CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
BÁNH HẰNG SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
PHẢI MỞ TÂM TRÍ RA TRƯỚC MẦU NHIỆM (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông 13
ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Fiches Dominicales 24
BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 31
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 36
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN CHO CON NGƯỜI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 52
TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 67
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 72
HÃY TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 82
LƯƠNG THỰC VĨNH CỬU- Lm. Louis Phạm Hữu Độ, CMC.. 86
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 89
THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH TÌNH YÊU- Lm. Mattheu Vũ Văn Lượng, OP 94
CON NGƯỜI TÌM KIẾM CHÚA VÌ ĐIỀU GÌ?- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền 99
ĐẰNG SAU VẬT CHẤT HỮU HÌNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 102
BÁNH BAN SỰ SỐNG – Lm Anphong Trần Đức Phương. 107
ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA- Lm Inhaxiô Trần Ngà. 110
CỦA KHÔNG HƯ NÁT- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 114
BÁNH ĐÍCH THỰC (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 117
THỰC THI Ý CHÚA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 123
BÁNH BAN SỰ SỐNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 127
HÃY TIN VÀ ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 130
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa”.
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, toàn thể cộng đoàn con cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vầy?” Chúa liền phán cùng Môsê rằng: “Đây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: ‘Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi'”. Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: “Man-hu”, có nghĩa là: “Cái gì vậy?” vì họ không biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ: “Đó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 77, 3 và 4bc. 23-24. 25 và 54
Đáp: Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).
1) Điều mà chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa.
2) Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm mưa man-na xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời.
3) Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm.
BÀI ĐỌC II: Ep 4, 17. 20-24
“Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Đức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. – All.
PHÚC ÂM: Ga 6, 24-35
“Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”. Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Họ thưa Chúa Giêsu: “Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: “Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian”. Họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa “trên bờ bên kia”. Do đó một diễn từ dài về “Bánh hằng sống” sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.
Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: “Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).
Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.
Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê”.
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước… Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những “dấu chỉ của nước trời” mà là những “lợi lộc vật chất” họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít “duy vật” hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu “giải gỡ” những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những “dấu chỉ gây rtgỡ ngàng” của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường “lương thực hằng ngày” nhưng hãy ao ước “Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta “làm việc” cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em… Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.
Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người .
Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực”.
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó… Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ “man-na” đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng “bú mút”: Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.
Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói “Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.
“Bánh từ trời xuống” đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của “quà tặng từ trên cao”, “lương thực bởi trời”. Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen “tin tưởng” vào Chúa: “Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: “Bánh vật chất” không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, “Đấng Kitô” của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.
Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh”.
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
– A-mốt 8,11: “Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa”.
– Giêrêmia 15,16: “Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
– Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.
Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHẢI MỞ TÂM TRÍ RA TRƯỚC MẦU NHIỆM (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan: bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất cả các Bài Đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo cùng một viễn cảnh nầy. Vì thế, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy nuôi dưỡng dân Do thái trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu đổi đời tận căn để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa, nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi Thiên Chúa thử thách dân Ngài.
Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để ngăn chận mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông đã chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập: dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); bây giờ họ đi sâu vào trong sa mạc Xin trên đường tiến về sa mạc Xi-nai, ở đây họ lâm vào cảnh đói và khát. Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi”.
Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành nầy tập hợp hai biến cố cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Thật ra hai biến cố nầy đã không xảy ra cùng một ngày. Ít ra sách Dân Số trong cùng một câu chuyện cho thấy điều nầy (Ds 11 cho thấy hai truyền thống được trộn lẫn với nhau, trong đó truyền thống Gia-vít chỉ kể ra hiện tượng bánh man-na).
Hiện tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dễ bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất trông như những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Chúng ta không thể tin rằng trong hoang địa dân Do thái được nuôi dưỡng chỉ bằng bánh man-na; họ còn sống bằng những sản phẩm từ đàn vật của họ và từ những ốc đảo. Nhưng bánh man-na đã là lương thực phụ thêm trong suốt cuộc lữ hành nầy.
Với tư cách là thiên ân, bánh man-na cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không”. Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần từng ngày một”, mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Chúa (từ đó một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa, giữa bánh man-na và Lời Chúa). Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Người khi dạy họ kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường được xảy đến vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã lý tưởng hóa và thần thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Nhà biên soạn sách Xuất Hành đã nói rồi: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn”. Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô xem bánh man-na là “thức ăn thần thiêng” (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” của Người.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết thánh nhân kêu gọi mọi người Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ dẫn tổng quát: trước hết đừng ăn ở như dân ngoại, tiếp đó học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống, và sau cùng thay đổi đời sống tận căn và mặc lấy con người mới.
Đừng ăn ở như dân ngoại.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái giáo. Cả thư gởi tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi tín hữu Cô-lô-sê cũng đều chứa đựng những lời cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những lời cảnh giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi buộc phải thay đổi đời sống.
Học biết Đức Giê-su để mà sống như Người.
Thánh nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su”. Cách dùng động từ “học biết” với túc từ chỉ người thì hiếm, nhưng ý nghĩa thật là đặc biệt: người Ki-tô hữu không gắn bó với bất kỳ thứ đạo lý trừu tượng nào, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, Ngài là “Sự Thật hiện thân”.
Mặc lấy con người mới.
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cỡi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về Phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra hướng đến sự khôn ngoan cao vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà Phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để sống theo sự công chính và thánh thiện đích thật”.
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ về Bánh Hằng Sống của Đức Giê-su mà thánh Gioan định vị vào ngày hôm sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
Việc định vị bài diễn từ về Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng: dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi đi từ đó, Đức Giê-su đòi hỏi phải chọn lựa càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Người. Diễn từ về Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm có tính quyết định: nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Người mà ra đi hay khẳng định niềm tin vào Người. Vì thế, Đức Giê-su sắp nhấn mạnh, tiên vàn phải “tin” vào Người.
Bài diễn từ về Bánh Hằng Sống bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6: 25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6: 59).
Bối cảnh.
Vào buổi chiều dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Người thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà đi lên núi một mình, đoạn, giữa đêm Người đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức Giê-su không xuống thuyền cùng với các môn đệ (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Người (6: 23). Khi đến thành Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”. Câu hỏi của họ mặc lây một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này, Người nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám đông mong ước được gặp lại Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc trưng: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Người là một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Lúc đó, cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri.
Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết rằng Người là một con người mầu nhiệm, Người có khả năng ban cho nhân loại những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Những lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Người lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”. Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ làm là chỉ việc “tin vào Người”, nhưng những lời mà Người sắp công bố quá mạnh mẻ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Người không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Người. Đức tin phải là thái độ đầu tiên mà Người đòi hỏi ở nơi họ.
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ Người và bắt bẻ Người: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Với cụm từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại với từ “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật, và bằng cách đồng hóa bản thân Người với Bánh Hằng Sống. Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su nói về “bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian”, trong khi bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác, Đức Giê-su là Mô-sê mới nhưng cao vời vô tận trên ông Mô-sê. Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy”; cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm.
Lúc đó, Đức Giê-su vén mở thêm nữa bức màn mầu nhiệm của Người: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo sát từ: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra với các môn đệ Người, họ kinh hoàng khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20).
Biểu thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà Sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến… Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21). Qua hình thức khẳng định này, hiền nhân nầy muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là, những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái đói và cái khát thần thiêng, nghĩa là những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-Năm B
ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ Người xuống thuyền đi sang “bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.
Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): “Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho” (“Lecture de l’evangile de Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải “làm việc” để kiếm tìm.
Ngộ nhận mới do những từ ngữ “làm”, “những việc” gợi lên. Dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.
Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua “những việc” (số nhiều) để nghĩ đến “Việc Thiên Chúa” (số ít): bởi lẽ “việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: “Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào” (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Aùpraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
+ Người ban manna, “bánh bởi trời” không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là “Cha” của Người.
+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. Aân huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: “Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc” (hồi ức) và khao khát “được ăn mãi thứ bánh ấy” (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể” (OC. trang 137).
+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống” không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.
-“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”, dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15) .
– Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ “chính tôi đây là bánh trường sinh”, bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. “Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy” (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến” với Người và “tin” vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị” (R. Josse trong “Célébrer” tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.
Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.
Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
“Lương thực đích thực” (Đức Cha L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 81-82).
“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác… Họ không muốn dấn thân: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: “Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thiên Chúa đã niêm ấn”: Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành vi qua đó Thiên Chúa bảo đảm rằng sứ mệnh Người là đích thực (3,33) và nhân loại có thể nhờ Người mà chiếm được sự sống vĩnh cửu. Một vài nhà chú giải coi công thức “niêm ấn” là một ám chỉ đến phép rửa của Chúa Giêsu, vì họ thấy cùng từ ngữ đó được dùng trong thần học phép Rửa tội (x. Ep 1, 13; 4,30; Kh 7,3-4).
“Công việc của Thiên Chúa … là các người tin vào Đấng Ngài đã sai đến”: Gioan sử dụng, bằng cách nhuận sắc lại một thành ngữ của Phaolô (Rm 3,18) và duy nhất hóa tất cả thái độ của Kitô hữu thành đức tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
“Vậy thì ông làm dấu chỉ gì để chúng tôi thấy mà tin ông”: Lời yêu cầu này không có đáp trả, bởi vì không thể đáp trả Chẳng một dấu chỉ nào có thể minh chứng (mặc dầu nhiều dấu chỉ gợi lên cho thấy) Chúa Giêsu là sứ giả Thiên Chúa sai. Một bằng chứng có tính cách ép buộc bất thành hóa công việc của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu. Ở đây những người đối thoại với Chúa Giêsu bắt đức tin lệ thuộc việc chứng kiến những điềm lạ vĩ đại; theo họ, Đấng Thiên sai phải hoàn tất được nhiều phép lạ trổi vượt các phép lạ mà Israel xưa từng mục kích (x. Mc 8,11; Mt 16,1; 12,38), đặc biệt những phép lạ thời Xuất hành. “Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời xuống”: Việc ban manna hằng ngày trong sa mạc đã được nhiều tiến sĩ luật xem như là dấu lạ lớn nhất của thời Xuất Hành (Xh 16, 15; Ds 11,7; 21,5; Đn 8,3; Kn 16,20; ở đây, Gioan trích dẫn Tv 78,24.
KẾT LUẬN
Một lần nữa, Chúa Giêsu đưa thính giả của Người trở lại mầu nhiệm Con Người (c.27), nghĩa là nghĩ đến nhân vật thần thiêng mà Đanien đã thấy bên cạnh Thiên Chúa (Đn 7,13 – 14), nhân vật của tương lai thiên sai. Đến từ trời, Con Người, tức Chúa Giêsu, sẽ là sứ giả đích thực của Cha, được thánh hiến để thi hành sứ mệnh và được xác nhận qua các phép lạ của Người. Hơn hẳn Môisen trong các dấu lạ cũng như trong chính bản thân (c.32), Người sẽ phát ban một thứ lương thực siêu nhiên cho những kẻ theo Người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-“Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (c.27). Y như nước luôn múc từ giếng không làm giảm cơn khát của người đàn bà xứ Samaria (4,13), thì “lương thực hay hư nát” cũng chẳng có sức làm chúng ta no thỏa, bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống lâu dài và đích thực; vì một khi ăn vào, nó liền bị tiêu hóa và cuối cùng duy trì tính háu ăn của ta, nhận chìm chúng ta vào sự lệ thuộc bắt buộc, bất lực, tha hóa của khát vọng không bao giờ nguôi, của lòng ao ước đưa tới thất vọng vì sự chết. Của ăn trần thế, cho dù thú vị nhất thời đến đâu vẫn không thể làm no thỏa tâm hồn của con người. Thay vì cố gắng đổ đầy túi thèm khát vô đáy của xác thịt, chúng ta phải “ra công làm việc vì thức ăn lưu lại mãi đến sự sống vĩnh cửu, nghĩa là thức ăn biến đổi chúng ta nên những con người sống chính cuộc sống của Thiên Chúa và hiệp thông vào nguồn phát sinh không bao giờ cạn của Người. Lúc đó niềm ao ước và cơn đói khát của chúng ta sẽ không còn ám ảnh chúng ta nữa; và thay vì lo lắng thái quá cho việc sinh nhai (x. Mt 6,25tt), chúng ta sẽ “đói khát sự công chính” (Mt 5,6), sẽ tìm được của ăn là làm theo ý Thiên Chúa chúng ta (Ga 4,34).
-“Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa” (câu 28). Câu hỏi xem ra nói lên thiện chí của những người đối thoại với Chúa Giêsu. Nhưng theo văn mạch, nó thật là hàm hồ để được “ăn no nê” (c.26), người ta tỏ ra sẵn sàng đặt một giá nào đó; những công việc tốt họ sẽ thực thi làm cho họ xứng đáng ăn bánh bởi trời, họ tưởng như vậy. Đó là phản ứng thuần bản năng của tôn giáo loài người trong việc “bán buôn” với Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận làm tròn mọi điều kiện Ngài đặt ra, miễn là về phía Ngài, Ngài bảo đảm lợi ích cho chúng ta.
-Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến lối tiểu xảo đó “Công việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Đấng Ngài đã sai” (câu 29). Người đảo ngược viễn tượng: không còn vấn đề các công việc của chúng ta, việc mặc cả thô bỉ của chúng ta với Thiên Chúa nữa, nhưng là công việc mà Thiên Chúa hoàn thành trong chúng ta: đức tin vào Đấng Ngài sai đến. Điều này đòi hỏi ở chúng ta một cái gì khác hơn điều chúng ta đã dự liệu: không còn là một cái tối thiểu khiến chúng ta nên sòng phẳng một cách rẻ tiền, cũng chẳng là những dấu lạ nhân đức làm cho Thiên Chúa trở thành người mắc nợ chúng ta, song là việc cởi mở đón nhận hoạt động của Ngài, hoạt động biến đổi chúng ta tự căn để, làm ta trở về với Chúa Giêsu và đem chúng ta vào trường học của Người. Để Thiên Chúa xâm nhập như thế vào đời sống chúng ta và ra công làm việc, điều đó làm chúng ta sợ hãi, Để biện minh cho sự thối lui trước đòi hỏi này, chúng ta dùng một chiến thuật để câu giờ và đặt một điều kiện mới: “Vậy thì Ngài làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm việc chi?” (x. c.30). Trong lúc Chúa Giêsu vừa hoàn thành một dấu chỉ, thì chúng ta muốn ép Người làm nhiều phép lạ càng lúc càng kỳ diệu hơn để chúng ta trơ trẽn lợi dụng. Thật ra, chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta luôn bị cám dỗ từ chối tin vào Ngài. Chúng ta luôn đòi hỏi những bằng cớ chứng minh sự hiện hữu và hoạt dộng của Ngài trong thế gian, những bằng cớ buộc chúng ta tin từ bên ngoài, trong lúc Thiên Chúa lại ưa nói cùng chúng ta từ bên trong bằng những dấu chỉ kín đáo vốn để chúng ta được tự do từ chối lời mời gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được những người con tự do mến yêu, chứ không muốn những tên nô lệ sợ hãi thờ kính.
-“Ai đến với Ta …” (c.35). Đức tin bao hàm một bước tự ý, một sự dấn thân. Người ta không thể chỉ ngồi nhìn như khán giả say sưa hay phê bình những gì Chúa Giêsu làm và nói để rồi tùy cơ lợi dụng. Chúa Giêsu chỉ cho no thỏa hoàn toàn và dứt khoát những ai dám bước cái bước quyết định của đức tin. Kẻ tài tử thích nhìn người từ xa thôi sẽ luôn đói. Những ai “đến cùng Chúa Giêsu” sẽ được tràn đầy hoan lạc và an bình. Kẻ ấy sẽ khám phá hương vị đích thực của cuộc sống, là sống bình dị như con cái Thiên Chúa giữa đại gia đình nhân loại được tụ tập quanh Cha.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15) : Chúa ban manna cho dân do thái trong sa mạc.
– Đáp ca (Tv 77) : “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ”
– Tin Mừng (Ga 6,24-35) : Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu bắt đầu bài giảng về bánh hằng sống.
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng hôm sau họ lại tìm đến Ngài, mong được ăn bánh nữa, thì Ngài nói với họ về một thứ bánh khác : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”.
Chúng ta đến đây vì chúng ta biết rằng chúng ta cần một thứ lương thực khác, thứ lương thực mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con quá lo tìm lương thực vật chất, đến nỗi sao lãng lương thực thần linh.
– Ngay cả khi chúng con dự Thánh Lễ, chúng con cũng chỉ xin Chúa ban lương thực vật chất cho chúng con.
– Chúng con chưa đủ lòng phó thác để tin rằng Chúa sẽ lo cho chúng con lương thực hằng ngày.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15)
Phép lạ manna xảy ra trong sa mạc. Sa mạc là nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi thứ, cho nên sa mạc cũng là nơi thử thách. Mà một trong những thử thách lớn nhất đối với con người là đói, không có thức ăn. Bởi vậy, Chúa đã nói với Môsê : “Ta muốn thử lòng chúng”
Tuy nhiên, thử thách này cũng có cái lợi là nhắc con người nhớ rằng lương thực họ ăn hằng ngày là do Chúa ban. Chính vì thế, Thiên Chúa bảo dân do thái chỉ được lượm một phần bánh đủ ăn trong ngày.
Đáp ca (Tv 77)
Phép lạ manna vẫn được các thế hệ về sau nhắc tới như là một trong những công cuộc lẫy lừng của Thiên Chúa, cho người ta thấy quyền phép và tình thương to lớn Chúa dành cho dân Ngài.
Tin Mừng (Ga 6,24-35)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, hôm sau người do thái lại tìm đến với Đức Giêsu mong được ăn bánh nữa. Đức Giêsu hướng họ lên cao hơn một bước : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Họ tưởng đó là manna ngày xưa trong sa mạc. Đức Giêsu nói rõ : “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”.
Bài đọc II (Êp 4,17-20.24) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô khuyên tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ, tư tưởng cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới, tinh thần mới và cách sống mới như Đức Kitô.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Nhiều thứ đói
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức “Cô dâu do thái”. Sau khi ngắm xong, van Gogh thố lộ : “Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi”.
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ :
– đói được người ta tôn trọng : không ai muốn bị coi là đồ bỏ ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– đói được người ta chấp nhận : nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– đói những tương giao : không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– đói nguồn động viên : không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– đói niềm tin : ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– đói hy vọng : bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc ; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– đói tình yêu : nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Cậy trông nơi Chúa
Khi ban Manna cho dân do thái, Thiên Chúa nói với Môsê rằng : “Ta sẽ cho lương thực từ trời rơi xuống cho các ngươi. Mỗi ngày, dân hãy ra khỏi trại để nhặt lấy phần lương thực cho ngày đó. Băng cách này, Ta muốn thử xem họ có tuân theo lề luật của Ta hay không”. Những lời này của Thiên Chúa có nghĩa gì ?
Nếu bạn hỏi một tín hữu là có tin rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất của vũ trụ không, thì người đó sẽ trả lời ngay không chút ngần ngại : “Dĩ nhiên là tôi tin thế”. Nhưng nếu bạn lại hỏi người đó có tin rằng Thiên Chúa ấy thấy mọi nhu cầu đời sống của họ và sẽ lo cho họ có mọi thứ họ cần không, thì họ sẽ chần chừ không dám trả lời xác quyết.
Đức tin và đức Cậy liên hệ chặt chẽ với nhau. Người nào tin vững vàng thì cũng trông cậy hoàn toàn. Còn ai không trông cậy trọn vẹn vào Chúa thì đức tin của họ cũng bị lung lay.
Kinh nghiệm trong sa mạc là cơ hội giúp dân do thái trông cậy vào Chúa. Bởi thế Chúa bảo họ chỉ lượm manna cho đủ ăn một ngày thôi, ngày mai để Thiên Chúa lo. Đức Giêsu cũng dạy như thế : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Ngày nay, những lời dạy như thế xem ra xa lạ và thậm chí điên khùng nữa, bởi vì nhiều người rất phòng xa bằng cách để dành tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm v.v. Họ trông cậy vào những thứ đó hơn là vào Chúa.
Xét cho cùng thì cái nâng đỡ dân do thái trong sa mạc không phải là manna mà là đức tin và đức cậy. Đối với chúng ta cũng thế, lương thực nuôi chúng ta chính là đức tin và đức cậy. Nhất là khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, khi đó không phải chúng ta giữ đức tin và đức cậy, mà ngược lại hai nhân đức ấy gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
Cái giá của tự do
Hình như có một quy luật của cuộc sống là trong lúc khó khăn thì nghị lực của con người lên tới đỉnh cao nhất, nhưng khi khó khăn qua rồi thì nghị lực lại tuột xuống mức thấp nhất. Primo Levi, một người sống sót sau nhiều năm ở trong trại giam Auschwitz của Đức quốc Xã, đã viết : “Trong đa số trường hợp, giờ được giải phóng chẳng vui mà cũng chẳng mừng gì cả. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau ngày giải phóng. Ngược lại, những cuộc tự tử rất hiếm trong thời gian bị giam cầm”. Elie Wiesel, một cựu từ nhân Auschwitz khác cũng nói : “Trong cơn thử thách, tôi sống trong sự mong chờ, mong chờ một phép lạ hoặc mong chờ cái chết. Nhưng khi cơn ác mộng đã qua thì tôi bị rơi vào cơn khủng hoảng rất đau đớn và dằn vật, tôi đặt lại vấn đề về tất cả những niềm tin của tôi”. Còn Oscar Wilde thì viết : “Sự tàn bạo của ngục tù chỉ bắt đầu khi bạn ra khỏi đó”.
Tại sao vậy ? Vì trong lúc khó khăn, ước mơ được giải thoát đã giúp cho người ta có nghị lực để sống. Nhưng khi được tự do rồi, thực tế không phải luôn luôn đúng như họ đã ước mơ.
Dân do thái cũng trải qua kinh nghiệm ấy. Ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ đã vui mừng ra đi và tràn đầy hy vọng một tương lai tươi sáng. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, họ lãi đòi trở lại Ai cập, họ muốn làm nô lệ nữa. Lý do là những khó khăn họ gặp phải trong cuộc xuất hành. Sự tự do đã không biến hết những ước mơ của họ thành sự thật. Có lẽ họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng để sống cái ơn ban tự do ấy. Phải chờ thế hệ sau mới sẵn sàng qua sông Giođan và vào Đất hứa. Bởi vậy có người đã nói : “Dân do thái chỉ cần một ngày để ra khỏi Ai cập, nhưng phải cần đến 40 năm để hình ảnh Ai cập thoát khỏi đầu óc của họ”.
Tự do có những thách thức của nó. Tự do nghĩa là phải tự gánh lấy trách nhiệm của đời mình. Điều này thật không dễ đối với những ai đã quen để cho người khác quyết định thay mình, còn mình chỉ biết vâng lời thôi. Tự do còn đòi phải có kỷ luật bản thân. Tuân theo kỹ luật do người khác đặt ra cho mình thì dễ hơn là làm theo kỹ luật do chính mình tự đặt ra. Biến một người tự do thành người nô lệ thì dễ hơn giúp một người nô lệ thành người tự do.
Dân do thái nhìn lại quá khứ và nghĩ : “Sống ở Ai cập còn tốt hơn, vì ít ra mình cũng có đủ ăn”. Thế là họ cằn nhằn với Môsê. Lẽ ra, họ phải mang theo họ những đức tính đã từng giúp họ chịu đựng những khó khăn thời làm nô lệ. Nhưng lúc được tư do họ đã không xử dụng nghị lực như khi còn làm nô lệ.
May thay Thiên Chúa đã ban manna cho dân do thái để nâng đỡ cuộc sống của họ trong cuộc hành trình về Đất Hứa.
Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được giải phóng : giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào những bảo đảm vật chất (xem bài đọc II). Tuy nhiên cuộc hành trình của chúng ta cũng rất gian truân. Nhiều khi chúng ta muốn trở lại kiếp sống nô lệ. Chúng ta thà làm nô lệ cho thế gian và tội lỗi hơn là làm những người con tự do của Thiên Chúa. May thay Đức Giêsu đã nâng đỡ cuộc hành trình của chúng ta. Đặc biệt Ngài đã ban manna mới cho chúng ta là bí tích Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
Theo Chúa, nhưng vì động lực nào ?
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất : Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế ? Thưa vì lợi lộc vật chất :
. Chúa đã chữa nhiều bệnh tật : mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài cho phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
. Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn : hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm : Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
. Khi đó Đức Giêsu nói thẳng : “Các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no”. Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói “Các người đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát”.
. Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ “Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?” Phêrô lên tiếng đáp thay anh em “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
Con người ta là thế đấy : Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề “Chìa khóa Nước Trời”, nhà văn A.J.Cronin kể lại có một Linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rãi. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí Nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gở đập phá về sửa nhà riêng. Vị Linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả : Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của Linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. Linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát – Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát !
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào ? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẻ : nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cần nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ : Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn : Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta “Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát”.
Những của ăn tinh thần ấy là gì ?
. Là một cuộc sống lương thiện : Người ta thì bần cùng sinh đạo tặc, nhưng kẻ theo Chúa thật thì dù nghèo cũng vẫn thanh cao, công bình.
. Là một cuộc sống bác ái : Người ta thì có phú quý mới sinh lễ nghĩa, còn nghèo túng thì lục đục với nhau : Nhưng kẻ theo Chúa thật dù nghèo túng cũng biết thương yêu chia sốt cho nhau.
. Là một quan niệm sống đầy đủ : không chỉ lo cho thân xác mà còn lo cho phần hồn nữa.
Trở lại với câu chuyện truyền giáo của Linh mục kia. Vì Cha nghèo, không có tiền nhiều để làm mồi câu những người tòng giáo – mà dù có Cha cũng không muốn truyền giáo theo kiểu đó – Cha chỉ đem tinh thần bác ái của Tin Mừng ra để sống với người khác : Cha thăm viếng những người bệnh, Cha cư xử với những người khác tín ngưỡng như những người bạn, Cha nuôi những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Một hôm đứa con trai duy nhất của một ông điền chủ bị bệnh nặng. Nhờ có hiểu biết chút ít về Tây Y, Cha đã cứu cho nó sống. Ông điền chủ chiều hôm ấy tìm đem cha về xin theo đạo. Nhưng Cha thẳng thắn từ chối vì thừa hiểu rằng ông ta chưa có niềm tin. Cha chỉ giữ liên hệ láng giềng tốt với ông ta thôi. Phần ông ta càng ngày càng có cảm tình với Cha. Sau 30 năm truyền giáo như thế, vị Linh mục nghèo tiền nhưng giàu lòng bác ái ấy đã có được số giáo dân khoảng 500 người, nhưng đều là những giáo dân có niềm tin vững chắc. Một ngày trước khi Cha giả từ họ đạo để về hưu, Cha nhận được một niềm vui to lớn : ông nhà giàu kia lại xin theo đạo, và lần này vì một lý do rất vững chắc, ông nói : Thưa Cha, cách đây 30 năm tôi xin theo đạo để trả ơn Cha đã cứu sống con trai tôi, khi đó Cha không nhận vì thấy tôi chưa có niềm tin. Hôm nay, 30 năm sau tôi lại xin theo đạo, lần này không phải để trả ơn Cha, mà vì tôi thấy tôi cần có đạo. Cuộc sống của Cha trong 30 năm đã giúp tôi thấy đạo rất là đẹp, rất là tốt và rất là cần cho con người. Vậy lần này tôi mong Cha đừng từ chối nữa. Dĩ nhiên là Vị Linh mục già ấy nhận lời. Buổi lễ tiễn biệt được trở thành lễ Rửa tội thật là cảm động.
Xin Chúa giúp chúng ta theo đạo vì lý do vững chắc như ông ấy, và biết sống đạo như vị Linh mục ấy. Chúng ta hãy ghi nhớ Lời Chúa “Các người đừng chỉ tìm của ăn vật chất hay hư nát, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát bao giờ” ; cũng đừng bao giờ vì khó khăn vật chất mà bỏ Chúa : “Bỏ Ngài con biết theo ai vì Ngài có Lời ban sự sống”.
* 5. Bánh Ban Sự Sống
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói :”Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
*
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh : nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ : là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau : “Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa” (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời : “Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết : “Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết : “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
*
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, dân Do thái xưa đã tìm đến Đức Giêsu vì được ăn no. Đức Giêsu bảo họ : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
- Chúng ta cầu nguyện cho Hội thánh đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và chậm tiến / cùng giúp cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ.
- Chúng ta cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đừng chỉ chuyên tâm đến vấn đề vật chất và kinh tế / mà bỏ quên vấn đề nhân phẩm, giáo dục, và tự do của mỗi người.
- Chúng ta cầu nguyện cho những người đang chạy theo tiền bạc và ham mê hưởng thụ vật chất / biết nhận ra rằng con người còn có tâm hồn và tình yêu / để hướng tới những gì là cao thượng và linh thiêng hơn.
- Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì âu lo sinh sống vật chất mà bỏ quên bổn phận là con của Chúa, và là anh em của mọi người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa hằng thương lo cho mọi người chúng con cả hồn xác, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa, để ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh. Chúa là đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
– Trước Rước lễ : Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN CHO CON NGƯỜI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
- DẪN NHẬP
Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc con người. Phép lạ hoá bánh ra nhiều của tuần trước đã chứng minh điều đó. Còn hơn thế nữa, trong bài 1 hôm nay, sách Xuất hành còn nhắc lại việc Thiên Chúa ban manna từ trời rơi xuống nuôi dân Do thái suốt quãng đường đi về Đất hứa. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu cho dân Do thái biết manna mà Thiên Chúa ban cho cha ông họ trong sa mạc chưa phải là bánh thật mà chỉ là biểu tượng cho thứ bánh mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Bánh thật ấy là bánh hằng sống. Đức Giêsu đã khẳng định rằng bánh ấy chính là Ngài , khi Ngài nói với họ:”Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Con người có nhiều khát vọng cần được thỏa mãn, mà khát vọng đầu tiên là thỏa mãn cơn đói khát của thể xác. Ngoài ra, còn những khát vọng khác của tinh thần như nhu cầu được hiểu biết, được bảo vệ, được quan tâm, được thông cảm… Nhưng nhu cầu căn bản và sâu xa nhất là tình yêu. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,16). Thiên Chúa là nguồn tình yêu, mọi tình yêu phải phát xuất từ Ngài , chỉ có Ngài mới thỏa mãn được nhu cầu ấy. Ai được yêu là được sống trong hạnh phúc, mà hạnh phúc thật và trường cửu chỉ có ở trong Thiên Chúa.
Ai muốn được trường sinh và hưởng hạnh phúc thật thì phải dùng lương thực trường sinh, mà lương thực trường sinh chính là Đức Giêsu như Ngài nói:”Ta là bánh ban sự sống”(Ga 6,35). Ta hãy tìm lương thực trương sinh ấy trong Lời Chúa và Thánh Thể. Đấy là lương thực thần linh nuôi sống con người trong cuộc hành trình đi về quê trời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 16,2-4.12-15.
Đây là trình thuật được viết sau cuộc lưu đầy nói lên những thử thách mà dân Chúa phải chịu đựng trong sa mạc. Dưới sự hướng dẫn của Maisen và Aaron, dân Do thái đã từ giã Ai cập về Đất hứa. Họ phải vượt qua sa mạc khô cằn của núi Sinai. Sa mạc cũng là nơi thử thách, mà một trong những thử thách lớn nhất đối với họ là đói, không có thức ăn.
Họ đã kêu trách ông Maisen vì đã đem họ vào sa mạc này để bị chết đói. Họ muốn trở lại Ai cập. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, Ngài cho manna từ trời rơi xuống để làm bánh và cho chim cút sà xuống để làm thức ăn trong suốt 40 năm trời trong sa mạc. Khi dân được hưởng hoa mầu nơi Đất hứa thì manna chấm dứt.
Qua phép lạ manna này, người Do thái đã biết nhìn nhận trong những hiện tượng tự nhiên sự biểu lộ lòng ân cần săn sóc của Thiên Chúa đối với họ và lương thực họ dùng hằng ngày là do Chúa ban.
+ Bài đọc 2 : Ep 4,17-24.
Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô hãy từ bỏ “con người cũ” mà mặc lấy “con người mới”. Giáo huấn của Ngài dựa trên phép Thánh Tẩy, vì khi chịu phép rửa tội là chúng ta đã chết cho tội lỗi, giết bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới theo tinh thần Đức Kitô.
Ngài khuyên các tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới theo tinh thần mới và cách sống như Đức Kitô :”Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện”(Ep 4,24).
+ Bài Tin mừng : Ga 6,24-33.
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng rất hồ hởi và hy vọng. Hôm sau, họ đến với Đức Giêsu rất đông, hy vọng kiếm được của ăn ít ra cũng dồi dào như manna, xưa đã nuôi sống cha ông họ trong sa mạc suốt thời gian đi về Đất hứa.
Nhưng Đức Giêsu muốn hướng họ lên cao hơn một bước, Ngài mời họ trước hết hãy tìm kiếm lương thực không hư nát, là thứ tồn tại cho đến cuộc sống vĩnh hằng :”Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”(Ga 6,26)
Họ tưởng lương thực mà Đức Giêsu nói đây là manna ngày xưa cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Nhưng Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của họ và nói rõ ràng hơn:”Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”(Ga 6,35).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tìm lương thực trường sinh
ĐI TÌM LƯƠNG THỰC CHO CUỘC SỐNG.
Điều Đức Giêsu muốn dạy ta.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông đồ bỏ đảo Zénéâzareth trở về Capharnaum, nhưng Đức Giêsu không đi cùng thuyền với các Tông đồ vì Ngài còn lên núi cầu nguyện một mình (Ga 6,15). Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không đi trên thuyền đó, nên họ đổ xô đi tìm Ngài. Khi về tới Capharnaum gặp Chúa, họ hết sức ngạc nhiên vì gặp Ngài ở đó rồi:”Lạy Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Một câu hỏi đơn sơ, tỏ lòng tha thiết với Chúa và muốn biết Ngài đến đây bằng cách nào.
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi ấy, mà nhân cơ hội này Ngài giảng cho họ một bài về Bánh hằng sống. Bài này cốt nâng cao tư tưởng thính giả lên bên trên những lo lắng vật chất. Đức Giêsu biết rõ, dân chúng chỉ đến với Ngài sau khi được ăn bánh no nê. Và phép lạ làm cho bánh hoá nhiều làm cho người ta nghĩ rằng : đã đến thời lập lại nước Israel, đời sống sẽ phú túc. Bài này có ý cải chính ý tưởng đó.
Điều Đức Giêsu muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài sai đến, tức tin vào Ngài là Đấng vừa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho người Do thái nhận ra rằng Ngài không chỉ có thể làm cho bánh hoá nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người, mà Ngài còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên, mà còn sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người :”Chính Ta là Bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đức Giêsu là bánh trường sinh. Bánh trường sinh ban sự sống trường sinh. Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì được no thỏa tâm hồn. Nhưng sự sống trường sinh là gỉ ? – Sự sống trường sinh là nhận biết Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận. Sự sống trường sinh là sự sống của” con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Đức Kitô. Cụ thể đó là con người thực sự sống công chính và thánh thiện (bài đọc 2).
Sự đói khát triền miên của con người.
Đức Giêsu nói với họ:”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”(Ga 6,26). Đức Giêsu nói chuyện với những người nông dân vùng Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ là thế nào khi họ miệt mài làm việc để mùa thu hoạch có kết quả tốt. Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường : đói, khát, bánh, nước…
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi : nếu một người giầu có đầy đủ : gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng… nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng ? Nếu chúng ta trả lời rằng “CÓ” thì các bài đọc Kinh thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là : Trên thế giới này có hai loại đói : trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được.Nói cách khác, dầu chúng ta có giầu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bầy tỏ được.
Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiều thốn vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu, nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn.
Truyện : Hoàng đế Tần thủy Hoàng.
Tần thủy Hoàng của nước Tầu đã sống trước Chúa Giáng sinh 200 năm. Ông tự phong là “Nhất Thế”, nghĩa là vô địch nhất thế gian này, về đức độ hơn cảø Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung hoa. Tần thủy Hoàng còn muốn trường sinh trẻ mãi, nên đi tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai quần thần đi khắp nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông… Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, nămB, tr 155).
Thỏa mãn sự đói khát của con người.
Dân chúng hỏi Đức Giêsu rằng:”Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đáp lại:”Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến” Ở đây bắt đầu một mặc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu ! Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chứng hàng triệu lần từ 2000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin, đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Đức Giêsu vừa đưa ra một tuyên bố quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thực của Thiên Chúa là tin Ngài. Người Do thái nói : Hay lắm, quả thật đây là lời tuyên xưng mình là Đấng Messia, vậy ông hãy chứng minh đi…
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh 16,15). Trong Do thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng : khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được cho là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Maisen, mà Đấng Messia thì còn phải hơn thế nữa. Vị cứu tinh đầu tiên thế nào thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thể ấy.
Như vậy, dân Do thái đang thách thức Đức Giêsu hãy khiến bánh từ trời xuống để hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Họ không chịu xem số bánh cho 5000 người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ, manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Maisen đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ : manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể xác nhưng là sự sống. Đức Giêsu tuyên bố rằng sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
ĐI TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH.
Phải hướng tâm hồn lên.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người tìm đến với Ngài khi Ngài nói:”Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Gêsu biết rõ tâm tư của họ, họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước. Dĩ nhiên, việc ăn uống nuôi thể xác là một điều cần thiết, ai lại không phải ăn ? Nhưng Đức Giêsu muốn nói với họ là ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên:”Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Truyện : Napolén có đôi mắt sáng.
Một hôm, Napoléon, vị hoàng đế có một đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có một đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoléon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn :
– Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không ?
Người bạn trả lời :
– Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả.
Napoléon nói :
– Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.
Rồi Napoléon nói tiếp :
– Những người nhìn mầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen.
Lời nhận xét trên đây của Napoléon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém (Phạm văn Phượng).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng gián tiếp chê bai những người đến với Ngài không phải vì đã chứng kiến các dấu lạ mà chỉ muốn được ăn no nê. Họ chỉ biết thỏa mãn những gì thuộc thể xác, còn những gì cao hơn họ không để ý tới. Như vậy, theo như Napoléon, họ mới sống được nửa cuộc đời mà thôi.
Những khát vọng của con người.
Con người sống trên trần gian này có rất nhiều khát vọng cần được thỏa mãn. Khát vọng đầu tiên là được thoả mãn cơn đói khát thể xác. Cái ăn cái uống là những nhu cầu vật chất khẩn thiết làm cho thể xác được bảo toàn và tăng trưởng. Người Tây phương có một câu ngạn ngữ nói về nhu cầu đó :”Manducare priusquam philosophare” : ăn đã rồi muốn nói gì thì nói. Người Việt nam chúng ta cũng có tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ :”Dĩ thực vi tiên” : cái ăn phải đứng đầu.
Ngoài những nhu cầu vật chất, người ta còn có những khát vọng tinh thần cần được thỏa mãn : nhu cầu hiểu biết, cần được tôn trọng, cần được quan tâm, cần được thông cảm…. Tuy nhiên, con người còn có một khát vọng căn bản và sâu xa nhất , đó là khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sống đời đời. Nói cách khác, đó là khát khao Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khát khao này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Chính Chúa là hạnh phúc, ai được yêu mến là sống trong hạnh phúc. Nhiều người muốn được hạnh phúc mà không biết cách tìm, họ tìm hạnh phúc ơ nơi tạo vật mà bỏ quên Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, cho nên họ đã thất bại. Thay vì tiến tới hạnh phúc, họ chỉ đạt tới những bất hạnh vì họ đã đi trệch đường.
Truyện : Kinh nghiệm của một người.
Tại Pháp, có một thương gia rất giầu, phương châm sống của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng : thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông:”Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
Khát vọng được lấp đầy.
Đức Giêsu nói :”Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian :” Ta là bánh hằng sống”. Linh hồn chúng ta phải có của ăn mới sống được, mà của ăn ấy chính là Đức Kitô :” Chính Ta là bánh ban sự sống ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói:”Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Thánh Augustinô đã thú nhận rằng:”Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn đến nỗi không gì có thể lấp đầy được, ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Ngài.
Vậy sứ điệp trong các bài Kinh thánh hôm nay gửi đến cho chúng ta như sau :Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thoả mãn. Sứ điệp này đã mang lại ý nghĩa mới cho hàng triệu người và nó cũng mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới miễn là chúng ta chấp nhận nó.
Hãy sống bằng bánh trường sinh.
Khi người Do thái nói với Chúa:”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ:”Chính Ta là Bánh trường sinh” Bánh trường sinh mà Đức Giêsu ban cho chúng ta, chính là Lời Chúa và Thánh Thể.
* Lời Chúa : Chúng ta thấy quan niệm cho rằng Lời Chúa, giới răn Chúa là thức ăn thiêng liêng bồi dưỡng cho con người, cao qúi hơn thức ăn thông thường đã có trong Cựu ước. Ví dụ tiên tri Amos đã nói:”Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lời Chúa”(Am 8,11).
Tiên tri Giêrêmia cũng khát Lời Chúa :”Khi nghe Lời của Ngài, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”(Gr 15,16).
* Thánh Thể : Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rõ :”Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ… một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Ngài kết luận :”Chính ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giê-su để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giê-su. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai cập! Thà làm nô lệ Ai cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô : “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng họ chẳng sống được muôn năm, mà nấm mồ chôn vùi họ thối nát dưới lòng đất. Lãnh tụ nổi tiếng nhất trong loài người muốn sống muôn năm và lo tìm thuốc trường sinh bất tử, có lẽ là Tần thủy Hoàng của nước Tầu, đã sống trước Chúa Giáng sinh hơn 200 năm. Ông tự phong là Nhất Thế, nghĩa là vô địch nhất thế gian này về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Thủy Hoàng còn muốn được trường sinh trẻ mãi, nên tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai phái quần thần đi khắp mọi nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt làm theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta như bảo ông phú hộ rằng: “Đồ ngốc ! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc. 12, 20). Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi. Khi chết, thây ma của ông thối tha ghê tởm đến nỗi phải gánh cá thối đi trước kẻo dân chúng nguyền rủa: “Ác giả ác báo”.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy dân chúng đi tìm Chúa Giêsu để được bánh ăn như hôm qua họ mới được ăn bánh hóa nhiều. Nhưng Chúa đã nhắc nhở họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông”. Họ tưởng Người sẽ ban cho họ thứ bánh như Môisen đã cho tổ tiên họ ăn man na trong sa mạc suốt thời gian bốn mươi năm về đất hứa. Họ vội vàng xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”. Họ sẽ sống sung sướng biết bao, không phải làm ăn cực khổ.
Trước đó mấy ngày, người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp lấy nước. Chị được gặp Chúa Giêsu. Người cũng nói với chị: “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Chị đã mau lẹ xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga. 4, 13-15).
Thời nào con người cũng chỉ biết tham muốn đòi hỏi những của ăn vật chất hay hư nát như vậy. Tần thủy Hoàng, dân Do thái, dân Samari và cả chúng ta nữa: “được voi đòi tiên”, không bao giờ được thỏa mãn. Lòng tham con người không đáy. Ở nước nghèo đòi ăn no mặc ấm, có nhà ở. Ở nước giàu ăn dư thừa lại luôn xuống đường đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi bớt ngày làm việc, từ bảy ngày xuống năm ngày, từ 48 giờ xuống 40 giờ, 30 giờ, còn để giờ đi xả hơi, đi chơi, coi phim, du lịch đua xe, đấu bóng, đấu võ, tới chỗ đánh nhau, chửi nhau, gây rối, rượu chè, cờ bạc, nghiện ma túy, phá hoại, chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nhàn cư vi bất thiện. Không ở đâu trên thế gian làm cho người ta được bằng lòng ! Ở Việt Nam đòi sang Mỹ, ở Mỹ lại đòi về ! Càng giàu càng lắm nhu cầu. Càng nhiều nhu cầu càng khổ vì chẳng bao giờ được thỏa mãn.
Người ta chỉ biết tìm những của hư nát và chết theo của hư nát đó thôi.
Chúa Giêsu thấy con người sống trong cảnh hư nát bi đát tội nghiệp đó, đã kêu gọi ta: “Hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, để có lương thực không hư nát. Việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Đấng ấy chính là Tôi”, “Chính Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ nữa”. “Đến với Tôi, tin vào Tôi” là sống như chính Chúa Giêsu sống, sống với tâm tình và hành động như Người. Sống bằng sức sống của Người đã sống và đã chết để hy sinh lấy thịt máu mình cho con người được sống và được sống dồi dào. Sống như thế sẽ không còn đói, hy sinh như thế sẽ không còn khát, không còn lòng tham không đáy nữa, không còn đau khổ, nhưng được sống trường sinh hạnh phúc muôn đời
Thánh Ignatiô, Đấng sáng lập Dòng Tên, một dòng trí thức nhất của Hội thánh, Ignatiô lúc còn là đại úy, là quan, là hiệp sĩ anh dũng đầy những tham vọng, đòi giàu sang, khát danh tiếng, mê lạc thú, khát khao đủ mọi của hư nát thế gian. Chẳng may, Ignatiô bị thương nặng, què cẳng, phải nằm nhà thương lâu dài. Ông có dịp đọc sách “Gương Chúa Giêsu”, ông cảm thấy tâm hồn thanh thoát, phấn khởi chan chứa niềm vui. Ông thấy niềm vui thánh thiện này khác hẳn với thú vui dục vọng, danh vọng, giàu sang. Niềm vui thế tục như của ăn hư nát, vui chút là hết, lại sinh ra buồn chán, khổ sở, cắn rứt bất mãn như kẻ say rượu, mê cờ bạc, nghiện ngập. Niềm vui nhân đức, thánh thiện, việc lành, tồn tại mãi, an tâm, phấn khởi, thanh thoát, giống như niềm vui của tuần tĩnh tâm, của mùa thương khó, của lễ Phục sinh và Giáng sinh.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ignatiô tìm được lương thực trường sinh vinh phúc, xin cho chúng con luôn luôn làm việc của Thiên Chúa là tin mến vàsống theo Đức Giêsu để được Thịt và Máu Thánh Người bổ dưỡng chúng con bây giờ và cho đến muôn đời.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LƯƠNG THỰC VĨNH CỬU- Lm. Louis Phạm Hữu Độ, CMC
Đức Tổng GM Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ từ năm 1950 tới năm 1979. Ít ngày trước khi qua đời trong năm 1979, một nhà báo hỏi ngài “Thưa Đức Cha, ai đã tạo động lực cho Đức Cha về việc chầu Thánh Thể mỗi ngày, có phải vị thánh nào hay Đức Giáo Hoàng nào chăng?” Ngài trả lời: “Không phải từ vị thánh hay Giáo Hoàng nào cả nhưng là từ một cô bé người Tàu 11 tuổi” Ngài kể: Khi Trung cộng xâm chiếm Trung Hoa, lính Trung cộng đã đến 1 giáo xứ kia bắt giam Linh mục xứ trong nhà xứ, kế bên nhà thờ, rồi họ hung hăng tiến vào Thánh Đường phá vỡ Bàn Thờ và Nhà Tạm, đổ tung Mình Thánh ra. Qua khung kiếng cửa sổ vị Linh mục này nhìn thấy tất cả, và ngài còn nhớ rõ là trong Nhà Tạm bấy giờ có 32 Mình Thánh. Rồi lính Trung Cộng bỏ đi để lại 1 lính gác nhà thờ và 1 lính gác nhà xứ. Họ không ngờ bấy giờ có 1 cô bé đang cầu nguyện trong góc tối của nhà thờ. Cô nhìn thấy mọi sự. Đêm hôm ấy cô lẻn vào Nhà Thờ bằng cánh cửa riêng. Cô qùi chầu Chúa 1 giờ đền bù lại hành vi xúc phạm đó, rồi cô cúi xuống dùng lưỡi chịu lấy Mình Thánh Chúa vương vãi trên nền nhà thờ. Và cứ thế mỗi đêm cô đều tới chầu Chúa và chịu Lễ như vậy. Đến ngày thứ 32 sau khi chịu xong Mình Thánh cuối cùng cô lẻn ra, không may gây tiếng động khiến tên lính nghe được, đuổi theo và dùng báng súng đập chết cô. Cha xứ kể lại câu chuyện cảm động trên, Đức Tổng GM Fulton Sheen biết được và từ đó Ngài hứa với Chúa, bắt chước gương can đảm của cô bé và dù bận rộn đến đâu đi nữa Ngài vẫn giữ thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể 1 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ăn là một nhu cầu và là một tác động rất quen thuộc với con người. Có ai sống mà không ăn. Chúa Giêsu không ngoại lệ. Phúc Âm nhiều lần kể Chúa Giêsu được mời tới nhà người ta ăn. Vì ăn là một sinh hoạt quen thuộc và quan trọng như vậy nên từ đó Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại một Của Ăn thiêng liêng là Thịt Máu Ngài. Đoạn Phúc Âm hôm nay kể lại chính Chúa tuyên bố, Thịt và Máu Chúa là Của Ăn cho nhân lọai. Đây không phải là câu nói chơi vì nó liên quan đến hạnh phúc đời đời của biết bao nhiêu người nên không nói chơi được. Đây cũng không phải là câu nói do cảm hứng hay tình cờ. Thiên Chúa không làm việc theo cảm hứng hay tình cờ nhưng có chương trình rỏ ràng, vả lại Chúa lập đi lập lại nhiều lần và cho dù nhiều người chống đối hay có nhiều môn đệ bỏ đi, Ngài vẫn cứ giữ nguyên câu nói đó.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố Bánh Thiên Chúa ban là bánh bởi trời xuống và đem sự sống cho thế gian thì người Do Thái xin Chúa cho ăn mãi thứ Bánh đó. Chúa mới hướng họ về chính Chúa: Ta là Bánh trường sinh. Bánh thỏa mãn cơn đói và cơn khát của con ngưòi.
Ước mong hạnh phúc đời đời đó là niềm khát vọng sâu xa nhất của con người vì chúng ta được dựng nên có hạn nhưng lại khao khát sự vô hạn, chúng ta được dựng nên trong thời gian nhưng lại khao khát sự vĩnh cữu, chúng ta được dựng nên tại trái đất này nhưng chẳng có thứ gì ở trái đất này làm mình thõa mãn. Bởi vì linh hồn con người rất cao qúi nên chỉ có Đấng dựng nên nó mới làm nó thõa mãn mà thôi. Thịt Máu của Đấng vĩnh cữu sẽ ban cho con người sự sống vĩnh cữu, vì có được cái gì thì mới có thể ban ra cái đó, người ta không thể cho cái mà mình không có. Khi xưa Nã phá Luân, Hoàng đế nước Pháp, vinh quang tỏa sáng, danh tiếng khắp nơi. Một hôm có người đánh bạo hỏi vua “Thưa đức vua, đối với Ngài thì đâu là ngày đẹp nhất và qúi báu nhất trong đời Ngài?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Ngày đẹp nhất và qúi trọng nhất trong đời Ta đó là ngày Ta được Rước Lễ Lần Đầu.”
Cơm bánh nuôi dưỡng thân xác chúng ta điều đó cần thiết nhưng chưa đủ vì chúng ta chỉ sống một thời gian nào đó trên trần gian này. Điều quan trọng là chúng ta không nhắm tới cái tạm thời mà trông vào cái vĩnh cữu. Chúng ta không muốn mình sống có 100 năm mà sống đời đời. Hãy rước Chúa vào lòng. Đó là sự nuôi dưỡng cao cả nhất và bền vững nhất vì được chính Chúa thì được hơn mọi thứ trong trần gian này. Đừng coi việc Rước Lễ là một sự thông thường, cũng đừng làm như một hành vi máy móc, vì thông thường sẽ dẫn tới coi thường, và máy móc thì không có mến yêu.
Xin Mẹ Maria, là Đấng ban Thịt Máu cho Chúa Giêsu, giúp chúng ta yêu mến Thánh Thể và dọn linh hồn đón nhận Lương Thực Vĩnh cửu này.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.
Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.
Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.
Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.
Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.
Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.
Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.
Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH TÌNH YÊU- Lm. Mattheu Vũ Văn Lượng, OP
Kính thưa cộng đoàn,
Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại nước mắt; có cuộc gặp gỡ mang lại hạnh phúc thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại khổ đau; có cuộc gặp gỡ mang lại hiệp nhất thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại ly tan; có cuộc gặp gỡ mang lại ngọt bùi thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại cay đắng; v.v….
Thưa quý ông bà anh chị em, đó là cuộc gặp gỡ trong thân phận con người chúng ta. Từ những cuộc gặp gỡ đó, chúng ta hướng đến một cuộc gặp gỡ cao trọng nhất, thân thương nhất. Đó là cuộc gặp gỡ mang tính thần-nhân, cuộc gặp gỡ giữa mỗi chúng ta và Đức Giêsu. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài không nói với chúng ta bằng ngôn ngữ nào khác hơn là thể hiện tình yêu qua cái chết của con Ngài. Tình yêu này được cụ thể hoá nơi phép Thánh Thể là chính thân mình Đức Kitô Giêsu.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Chalot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất của ngành điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Cuốn phim kể về câu chuyện tình của gã lang thang và cô gái bán hàng hoa.
Nàng là cô gái mù bán hàng hoa bên vệ đường. Ngày nào cũng có một nhà tỉ phú dừng lại mua hoa của nàng. Thế rồi, một ngày kia cũng có một gã lang thang tên là Chalot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Tưởng là người tỉ phú, nàng đem lòng yêu mến và giấc mộng đã từ đây chớm nở nối kết hai tâm hồn. Phần nàng, nàng tưởng rằng mình gặp được người mình mơ mộng bấy lâu nay. Còn chàng Chalot thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù loà cho nàng.
Chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát giam giữ. Sau thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Rồi chàng trở lại chỗ cũ để tìm lại người con gái mù loà bán hoa, nhưng nàng đã ra đi. Nhờ tiền bạc trước đây chàng gởi cho, người con gái nay đã thấy được và đang đứng bán một cửa hàng hoa rộng lớn hơn. Chàng qua lại nhiều lần nhưng không thể nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hồng rơi xuống đất, chàng vội cúi nhặt lấy. Nhưng người con gái cười như khinh bỉ chàng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng vội quay lại và khẽ hỏi: “Cô thấy được rồi sao?” Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng… Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên, gắn lên áo chàng và nghẹn ngào thốt lên: “Anh đấy sao?” Cả hai người nhận ra nhau và không bao giờ xa nhau nữa.
Kính thưa cộng đoàn, đó cũng là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ cao trọng hơn đó là phép Thánh Thể. Lời mời gọi nối kết con người và Đức Giêsu Kitô làm một:
Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói;nai tin vào tôi chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35)
Đức Kitô nối kết tình yêu của mình với nhân loại bằng chính sự hiến thân cứu chuộc. Ngài trút bỏ mọi vinh hoa phú qúy, để sống kiếp phàm trần, để có dịp gặp gỡ và buồn vui với con người. Thánh Phaolô đã miêu tả: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. … (Pl 2, 5-7).
Kính thưa cộng đoàn,
Đức Giêsu Kitô đã phục sinh và Ngài đã về với Thiên Chúa Cha, thế nhưng, một cách âm thầm, Ngài vẫn ở lại trong bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để mời gọi mọi người hãy đến cùng ăn một bánh và cùng uống một chén. Một khi đã cùng ăn, cùng uống Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta lại được cùng nhau hòa quyện trong tình yêu của Ngài. Tình yêu nối kết mỗi người lại với nhau, như Đức Kitô đã được sống trong tình yêu của Chúa Cha. Thánh thể là việc tự hiến mình trong đức ái của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và cho mọi người chúng ta. Do đó, chúng ta cũng học theo gương Ngài mà trao cho nhau những hành động và cử chỉ yêu thương, điều này đòi hỏi một đức ái vững bền. Anh chị em có thể làm phúc, giúp đỡ người nghèo khó, người cô thế cô thân… với một tinh thần yêu thương, chắc hẳn anh chị em sẽ gặp được chính Đức Kitô nơi họ. Hình ảnh Đức Kitô nơi anh chị em đồng loại cũng chính là Đức Kitô trong Thánh thể, mà anh chị em rước lấy mỗi ngày – ai làm cho một trong những người bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Kitô luôn đồng hành và dẫn dắt mỗi người chúng ta đến, để chúng ta cùng gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới đầy yêu thương. Đó là nước trời mà Thiên Chúa Cha dành sẵn và đang chờ đón chúng ta.
Anh chị em có thể là một người nghèo vật chất, nhưng xin anh chị em đừng nghèo về tinh thần, nghèo tình cảm, nghèo lòng nhân đạo, nhất là nghèo tình yêu. Mọi điều Đức Kitô Giêsu ban tặng cho chúng ta được gói trọn trong hai chữ tình yêu: Này là mình Thầy hiến tế vì anh em. Tình yêu Đức Kitô làm cho chúng ta nên một, tràn ngập niềm vui và hy vọng.
Kính thưa cộng đoàn,
Thánh Gioan cho chúng ta thấy việc mặc khải Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống, cũng chính là mặc khải của hành trình nối kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa con người với Thiên Chúa, giữa niềm vui và ơn cứu độ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha và con người trong Đức Kitô. Bánh Hằng Sống diễn tả nét đặc trưng con người Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và sự hiên diện của Ngài giữa chúng ta đã đem lại một luồng sinh khí mới và nối kết mọi người trong mối giây hiệp thông.
Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha đã gởi đến cho chúng ta và Ngài là hồng ân được tặng ban qua quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài dùng bí tích Thánh Thể để công bố tình yêu của Chúa Cha và tuôn đổ Thần Khí của Ngài. Như vậy, sự hiệp thông của Ngài cũng chính là sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn tình yêu, bởi vì Đức Giêsu được dâng hiến như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại và canh tân mọi tạo vật. Do đó, khi cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để gặp gỡ Đức Kitô, nguồn mạch sự sống và tình yêu, và làm cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được biến đổi thành một hồng ân.
Cũng như cánh hồng là sợi chỉ hồng đan kết Chalot và nàng bán hàng hoa lại với nhau, thì cũng vậy, Thánh Thể là nguồn mạch Tình Yêu cũng nối kết chúng ta làm một với Đức Giêsu, tan biến chúng ta trong biển cả Tình Yêu của Ngài, và sau cùng dẫn dắt chúng ta đến hưởng nếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài trên Thiên quốc.
Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương, nối kết mọi tâm hồn chúng con lại với nhau, như cành nho được nối kết cùng thân nho, để ngày càng phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái tốt. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CON NGƯỜI TÌM KIẾM CHÚA VÌ ĐIỀU GÌ?- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Nhiều người lầm tưởng rằng khi thế giới văn minh thì tôn giáo sẽ không còn. Và khi con người đầy đủ vật chất thì nhu cầu tâm linh sẽ hết. Nhưng xem ra những gì đang diễn ra trong cuộc sống lại ngược lại. Nhu cầu tâm linh nhiều hơn. Người ta tìm đến với tôn giáo nhiều hơn. Các lễ hội biểu lộ niềm tin cũng phong phú hơn. . .
Thực ra, con người và tôn giáo luôn là một. Đã có con người là có tôn giáo. Niềm tin đi chung với sự phát triển của xã hội con người. Con người không thể phủ nhận niềm tin trong sâu thẳm tâm hồn mình. Dù một thời gian dài người ta rao truyền một chủ thuyết vô thần nhưng cho tới nay những người gọi là vô thần ta vẫn thấy họ biểu lộ niềm tin của mình qua đi lễ, đi Chùa hay làm việc công đức…
Điều đáng nói là họ tìm về thần linh chỉ để cầu lợi cho bản thân. Họ mong thần linh phù hộ cho công thành danh toại, và đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Họ tìm đến thần linh như một mối lợi cho công danh sự nghiệp, cho tương lai của họ. Họ tìm đến thần linh để tìm đến nhu cầu trước mắt là cái ăn, cái mặc, là của ăn mau hư nát mà thôi.
Năm xưa, khi những người Do Thái đi tìm Chúa về lý do trần thế, Chúa Giê-su đã mời gọi họ “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. Và muốn có lương thực ấy hãy tin vào Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người. Đúng vậy, chính Chúa Giê-su đã xác quyết: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!”.
Nhưng đáng tiếc, với óc thành kiến dân Do Thái đã không tin nhận nơi Ngài. Họ vẫn loay hoay đi tìm một Đấng Messia theo ý họ, một Đấng có thể chiều lòng họ. Điều ấy đã không bao giờ xảy ra. Vì con người là thụ tạo cần phải vâng phục lời Thiên Chúa và để Ngài dẫn dắt cuộc đời con người.
Nhân loại ngày nay cũng đang loay hoay đi tìm Đấng Tạo Hóa, nhưng họ vẫn đi tìm một thần linh theo ý họ. Một thần linh mà có thể “hô mưa hóan gió” theo ý của con người, nên họ thất vọng, đánh mất niềm tin . . .
Xem ra con người ngày nay cũng chẳng khá hơn người xưa là mấy! Những người xưa đi theo Chúa năm xưa là những người “xôi thịt », chỉ mong thấy dấu lạ, được ăn no nê nhưng ít ra họ còn lui tới để nghe Chúa giảng, Chúa nói về Nước Trời.
Ngày nay, người đến nhà thờ vẫn còn đông nhưng người thực sự muốn nghe lời Chúa dạy thì rất ít. Nhất là người thường xuyên rước lễ cũng thưa dần.
Ngày nay, người ta cổ vũ đời sống thực dụng nghĩa là đắm đuối trong chuyện kiếm tiền. Vì như người ta nói “có thực mới vực được đạo !”. Nhưng đó chỉ là ngụy biện, thử hỏi ngày hôm nay có ai chết vì đói hay là chết vì no ? Chỉ thấy chết vì no mà thôi, bởi lẽ người ta ăn nhiều quá, sinh bệnh mà chết, thế nhưng họ vẫn ưu tiên cho việc tìm kiếm của ăn đời này hơn là của ăn không hư nát đời sau.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng chính Ngài là Bánh Trường Sinh có thể làm no thỏa lòng khát khao được sống đời đời. Thế nên, hãy tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và hãy sống theo tinh thần của phúc âm, nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời. Xin cho chúng ta đừng tìm Chúa vì nhu cầu vật chất mà hãy tìm Chúa để Ngài ban cho chúng ta thứ lương thực trường sinh. Xin Chúa thêm ơn để ta nhận ra chỉ có Chúa mới là lương thực trường tồn, là Bánh Trường Sinh. Amen
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐẰNG SAU VẬT CHẤT HỮU HÌNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.
Cơ cấu vật chất- tinh thần
Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.
Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.
Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.
Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình
Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.
Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.
Thiên Chúa là Cha của tất cả
Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.
Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ.
Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH BAN SỰ SỐNG – Lm Anphong Trần Đức Phương
Thiên Chúa đã dựng nên con người “Giống Hình Ảnh Chúa.” (Khởi Nguyên 1: 27). Vì thế, con người trổi vượt hơn mọi loài thọ tạo khác vì vừa có thể xác, vừa có Linh Hồn, và biết suy tư, lý luận, lại có tự do đích thực để trách nhiệm và quyết định cuộc sống của mình.
Thân xác cần ‘của ăn’ để sống và tăng triển; đó là đời sống thể xác, đời sống vật chất. Linh hồn cũng cần ‘của ăn’ để sống và phát triển, đó là đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Xưa kia, khi dân Do Thái đã được Thiên Chúa giúp thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để tiến về Đất Hứa, họ đã phải đi qua sa mạc Sainai khô cằn trong 40 năm. Thời gian ở trong sa mạc dân chúng thiếu của ăn, thì Thiên Chúa đã cho chim cút bay đến và mưa Manna để họ có của ăn. “Manna” nguyên ngữ của người Do Thái thời đó là “Man-hu” có nghĩa là “cái gì vậy?”. Vì khi nhìn thấy Manna rơi xuống, người Do Thái thường hỏi nhau “cái gì vậy?” và Ông Môsê đã trả lời họ: “Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em (Bài Đọc I: Sách Xuất Hành 16: 2-4, 12-15). Người Do Thái đã sống nhờ Manna này trong suốt cuộc hành trình 40 năm để có thể vượt qua sa mạc, và về tới phần đất Chúa đã hứa ban cho cha ông của họ là vùng đất Palestina, nơi người Do Thái đã thành lập nước Israel bây giờ.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Bài Phúc Âm (Ga 6, 1-15) nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ “Năm chiếc bánh và hai con cá” để nuôi đám đông dân chúng sau một ngày dài đến nghe Chúa giảng dạy trong nơi thanh vắng mà không có gì ăn. Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 6, 24-35), khi dân chúng lại kéo đến nghe Chúa giảng dạy, Ngài đã hướng tâm trí họ từ “của ăn hay hư nát” đến “của ăn được tồn tại đến muôn đời”. Chúa Giêsu muốn nói đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc đời sống trần gian để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trên trời; vì “con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa giảng dạy!” Chúa Giêsu cũng cho biết là Manna không phải do ông Moisê ban, nhưng là “Cha Ta đã ban!” Từ đó, Chúa Giêsu hướng tâm hồn các Môn đệ về Bí Tích Thánh Thể là của nuôi linh hồn cùng với Lời Chúa: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ!” Nhưng để hiểu được Lời Chúa, chúng ta cần có Đức Tin: “Tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến” để cứu chuộc chúng ta, để ban chính Mình và Máu Thánh Ngài làm của ăn thiêng liêng cho linh hồn chúng ta.
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay là phần mở đầu của Bài Giảng của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống”. Nhưng Chúa Nhật XIX, XX và XXI (Năm B) tiếp theo, chúng ta sẽ được nghe những Lời Chúa nhấn mạnh hơn để hướng tâm trí chúng ta về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Ăn Tình Thương cùng với Bí Tích Truyền chức Thánh để ban Chức Linh Mục với quyền tế lễ cho các Tông đồ và những người Chúa chọn qua các thế hệ tiếp theo.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho mỗi người chúng ta được luôn giữ vững niềm tin nơi Lời Chúa đã giảng dạy về Bí Tích Thánh Thể, về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu để luôn ở giữa chúng ta và nuôi sống đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Qua Phép Rửa Tội, chúng ta đã được thoát ách nô lệ của tội lỗi, chúng ta cũng hãy hiệp lời cầu nguyện cho chúng ta luôn biết thắng vượt những đam mê tội lỗi theo tính xác thịt để “mặc lấy con người đã được tác thành theo Thánh Ý Chúa” như lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 4: 17, 20-24), và để chúng ta có thể xứng đáng cùng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa, và hiệp thông trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa ngự thật rong Bí Tích Thánh Thể. Cũng xin tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này để các Linh Mục được ơn Chúa sống xứng đáng ơn gọi cao qúy Chúa đã thương ban và hàng ngày xứng đáng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa và ban phát của ăn thiêng liêng cho dân Chúa.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi được Chúa Giê-su ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Ngài cho ăn tiếp. Chúa Giê-su không bằng lòng với toan tính đó nên Ngài nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo tìm kiếm lương thực phần xác mà lãng quên lương thực cho tâm hồn nên Chúa Giê-su răn bảo họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27)
Khi nói như thế, Chúa Giê-su kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị
cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật phi lý khi người ta đầu tư toàn bộ vốn liếng mình có cho thân xác: dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc, chỉ “thu hoạch” được một nắm bụi tro!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời bất diệt thì đáng phải được chăm sóc chu đáo hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”
Chính Chúa Giê-su là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
“Ăn” Chúa Giê-su (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giê-su nhưng là đến với Chúa Giê-su và tin vào Ngài: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Bánh ban sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con thường xuyên “ăn” Bánh này, tức là tìm đến với Chúa, học với Chúa, sống như Chúa để đào tạo bản thân mình nên người có phẩm chất cao đẹp. Nhờ đó, mỗi người chúng con trở thành hình ảnh sống động của Chúa giữa trần gian và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CỦA KHÔNG HƯ NÁT- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một của sổ. Bất chợt, Na-pô-lê-ông chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Na-pô-lê-ông nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Na-pô-lê-ông nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Na-pô-lê-ông là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã tìm thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh nó nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: Những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ…Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên nước trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
“Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có giá trị vĩnh cữu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH ĐÍCH THỰC (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần:
a/ Phần I nói về việc dân đi tìm Chúa.
Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Chúa Giêsu. Ngày hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê.” Rồi Ngài dạy họ tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
b/ Phần thứ 2
Chúa Giêsu bắt đầu giải thích cho dân về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”là gì.
– Đó là thứ của ăn đó vượt trội hơn Manna ngày xưa.
– Nghe thế dân chúng tưởng đó cũng là một thứ thức ăn vật chất – nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
CUỘC SỐNG
Vì còn mang thân xác, nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này ra còn một sự sống cao hơn, đó là sự sống thần linh. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta hôm nay: hàng ngày chúng ta thường tìm gì? Tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh.
Nếu chúng ta chỉ đi tìm những thứ hay hư nát thì hãy coi chừng. Một lúc nào đó chúng ta sẽ trắng tay!
Đây là kinh nghiệm của một người đã đạt được những thành công vang lừng trong cuộc sống. Tên anh là J. Demsey. Anh là một võ sĩ quyền anh có đẳng cấp thế giới. Chiều hôm đó anh vừa mới đoạt được chức vô địch. Nhưng rồi đêm đến anh không sao nhắm mắt được. Mãi đến 2 giờ sáng anh mới thiu thiu ngủ được một chút. Nhưng ngủ chưa được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…)
“Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”
Vâng có những thứ rất mau hư nát nhưng bên cạnh đó cũng có những thứ trường sinh.
Thánh Gioan Kim khẩu nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ có được những ước vọng cao hơn bức tường thành của thế gian để phóng tầm mắt lên đến chân trời của cõi đời đời. Sự khác biệt giữa một người chỉ biết nhìn gần và một người biết nhìn xa thật lớn lao vô cùng. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen. Bấy giờ trời đã về khuya, ngoài trời tối đen như mực. Hai người đến gần bên khung cửa sổ. Trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu cái kim, đang nhấp nháy sáng. Mắt của Nã phá Luân còn rất tinh, còn mắt bạn ông đã mờ. Ông chỉ lên trời và hỏi:
– Anh có thấy các ngôi sao đó không?
Người bạn đáp:
– Tôi không thấy.
Nã Phá Luân nói:
– Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi và anh..
Người bị buộc chặt vào thế gian thì không thể thấy được những gì ở xa. Họ mới chỉ thấy được những cái thật gần mà cái gần nhất của họ như lời thánh Phaolô nói: Đó là cái bụng. Như vậy họ mới sống có phân nửa của cuộc đời. Chỉ có những ai có tầm mắt nhìn xa, nhìn thấy cả vùng trời xa xăm, thấy được các ngôi sao, họ mới là người thật sự sống.
Sau năm 60 SC, xã hội Lamã sống trong sự sa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ người Lamã đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi. Người ta uống thuốc cho nôn mửa giữa hai bữa ăn, để lần sau ăn cho ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thường tình. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và đính nhiều châu ngọc trị giá tương đương bốn mươi ngàn Anh kim. Họ tưởng ăn như thế, mặc như thế là cuộc sống sẽ hoàn toàn được thỏa mãn. Không! Ngàn lần không. Họ vẫn còn đói, vẫn còn khát. Sự đói khát không gì thoả mãn được. Họ tiếp tục tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có một thêm những rung động mới, hương vị mới, nhưng chẳng có gì có thể làm cho họ được no thỏa.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến sự thoả mãn về phần thể xác, nên Chúa đã cho họ ăn một bữa dư dật chẳng phải trả tiền, và họ còn muốn được ăn nữa. Tầm nhìn của những người Do thái mới chỉ dừng lại ở đó.
Thế nhưng như mọi người đều thấy. Đâu phải chỉ có cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói khác. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ :
– Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Và thứ đói này chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng ta được no thỏa.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với viên sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói : “Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao rồi. Cha Mark Link viết: “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
THỰC THI Ý CHÚA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn bà và con trẻ đi theo Chúa, họ đã được nghe Chúa giảng dạy, chữa lành bệnh tật, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhất là được ăn bánh và cá no nê. Một ngày kết thúc, Chúa giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Tất nhiên là họ không thấy Chúa nữa, các môn đệ Chúa cũng không, nên họ cũng xuống thuyền hướng về Capharnaum để tìm gặp Chúa. Thấy Chúa họ hết sức vui mừng và ôn tồn hỏi Chúa : “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” (Ga 6, 25). Câu hỏi này không làm Chúa vui, nên Chúa buôn lời phán với họ rằng: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Họ đã cất công tìm Chúa, ấy vậy khi gặp chẳng thấy Chúa an ủi vỗ về lại nhận được lời quở trách tìm Chúa vì cái bụng, thật là buồn. Chúa khuyên họ : “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 26). Chúa gợi lên nơi họ sự sống đời đời để dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì thì cũng phải nhắm tới mục tiêu tối hậu là sự sống đời đời, khiến họ khao khát thưa Chúa rằng : “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” (Ga 6, 28) Chúa Giêsu đáp : “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga 6, 29).
Từ trên cung thánh nhìn xuống dưới, bên trong và bao quanh nhà thờ giờ đây cũng có một đám đông với đủ mọi tầng lớp, đàn ông, đàn bà và con trẻ, chắc số đàn ông chừng vài trăm. Nếu trong Tin Mừng, những người tìm kiếm Chúa với những thái độ khác nhau : có người tìm Chúa vì đã được ăn bánh no nê, có người thì mong gặp Chúa là Đấng làm những dấu lạ, một số người khác lăng xăng đi tìm Chúa bởi họ có kinh nghiệm về sự hiệp thông thân tình với Chúa họ thưa Chúa rằng : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (Ga 6,34). Phần chúng ta, một câu hỏi được đặt ra cho chính chúng ta đang ngồi đây : Chúng ta đến đây để làm gì ? Chúng ta tin Chúa, tìm Chúa và theo Chúa vì điều gì ? Phải chăng là để được ăn bánh no nê ? Có người sẽ nói, chúng con đến tham dự Thánh lễ, đến tìm gặp Chúa chứ còn gì nữa. Phần lớn câu trả lời sẽ là như vậy. Chắc chắn Chúa Giêsu rất vui khi thấy chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm Chúa và đi theo Chúa.
Đúng, chúng ta đến đây tham dự Thánh lễ, xin ơn khỏe mạnh phần hồn, an lành phần xác, nhưng sự sống đời đời phải là mục tiêu chúng ta nhắm tới. Lời Chúa Giêsu nói với đám đông xưa kia, cũng là lời Chúa dạy chúng ta ngày hôm nay: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Chúng ta vẫn làm việc không ngừng đấy thôi, nhưng lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Ra công làm việc để có nhiều của cải thăng tiến bản thân, phục vụ gia đình, góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội là điều chính đáng. Nhưng không thể làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật dẫn đến bỏ lễ Chúa nhật và lễ trọng buộc, bỏ đọc kinh tối sớm là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Hãy thực thi đức công bằng trong làm ăn, thuận mua vừa bán, đừng mùa thừa bán thiếu, đánh đổi trắng đen thu lời bất chính, có kiếm được lương thực dồi dào thì cũng hư nát và chỉ dành cho sự sống tạm bợ đời này. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực nuôi dưỡng phần linh hồn chúng ta, giúp chúng ta đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này. Thứ lương thực cao quí ấy được ban bởi Đấng Hằng Sống. Mặc dù được trao ban cách miễn phí, nhưng muốn có được Bánh Hằng Sống ấy, con người phải làm việc, mà công việc Thiên Chúa muốn con người phải làm là hãy đến và tin vào Đức Ki-tô, vì “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ” (x. Ga 6.35).
Người Do thái hỏi Chúa : “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Xem ra không có liên quan gì đến “công việc của Thiên Chúa”, nhưng vẫn có liên quan vì Chúa Giêsu mời gọi họ « ra công làm việc … công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Ra công làm việc nhưng hướng đến lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, mà để có được sự sống ấy thì chúng ta phải nỗ lực tin vào Chúa Giêsu, tin đến độ lấy Chúa làm của ăn của chúng ta. Chính Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại : “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3,15 ) ; “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20, 15). Vì thế, tin không còn là công việc, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự hiến mình làm của ăn cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Tin là “ra công làm việc… vì của ăn vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Vậy, chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát là thánh ý Chúa, Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa. Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị trường tồn này.
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu rằng, đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để một ai trong chúng con lạc xa thứ lương thực cao quí này. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BÁNH BAN SỰ SỐNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu trốn lên núi, vì họ muốn tôn phong Chúa lên làm vua. Thấy vậy, dân chúng đua nhau đi tìm Đức Giêsu, họ hy vọng sẽ được Ngài tiếp tục ban cho những của ăn như lần trước… Thế nhưng, lợi dụng cơ hội này Đức Giêsu cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực mau hư nát, nhưng hãy lo tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”.
Thiên Chúa tạo dựng nên con người, Ngài hiểu rõ lòng khao khát của con người là vô biên vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn.
Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó.
Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay. Như vậy, chỉ có những gì là giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao của con người mà thôi.
Vậy, tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên của con người? Tìm đâu ra thứ bánh làm no thỏa được cơn đói hạnh phúc mà con người mong mỏi tìm kiếm?.
Trang Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta loại bánh có giá trị tuyệt đối, đó là bánh đích thực, bánh ban sự sống, bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đây là bánh Thiên Chúa ban từ trời chứ trần gian không làm ra được. Tấm bánh đó là chính là Đức Giêsu Kitô.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Chúa dùng hình ảnh tấm bánh vật chất để dạy cho dân chúng biết giá trị của ăn thiêng liêng. Vậy mỗi khi chúng ta tham dự bàn Tiệc Thánh Thể, với tất cả ý thức, là cử hành mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin rằng: tấm bánh mà chúng ta rước lấy, chính là Đức Kitô, sẽ đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Thế nhưng trong thực tế, rất nhiều lần chúng ta tham dự Thánh lễ, chúng ta rước lấy Mình Thánh Chúa rồi mà dường như lòng vẫn cảm thấy không có bình an và hạnh phúc trong Chúa. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta chưa cảm nghiệm gặp được Chúa, là Đấng ban nguồn hạnh phúc.
Mỗi người hãy tự vấn lương tâm, đi tham dự Thánh lễ, tôi có gặp gỡ Chúa thật sự không? Gặp gỡ Chúa ở đâu? Tôi gặp Ngài qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể, qua vị linh mục chủ tế, qua cộng đoàn tín hữu với nhau. Vì Chúa nói: ở đâu có 2 hoặc 3 người họp nhau lại nhân danh Ta, thì có Ta ở giữa họ.
Vậy mỗi khi đến tham dự bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta được mời gọi rước lấy chính Chúa Kitô là bánh ban sự sống, Ngài sẽ làm thỏa mãn cái đói hạnh phúc trường cửu và sự sống đời đời cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh, nhân loại ngày nay còn rất nhiều tâm hồn đói khát vì họ không biết tìm đâu ra Lương Thực Hằng Sống. Xin Chúa thương ban cho chúng con tấm Bánh là chính Chúa, để chúng con không còn phải đói phải khát nữa. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY TIN VÀ ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa nhật tuần này, chúng ta bắt đầu được nghe những bài Tin mừng về Bánh hằng sống. Chúa Giêsu, người Con một của Chúa Cha chính là bánh hằng sống được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại, để những ai tin vào người thì có sự sống đời đời. Bánh là lương thực cần thiết nuôi sống con người, bánh còn là lương thực cho hành trình dài để đi đến nơi mong đợi. Bánh đã được ban tặng cho dân Israel trong hành trình sa mạc, và trở nên hình ảnh báo trước Bánh hằng sống là lương thực thần linh là Chúa Giêsu cũng là Mình máu thánh của người và Lời của người được ban cho nhân loại. Trong hành trình sa mạc để đi về đất hứa, dân Israel đã nhiều lần than trách, họ nói những lời xúc phạm và vô ơn thiếu hiểu biết với Môisen: “thà để chúng tôi chết ở Ai cập hơn là bên nồi thịt còn hơn phải chết đói ở nơi hoang địa này”. Thiên Chúa nghe những lời trách của dân chúng và Chúa ban cho họ manna và chim cút nuôi sống họ suốt hành trình sa mạc. Manna là thức ăn do Chúa ban, buổi sáng khi sương xuống quanh trại người do thái và bốc hơi để lại những mẫu bánh và dân chúng cứ lấy về để ăn. Khi thấy manna, dân chúng không biết là loại lương thực gì nên nói với nhau cái gì vậy, còn Môisen thì giải thích cho dân chúng đây là bánh Thiên Chúa ban cho anh em ăn. Manna quả là bánh Thiên Chúa ban một cách quảng đại và dư dật để nuôi dân chúng, và cũng để diễn tả lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa và tiền báo Thánh Thể sẽ được ban do bởi chính Chúa Giêsu.
Câu chuyện Tin mừng theo Phúc âm Gioan tường thuật lại việc dân chúng tìm kiếm Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, vì thế họ đoán trước và đi trước người đến Capharnaum nơi người định đến. Khi thấy dân chúng, Chúa Giêsu đã trách họ tìm kiếm người không phải vì dấu chỉ của phép lạ mà là vì họ được ăn bánh no nê. Đồng thời người cũng nhắc nhở họ hãy làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn đem lại sự sống đời đời mà Con người sẽ ban tặng cho họ. Quả thật, thấy được dấu chỉ và nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ không phải là điều dễ dàng. Trong Cựu ước, dân chúng đón nhận và dùng manna làm lương thực nhưng không hiểu ý nghĩa nên cứ tự hỏi cái gì đây. Chính Môisen phải giải thích cho họ đây là bánh Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, điều quan trọng khi đứng trước phép lạ, đó là cần đón nhận được ý nghĩa của dấu chỉ phép lạ, hay sứ điệp của dấu chỉ. Phép lạ do Chúa ban không chỉ dừng lại ở mục đích thực tiễn của những điều lạ lùng được thực hiện, mà hướng đến một ý nghĩa mới và quyết định của thời cánh chung, của sự can thiệp mạnh mẽ và quyết định của Thiên Chúa. Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu làm cũng thế, không chỉ dừng lại ở mục đích là nuôi dân chúng ăn no nê, bởi vì sau đó Chúa Giêsu không tiếp tục làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nữa, mỗi người phải tự làm việc để nuôi sống mình. Thế nhưng khi thực hiện phép lạ, Chúa Giêsu muốn đánh thức sự hiểu biết của dân chúng về ý nghĩa cánh chung, ý nghĩa rộng lớn hơn của dự định cứu độ của Thiên Chúa đối với họ để dẫn đưa họ không phải chỉ để hưởng sự sống phần xác mà là đến sự sống thần linh vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã khẳng định với những người do thái Chính người là Đấng mà họ phải tin và đón nhận, chứ không phải chỉ để tìm kiếm bánh vật chất dư dật nuôi phần xác.
Khi dân chúng hỏi Chúa Giêsu: “chúng tôi phải làm gì để chu toàn công việc của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Đây là công việc của Thiên Chúa, đó là anh em tin vào người mà Thiên Chúa sai đến. Tôi là bánh ban sự sống, ai đến với tôi sẽ không hề đói, và ai tin vào tôi sẽ không hề khát bao giờ”. Những phép lạ hóa bánh ra nhiều hướng đến việc tin và đón nhận Chúa Giêsu, nơi người có sự sống đời đời. Vì thế, điều quan trọng và quyết định, đó là khởi đầu mối tương quan mật thiết và quyết định với Chúa Giêsu. Người chính là bánh sự sống, lương thực thần linh, bánh bởi trời. Người là bánh bởi trời được ban tặng cho con người và chúng ta là Thân thể của người, được mời gọi kết hợp nên một với người để đón nhận sự sống thần linh tuôn trào từ chính người, nơi Lời hằng sống mà người ban tặng, nơi Thánh Thể của người. Chúa Giêsu là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu, và chúng ta cũng được Thiên Chúa ghi dấu ấn qua bí tích rửa tội và thêm sức, và chúng ta được mời gọi kết hợp nên một với Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày với lòng khiêm tốn, nhẫn nại phục vụ và quảng đại trong mọi việc làm của mình. Chúa Giêsu là Đấng mà chúng ta tìm kiếm trong suốt cuộc đời của mình bởi người có sự sống thần linh.
Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống đời đời, chính Người đến để mời gọi, thúc đẩy con người yếu hèn của chúng ta nhận biết tầm quan trọng của đời sống thần linh. Con người chúng ta thường dừng lại ở sự sống vật chất, bị thu hút và choáng ngợp bởi những quyến rủ của sự sống trần gian đển chỗ quên mất sự cần thiết phải chuẩn bị cho sự sống đời đời. Nghịch lý của những người do thái trong câu chuyện cũng là nghịch lý của cuộc đời chúng ta và lời mời gọi nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với những người trong câu chuyện cũng là những lời nhắc nhở thúc bách đối với chúng ta. Đừng để mình bị thu hút bởi lương thực và của cải chóng qua đời tạm này, mà ngược lại phải biết nhanh nhẹn và tỉnh thức để Tin vào Chúa Giêsu và đón nhận người, chính người là bánh hằng sống. Đây cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, đừng sống như dân ngoại là những người không hiểu biết và tâm trí theo đuổi những điều phù phiếm, bởi vì chúng ta đã là những người Kitô hữu là những người được Chúa Giêsu dạy dỗ và là những người đã được học với người. Vì đã được học với Chúa Giêsu, người kitô hữu phải biết bỏ đi con người cũ với những ước muốn hư hỏng và tội lỗi để mặc lấy con người mới đầy tràn thánh thiện và chân lý.