến về quê trời như vậy.
Hơn nữa, Giáo lý Hội thánh dạy: chúng ta đang sống trên đường lữ hành đức tin, và chết không phải là hết, vì linh hồn bất tử, sẽ tiếp diễn sự sống mai sau. Nhưng để đạt được cuộc sống mai sau ấy, thì ngay ở đời này, linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng, đó chính là Mình và Máu thánh Chúa Kitô ban tặng.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: những ai được liên kết với Đức Kitô, với Bánh Trường Sinh, thì cần phải sống yêu thương, hi sinh cho người khác, như chính Đức Kitô đã vì yêu thương, trở nên của lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa Cha, và trở nên của ăn Thần Linh nuôi sống linh hồn nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta qui tụ nơi đây dâng thánh lễ thể hiện hành động của đức tin. Lời Chúa hôm nay dạy về cuộc sống vĩnh cửu, về thần dược trường sinh, vậy tâm tình chúng ta thế nào khi lắng nghe lời mời gọi của Chúa.
Tần Thuỷ Hoàng tốn đã tốn bao nhiêu tiền của, mong tìm được bí quyết trường sinh. Biết bao người trên trần gian này cũng đã tốn bao nhiêu công sức, tiền của, để mong có cuộc sống sung túc, đầy đủ và kéo dài cuộc sống trên dương gian này nhưng không thể nào có được. Vì sinh lão bệnh tử là kiếp nhân sinh.
Trong khi đó vị lương y mang tên Giêsu hôm nay giới thiệu và ban cho chúng ta thần dược trường sinh, dòng suối bất tử là chính Thịt Máu của Ngài. Vậy chúng ta có trân quý và siêng năng đến đây đón nhận thần dược trường sinh Chúa ban không?.
Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo. Êlia về được đến Núi Thánh là nhờ bánh Thiên Thần. Chúng ta chỉ có thể đến được Núi Thánh của Thiên Chúa là hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta biết sống theo giáo huấn của Chúa, và siêng năng lãnh nhận Bánh hằng sống mà thôi.
Đón nhận bánh hằng sống là chính Đức Kitô, sẽ làm cho linh hồn chúng ta được lớn lên trong dòng máu thánh của Ngài. Lúc ấy, chúng ta cần loại trừ khỏi bản thân những tính hư tật xấu như: sự biếng nhác trong việc đọc kinh dự lễ; sự giận hờn chia rẽ…. thay vào đó là siêng năng lãnh nhận các Bí tích, sống hiền hoà, bao dung và tha thứ như Chúa đã làm gương cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta thấy được tầm quan trọng bánh hằng sống, là chính Thịt Máu của Chúa, để rồi chúng ta cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa và dọn mình xứng đáng để được Chúa đến với tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH BỞI TRỜI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Cuộc đời là một hành trình dài, có một định hướng, mục tiêu và ý nghĩa là để đi về nhà Cha, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống vô tận. Cuộc đời không phải chỉ là một nơi dừng chân hay bến nghỉ để chúng ta ở lại mãi để tận hưởng mọi hạnh phúc sung sướng của nó. Trong câu chuyện của bài đọc trích sách các Vua quyển thứ nhất tường thuật cuộc hành trình của tiên tri Êlia lên núi Horép. Trên đường lên núi Hôrép là núi của Thiên Chúa, tiên tri Êlia cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi tất cả, muốn chết vì đoạn đường dài quá và sức của ông thì có hạn. Thiên Chúa đã sai thiên thần hiện ra an ủi và ban cho ông bánh và nước. Ông đã ăn bánh và uống nước và ngủ một giấc thật sâu, bồi dưỡng lại sức khoẻ rồi hăng hái lên đường đi đến núi của Thiên Chúa. Ông đã đi bốn mươi đêm ngày để đến núi Thiên Chúa.
Trái với thái độ của tiên tri Êlia trong Cựu ước, trong câu chuyện Phúc âm, những người do thái thì thầm và nghi ngờ nói với nhau khi Chúa Giêsu mạc khải người là Bánh hằng sống từ trời. Họ không thể tin và chấp nhận Đức Giêsu là bánh bởi trời cũng như không thể chấp nhận người từ trời như người đã mạc khải. Điều khiến họ nghi ngờ đó là họ tự cho mình biết rõ về nguồn gốc gia cảnh của Đức Giêsu, biết rõ người là Giêsu, con của Giuse thợ mộc mà người ta quá biết rõ, biết rõ về cha mẹ của người. Chúa Giêsu phải nhấn mạnh và giải thích cho họ rõ chính Chúa Cha là Đấng đã sai người và cũng chính Chúa Cha lôi kéo mọi người đến với người và người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Để đón nhận được Đức Giêsu, mọi người cần phải có lòng tin chân thực để được Thiên Chúa cũng là Cha của người đón nhận và lôi kéo họ đến với Chúa Con; và đến với người Con này thì không phải thất vọng vì người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giêsu đã qui cho Chúa Cha là nguồn gốc của mọi thẩm quyền và quyền năng mà Chúa Giêsu đang thi hành và muốn mọi người đón nhận. Những người do thái chỉ có cái nhìn thiển cận nên không thể nhận ra nguồn gốc quyền năng chân thật của Chúa Giêsu. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải khẳng định cho họ rõ thẩm quyền của người là do bởi chính Chúa Cha là Đấng quyết định và hành động mọi sự nơi người: chính Chúa Cha là Đấng đã sai người, cũng như chính Chúa Cha là Đấng lôi kéo mọi người đến với người. Những người do thái nghi ngờ vì họ không thể vượt qua đường nhận thức giới hạn của mình cũng như không thể đạt thấu mầu nhiệm cao cả của Chúa Giêsu: “Tôi là bánh sự sống, ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”. Chúa Giêsu nhấn mạnh và thúc đẩy mọi người đến với người để đón nhận sự sống đời đời. Hay nói cách khác, “mọi người được Thiên Chúa giáo huấn sẽ đến với người, bởi vì chỉ có người là Đấng đã thấy Chúa Cha”. Thiên Chúa là nguồn sự sống đích thực, và chỉ có đến với Thiên Chúa mới có được sự sống đời đời. Thế nhưng không ai đã thấy hay đến được với Thiên Chúa Cha, chỉ trừ Đức Giêsu người con một Thiên Chúa đã thấy và biết Cha nên người tự nhận có sự sống đời đời của Thiên Chúa và ban tặng sự sống đời đời bởi vì chỉ có người là Đấng đã biết Cha và đã thấy Cha và đã ở với Cha. Chúa Giêsu đã vận dụng lời Chúa để trả lời và giải thích cho những người do thái nghi ngờ. Người nói hết những người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn và những ai lắng nghe Chúa Cha thì sẽ đến với người. Có một sự thống nhất nơi Thiên Chúa cũng như nơi mọi người trung thực. Sự thống nhất nơi Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha là nguồn mọi sự sống chân thực, nhưng Chúa Cha chỉ ban sự sống chân thực này qua Chúa Con, và chính Chúa Con là Đấng ban tặng sự sống chân thật của Chúa Cha cho mọi người, cũng như mọi người muốn có sự sống chân thật của Cha phải đến và đón nhận sự sống đời đời này bởi Chúa Con. Người ta không thể đón nhận được sự sống đời đời nếu phủ nhận Chúa Con. Để giải thích rõ hơn nữa, Chúa Giêsu đã nhắc lại sự kiện manna và cha ông của những người do thái. Cha ông những người do thái đã ăn manna, tức là bánh Thiên Chúa ban. Nhưng rồi họ cũng đã chết, manna mặc dù là bánh Thiên Chúa ban, nhưng chưa phải là bánh bởi trời ban tặng sự sống đích thực, manna chỉ phục vụ mục đích giới hạn là giúp cho người do thái trong hành trình vượt qua sa mạc để đi về đất hứa. Trái lại, Chúa Giêsu mới là bánh đích thực từ trời để những ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời.
Hành động quyết định của Thiên Chúa ban tặng sự sống cho con người là gửi người Con một của người để những ai đón nhận người con này sẽ có sự sống đời đời. Và đây là mạc khải mới, bánh bởi trời này để ban tặng sự sống cho con người không phải là không có cái giá phải trả, bởi vì bánh bởi trời là thịt máu Chúa Giêsu, thịt máu mà người sẽ phải đổ ra trong cái chết thập giá để ban tặng sự sống cho những ai đón nhận. Bánh bởi trời, cũng là bánh sự sống là bánh tự hiến thân mình chết cho mọi người. Tin và đón nhận Đức Giêsu cũng là đón nhận con người và con đường thập giá mà người khai mở cho nhân loại. Đó cũng chính là lý do tại sao Tin mừng là lời mời gọi đi vào con đường hẹp, con đường dẫn tới sự sống ngang qua cái chết thập giá. Con người chúng ta rất yếu hèn, chán nản thất vọng là những cám dỗ luôn làm cho mỗi người dễ buông xuôi và mất đi định hướng của cuộc đời. Lời mời gọi của Chúa Giêsu thúc đẩy mỗi người hãy có can đảm như tiên tri Êlia, đón nhận bánh Thiên Chúa ban tặng để bồi dưỡng sức khoẻ của mình để rồi tiếp tục cuộc hành trình đi lên núi Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đi trước chúng ta trên con đường này, con đường Vượt qua từ sự chết đến sự sống và người mời gọi mỗi người cũng phải biết đón nhận mầu nhiệm thập giá, dám chết đi để đạt đến sứ sống muôn đời. Bánh mà người ban tặng để ban sự sống đời đời là chính thịt máu người, thịt máu đã đổ ra trên thập giá để nên giá cứu chuộc nhiều người: “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi để ban tặng sự sống cho trần gian”. Để trở nên bánh nuôi sống muôn người, người đã chấp nhận chịu chết trên thập giá và thôi thúc chúng ta bước vào con đường Vượt qua này. Chỉ có người mới ban tặng sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG- Trích Logos B
Một trong những biến cố còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người dân miền Bắc là biến cố “Năm Đói Ất Dậu” (1945). Người ta ước tính có khoảng 2 triệu người chết đói trong năm ấy. Thật là một thảm họa chưa từng xảy ra tại Việt Nam !
Một bà cụ 72 tuổi được hỏi : điều gì đã gây ấn tượng nhất cho bà trong năm đói ấy. Bà cụ trả lời : “Năm ấy tôi mới 11 tuổi. Tôi nhìn thấy người chết khắp nơi : trong nhà, ngoài ngõ, trên đồng, dưới ruộng… Thật hãi hùng ! Nhưng điều gây ấn tượng cho tôi nhất, đó là một hôm, tôi nhìn thấy một người mẹ đang nằm trên đường cùng với đứa con còn rất nhỏ. Đứa bé trai gầy gò đang bò trên bụng mẹ và đang bú sữa mẹ. Người mẹ nằm bất động, còn đứa bé vẫn bú mẹ. Tôi bước lại gần để xem tại sao người mẹ lại nằm im lặng như thế. Đến gần tôi mới biết : người mẹ đã chết ! Còn đứa bé vẫn đang bú xác người mẹ với bầu sữa đã cạn kiệt !”
Quả thật, hình ảnh đứa bé nằm bú trên xác người mẹ đã chết vì đói là điều thật bi thảm. Điều đó cho thấy : một trong những thảm họa đáng sợ đối với con người là sự đói khát. Vì thế, một vấn nạn lớn luôn ám ảnh nhân loại hôm nay : đó là liệu trong tương lai lương thực có đủ dùng cho con người trên hành tinh này không ?
Cơm bánh luôn là nhu cầu bức thiết của con người và không thể thiếu trong cuộc sống của nhân loại. Chính vì ý thức được tầm quan trọng như thế, Chúa Giêsu đã tinh tế nhận ra nhu cầu của những người đi theo Ngài : họ đang đói. Và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Thế nhưng, ngoài tấm bánh vật chất đó, còn có một thứ bánh khác cao quý hơn nhiều : đó là “Bánh Hằng Sống” từ trời xuống như lời Chúa giới thiệu trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay. Khởi đi từ tấm bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Bánh Hằng Sống là chính Ngài.
Những tấm bánh vật chất
Thánh Kinh nhắc nhiều đến “bánh”, vì đó là ân huệ của Thiên Chúa và là nguồn sinh lực cho con người. Trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng một thứ “bánh” đặc biệt từ trời rơi xuống : đó là “manna”. Thế nhưng, “manna” đã không làm thỏa mãn cơn đói của dân chúng, nhất là họ không tìm được ở nơi loại lương thực này sự trường sinh. Như Chúa đã khẳng định trong bài Tin Mừng : họ ăn manna nhưng họ vẫn chết.
Khi nhìn thấy đám đông theo Chúa đang đói khát, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi họ ăn. Thế nhưng, sau khi ăn no nê, dân chúng tiếp tục đi tìm kiếm Chúa Giêsu để tôn Chúa lên làm vua. Thực chất họ muốn có bánh và cá ăn mãi để không phải đói, nhất là không phải làm lụng gì nữa. Vì biết rõ điều đó nên Ngài đã trốn đi nơi khác (Ga 6, 15).
Như thế, “manna” hay những tấm bánh trong phép lạ hóa bánh ra nhiều đều không làm cho dân chúng no thỏa và được trường sinh bất tử. Vì thế, Chúa Giêsu đã hướng dân chúng đến một thứ bánh cao qúi hơn : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Chúa Giêsu còn quả quyết : ai ăn bánh này thì không phải chết, nhưng được sống đời đời. Nghe thế, dân chúng rất phấn khởi vì nghĩ rằng Chúa sẽ ban cho họ một loại bánh như phương thuốc trường sinh bất tử. Nhưng sau đó Chúa xác định : “Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta”. Nghe điều đó, dân chúng đã thất vọng và bỏ đi. Họ đã không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả, mà chỉ là con của “bác thợ mộc Giuse” tầm thường. Làm sao Ngài có thể ban cho họ “bánh trường sinh ?”. Làm sao Ngài có thể ban cho họ sự sống đời đời ?Chính sự cứng lòng tin đã làm cho người Do Thái không đón nhận Chúa và vì thế họ cũng khước từ sự sống đời đời từ nơi tấm Bánh Hằng Sống là chính Chúa.
Bánh Hằng Sống
Trong lúc con người chỉ chú tâm tìm kiếm bánh vật chất và lương thực nuôi sống thể xác, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng đôi mắt đức tin để nhận ra Ngài chính là bánh ban sự sống. Dĩ nhiên Ngài là bánh không phải để nuôi sống thân xác chúng ta. Nhưng ngoài sự sống thể xác, Chúa mời gọi chúng ta hướng đến sự sống cao hơn : sự sống của tâm hồn. Chính sự sống này sẽ đặt nền tảng và hướng dẫn sự sống thể xác. Chỉ khi nào ta khao khát lãnh nhận Bánh Hằng Sống, sự no đủ của thân xác ta mới có ý nghĩa thật sự.
Ngày nay, Bánh Hằng Sống được trao ban cho ta từng ngày nơi bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là tấm bánh thần linh được bẻ ra và trao cho ta như lương thực nuôi dưỡng ta trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi khi dự thánh lễ, ta hãy ý thức : “lương thực hằng ngày” mà ta cầu xin trong kinh Lạy Cha chỉ có ý nghĩa khi ta được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh là chính Chúa nữa.
Ngoài tấm bánh Thánh Thể, chúng ta còn có tấm bánh Lời Chúa cũng được trao ban cho chúng ta từng ngày. Tấm bánh Lời Chúa cũng là bánh ban sự sống đời đời cho những ai sẵn sàng đón nhận, như lời Chúa phán : “Thầy có những lời ban sự sống đời đời”
(Ga 6, 68). Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon, nếu chúng ta biết lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống. Càng sống lời Chúa, chúng ta càng gặp được ánh sáng và sức mạnh nâng đỡ chúng ta trước sóng gió cuộc đời. Tấm bánh Lời Chúa toả ánh sáng soi dẫn để chúng ta cũng tìm được tấm bánh vật chất hằng ngày.
Bài đọc I, trích sách Các Vua quyển thứ nhất, kể lại câu chuyện ngôn sứ Êlia giết các sư sãi của thần Baal. Ông bị hoàng hậu Giêsabel truy đuổi gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Hôreb. Nhưng dọc đường vì quá kiệt sức, ông đã nằm dưới gốc cây tùng xin được chết đi. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông, để ông tiếp tục cuộc hành trình lên núi Horeb gặp gỡ Thiên Chúa.
Chúng ta cũng đang đi trên cuộc hành trình đức tin nhiều thử thách và gian nan. Chúng ta cũng phải băng qua sa mạc cuộc đời với biết bao hiểm nguy và thách đố. Có những lúc phải đối mặt với những thất bại và khổ đau, chúng ta cũng từng xuôi tay muốn đầu hàng cuộc sống. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa Thánh Thể vẫn đồng hành với chúng ta. Ngài vẫn đang bẻ tấm bánh đời mình để trao hiến cho chúng ta. Ngài vẫn bẻ tấm bánh lời Ngài để nuôi dưỡng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có can đảm để đứng dậy tiếp tục cuộc hành trình hay không.
Người ta kể rằng : khi chết, cuốn sách gối đầu giường của Lênin chính là cuốn truyện “Tình Yêu Cuộc Sống” của nhà văn Mỹ Jack London. Sở dĩ cuốn sách đã cuốn hút Lênin và trở thành tư tưởng hướng dẫn cuộc sống ông, là vì trong cuốn sách đó đã thuật lại cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một người đi đào vàng ở Alaska và con chó sói. Người đi đào vàng đã kiệt sức, nằm gục trên băng tuyết và sắp chết vì đói. Bên cạnh là một con chó sói đang nằm thoi thóp, cũng sắp chết vì đói. Hai bên gầm gừ chờ đợi đối thủ của mình chết đi để xông đến ăn thịt. Cuối cùng, con người đã thắng con vật : anh ta đã dùng hết hơi tàn sức kiệt của mình để vật chết con sói, tất cả vì sự sống còn của mình.
Trong cuộc đấu tranh giữa đời, chúng ta cũng mong tìm kiếm sự sống và niềm hạnh phúc. Chúa là Bánh Hằng Sống, sẵn sàng ban cho ta sự sống và niềm hạnh phúc ấy, nếu ta biết tìm đến với Ngài.