CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TINH THẦN MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU(*)– Chú giải của Noel Quession 6
CHÂN DUNG CỦA VỊ MỤC TỬ LÝ TƯỞNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông 13
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ THIÊN SAI – Chú giải của Fiches Dominicales 25
CHÚA GIÊSU ĐỘNG LÒNG THƯƠNG XÓT- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux 33
THIÊN CHÚA CHĂM SÓC ĐOÀN CHIÊN NGÀI- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 35
TẤM LÒNG CỦA VỊ MỤC TỬ– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 65
NHỊP SỐNG KITÔ HỮU- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 82
LỜI KHUYÊN THIẾT THỰC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 87
NGƯỜI CHẠNH LÒNG THƯƠNG– Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến 94
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ NGHỈ NGƠI- Lm. Trần Bình Trọng. 97
MỤC TỬ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 103
BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ TIN MỪNG CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long 109
ĐI TÌM CON NGƯỜI- Lm Nguyễn Lộc Hòa. 113
THIÊN CHÚA CHĂN DẮT DÂN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 116
HÃY DÀNH THỜI GIAN CHO NHAU – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 121
TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG- Lm Inhaxiô Trần Ngà. 125
CHÚA GIÊSU MỤC TỬ- Trích Logos B.. 129
NGƯỜI SAI HỌ ĐI (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 135
HÃY NGHỈ NGƠI BÊN CHÚA- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 142
NGHỈ NGƠI BÊN CHÚA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 147
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta, và cho chúng có những chủ chăn”.
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta. Vì thế, Chúa là Thiên Chúa Israel phán cùng các mục tử chăn dắt dân Ta rằng: “Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta”. Chúa lại phán: “Vậy Ta sẽ xét xử những hành động gian ác của các ngươi. Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, và chúng không còn thiếu thốn gì nữa”. Chúa còn phán rằng: “Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Đavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là “Chúa công bình của chúng ta”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Đáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. (2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. (3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. (4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
BÀI ĐỌC II: Ep 2, 13-18
“Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Đức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 8, 12
All. All. – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – All.
PHÚC ÂM: Mc 6, 30-34
“Họ như đàn chiên không người chăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TINH THẦN MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU(*)– Chú giải của Noel Quession
Các tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu.
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (“apostoloi”, có nghĩa là “những kẻ được sai đi”). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin Mừng, nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh đạm. Và đoạn Tin Mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi. Vào thời đó, người ta chỉ đi bộ.
Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Đó là giờ ‘báo cáo’. Hành động rồi xét lại hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại. Người ta quen làm việc theo nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các Hiệp hội, nghiệp đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến, dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về “thảo luận”, “đối thoại”. Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa chúng ta thấy Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con người; sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin Mừng. Đó là mục đích của việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô hữu “trở về” với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?
Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Thánh Maccô tóm lại tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là đặc điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.
Người bảo các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.
Đức Giêsu cũng “nghỉ mát”. Đức Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là ‘stress’ có hại cho công việc Tông đồ cũng như các công việc khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh, ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.
Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua những kỳ nghỉ nào?
Đây không phải là lần duy nhất Máccô cho chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn biết chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2). Những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1) những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31) đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Héc-mon (Mc 8,27).
Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.
Đức Giêsu khích lệ các Tông đồ đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến những giai đoạn suy tư “bên trong” – xem, xét, làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: Sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là ngày sabat, ngày nghỉ ngơi không?
Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng.
Ở đây Đức G’iêsu và các môn đệ dường như đang chơi trò “ú tim” hay “cút bắt” với đám đông. Nhưng không có cách nào trốn được. Người ta muốn trốn đám đông Nhưng người ta cũng phải lo cho đám đông đó. Người ta muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến nỗi không có thời giờ để ăn. Người ta sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương trình của Người thế nào?
Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.
Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa. Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển -Đám đông chạy ùa đến với Chúa. Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi chướng trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này. Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta “có lẽ không muốn”, làm những gì “phải làm”, những việc “đang ở đó”, “Kẻ nào muốn làm môn đệ Tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo Tôi” (Mc 8,34), Kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống” (Mc 8,35). Thua mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; Thua mất vì tình yêu.
Người chạnh lòng thương.
Cảm xúc này đã biểu lộ trên ương mặt, trong cử chỉ của đôi -tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu thế nào?
Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thới đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn “trắc ẩn” như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế nào?
Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người chăn! Thật là hỗn độn? Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dẫn đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13). Môisen lúc chết đã lo lắng cho dân Israel “như chiên không có chủ chăn” (Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh Vịnh 22; “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ”. Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình ảnh này: “Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác” (Mc 14,27). Người xác quyết mình được sai đến với nhung con chiên lạc” (Lc 19,10; 15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).
Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là Thiên Chúa – Mục tử của dân Israel.
“Những con chiên không người chăn”. Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng. Người ta đang tìm Đấng “Chúa hứa ban”. Nhưng thường thì sau một thời gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.
Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên dân chúng một chính sách nặng nề.
“Chiên không có chủ chăn”: Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của đồng cỏ xanh tươi?
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám đông mất phương hướng đó, là “Phục vụ Lời Chúa”. Một lần nữa Máccô không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.
Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy nói nhiều hơn…
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÂN DUNG CỦA VỊ MỤC TỬ LÝ TƯỞNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B này có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài trình thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật, vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong Bài Đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Đức Giê-su quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó cho họ được no thỏa bằng hóa bánh ra nhiều, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 nầy được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm 587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới.
Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo, đời cũng như đạo, phải chịu trách nhiệm về tai họa bi thảm này. Tuy nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương nầy, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến buổi, Người sẽ sai phái một vị Mục Tử đích thật đến chăn dắt họ.
Những mục tử vô trách nhiệm:
Đó là các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Nhưng bên kia các vua, Giê-rê-mi-a ngỏ lời với toàn thể tầng lớp lãnh đạo, đời cũng như đạo, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ tước hiệu mục tử nầy (2: 8; 10: 21; 25: 34). Như ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”. Không chỉ những người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Ta sẽ hỏi thăm các ngươi về những hành vi ngang trái của các ngươi”. Quả thật án phạt đã không chậm trể. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
Sứ điệp tràn đầy hy vọng: vị Mục Tử Mê-si-a.
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc nầy, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người; Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người bị phân tán khắp nơi và đưa chúng về đồng cỏ của chúng.
Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ thời Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia Ít-ra-en. Việc phân tranh giữa các chi tộc miền Bắc và các chi tộc miền Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại nỗi đau trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc miền Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc sụp đổ vương quốc miền Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân lành, Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng. Sấm ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Người niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Chân dung của vị mục tử lý tưởng:
Sau cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng: “Nầy đây sẽ đến thời kỳ Ta khiến mọc lên cho nhà Đa-vít một Mầm Non công chính”. Biểu thức: “Nầy đây sẽ đến những thời kỳ” mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc được dùng để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức nầy từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Tước hiệu “Mầm Non” đã trở thành tước hiệu Mê-si-a. Tước hiệu nầy đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu nầy hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu nầy ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít nầy, “miền Giu-đa sẽ được cứu thoát, miền Ít-ra-en sẽ an cư lạc nghiệp”. Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là một dân tộc duy nhất. Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a nầy là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”. Ngài sẽ phân xử toàn dân trong công minh chính trực.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 13-18)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả người Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
Người Ki-tô hữu gốc lương dân:
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ “xa-gần” đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi (Is 57: 19). Dụng ngữ nầy đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua dụng ngữ “xa-gần” nầy, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ cũng được ban ơn tha thứ tội lỗi.
Một dân duy nhất:
Vì thế, những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”. Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách nầy. Chắc chắn thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh nầy! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh nầy ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái nầy cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách nầy: tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mĩ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
Một thân thể duy nhất:
Thánh Phao-lô thật táo bạo khi khẳng định rằng: đôi bên, người Ki-tô gốc lương dân và người Ki-tô hữu gốc Do thái, hình thành nên chỉ một con người duy nhất, một người mới. Người Ki-tô hữu là một con người được tái tạo và tất cả những người Ki-tô hữu được quy tụ hình thành nên những chi thể của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki tô.
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học nầy rồi trong các thư gởi các tín hữu Cô-rin-tô và Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo của thư gởi tín hữu Ê-phê-sô nầy, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi:
Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki-tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Chúa Nhật tuần trước tường thuật cho chúng ta Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Bây giờ, thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô cho chúng ta bài tường thuật đầy tình tiết sống động. Vị thánh ký nầy luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu bật con người của Đức Giê-su.
Các tông đồ tụ họp quanh Đức Giê-su:
Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của ông. Cách dùng nầy được biện minh: các tông đồ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Xin được nhắc lại điều đã được nói trước đây, các tác giả Tin Mừng chung chung tránh dùng danh xưng “tông đồ” nầy cho nhóm Mười Hai, bởi vì chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu nầy: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ.
Nhóm Mười Hai quy tụ lại chung quanh Đức Giê-su, chắc chắn ở Ca-phác-na-um, thành phố mà Đức Giê-su chọn làm bản doanh cho sứ vụ của Ngài. “Các ông kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gởi cho các ông: lời giảng dạy kèm theo các dấu chỉ, theo gương Thầy mình. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất của thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó thuật lại cho Đức Giê-su sứ vụ mà họ vừa mới thi hành theo lệnh của Ngài. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết theo ông có ý nghĩa nhất “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mõi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mõi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu nầy: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
Lánh xa một nơi khác:
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dể dàng. Thánh Mác-cô cũng đã viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Tấm lòng của đám đông dân chúng:
Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện nầy không phải là không có liên hệ với sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
Tấm lòng của vị Mục Tử Mê-si-a:
Lòng nhiệt thành nầy của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đoàn chiên thương mến của Đức Chúa. Người đã trao gởi đoàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt. Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm nầy chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải bơ vơ lạc lõng. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị Mục Tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông nầy trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói nầy phải được đáp ứng trước tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại bánh hóa nhiều nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này là luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là Lời Chúa, tiếp đó là Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghĩ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đàn chiên”.
Bài tường thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mõi của Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở nơi Đức Giê-su một tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa có độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa có tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài nầy hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khốn khổ đau của đoàn chiên, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10: 11).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-Năm B
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ THIÊN SAI – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Từ đám đông như bày chăn không người chăn dắt
Sự thể bắt đầu gần giống như một trò chơi ú tim. Khác một điều là ở đây người chơi không có cách để ẩn mình! Thầy trò Đức Giêsu muốn trốn khỏi đám đông, thì rốt cuộc lại phải chăm lo cho đám đông. Trình thuật nhìn bề ngoài có vẻ như một cảnh “chụp vội”, nhưng xét kỹ mới thấy là rất công phu. Trình thuật cốt ý làm một nhịp cầu nối hai sự kiện lại với nhau là công việc truyền giáo vừa hoàn thành của Nhóm Mười Hai và việc hóa bánh sắp diễn ra bằng cách đặt Đức Giêsu trước mặt đám đông mà Người không thể tránh khỏi được. Đúng là có một vài chi tiết không thích hợp, theo như nhận xét của M.E. Boismard: “Việc mô tả đám đông tụ tập lại thật là kỳ lạ, và người ta có cảm tưởng là Máccô phối hợp hai tư liệu khác nhau. Theo tư liệu thứ nhất, có một đám đông đã ở bên cạnh các ngài trước khi các ngài lên đường ra đi (c 31). Họ thấy thầy trò Đức Giêsu bỏ đi (c.33a) nên họ đi bộ (c 33c) đến nơi trước các ngài (c.33e). Còn theo tư liệu thứ hai, thì có nhiều người ở quanh vùng khi nghe tin Chúa đến (c.33b) họ liền từ khắp các thành thị chung quanh đó tuôn đến nơi các ngài đang có mặt (c.33d): (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 89).
Ở đây, Nhóm Mười Hai lần đầu tiên được gọi là “các Tông đồ” (nghĩa là “những người-được-sai-đi”) đã đi truyền giáo về. Đây là giờ các ông báo cáo về công việc truyền giáo ấy: “Các ông kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”. Đầy vẻ ân cần chăm lo cho các cộng sự viên của mình, Đức Giêsu bảo các ông tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi và trốn khỏi những chuyện rầy rà vốn làm cho các ông ‘cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa’. Người bảo các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Nơi đây hoàn toàn hoang vắng! Vậy mà người ta ‘đã theo đường bộ chạy đến nơi’ trước cả các ngài ở phía bờ bên kia Biển Hồ. Khi các vị vừa ra khỏi thuyền thì đã thấy đám đông trước mặt mình.
Đến dân tộc được Chúa quy tụ
Thánh sử ghi: “Ngài chạnh lòng thương họ”. Dịch là chạnh lòng thực ra không lột được hết ý nghĩa rất mạnh của kiểu nói trong Kinh Thánh: “ruột gan bồn chồn”. Giống như trường hợp Thiên Chúa tỏ ra với dân Người, trong sách ngôn sứ Ôxê (11,8); như ông chủ trong dụ ngôn tha món nợ khổng lồ cho người đầy tớ van xin ông (Mt 18,27); như người Cha thấy đứa con trai đã mất nay trở về (Lc 1 5,20); như người Samaria trước cảnh người đàn ông bị cướp đánh nhừ tử nằm lây lất bên đường (Lc 10,33); như Đức Giêsu trước cảnh hai người mù lòa van xin khi Người vừa ra khỏi Giêricô (Mt 20,34); hoặc như lần khác, trước những giọt nước mắt đầm đìa của bà quả phụ Naim trên đường đi chôn đứa con duy nhất của bà (Lc 7,13). Từng ấy nơi lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người được cử hành, được biểu lộ ra nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Như vậy là trong trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 này, qua thái độ Đức Giêsu “chạnh lòng” thương đám dân chúng. Đáp lại nỗi khốn khổ của họ, chính là lòng thương xót của Chúa được mặc khải, tình thương yêu của Người được biểu lộ ra; chính là lời Thiên Chúa hứa được thực hiện, như phần tiếp theo của trình thuật sẽ cho thấy.
“Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Biểu tượng của đoàn chiên và người Mục tử là những chủ đề quen thuộc trong Cựu ước. Cựu ước thường dùng những hình ảnh ấy để gợi nghĩ đến tình cảnh đáng thương của dân Chúa bị bỏ rơi, vất vưởng, không người chăn dắt như Êgiêkien 34 hoặc Giêrêmia được trích đọc trong bài đọc 1 hôm nay. Cựu ước cũng dùng biểu tượng ấy để tán tụng sáng kiến của Chúa và Người lãnh đạo đoàn chiên của Người, như còn thấy trong Giêrêmia 23, hoặc Thánh vịnh 22 được dùng làm đáp ca của Chúa nhật này và là Thánh vịnh tạo hậu cảnh cho trình thuật của Máccô. Những lời Tin Mừng hay dùng, đặc biệt gợi nhớ lại lời Môsê cầu nguyện cùng Chúa trước khi chết; ông xin Chúa ban cho dân Người một vị lãnh đạo “để cộng đoàn dân Chúa không rơi vào tình trạng bầy chiên không người chăn dắt” (Ds 27, 17) .
Vậy giờ đây, Maccô mời gọi chúng ta cùng ngài hướng nhìn về Đức Giêsu như vị Mục Tử Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo; như Môsê mới của một Xuất hành mới; như Đấng Chúa sai đến để quy tụ một dân mới và dưỡng nuôi họ bằng Lời và Lương thực của Người.
– Maccô kết luận: “Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Việc đầu tiên Người đáp ứng những nhu cầu của dân chúng là dạy dỗ, dùng lời có khả năng quy tụ, tập họp, sau đó là săn sóc và cung cấp lương thực cho dân.
J.Hervieux nhận xét: thánh sử đã hai lần ghi nhận tầm quan trọng của lời Thầy dạy dỗ (1,22; 4,1-2) không lần nào Maccô ghi rõ ràng nội dung lời dạy dỗ. Cả ở đây cũng vậy. Nhưng sự việc diễn ra lại mang nhiều ý nghĩa. Trước khi phân phát lương thực thì tiên vàn Đức Giêsu đã dùng lời mà quy tụ người ta lại. Trình thuật về hóa bánh xảy ra sau đó không được tách biệt với việc xảy ra lúc trước. Chính nhờ “Lời” mà Đức Giêsu quy tụ được đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Hội Thánh lúc ban đầu đã ghi nhớ rõ ràng và cẩn thận duy trì việc này. Trong cử hành nghi lễ bẻ bánh, Hội Thánh luôn đặt ‘hai bàn’ nối tiếp nhau: đầu tiên là bàn để Lời, rồi mời đến bàn để bánh. (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 95).
BÀI ĐỌC THÊM
“Từ đám đông không người chăn dắt, Đức Giêsu khai sinh một dân tộc”.
Kìa họ đang trở về, những con người mà Đức Giêsu đã sai đi trên mọi nẻo đường. Không mang theo lương thực, tiền bạc, bao bị. Họ chỉ được mang theo một cái áo và cây gậy đi đường. Các ông ra đi nhẹ nhàng như gió Thánh Linh. Nhưng các ông có quyền trừ quỷ, chữa người đau ốm khỏi bệnh. Các ông kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dứt khoát trở lại với Đấng hoán cải lòng người và có thể biến đổi toàn bộ xã hội.
Kìa họ đang trở về, những con người tay mang gậy. Các ông phải trở về báo cáo về chuyến đi của mình. Các ông quây quần bên Đức Giêsu “và kể lại cho người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy”. Các ông đã không chỉ nói suông mà còn hành động, như Đức Giêsu đã làm gương. Tin Mừng không chỉ ở trong những lời nói suông mà là bằng những việc làm: một cuộc sống chứng từ.
Chúa nói với các ông: chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Nhóm nhỏ đó cần tìm lại được những giây phút thân tình với Chúa, và được Người bồi dưỡng cho tâm hồn. Tiên vàn Chúa đã chọn các ông để các ông “ở với Người” (Mc 3,14) rồi mới sai các ông đi rao giảng. Ngày mai đây các ông sẽ lại phải ra đi, có mang gậy hay không nhưng hiện giờ thì còn cần phải được thưởng thức thêm hương vị của tình nghĩa rạng ngời, phải nói cho Người biết rằng hạt giống gieo đã mọc lên, phải nhận định cho rõ ràng hơn cái gì đã làm và cái gì còn phải làm. Phải ra đi, rồi phải biết lui về nơi yên tĩnh hoặc trong thanh vắng của tâm hồn, thiết tưởng luôn luôn là vấn đề sinh tử.
Đức Giêsu đã kéo các môn đệ của Người ra khỏi vòng xoáy của cơn lốc đám đông. Những kẻ lui người tới những cuộc chuyện trò, những lúc gặp gỡ không để cho các ông có thời giờ ăn uống nữa. Đức Giêsu vẫn là trọng tâm của phong trào quần chúng này. Người cố gắng “đồng hội, đồng thuyền”với các tông đồ. Khi thuyền các ngài cập nơi được kể là hoang vắng, “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông”. Người đã theo đúng chữ – “bồn chồn ruột gan”, như Người cũng đã cảm thấy khi đứng trước những người ốm đau hay tật nguyền. Bởi lẽ họ “như bầy chiên không người chăn dắt”, nghĩa là một quần chúng lạc đường đang trông mong một vị Thiên Sai nào đó. Cả một quần chúng bệnh hoạn.
Trong đám quần chúng này, Đức Giêsu sẽ khai sinh ra một dân tộc Người bắt đầu “dạy dỗ” họ, bởi lẽ “người ta sống không chỉ nhờ cơrn bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Dnl 8,3). Sau đó, Người sẽ hóa bánh ra nhiều và manna mới để làm giao ước mới cho một dân tộc đang trên đường xuất hành. Cả một tương lai bao la được cô đọng trong cảnh quá mạnh này.
“Thách thức lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành”
Thiết tưởng Hội Thánh sẽ đi lầm đường nếu vì nghĩ đến tương lai mình, mà chỉ lo lắng trước tiên cho sự sống còn của mình. Thiết tưởng Hội Thánh sẽ không tìm, được đường đi cho mình khi chỉ con đường trong sự thu mình vào nội bộ và cậy dựa vào việc củng cố hàng ngũ của mình.
Thách đố lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành, tất nhiên không phải là thách đố về số người điều hành, hay là về nguồn tài chánh, cho dù những vấn đề này có tầm quan trọng thế nào đi nữa. Đúng hơn chính là thách đố về nhiệt tình truyền giáo và sống tình huynh đệ, yêu thương đối với thế giới chung quanh ta.
Người ta cũng có thể nói được là Hội Thánh đánh mất đi lẽ sống của mình và tự tan rã, nếu chỉ quan tâm đến chính mình hơn là lo cho những con người nam nữ mà Hội Thánh được sai đến. Trái lại Hội Thánh được biến đổi, tìm được nhuệ khí mới, khi nỗ lực đối chiếu sứ điệp Tin Mừng với nếp sống duy thực của những con người thời nay, và với những thách đố của lịch sử. Cần nhắc lại rằng truyền giáo không nhằm bành trướng Hội Thánh mà nhắm mở rộng Nước Trời.
Mọi lựa chọn liên quan tới tương lai của Hội Thánh đều phải quy hướng trước nhất về mục tiêu truyền giáo. Điều này sẽ không bao giờ nói đủ. Được Chúa triệu vời, cộng đoàn Kitô hữu quy tự để cầu nguyện, đón nhận Lời Chúa, liên hệ Lời Chúa với những khát mong của con người thời nay. Bởi lẽ việc quy tụ luôn được bố trí để hướng tới sự ra đi, gần gũi, chia sẻ. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời tụ họp, tốt rồi, nhưng còn để hòa mình hơn vào cuộc sống thường ngày của mọi người, hầu làm chứng Tin Mừng Phúc Âm cho họ.
Công đồng Vatican II mở đầu Hiến chế Mục vụ “Gaudium et Spes” bằng những lời thấm thía sau đây: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay… cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô”.
Khi phác họa bản đồ mục vụ của địa phận, thiết tưởng phải tự hỏi xem làm thế nào để hiện thực hóa những lời kêu gọi này của Công đồng Vaticanô II trên một quy mô thật rộng rãi.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU ĐỘNG LÒNG THƯƠNG XÓT- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Chính vì muốn tường trình cho Thầy mình công việc rao giảng nên các môn đệ đã trở về gặp lại Chúa Giêsu (c.30). Đã đến giờ các thừa sai làm bảng tổng kết đầu tiên. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Maccô gán cho nhóm Mười Hai biệt danh “Tông đồ”, nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Chúa Giêsu moơì các bạn hữu Ngài tìm chỗ yên tĩnh xa lánh mọi người để nghĩ ngơi cho lại sức (c.31a). Đám cứ quấy nhiễu không cho họ có thời giờ phục hồi sinh lực (c.31b). Như thế chủ đề về thực phẩm mà Maccô dự tính trình bày đã được loan báo. Có sự tương phản sống động giữa một ý định chạy trốn đám đông (sang bên kia hồ) và một bên là làn sóng người tìm cách cuốc bộ tới địa điểm trước để đón các Ngài (2,32-33).
Vì thế, vừa đặt chân lên đất, Chúa Giêsu đã lại thấy một đám đông vô kể (c.34). Chúa Giêsu không thể và cũng không muốn trốn họ nữa. Ngược lại, Maccô nhấn mạnh đến sự lo lắng đặc biệt Chúa dành cho đám đông này. Trong tiếng Hy Lạp, thành ngữ “động lòng xót thương” có ý nghĩa rất mạnh. Bản văn nói lên rõ ràng: “Lòng dạ Ngài xúc động” giống như lòng dạ Thiên Chúa đối với dân Người (Hs 11,8).
Lòng xót thương của Chúa Giêsu có thể sánh ví với lòng xót thương của người mục tử đối với bầy chiên bơ vơ lạc lõng. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước, Israel được trình bày như một đàn cứu được Thiên Chúa và các mục tử Ngài gửi đến dẫn dắt. Tuy nhiên không phải tất cả các mục tử này là những người gương mẫu giống như Môsê hoặc Đavit (x.Ed 34,1-31). Dân Chúa từng gặp phải và vẫn còn gặp phải những người lãnh đạo rất bất xứng với sứ mệnh của họ. Vì thế Thiên Chúa đã hứa sẽ ban cho Israel một vị mục tử nhân lành là chính Đấng Mêsia được toàn dân mong đợi. Trong chương này, Chúa Giêsu xuất hiện như vị Mục Tử thần linh cực kỳ lo lắng cho dân Ngài. Và Maccô nhấn mạnh việc Chúa bắt đầu bằng hành động “giáo hóa” dân chúng một cách kỹ lưỡng. Có tới hai lần, tác giả ghi nhận tầm quan trọng của lời Chúa Giêsu giảng dạy (1,22; 4,1-2) dù không hề xác định rõ nội dung của lời giảng dạy đó. Ở đây cũng thế. Tuy nhiên, sự kiện này vẫn mang đầy ý nghĩa. Trước khi cho dân chúng bánh ăn thì lời giảng của Chúa Giêsu đã làm cho họ “no thỏa”. Trình thuật hóa bánh sắp diễn ra không được phép tách lìa khỏi trình thuật giảng dạy trước đó. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã “dùng Lời” để cố quy tụ đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này. Trong nghi thức Thánh Thể, Giáo Hội luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, rồi sau đó là bàn tiệc Bánh Thánh.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
THIÊN CHÚA CHĂM SÓC ĐOÀN CHIÊN NGÀI- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Gr 23,1-6) : Thiên Chúa trách các lãnh tụ do thái không chăm sóc đàn chiên Ngài giao cho họ. Ngài sẽ lấy đoàn chiên lại và đích thân chăm sóc.
– Đáp ca (Tv 22) : Ca tụng Thiên Chúa là mục tử nhân lành.
– Tin Mừng (Mc 6,30-34) : Đức Giêsu thương dân chúng vì họ như đàn chiên không người chăn.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Người ta thường gọi các kitô hữu là những “con chiên” của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì ? Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết được làm con chiên của Chúa thì sẽ hạnh phúc như thế nào. Xin Chúa cho chúng ta hiểu được hạnh phúc của chúng ta và luôn vui sống dưới sự chăm sóc của Chúa là mục tử chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta ít nghĩ đến tình thương của Chúa đối với chúng ta.
– Chúng ta chưa gắn bó với các tín hữu khác là những người sống trong cùng một đoàn chiên Chúa với chúng ta.
– Chúng ta không vâng nghe các mục tử mà Chúa đã đặt lên để hướng dẫn chúng ta.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Gr 23,1-6)
Trích đoạn này gồm 2 phần :
– Trong phần đầu, Thiên Chúa trách “các mục tử Israel”. Đó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo cho đoàn chiên của Ngài là dân do thái. Nhưng trái lại họ phan tác và xua đuổi chúng.
– Trong phần sau, Thiên Chúa nói Ngài sẽ lấy đoàn chiên ấy lại và đích thân chăm sóc : quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ cho từ nhà Đavít nổi lên một mục tử đích thực. Đây là lời hứa ban Đấng Messia.
Đáp ca (Tv 22)
Tv này rất quen thuộc với chúng ta. Đây là bài ca tụng Thiên Chúa như một mục tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát. Lại che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Tv bày tỏ niềm tin tuyệt đối rằng được sống dưới sự chăn dắt của Thiên Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì nữa.
Tin Mừng (Mc 6,30-34)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Trong bài này, các ông trở về hân hoan báo cáo những thành công của mình.
Đức Giêsu rất nhân bản, Ngài bảo các ông tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Thầy trò xuống thuyền chèo đến một nơi yên tĩnh.
Nhưng vừa ra khỏi thuyền, Đức Giêsu lại thấy dân chúng kéo đến đông đảo. Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ như một đoàn chiên bơ vơ không người chăn. Thế là Ngài bỏ nghỉ ngơi, tiếp tục dạy dỗ họ.
Bài đọc II (Êp 2,13-18)
Thánh Phaolô trình bày cho những tân tòng ở Êphêxô hiểu về hai ơn trọng mà Chúa đã ban cho họ : ơn hòa giải và ơn quy tụ.
– Ơn hòa giải : trước đây có một bức tường ngăn cách người do thái với người ngoại. Nhưng Đức Kitô đã phá đổ bức tường ấy để tử nay do thái và dân ngoại hòa giải với nhau.
– Quy tụ : trước đây dân ngoại như những con chiên tản mác khắp nơi. Nhưng Đức Giêsu Kitô đã quy tụ họ lại trong cùng một đoàn chiên với dân do thái. Từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Con tim mục tử
Hình ảnh Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này thật dịu dàng và rất đáng kính mến, vì Ngài có một trái tim rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác :
– Các môn đệ trở về sau chuyến đi thực tập truyền giáo. Các ông vui mừng vì những thành công, hăng hái kể chuyện cho Ngài nghe, quên hết những mệt nhọc. Nhưng con tim mục tử của Đức Giêsu biết họ cần được nghỉ ngơi. Ngài dịu dàng bảo họ “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”.
– Khi đã đến chỗ có thể nghỉ ngơi, Đức Giêsu thấy dân chúng kéo đến với mình. Con tim mục tử lại xúc động, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài liền hy sinh sự nghỉ ngơi để tiếp tục giảng dạy họ.
Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta rút ra được hai điều :
– Thứ nhất : chúng ta hãy vui sướng vì được làm một con chiên đang sống dưới sự chăm sóc của một Vị mục Tử giàu tình thương như thế. Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cảm thấy điều cần đó, và Ngài lo liệu đầy đủ cho chúng ta.
– Thứ hai : chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng tại sao có một con tim giống như Ngài, một con tim biết xúc động và biết mở rộng trước nhu cầu của người khác, vì quả thực rất nhiều khi con tim của chúng ta đã chai lì, băng giá và khép kín.
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày ; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette ; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v. Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồ ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào cẳng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tỉnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê miền biển, miền núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tỉnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rãnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh :
. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào… Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này : “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong giá, và để xem trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán ! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tỉnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng hôm nay là Lời Chúa khuyên : “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
Sức quyến rũ của Lời Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa : dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ – nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
. Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
. Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
. Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước : người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy ? do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède : ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên “Eureka” (nghĩa là : “Tôi đã khám phá ra rồi”) và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng ! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh : “Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thầy dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v… tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép.”
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tan hoang, sinh mạng con người bị đe doạ từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, Bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào, gọi là phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn : “Chúng ta hãy sống Tin mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin mừng, từng câu, từng chữ”.
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Thành Assisiô, câu “Phúc cho những người nghèo” đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc ; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ” ; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một Dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét…
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quý chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn dấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các Linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, Linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa : không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các Bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có Linh mục không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới v.v. Nếu chúng ta chỉ biết có các Bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay ; thánh Marcô ghi nhận rằng : Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có Linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có Linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
Bị quấy rầy
Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên. Cuối cùng người bạn hỏi : “Làm sao anh có thể làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế ?” Vị giáo sư đáp : “Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế”.
Vị giáo sư có thể đóng cửa, không tiếp ai hết, để miệt mài với công việc. Làm thế thì ông có thể được yên tĩnh. Nhưng vì là một con người quảng đại hay giúp đỡ, ông không thể làm thế. Thay vào đó ông coi việc tiếp xúc và giúp đỡ sinh viên là việc chính của mình. Bởi đó, không lạ gì ông được sinh viên quý mến, và ông là người hạnh phúc nhất và hoàn thành trách nhiệm giáo sư tốt nhất trong trường Đại học.
Vị tha vừa dễ mà cũng vừa khó. Dễ là khi việc phục vụ người khác là do ta tự ý chọn, nhờ đó ta chẳng những không cảm thấy bực bội mà còn thoải mái. Còn khó là khi ta phục vụ mà miễn cưỡng, thành ra bực bội và khó chịu.
Một hành vi được xét là tốt không do tầm quan trọng của nó, mà do tấm lòng của người làm hành vi đó : sẵn sàng chấp nhận nếp sống bị xáo trộn để giúp đỡ người khác, sẵn sàng tạm gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác.
Như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại kéo đến. Thấy vậy, “Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Mặc dù biết phục vụ người khác là tốt, nhưng nhiều người chỉ muốn phục vụ một chút thôi, miễn là việc phục vụ đó đừng quá quấy rầy, đừng xáo trộn nếp sống quen thuộc của họ. Nhưng như thế không phải là phục vụ. Đức Giêsu đã phục vụ khi sẵn sàng cho người khác quấy rầy, làm xáo trộn chương trình của Ngài. Cha mẹ chúng ta cũng thế : biết bao lần các ngài đang ngủ giữa đêm phải thức dậy để chăm sóc con cái ?
Lắng đọng và bình an
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo :
– Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ :
– Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
– Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
– Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa ?
– Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu : anh có mài rìu không ?
*
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng : để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời : “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
P.Doncocur đã quả quyết : “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”. Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
*
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã “lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa ; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Thánh Giám mục Tử đạo Cuénot Thể
Cuộc đời của Thánh Giám Mục tử đạo Cuénot Thể (1802-1861) với 31 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam và 26 năm trong chức vụ giám mục, gắn liền với công cuộc khuếch trương truyền giáo không những giữa người Việt Nam nhưng cả với những dân tộc ít người tại vùng Cao Nguyên Kontum. Khi bị bắt Đức Cha Thể đã bị điều tra xét hỏi :
– Tại sao ông sang nước tôi ?
+ Thưa, để giảng đạo Thiên Chúa.
– Ông ở đây bao lâu rồi ?
+ Ba mươi bốn năm.
– Ông đã ở đâu ?
+ Thưa trước hết ở Bình Định rồi Phú Yên, Bình Thuận và lại trở về Bình Định.
Có một điều không được đề cập tới trong cuộc tra vấn là công cuộc truyền giáo cho các dân tộc ít người tại vùng Cao Nguyên Kontum. Về công trình này, cha Đỗ Đình Bộ (P. Dourisboure) là người trong cuộc có bình luận về Đức Cha Thể như sau : Đức Cha có bẩm tính cương quyết và kiên trì, và một khi ngài đã nghiền ngẫm dự tính gì đó thì những trở ngại, thay vì làm ngài nản lòng, lại càng kích thích sự hăng say của ngài. Đã bốn năm lần, ngài thấy dự tính rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc Thượng bị chặn đứng và trở nên không thể thực hiện được, nhưng chưa bao giờ vì vậy mà ngài có ý bỏ cuộc. Con đường bị đóng ư ? Ngài cho mở đường khác. Con đường mới này xem ra không thể lưu hành được, ngài lại tìm tòi hướng khác cho đến khi thành tựu mới thôi.” (Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, trang 5).
Vậy năm 1842 Đức Cha Thể phái hai vị thừa sai (là hai linh mục thừa sai Paris Miche và Duclos) cho cuộc mạo hiểm đầu tiên. Hai vị đã bị thương gia người kinh bắt và áp giải về Huế. Các ngài đã bị lên án tử hình nhưng được giải thoát do chiếc tàu Pháo Héroine đến can thiệp kịp thời.
Vài ba cuộc mưu toan vượt biên khác qua lối Quảng Ngãi và Quảng Nam cũng bị thất bại.
Gương Thầy Sáu Do và các vị Thừa Sai
Đến năm 1848, Đức Cha Thể lại thử một cuộc vượt biên khác, lần này qua biên giới tỉnh Bình Định nơi ngài đang trú ẩn giữa cơn cấm đạo gắt gao, và với một chủng sinh người Việt mà ngài mới truyền chức phó tế. Đó là thầy sáu Do. Khởi sự thầy Do đóng vai giúp việc rồi nấu bếp cho một thương gia người kinh. Thầy học tiếng dân tộc và phong tục của họ. Thầy cũng khám phá ra đường đưa các vị thừa sai vượt ngoài sự dòm ngó của những thương gia người kinh. Sau sáu tháng phiêu bạt trở về, thầy Do được Đức Cha tín nhiệm cho lên đường như một nhà buôn có môn bài. Thầy sẽ có thể đi sâu vào những buôn làng bên kia An Sơn trước kia là Tây Sơn nơi 3 anh em cùng một gia đình đã nổi dậy chống chúa Nguyễn. Thầy và bốn chủng sinh phụ tá, làm nên đoàn thương gia giả hiệu, an toàn đến được với bộ lạc Hà Drông. Không ngờ nơi đoàn thương gia tới trọ lại là nơi có âm mưu cướp của và bắt người bán làm nô lệ cho dân Lào. May mà thầy sáu Do và anh em kịp thời chạy trốn, bỏ lại hành lý và đồ đạc cho bọn cướp.
Đức Cha Thể khâm phục lòng can đảm của thầy sáu Do và anh em, và chỉ thị cho cha Cung (tức là linh mục thừa sai Paris Combes) cùng với thầy sáu Do lên đường. Vì di chuyển ban đêm, đoàn không kịp thời trông thấy để lẩn tránh một đàn voi đang chận đường họ. Một con trong đàn dẫm gãy sườn một thanh niên trong đoàn. Thôi thì mạnh ai nấy chạy. Riêng cha Cung bị một con voi rượt theo, cha liền ném chiếc nón đang đội lại phía sau. Voi ngừng đuổi, chà đạp chiếc nón và để cha chạy thoát thân.
Lần này Đức Cha Thể tỏ ra lạnh nhạt với phái đoàn đã sớm bỏ cuộc. Đức Cha nói : “Vì thời tiết xấu còn kéo dài, tôi cho các vị 15 ngày để nghỉ ngơi. Sau thời gian này các vị sẽ lại lên đường. Và lần này cũng đừng có vô phúc mà quay về như vậy nữa.” Để bảo đảm hơn cho thành quả của chuyến viễn du mới, Đức Cha ra lệnh cho cha Phạm Tân (Fontaine) sửa soạn để tháp tùng cha Cung.
Cứ như vậy Đức Cha Thể phái các thừa sai đi loan Tin Mừng cho các dân tộc ít người ở vùng Cao Nguyên. Ban đầu phải đi ban đêm để các vị thừa sai ngoại quốc không bị phát hiện. Sau vì muốn tránh thú dữ nên phải đi ban ngày, thì các vị ấy phải được sơn phết cho đỡ trắng trẻo, phải đội nón và ăn vận như người bình dân.
Nơi dừng chân đầu tiên là làng của một tên cướp khét tiếng cả vùng, gọi là làng của Ba Ham (cha của Ham). Cũng may gã Ba Ham lần đầu tiên đối diện với bộ mặt dị dạng và râu ria rậm rạp của hai vị thừa sai người Pháp, tự nhiên hắn cảm thấy phần nào kính nể. Dẫu vậy hắn cũng giữ hai cha lại trong nhà gần một tháng mới chịu để cho hai cha ra đi.
Sau làng Ba Ham đến làng Bơ Lu dễ thương hơn nhiều. Rồi đến Kon Phar cách Bơ Lu hai ngày đường. Và còn nhiều làng khác nữa mà các thừa sai phải kinh qua trước khi các vị ấy được ơn làm phép rửa cho ba người dân tộc đầu tiên vào năm 1853, tức 11 năm sau khi Đức Cha Thể phái hai vị thừa sai đầu tiên lên vùng cao nguyên.
Gương sống động của chính Đức Giêsu và các môn đệ.
Cuộc phái thừa sai lên vùng cao nguyên Việt Nam cũng là để tiếp nối cuộc sai phái các môn đệ do chính Đức Giêsu. Tin Mừng Máccô lần lượt cho thấy Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên (1,16-20), thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để chính Người sai các ông đi rao giảng (3,14). Một khi các môn đệ được sai đi từng hai người để rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối (6,7-12), các ông trở về báo cáo cho biết mọi điều các ông đã làm và đã dậy (6,30).
Nhưng điều quan trọng là thực chất của Nước Thiên Chúa mà các môn đệ cần nhắm tới. Các ông trừ được nhiều quỉ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (6,13), nhưng Đức Giêsu khẳng định rằng : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao ? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi.” (Mt 7,21-23).
Bài Tin Mừng hôm nay (6,30-34) cùng với phần còn lại của đoạn văn (6,35-52) minh họa cách cụ thể ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn mà Đức Giêsu triệt để vâng theo, cũng là ý muốn mà Đức Giêsu sốt sắng huấn luyện các môn đệ, để các ông vâng theo. Sau đây là một loạt những biến cố cho thấy rõ điều đó.
+ Thiên Chúa an bài để sự việc xảy ra là các môn đệ đi sứ vụ về báo cáo với Đức Giêsu ngay vào lúc Đức Giêsu đang bị dân chúng tràn ngập đến nỗi các môn đệ chẳng còn thì giờ ăn uống (c.3).
+ Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ lánh riêng ra đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút (c.31)
+ Thiên Chúa cũng an bài để nhiều người hiểu ý nên từ khắp các thành họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài (c.33)
+ Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (c.34). Tức là Đức Giêsu đọc được ý của Thiên Chúa Cha muốn Đức Giêsu tỏ ra Người chính là vị Mục Tử tốt lành từng được Cựu Ước loan báo (Tv 76,21 ; Ed 34,23 ; 37,24). Vậy Đức Giêsu đã bỏ dự định cũ, Người không tìm đến nơi hẻo lánh nữa nhưng ở lại với dân chúng để dạy họ nhiều điều (c.34).
+ Sự việc lại xảy ra là : vì giờ đã muộn nên các môn đệ đề nghị Đức Giêsu giải tán dân chúng về để họ vào các thôn xóm mà mua của ăn (c.38). Nhưng Đức Giêsu đã không theo ý các môn đệ vì Người đọc được ý Thiên Chúa muốn Người phải trở nên như Môsê từng cung cấp lương thực là Manna cho dân nơi sa mạc (Xh 16,1-36). Do đó Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân ăn no (cc.37-44).
+ Điều được hiểu ngầm sau phép lạ hoá bánh ra nhiều là một tình trạng lệch lạc nào đó xảy ra giữa dân chúng và các môn đệ cho nên Đức Giêsu phải bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trong khi chính Người giải tán dân chúng (c.45).
+ Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu biết họ sắp bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Còn trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện (Mc 6,46). Đức Giêsu như Môsê xưa ở trên núi chuyển cầu cho dân (Xh 33,11-17). Chính ở thế kết hợp với Thiên Chúa, Đức Giêsu thấy rõ hoàn cảnh các môn đệ đang bị thử thách trên biển hồ Galilê. Người đã đi trên mặt nước để đến mang lại bình an cho các ông.
+ Vậy tác nhân quan trọng nhất trong công cuộc huấn luyện các môn đệ là chính bản thân Đức Giêsu như tấm gương sống động về tinh thần khắng khít với Thiên Chúa trong cầu nguyện cũng như trong mọi hành động. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu muốn có những giây phút nghỉ ngơi với các tông đồ, nhưng thấy dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Người lo chăn dắt họ, Người thật là mục tử nhân hậu điển hình. Chúng ta hãy cầu nguyện :
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội thánh biết tìm thời giờ để nghỉ ngơi và bồi dưỡng / để rồi lại hăng say chăn dắt đàn chiên tốt đẹp hơn.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà cầm quyền biết từ bỏ thói quan liêu tham nhũng và tư lợi / để tận tâm phục vụ công ích và hạnh phúc của người dân.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người bơ vơ không nhà cửa, không việc làm, bị xã hội bỏ rơi / được có người biết quan tâm giúp đỡ.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / năng cầu nguyện và tận tâm giúp đỡ các vị chủ chăn trong Hội thánh.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu là vị chủ chăn điển hình, xin sai đến với chúng con những vị chủ chăn xứng đáng với Chúa, và xin cho chúng con trở thành đoàn chiên ngoan ngoãn của Chúa, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong tinh thần hiệp nhất của đoàn chiên quanh chủ chiên nhân lành là Đức Giêsu, chúng ta hãy sốt sắng cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Đức Giêsu đã dạy.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng… Xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời”.
GIẢI TÁN
Thánh lễ đã xong. Anh chị em hãy ra về và sống an bình, đừng lo lắng gì cả, vì có Chúa là mục tử luôn chăm sóc mỗi người chúng ta. Chúc anh chị em được bình an.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TẤM LÒNG CỦA VỊ MỤC TỬ– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Đức Giêsu trong thân phận con người, vẫn là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của con người. Ngài là vị Mục tử nhân lành hằng săn sóc đến mọi con chiên. Bài Tin mừng hôm nay minh họa cho chúng ta thấy lòng nhân ái của vị mục tử này.
Ngài quan tâm đến hết mọi người : các Tông đồ cũng như dân chúng. Ngài hằng quan tâm đến những nhu cầu của con người, dù chỉ là những người vô danh tiểu tốt hay nhỏ bé tầm thường nhất. Ngài đã không nỡ làm ngơ hay dửng dưng trước những nỗi khổ của con người, cho dầu họ là ai. Ta có thể tóm gọn đường hướng mục vụ của Vị Mục tử này là “Tất cả vì con người”. Vì thế, Ngài không sợ bị họ quấy rầy, sẵn sàng đón tiếp và thỏa mãn những nhu cầu của họ.
Ngoài ra, Đức Giêsu cũng khích lệ các Tông đồ hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau cuộc truyền giáo đầy vất vả khó nhọc. Nhưng nghỉ ngơi tĩnh dưỡng không có nghĩa là không làm gì mà nghỉ ngơi là xem lại công việc mình đã làm để điều chỉnh cho đúng hướng; đồng thời cũng là để lấy sức cho những công việc tiếp theo. Như vậy, theo ý Đức Giêsu, thinh lặng nghỉ ngơi rất cần thiết cho đời sống tu trì, cho việc truyền giáo cũng như cho mọi hoạt động khác.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 23,1-6.
Chúng ta có thể chia trích đoạn này thành hai phần :
- a) Phần đầu : Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia khiển trách sự chểnh mảng của vua và các tư tế trong nhiệm vụ của mình. Họ không lo lắng chăm sóc đoàn chiên của Ngài là dân Do thái. Thay vì kết hợp chiên lại, họ lại làm cho chúng phải phân tán, gặp nhiều tai họa. Cuộc lưu đầy ở Babylon là một cảnh cáo đối với họ.
- b) Phần cuối : Nhưng Thiên Chúa nói là Ngài sẽ lấy lại đoàn chiên ấy và sẽ đích thân chăm sóc : qui tụ chiên tản lạc lại, bảo vệ chúng khỏi hiểm nguy. Ngài sẽ ký thác đàn chiên cho các vị lãnh đạo biết lo lắng săn sóc, nhất là cho vị mục tử tuyệt hảo là Đấng Messia, xuất thân từ nhà Đavít.
+ Bài đọc 2 : Ep 2,13-18.
Theo trích đoạn thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêsô, chúng ta có thể tìm ra được hai ý chính :
a) Phá đổ bức tường ngăn cách : xưa nay có một bức tường ngăn cách giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu đã đổ máu ra trên thập giá để phá đổ bức tường ấy. Nhờ đóù, từ nay dân Do thái và dân ngoại hoà giải với nhau.
b) Qui tụ nên một : Cũng nhờ cái chết của Ngài mà Đức Giêsu qui tụ những con chiên tản mác khắp nơi. Trong bản thân Ngài, Ngài đã tạo nên một kiểu nhân loại mới, tất cả mọi người, nhờ mối giây yêu thương, họ kết hợp với nhau, dân Do thái và dân ngoại, để từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài, làm thành một thân thể duy nhất là nhiệm thể Ngài.
+ Bài Tin mừng : Mc 6,30-34.
Bài Tin mừng hôm nay cũng có thể chia thành hai phần :
a) Lo lắng cho các môn đệ : Trong bài Tin mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 Tông đồ đi rao giảng Tin mừng, trong bài hôm nay, các ông trở về báo cáo với Ngài về những công việc của mình, thành công cũng như thất bại, những khó khăn cũng như thuận lợi. Ngài thấy các ông thấm mệt, nên bảo các ông xuống thuyền tìm một nơi yên tĩnh nghỉ ngơi một chút.
b) Bị quấy rầy : Nhưng khi vừa ra khỏi thuyền lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng đã kéo đến đón chờ Ngài. Họ phá vỡ chương trình nghỉ ngơi của Ngài và các Tông đồ. Tuy thế, Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Ngài đành hy sinh sở thích của mình cũng như của các Tông đồ để ban phát Lời Chúa cho đám dân tội nghiệp này.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đức Giêsu động lòng thương.
MỐI QUAN TÂM CỦA ĐỨC GIÊSU.
Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi), có nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Như vậy chắc hẳn Marcô muốn đánh dấu một quan hệ mới của họ với Đức Giêsu. Chúa nhật vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm…
Đức Giêsu quan tâm đến các Tông đồ.
Marcô tóm lược tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là hoạt động của Đức Giêsu : những hành vi thương xót, giảng dạy. Ngài và các Tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc. Đức Giêsu lắng nghe các ông với sự chú ý đầy tình âu yếm và khích lệ họ. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông , nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo :”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Chúng ta phải công nhận Đức Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể làm việc được. Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.
Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông đồ “Để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.
Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông :”Các con hãy nghỉ ngơi một chút”chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.
Đức Giêsu quan tâm đến dân chúng.
Đức Giêsu muốn cùng các Tông đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại cuốc bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương họ, quên cả ý muốn ngh��� ngơi tĩnh dưỡng cho mình và cho các Tông đồ. Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Sở dĩ Đức Giêsu coi họ như đàn chiên không có người chăn vì trong Cựu ước, những người có bổn phận phải dạy dỗ dân chúng là những vị thuộc hàng tư tế, những vị tiến sĩ luật, song các ông đã biếng nhác sao lãng bổn phận, vì phần đông chỉ lo tìm tư lợi.
Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh đượm khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ, một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn. Để thay vì Thầy trò quay lưng lại tìm đường khác trốn chạy thì Ngài và các Tông đồ lại bước lên bờ tiếp xúc với họ và Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Ở đây Marcô chỉ nói trống “Ngài dạy họ nhiều điều” mà không xác định Ngài đã dạy gì. Nhưng Luca có ghi rõ (Lc 9,10-11) : Ngài đón tiếp họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy” nhiều điều này”đã chứng thực lòng thương xót của Thiên Chúa.
MỐI QUAN TÂM CỦA CHÚNG TA.
Quan tâm đến hết mọi người.
Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “Trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều. Để tỏ lòng biết thương người, chúng ta hãy làm một số việc sau đây :
Sẵn sàng bị quấy rầy.
Bài Tin mừng diễn tả : chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được. Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa, họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống.. Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã phản ứng ra sao ? Không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc đdộng vì thương yêu họ. Những bậc thầy chính thức không có thời giờ dành cho dân thường, nhưng Đức Giêsu dành thời giờ cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Ngài.
Truyện : Sẵn sàng bị quấy rầy.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư :
– Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế ?
Ông giáo sư trả lời :
– Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.
Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.
Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói :
“Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được ? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn độ, đã viết trong tập tự thuật của ông:”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là : Thiên Chúa quan tâm đến mọi người. Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình”. Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa.
Truyện : Không chịu tiếp khách.
Ông Premanand tiếp tục kể lại một câu chuyện mà đáng lẽ ra có thể đã làm thay đổi toàn thể chiều hướng truyền đạo tại Bangal : Người ta ghi lại rằng Giám mục đầu tiên của thủ đô Ấn độ đã không chịu gặp Pandit Vidyasagar của Bangal cách chính thức. Ông Pandit được phái đi làm người phát ngôn cho cộng đồng Ấn độ giáo ở Calcutta để thiết lập quan hệ thân hữu với vị giám mục và với Giáo Hội Kitô.
Ông là người sáng lập trường cao đẳng Ấn độ giáo ở Calcutta, là nhà cải cách xãõ hội, một tác giả, và nhà giáo dục có tiếng, đã trở về bất mãn vì không gặp được vị giám mục. Ông thành lập một đảng mạnh gồm toàn những người giầu có và trí thức ở Calcutta để chống đối giám mục và Giáo hội, ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo…
Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ ; họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.
b) Sự săn sóc chu đáo.
Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông. Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người.
Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin mừng.
Truyện : Cần được viếng thăm.
Chân phước Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi M��ï rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế ? Chị điều dưỡng đáp:”Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến”! Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).
c) Sự thông cảm hợp thời.
Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi, một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.
Đọc trong Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,44), khóc thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem chàng đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Ga 11,1-14). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).
Thánh Phaolô tông đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô : Giáo hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, thánh Tông đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau :”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,14).
Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình. Quan niệm này được diễn tả ra qua những câu ca dao tục ngữ :
– Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ.
– Chị ngã em nâng.
– Lá lành đùm lá rách.
– Máu chảy ruột mềm.
– Không ai khen đám cưới, ai nỡ cười đám ma.
Tuy nhiên, trong việc thông cảm với nhau phải biết lựa lời nói cho thích hợp với hoàn cảnh kẻo làm phật lòng người ta. Nói đúng ra, đấy là một lối thông cảm trái mùa.
Truyện : Thông cảm trái mùa.
Hai người đàn bà đi trong xe hỏa nói chuyện với nhau. Bà mặc áo đen kể lể với người bạn về những sự khổ cực trong gia đình mình : nào là làm ăn thua thiệt, con cái bướng bỉnh… nhất là mình mới mất người chồng thân yêu, làm cho đời trở nên buồn tẻ, cô đơn.
Bà mặc áo vàng ngồi bên tỏ vẻ thông cảm với người đàn bà đau khổ kia đã nói : Tôi cũng rất buồn vì tôi mới mất một con chó Vện, con chó này khôn lắm, nó biết canh nhà cẩn thận, tôi đi đâu nó cũng tìm đến được, thật là con chó đánh hơi rất tài tình. Nay nó chết, tôi buồn quá… Như vậy hai chị em mình cùng chia sẻ nỗi buồn với nhau !!!
Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Ngài lại quan tâm đến con người hơn là công việc, nên Ngài khuyên các ông:”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Đức Giêsu khích lệ các ông đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh, chắc chắn vượt xa hơn cảnh huống cụ thể của đời thường. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong”.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời:”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi”.
Doncoeur đã quả quyết:”Không một vĩ nhân nào đã thành công mà khong đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.
Ernest Hello cũng quả quyết:”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động”.
Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông:”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng”.
Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau : sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó. Và nó rất cần thiết cho đời sống tu trì cũng như đời sống hoạt động, đặc biệt cho các nhà truyền giáo.
Đức Giêsu không nghĩ đến mình, Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối trọng tình thương của Ngài. Mỗi người chúng ta có đời sống riêng tư, được sắp xếp theo ngăn nắp, hợp lý, chúng ta có quyền bảo vệ sự quân bình ấy, nhưng nếu có đôi lúc phải hy sinh cái lợi ích riêng tư ấy vì hạnh phúc của người khác, chúng ta hãy coi đó là một nhiệm vụ.
Xin cho con một quả tim như Chúa,
Biết cảm rung trước những nỗi đớn hèn,
Những bất toàn, những bất hạnh của anh em.
Để con không nỡ quay lưng tìm đường trốn chạy.
Xin cho con một trái tim nhân ái,
Biết chạnh lòng thương cảm trước tha nhân.
Dầu khi con muốn tìm chút an nhàn,
Muốn được hưởng chút niềm vui chính đáng.
Xin cho con đừng bao giờ than vãn,
Khi bị quấy rầy, đeo đuổi với nỉ non.
Bởi bao lâu mà đau khổ vẫn còn,
Thì tình Chúa vẫn dạt dào trong Chúa,
Cùng rung lên nhịp điệu của Thánh Linh.
Cho con dám dấn thân vì Chúa quên mình,
Bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
NHỊP SỐNG KITÔ HỮU- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỜI KHUYÊN THIẾT THỰC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Ngài chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực. Nếu khoảng lặng trong bài hát cần thiết để làm cho ý nhạc thấm vào lòng người nghe, thì lời Chúa làm chững lại câu chuyện hào hứng của các tông đồ cũng giúp các ông nhận ra ý nghĩa cuộc đời tông đồ. Cần thiết phải “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
Thinh lặng để sống nội tâm
Lắm khi trong cuộc sống xô bồ, bận rộn vì cơm áo gạo tiền, bận rộn trong việc đạo đức, lo tập hát, lo đoàn thể, lo các công việc bác ái, xã hội…chúng ta quên đi việc “nạp năng lượng” từ Thiên Chúa.
Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã nhắc nhở chúng con qua Tin Mừng hôm nay rằng, đừng kể lể những gì mình đã làm, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự gặp gỡ thân mật với Chúa, nơi là nguồn sống của chúng con. Xin giúp chúng con khám phá ra sự ngọt ngào của Chúa mỗi ngày.
“Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen” (Mẹ Têrêxa Calcutta).
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI CHẠNH LÒNG THƯƠNG– Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ NGHỈ NGƠI- Lm. Trần Bình Trọng
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ
về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi
sau những ngày giờ làm việc vất vả.
Xin giúp thánh hoá công việc con làm
và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi
hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả
và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa
để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN- Năm B
MỤC TỬ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần học chính của Giêrêmia cũng như các tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah, Yahweh Thiên Chúa đã phá huỷ thành quách do bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar. Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt 40 năm tao loạn của cộng đồng ở Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những khốn khó và khổ đau với dân chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng và hy vọng vào sự giải cứu trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và nói thật khi phải đụng chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đoàn chiên Ta” (Gr 23,1).
Lời Tiên tri Giêrêmia giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Nếu không được sai đi, không ai tự mình lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành (x. Ds 1,47-50). Tiếp theo là các vị tư tế được chọn lựa trong dân để phục vụ. Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành thánh thiện cần được huấn luyện trau dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa như vua Saulê, Đavid, Solômon và những vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân chứng tin mừng cả về trí, đức và dục. Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã được thừa hưởng gia sản giáo dục rất phong phú. Để trở thành một linh mục, ít nhất các ứng viên cũng phải trải qua nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương trình trung học phổ thông, các ứng sinh phải có bằng cử nhân Triết học, hoặc nếu có cử nhân về các môn học khác, thì cần các tín chỉ 2 năm về Triết học. Phải trải qua 4 năm thần học với bằng cử nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA) cộng với các kinh nghiệm từng trải trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện tại các giáo xứ, trường học hay bệnh viện… Các linh mục dòng còn cần thời gian dài hơn trong sự huấn luyện cả về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng hơn hết là các ứng sinh linh mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật thiết với Chúa Giêsu linh mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh mục và tu sĩ đều quy về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài Sai về các cộng đoàn, giáo xứ hoặc sinh hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết căn bản về Giáo Hội và các môn thần học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như nhau, nhưng mỗi người có những khả năng chuyên môn và cách hành xử khác nhau. Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và bề trên về công việc mục vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu toàn.
Lý tưởng thì rất cao trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành. Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị rơi vào những tham, sân, si hoặc lười biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa vào những cạm bẫy nghiện ngập như bài bạc, rượu chè, truỵ lạc và tham lam của cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh mục sống đức độ, thánh thiện và phục vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa, nhưng không đáp ứng thoả mãn những đòi hỏi của giáo dân nên gây ra nhiều hệ luỵ. Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo lề luật của Giáo Hội mà bị coi là khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi theo chính dòng truyền thống của Giáo Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé cái lầm.
Thường thì mục tử nào cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức tạp khó lường. Những thị phi và hoạ phước của con người có thể gây những phiền hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết rằng nếp sống chung luôn là một sự thách đố. Người ta thường nói “trăm người trăm ý”. Ý kiến của ai cũng hay và cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích hợp. Chính những sự khác biệt và mâu thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết lắng nghe để giúp khai thông những bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy học theo gương của Thánh Phaolô Tông đồ sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô đã tự khoe mình: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9). Linh mục như những bình sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào tình thương và ân sủng của Chúa để thắng vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Mỗi mục tử hãy dùng thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời sống dâng hiến của chính mình. Ý thức trong mọi suy tư, lời nói, hành động, trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên giống người này hay người nọ, nhưng hãy chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường tò mò tìm hiểu những thế giới bên ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu con người bên trong của mình. Tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng ta được thư giãn để kết hợp với Chúa trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy đua với công việc thường ngày nhưng luôn nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp ứng thoả mãn các nhu cầu cuộc sống trong mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi phải biết nói ‘không’ khi những đòi hỏi không cần thiết. Người ta thường nói cả nể cho nên sự dở dang là thế. Người mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm. Chúa là chủ chiên tốt lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ TIN MỪNG CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh. Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho Thế Vận hội này.
Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp với 3 gam màu chủ đạo.
Gam màu vàng cam. Đó chính là hình ảnh các Tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung thành với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà… Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp “chứng chỉ tốt nghiệp” hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?
Gam màu xanh thẳm. Đó là gam màu phác hoạ hình ảnh đám đông dân chúng như là đàn chiên đang hết lòng đi theo Mục Tử của mình và khao khát được nghe lời hằng sống của Vị Mục Tử ấy. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh “bị” tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, ngoài biển khơi, hay trong hoang địa… Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Marcô mô tả.
Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.
Gam màu hồng thắm. Đây là gam màu nổi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Hậu Từ Tâm.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại, Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐI TÌM CON NGƯỜI- Lm Nguyễn Lộc Hòa
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy”. Nhà hiền triết trả lời: “Ta tìm con người”. Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy nghẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.
Bài Tin Mừng thánh Maccô cho thấy: Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên không người chăn dắt. Sao lại không có người chăn dắt? Họ là người Israel có vua quan, có chức quyền, có nhà nước cai trị mà. Phải mà không phải vậy. Bởi lẽ vua Hê-rốt và quần thần của ông ta thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn phải dựa vào thế lực của đế quốc Rôma để sinh tồn. Điều suy nhất họ vẫn cần mẫn chu toàn là giáng xuống đồng bào khốn khổ của họ, siêu cao thuế nặng để có của cống nạp cho quan tề nước lớn. Đồng thời không từ một biện pháp chuyên chính đẩm máu nào để chèn ép mọi manh nha phản kháng nổi dậy của dân chúng.
Nhưng dù gì thì dù, người Israel vẫn cứ là dân riêng của Chúa. Họ có tôn giáo, có đền thờ, có các bậc lãnh đạo tinh thần, những vị này đâu hết rồi. Có chủ chăn song cũng như không. Một số các vị gồm tư tế và kinh sư chạy theo thời cuộc dấn sâu vào chính trị. Tôn giáo đối với họ chỉ là thứ để tạo thế lực đổi chac1t với nhà cầm quyền. Một số các vị khác đặc biệt như nhóm tư tế đền thờ đã tận dụng vai trò “thầy cúng” của họ để làm giàu, thậm chí biến nhà Chúa thành thị trường kinh doanh trục lợi. Cũng chính vì tham vọng tiền và quyền họ thi nhau xén lông vắt kiệt sữa chiên trong khi không hề bận tâm lo cho chiên nắm cỏ, ngụm nước . Bóc lột chiên chán chê họ quay ra ẩu đả cắn xé lẫn nhau. Đó là bức tranh thảm thương của dân chúng thời ngôn sứ Giê-ri-mi-a vừa được tái hiện hầu như nguyên vẹn trước mắt Đức Giêsu. Không đau lòng Đấng Cứu Thế sao được, không xót dạ vị Thiên Sai sao được, nổi đau vừa do số phận đáng thương của đàn chiên và vì tính cách bất xứng vô đạo của các chủ chăn chiên. Đây là thời điểm Thiên Chúa bị chủ chăn tối cao hành động. Ngài sẽ nghiêm khắc trừng trị đám chủ chăn gian ác bất xứng. Người đem đàn chiên của người khỏi tay chúng để trao cho vị mục tử nhân lành chăm sóc. Vị mục tử này giàu lòng cảm thương vừa lo cho chiên ăn mạnh trong đàn vừa lặn lội đi tìm chiên lạc.
Và như thánh Phaolô miêu tả vị mục tử chính nhân đó sẽ thí mạng đổ máu trên thập giá để hòa giải liên kết chiên thành một để biến đổi mọi kẻ xa lạ thành người nhà bà con ruột rà với nhau và với Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa đến với mỗi người, mỗi cộng đoàn Hội thánh cũng như với đất nước ta hôm nay làm sống lại niềm hy vọng gần như tàn lụi giữa bao khó khăn truyền miên trong lịch sử và trong hiện tại. Thiên Chúa vẫn luôn để mắt đến dân của ngài. Đức Giêsu Kitô vị mục tử nhân lành đầy lòng trấn ẩn luôn dẫn dắt bảo vệ và nuôi dưỡng đàn chiên của người.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
THIÊN CHÚA CHĂN DẮT DÂN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.
Ta sẽ đem chúng trở lại đồng cỏ
Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.
Đức Giêsu động lòng thương dân như chiên không người chăn
Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.
Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Theo bạn, con người ngày nay mong ước gì một cách sâu xa nhất?
Theo bạn, Giáo Hội Công Giáo ngày nay đáp ứng được đến mức nào mong ước của con người hiện đại? Tại sao bạn nghĩ vậy?
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY DÀNH THỜI GIAN CHO NHAU – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có lời hát viết rằng:
“Hãy cho nhau thời gian nhé
Hãy cho nhau bình yên nhé
Để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu
Hãy vững tin người ơi đường dài còn mãi những nỗi đau
Thì vẫn tin, tương lai mình sẽ có nhau….. “
Người ta nói khi còn yêu nhau thì thời gian luôn là của nhau. Đôi trẻ yêu nhau thì họ dành toàn bộ thời gian bên nhau, nếu vì công việc thì họ vẫn luôn nghĩ tới nhau rồi tranh thủ điện thoại, nhắn tin cho nhau. Cặp vợ chồng yêu nhau thì luôn quan tâm tới công việc của nhau và sẵn lòng dành thời gian để chia sẻ giúp đỡ nhau. Con cái yêu cha mẹ thì dù ở phương xa vẫn tranh thủ về thăm khi có dịp hay ít ra cũng thăm hỏi thường xuyên qua điện thoại, email.
Đúng như lời bài hát khẳng định: “Hãy cho nhau thời gian nhé, để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu”. Và cho dù đường dài có những nỗi đau thì người yêu nhau vẫn có nhau để chia sẻ ngọt bùi, nhục vinh.
Trong “Ngày hội gia đình và tuổi thơ” tại Sài gòn ban tổ chức đã hỏi các gia đình: “Theo anh (chị), vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi gia đình hiện nay là gì?”. Kết quả, có đến 50 % cho rằng các thành viên quá ít thời gian dành cho nhau, và 50 % còn lại là vấn đề kinh tế, giáo dục con cái hoặc người thứ 3 xen vào.
Có một chị là giáo viên kể rằng: Khi mới lấy nhau, chị dành rất nhiều thời gian để đi chợ, nấu nướng, háo hức chờ chồng về ăn cùng. Nhưng ngày nào cũng thế, chồng chị đi đến nửa đêm mới về, mặc cho vợ dùng hết “vũ khí” từ khóc lóc đến bỏ nhà đi và đòi ly dị nhưng anh chồng vẫn không thay đổi. Đến khi chị có thai, rồi sinh con, chị đàm phán: “Giờ có con rồi, anh phải ở nhà nhiều hơn để lỡ có chuyện gì xảy ra còn kịp xử lý”.
Nhưng chỉ được vài bữa anh lại “ngựa quen đường cũ”, tiếp tục những ngày vắng nhà triền miên với đủ lý do. Chị vừa buồn vừa tiếc công sức mình bỏ ra. Chị nghĩ: “Thời gian đó để làm việc khác chắc sẽ có ý nghĩa hơn”. Rồi từ đó, khi chị sinh con, chị liền gửi con ở nhà ngoại. Còn chị, hết giờ dạy ở trường, chị tìm chỗ dạy thêm. Khi không còn việc gì để làm, chị chạy về nhà mẹ ruột ăn vội chén cơm rồi đón con về nhà. Chồng chị một vài tiếng sau mới về, họ cũng chẳng có thời gian, tâm trí để hỏi han hay tâm sự…
Điều đáng báo động là nhiều gia đình trẻ hôm nay khi cưới nhau về là bỏ rơi nhau. Họ dành thời gian cho công việc sinh sống và quảng đại dành thời gian với bạn bè mà rất ít khi dành thời gian cho nhau. Họ đâu hiểu được rằng trong đời sống vợ chồng việc không có thời giờ cho nhau chính là nguyên nhân đưa đến những hiểu lầm, xích mích, tranh cãi, lạnh nhạt, và nếu không được giải quyết kịp thời nó có thể đưa đến đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng.
Nói về thời gian có lẽ không ai là hoàn toàn rảnh rỗi, nhưng nếu còn yêu thì luôn dành thời gian cho người mình yêu. Khi không có yêu thương thì người ta sẽ dành thời gian cho nghỉ ngơi, cho hạnh phúc riêng mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng sau một ngày vất vả cứu chữa những mảnh đời khổ đau, Chúa Giê-su cũng muốn cùng các môn đệ nghỉ ngơi đôi chút. Các ngài lên thuyền lánh riêng ra nơi khác. Nhưng khi vừa lên tới bờ, các Ngài đã thấy một đoàn người đang khao khát để được Ngài thi ân, giúp đỡ. Ngài chạnh lòng thương và tiếp tục dành thời gian dấn thân phục vụ cho họ.
Là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết chạnh lòng thương anh em mình. Chạnh lòng thương là biết dành thời gian cho nhau. Khi ai đó đang cần chúng ta quan tâm hãy dành thời gian cho họ. Khi ai đó đang yếu đau hãy dành thời gian viếng thăm họ. Khi ai đó đang cô đơn hãy an ủi họ. Đặc biệt trong đời sống gia đình đừng bao giờ bỏ rơi người thân khi chúng ta vô tâm đi qua cuộc đời họ mà thiếu chăm sóc, hỏi han đến nhau. Đừng nại vào công việc để rồi quên đi mái gia đình là nơi có những con người đang chờ đón sự ân cần chăm sóc của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Biết dành thời gian cho con người hơn là công việc hay tiền tài. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Bà Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn cho bé trai này bú sữa của chúng.
Bà Delia kể tiếp: “Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống biển hòng thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chẳng biết tên của mình nên báo chí gọi em là bé Chó. (Nguồn: ABC nEWS, Santiago, June 19, 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan… nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su (Mt 4,4).
Khao khát lương thực tinh thần
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được. Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống. Chạnh lòng thương các Tông đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút.
Kế đó, Chúa Giê-su và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi. Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm mà Chúa Giê-su và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giê-su.
Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giê-su lại gặp đông đảo những người mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.
Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình như đoàn chiên không người chăn dắt, Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết là những lời dạy dỗ khôn ngoan (Mc 6,34).
Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài như đám đông người Do-thái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giê-su là hiện thân của sự Khôn ngoan đang sống giữa chúng ta.
Vấn đề quan trọng là chúng ta có mở tâm hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “kho tàng” vô giá này hay không.
Khai thác kho tàng trong tầm tay
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn ngoan luôn ở cùng chúng ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy gian nan hiểm trở… Vậy muốn tìm được “kho báu”, chúng ta phải chấp nhận dành thời giờ để tìm kiếm và khám phá Chúa Giê-su.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “kho báu” trong Tin mừng của Chúa, nhờ đó chúng con được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU MỤC TỬ- Trích Logos B
Vào ngày 17/7/2006, đất nước Indonesia lại phải gánh chịu thêm một tổn thất nặng nề nữa về người và tài sản. Đó là trận động đất và sóng thần xảy ra tại đảo Java đã cướp đi sinh mạng của hơn 550 người.
Tuy nhiên, theo bản tin của đài ABC News, sau cơn sóng thần đó, một làn sóng dữ dội khác đang “tấn công” đảo Java. Đó là những khách du lịch vì tò mò đã tìm đến đây để được chứng kiến tận mắt hậu quả tàn khốc của trận thiên tai. Để ngăn cản làn sóng những du khách đổ xô đến xem, người ta phải dựng lên những tấm bảng “cấm vào” tại các bãi biển.
Những người đến xem cảnh đổ nát kia hoàn toàn vì tính hiếu kỳ, nên họ dửng dưng trước những cảnh tang thương. Trong khi đó, có một số nhóm người làm việc từ thiện đã đến và lăn xả vào đống hoang tàn đổ nát để cứu vớt và giúp đỡ các nạn nhân. Giữa những đau khổ và bất hạnh, luôn có những tấm lòng nhân ái. Bên cạnh những trái tim sỏi đá, luôn có những trái tim dạt dào tình yêu thương.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, chúng ta có thể nhận ra được trái tim nhân hậu đầy tình thương xót của Chúa Giêsu. Trái tim ấy đã rung động thổn thức và chạnh lòng thương xót khi nhìn thấy đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không có người chăn. Trái tim của Chúa Giêsu chính là trái tim của người mục tử nhân lành.
Chúa Giêsu, mục tử nhân lành
Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Chắc chắn đó là một cuộc hành trình dài đầy vất vả và thiếu thốn : không bị không bánh, không tiền bạc giắt lưng…
Sau cuộc hành trình gian khổ ấy, các môn đệ đã trở về và đến với Chúa để tường trình những kết quả đã gặt hái được trên bước đường loan báo Tin Mừng. Với đôi mắt đầy yêu thương, Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự mệt nhọc đang hằn lên khuôn mặt của những người môn đệ yêu dấu. Vì thế, Chúa đã khuyên các môn đệ “hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút”. Đó chính là những giờ phút nghỉ ngơi cần thiết sau một cuộc hành trình dài đầy vất vả. Đàng khác, cũng có thể Chúa Giêsu nhận thấy khi các môn đệ hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng, các ông đã “phóng tâm” trong những hoạt động bên ngoài, nên đã phần nào đánh mất đời sống nội tâm. Đây là lúc các môn đệ cần “thu tâm” lại để được bồi dưỡng tinh thần trong đời sống cầu nguyện.
Thế nhưng, đang khi Chúa Giêsu và các môn đệ đi tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì dân chúng đã đoán biết được điều ấy nên đã đến nơi đó trước các ngài. Nhìn thấy đám đông dân chúng đang khao khát lắng nghe lời Chúa, trái tim mục tử của Chúa đã bồi hồi xao xuyến trong mối thương cảm. Ngài đành hủy bỏ chương trình nghỉ ngơi cùng các môn đệ để tiếp tục giảng dạy dân chúng.
Chỉ có nơi người mục tử nhân lành mới có những hy sinh tận tụy như thế. Chỉ có nơi người mục tử nhân lành mới có những cử chỉ và sự quan tâm đầy yêu thương như thế. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng dung mạo của Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, để chúng ta thêm lòng yêu mến và phó thác cuộc đời trong bàn tay dẫn dắt của Ngài.
Đi theo bước chân vị mục tử nhân lành
Chúng ta được mời gọi để đi theo sự hướng dẫn của mục tử Giêsu. Đi theo Chúa nghĩa là ta đặt định mệnh đời ta trong tay Chúa. Nhưng đi theo Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, còn có nghĩa là chúng ta họa lại hình ảnh Chúa Giêsu mục tử trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta được mời gọi để tham dự vào vai trò mục tử của Chúa Giêsu khi chúng ta cũng biết tận hiến đời mình trong sự phục vụ và hy sinh cho người khác. Mỗi người, trong trách nhiệm, bổn phận và địa vị của mình đều có nghĩa vụ quan tâm và chăm lo cho những người sống chung quanh.
Là cha mẹ, chúng ta là mục tử đối với con cái trong gia đình. Chúng ta hãy lưu tâm giáo dục con cái nên người và chăm lo đời sống đức tin cho con cái. Là thầy cô giáo chúng ta là mục tử chăm sóc những học trò của mình : hãy tận tụy hy sinh hơn nữa trong việc dạy dỗ và truyền đạt kiến thức một cách trung thực và có lương tâm của một người thầy. Là người lãnh đạo, chúng ta hãy trở nên mục tử cho những người được trao phó cho chúng ta : hãy biết chia sẻ và phục vụ mọi người một cách tận tình như chính Chúa đã phục vụ. Và cho dù là ai đi chăng nữa, chúng ta cũng có thể phác họa hình ảnh mục tử Giêsu bằng chính cuộc sống mình. Hãy sống thế nào để chúng ta có thể chia sẻ sự sống, thời giờ, của cải cho tha nhân và làm giàu đẹp thêm cuộc sống chung quanh.
Hôm nay, chúng ta hãy biết mang lấy trái tim mục tử của Chúa Giêsu trong lồng ngực mình, để chúng ta cũng biết nhói đau trước nỗi thống khổ của anh em mình, cũng biết rung một nhịp đập với trái tim mục tử của Chúa khi nhìn thấy những mảnh đời bơ vơ lạc lõng.
Bơ vơ lạc lõng đó là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay, một xã hội chỉ biết chạy theo lợi nhuận và sự thực dụng. Bơ vơ lạc lõng khi mất đi niềm tin vào cuộc sống, vào bạn bè, vào chính Thiên Chúa. Bơ vơ lạc lõng khi phải đối mặt với những thất bại và tai họa trong cuộc đời. Chính chúng ta cũng phải biết chạnh lòng thương xót như Chúa Giêsu khi nhìn thấy những cảnh đời bơ vơ lạc lõng như thế.
Họa lại vai trò mục tử của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là đến với những con người bất hạnh và khốn cùng để chiếu ánh sáng lời Chúa vào lòng họ, đem lại cho họ niềm hy vọng và sự bình an ?
Họa lại vai trò mục tử của Chúa là gì nếu không phải là chỉ cho tha nhân lối mở về Tin Mừng của Chúa, là nhịp cầu cho mọi người gặp gỡ nhau trong tình huynh đệ ?
Chúng ta được tham dự vào sứ vụ mục tử của Chúa, nhưng có thể nhiều lúc chúng ta đã không chu toàn sứ vụ ấy. Đó là thực trạng các mục tử Israel được mô tả trong bài đọc I, trích sách tiên tri Giêrêmia. Đó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo đàn chiên của Chúa là dân Do Thái, nhưng họ đã làm tản mát và xâu xé đàn chiên Chúa. Thiên Chúa sẽ lấy lại đàn chiên ấy và đích thân Người chăm sóc đàn chiên. Là bậc cha mẹ, là những người đang có trách nhiệm giáo dục, là những người trong vai trò hướng dẫn, chúng ta có đang đi vào “vết bánh xe” đó của các mục tử Israel không ?
Một nhà văn Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đã được phong danh hiệu “ông vua phóng sự đất Bắc”. Nhà văn đó chính là Vũ Trọng Phụng, một cây viết hiện thực và tả chân tài tình. Ông nổi tiếng với thiên phóng sự “Cơm Thầy Cơm Cô”. Thiên phóng sự này tả lại cảnh đời tăm tối và bi thảm của những người làm thuê, làm mướn hoặc đi ở đợ hay làm “cu li”.
Để có thể lột tả được hết những cảnh đời khổ đau cùng cực, ông đã sống như một người dân đen giữa đám người khốn cùng ấy. Trái tim ông đã hòa cùng nhịp đập với họ. Đến nỗi vì làm việc quá cực khổ, ông bị ho lao và qua đời lúc mới 27 tuổi.
Chúa Giêsu chính là một vị Thiên Chúa cao cả đã bước xuống thân phận thấp hèn của con người để hòa mình vào cuộc sống đau khổ của con người. Trái tim mục tử của Chúa cũng đã bồi hồi xúc động trước những con người bất hạnh. Phải chăng đó cũng phải là trái tim của chúng ta ? Phải chăng đó cũng là con đường Chúa đang mời gọi chúng ta bước theo ?
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI SAI HỌ ĐI (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ra khỏi thuyền, Ðức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”(Mt 6,34)
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong Kinh Thánh. Đẹp trong hình ảnh và đẹp cả trong ý nghĩa. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cảm động: Chúa ở giữa dân của Người. Đồng thời cũng cho chúng ta thấy lý do tại sao Chúa lại làm như thế: Vì Chúa thương. Vì yêu thương cho nên Chúa luôn ở giữa dân của Người.
Thiên Chúa luôn yêu thương những ai tin ở Người. Tình thương ấy rất cụ thể, được biểu lộ qua việc Người luôn lưu tâm lo lắng cho những người đó. Bài sách Thánh thứ nhất chúng ta vừa nghe chứng minh một phần nào điều đó.
Như một mục tử tốt luôn biết lo lắng, bảo vệ cũng như săn sóc cho đoàn chiên thế nào thì Chúa cũng bảo vệ, săn sóc, lo lắng cho những ai biết tin tưởng vào Chúa như thế…và có thể nói là còn hơn thế. Chúa biết thật rõ:
Một con chiên không có người chăn, sẽ không tìm được đường đi.
Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta cũng có thể bị lạc lõng trong cuộc sống như thế. Thi sỹ Dante có lần đã nói: “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể có những lúc khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp những ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi được Chúa hướng dẫn, chúng ta mới biết rõ con đường phải đi.
Một con chiên không người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn.
Sống trên đời này chúng ta phải tìm kế mưu sinh. Nếu chúng ta tìm nó ở một nơi nào đó ngoài Chúa, tâm trí chúng ta sẽ không bao giờ được thoả mãn, tấm lòng chúng ta sẽ không được yên nghỉ, và linh hồn chúng sẽ không bao giờ được no thoả. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống thật từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống của chúng ta.
Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại với những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể một mình tự vệ chống lại với bọn trộm cướp và đám thú rừng.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không thể sống một mình, không thể tự mình sống. Không ai có đủ sức để có thể tự vệ với những cám dỗ luôn tìm đủ cách tấn công ta. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà vẫn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn. Đó là chân lý.
Sự săn sóc của Chúa thật chu đáo. Tắt một điều là Chúa muốn cho những ai theo Chúa luôn có được sự bình an và hạnh phúc. Nhưng tiếc một điều là nhiều khi con người không nhận ra được điều đó. Và chính vì thế mà nhiều khi họ cảm thấy dường như Thiên Chúa chẳng lưu tâm gì đến mình.
Đức Cha Tihamer Toth có kể một câu chuyện như thế này trong cuốn sách Ngài viết gửi cho các bạn trẻ. “Một hôm kia có một chàng thanh niên vô rừng đốn củi. Đến trưa anh ta tìm đến một gốc đa cổ thụ thật lớn để nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nằm dưới gốc cây nhìn lên anh thấy những cành lá thì thật là rườm rà nhưng những quả đa thì trái nhỏ, anh phải cố gắng lắm mới nhìn thấy. Thấy như vậy nên anh ta nghó thầm:
“Lạ thật. Cây thì khổng lồ. Lá thì lớn mà trái thì lại nhỏ xíu! Thật là chẳng cân xứng tí nào”.
Rồi anh ta tự nghĩ:
– Nếu tôi mà là Chúa thì tôi sẽ cho cây đa mang trái to như trái bí, lá to như lá chuối. Như thế mới cân xứng. Tội cho cây bí! Thân thì yếu ớt mà lại phải đeo những trái lớn. Cây chuối mảnh khảnh mà lại phải mang những tấm lá to như tấm phản. Quả thật là Chúa chẳng công bằng tí nào…Hay là không có Chúa…mọi loài mọi vật đều tự nhiên mà có!.
Suy nghĩ miên man như vậy được một lát thì anh thiếp ngủ đi lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Giữa lúc anh ngủ say như thế thì vô tình có một cơn gió lốc thổi rất mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi của anh một trái đa. Anh giật mình tỉnh dậy vừa xít xoa vừa suy nghĩ:
– May quá, phải mà trái đa lớn như trái bí thì kể như là bữa nay mình tận số rồi. Thế ra Đức Chúa Trời khôn ngoan thật. Ngài xếp đặt tất cả rồi đấy chứ. Thảo nào mà người ta thường nói: “Trái dừa rớt bao giờ cũng tránh người”.”Quả sầu riêng bao giờ cũng rơi vào ban đêm”. Công việc của Chúa thật là kỳ diệu.” Bằng tình yêu thương Người luôn lo lắng cho chúng ta.
Bước qua Bài Tin Mừng, Tình thương của Chúa được biểu lộ dưới một khía cạnh khác. Người dạy dỗ chúng ta. Chúa thực sự quan tâm đến nhu cầu của chúng ta.
Sau những ngày thực tập truyền giáo mệt nhọc, Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài quả đã không tìm được sự nghỉ ngơi như mình mong muốn.
Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ Chúa Giêsu xuất phát đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ định tới cách xa khoảng chừng 6km nếu vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ vòng bờ hồ thì đường đi đến hơn 16km. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đường này phải tốn khá nhiều thời gian, còn người khoẻ chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và đến nơi trước khi thuyền cập bến. Sự việc đã xảy ra ngay ở điểm này. Lúc Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đoàn dân mà Chúa và các môn đệ của Ngài muốn lánh mặt để tìm thời giờ nghỉ ngơi đã chờ sẵn ở đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Ngài có thể ban cho họ.
Thật là rất dễ bực bội với đám đông, dễ cảm thấy họ đã gây phiền toái cho Ngài. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Ngài bằng những đòi hỏi triền miên như vậy? Ngài không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Nhưng Chúa Giêsu đã không màng tới điều đó, chẳng những Ngài không thấy họ gây phiền hà mà còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa. Vì nhờ Lời Người dạy dỗ mà bao nhiêu con người trên thế giới từ trước cho đến hôm nay đã tìm ra cho đời mình một ý nghĩa, một hướng đi, giúp cho họ biết sống một cuộc đời cao cả và tốt đẹp hơn.
Tôi nhớ một câu chuyện trong cuộc đời của Augustinô. Hôm ấy Augustinô vừa thực hiện xong một cuộc tranh luận. Trở về nhà bạn của mình là Alpius, ông cảm thấy tâm hồn vô cùng trống rỗng. Lúc đó tự nhiên ông nghĩ tới Chúa, ông buột miệng thưa với Ngài: “Lạy Chúa, đến bây giờ, đến bây giờ Chúa còn nổi giận sao? Chúa không xóa đi những lỗi lầm quá khứ của con ư? Bao lâu nữa? Bao lâu nữa? Ngày mai ư? Đến mãi ngày mai sao? Tại sao không lập tức ngay bây giờ.” Thế rồi ông khóc, khóc như một đứa trẻ. Một ông tiến sĩ giáo sư đại học khóc…khóc như một đứa trẻ. Tâm hồn ông bị dày vò. Bỗng nhiên ông nghe thấy từ ngôi nhà bên cạnh, tiếng nói của một em bé nói vọng sang: “Hãy cầm lấy và đọc đi. Hãy cầm lấy và đọc đi.” Nét mặt ông đổi sắc. Ông không khóc nữa. Ông chạy thẳng lại chỗ Alpius cầm lấy cuốn thư của Phaolô gửi cho giáo đoàn Roma. Im lặng. Ông từ từ mở ra và đọc thấy ngay ở đầu trang những lời như thế này: “Anh em chớ sống trong say sưa, trong lạc thú dâm ô, trong cãi cọ và phân bì nữa – Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng quá chăm lo về xác thịt và làm phỉ lòng nó.”
Ông gấp lại, không đọc thêm nữa. Bằng ấy thôi cũng đã đủ để ông nhận ra được ánh sáng và con đường. Ông quyết định làm lại cuộc đời. Ông cho Mẹ ông biết quyết định đó. Và bà nói đây là ngày đẹp nhất trong cuộc đời của Bà.
Vâng Augustinô đã trở lại thực sự. Ông quay hẳn một góc 180 độ. Sự trở lại của Ông đã đem lại không biết bao nhiêu lợi ích cho các linh hồn. Bằng cương vị của một Linh mục rồi một Giám mục, Augustinô đã giúp cho rất nhiều người tìm về với Chúa. Và ngày nay trên Thiên đàng với vai trò một vị Thánh, Thánh tiến sĩ Augustinô của Hội Thánh hẳn là sự trợ lực lớn lao cho Giáo Hội và chúng ta hữu hiệu hơn.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta khám phá ra được những giá trị cao cả của Lời Chúa để Lời của Chúa giúp chúng ta biết sống một cuộc sống tốt đẹp xứng đáng với danh nghĩa là con Thiên Chúa hơn. Amen.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY NGHỈ NGƠI BÊN CHÚA- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Mừng Chúa nhật thứ XVI thường B tuần này mời gọi chúng ta khám phá tầm quan trọng của sự nghỉ ngơi trong Chúa. Các Tông Đồ trở về từ sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao. Họ đã trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau bệnh tật và rao giảng Tin Mừng. Họ mệt mỏi và Chúa Giêsu bảo họ rằng : “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Các Tông Đồ Chúa, sau chặng đường dài thi hành sứ vụ Thầy trao không tiền, không bao bị, không bánh, chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy và con tim đầy ắp niềm vui của hành trình loan báo Tin Mừng, các ông đã trở về với Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nhưng Chúa Giêsu khám phá ra sự mệt mỏi, rã rời ẩn bên dưới lớp hào quang của thành công. Vì thế, một đàng đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các Tông đồ, đàng khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Với tình thầy trò Người bảo các môn sinh : “Các con hãy hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”, Người nhẹ nhàng kéo các ông ra khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”. Sở dĩ như thế là vì Chúa sợ các môn đệ của mình nhiễm cái thói hám danh, thích khoe khoang, phô trương, quyền lực, vì theo Chúa thành công ấy là khởi điểm tốt đẹp cho chặng đường tiếp theo, chứ không làm các ông tự mãn rồi rơi vào ảo tưởng, ngủ quên trong những thành công đầu đời. Đường trước mắt mà thầy trò phải bước không phải là con đường bằng phẳng, mà đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách, sức lại có giới hạn. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nghỉ ngơi là cần thiết, nghỉ ngơi sẽ giúp các Tông đồ tỉnh táo hồi tâm suy nghĩ và nhấtlà để Chúa bổ sức cho. Thế nên, điều Chúa nói với các Tông đồ ngày xưa, cũng là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Một trong những cám dỗ mà bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể rơi vào là muốn làm nhiều điều, và khi thành công với muôn lời chúc tụng ta dễ bỏ bê tương quan với Chúa thậm trí quên Chúa luôn. Sự bận rộn và thành tích là những căn bệnh hiện đại khiến nhiều người trong chúng ta đau khổ. Nghỉ ngơi, trái ngược với sự bận rộn là một trong những điều mà Chúa muốn nơi chúng ta. Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng trong giờ cầu nguyện, một trong những nguy hiểm nhất là nghĩ rằng có những điều khác cấp bách hơn phải làm, thế là chúng ta chấm dứt giờ kinh nguyện và bỏ qua mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa mà chúng ta đang có. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với các môn đệ của mình, những người đã làm việc chăm chỉ, những người đang mệt mỏi và những người hạnh phúc vui cười bởi vì mọi thứ diễn ra tốt đẹp của mình rằng chúng ta phải nghỉ ngơi. Tin Mừng nói với chúng ta : “các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh” (Mc 6,33).
Để thực hành một giờ nguyện tốt cần phải có ít nhất tối thiểu hai điều: thứ nhất là ở với Chúa Giêsu, bởi vì ở với Chúa chúng ta mới nói chuyện được với Chúa. Ở bên Chúa là gặp gỡ Người, nhờ đó ta thấy cuộc sống của Chúa không phải là quyền lực, là thành công rực rỡ, nhưng là khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ mình, hy sinh vì yêu thương. Chúng ta phải tin chắc Chúa hiện diện trước mắt chúng ta. Bắt đầu giờ cầu nguyện dù ở bất cứ nơi đâu việc ý thức về sự hiện diện của Chúa là điều cần thiết trước tiên và thường là khó khăn nhất. Có thế, chúng ta mới cảm nghiệm được mình ở với Chúa. Điều thứ hai là sự thinh lặng cần thiết. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với ai đó, buổi trò chuyện có thân mật và sâu sắc hay không còn tùy thuộc vào sự lắng nghe. Có thinh lặng chúng ta mới nghe được Chúa nói với chúng ta.
Sức mạnh của chúng ta là nghỉ ngơi trong Chúa. Trong sự thinh lặng và cậy trông! Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng trong việc dành thời gian thinh lặng trong đời sống của Chúa Giêsu. Người thức dậy rất sớm và đi vào nơi thanh vắng một mình cầu nguyện (x. Mc 1,35). Người cần thời gian tĩnh nguyện với Thiên Chúa Cha. Đương nhiên, chúng ta cần thời gian đó! Chúng ta không cần phải lấp đầy thời gian biểu của mình với hàng trăm hoạt động làm cho chúng ta bận rộn. Chỉ trong thinh lặng và ở với Chúa chúng ta mới tìm được sức mạnh trong các hoạt động của mình.
Thánh Phêrô Eymard được đề nghị nghỉ ngơi trong Chúa sau khi hiệp lễ. Và ngài cảnh báo chúng ta về nguy cơ khi kết thúc Thánh lễ với những lời mà chúng ta biết bằng trái tim. Ngài nói rằng, sau khi rước Mình và Máu Chúa Kitô, tốt nhất là thinh lặng trong chốc lát để lấy thêm sức mạnh và nhất là để cho Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự im lặng của tâm hồn chúng ta. Đôi khi, thay vì nói với Chúa về các kế hoạch của chúng ta, tốt hơn là để Chúa dạy chúng ta và ban cho chúng ta lòng can đảm.
Trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.
Đời sống con người luôn có hai nhịp: lao động và nghỉ ngơi. Lao động chính là phúc lành cho chúng ta, giữa bộn bề cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải làm việc, chăm sóc gia đình… Nhưng đôi khi chúng ta quá mải mê lao động mà quên đi phần tâm hồn thiêng liêng mà Chúa trao tặng cho mỗi người, rồi dần dần chúng ta sẽ rời xa Chúa, hình ảnh của Chúa trong tâm hôn chúng ta sẽ phai nhạt dần đi. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Như khí trời cần cho con người, người Kitô hữu cũng cần phải cầu nguyện.
Vì vậy, chúng ta phải lao động và nghỉ ngơi bên Chúa. Nghỉ ngơi bên Chúa để Ngài bồi dưỡng, tăng cường sức lực tinh thần, cũng như để cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, và nhờ vậy, việc lao động của chúng ta được đổi mới và tràn đầy sáng tạo.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGHỈ NGƠI BÊN CHÚA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Câu chuyện Tin mừng hôm nay tiếp nối câu chuyện Tin mừng tuần trước. Sau khi Chúa sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo về, các ông phấn khởi kể cho Thầy Giêsu nghe những thành tích trong chuyến công tác vừa qua, nhưng xem ra Chúa không khen thưởng gì mà chỉ bảo: “Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.
Có nghĩa là ý Chúa muốn các môn đệ tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi bên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, để lấy lại đời sống nội tâm, vì mãi mê lo hoạt động mà thiếu đời sống gắn bó với Chúa thì con người không quân bình giữa hồn và xác.
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tốc độ và đầy tiếng động. Có những người hộ khẩu ngoài đường nhiều hơn trong nhà. Trong những thập niên vừa qua, dân các Tỉnh đổ dồn về thành phố quá đông, tình trạng dễ bị kẹt xe. Con người lúc nào cũng dường như bận rộn với những công việc thôi thúc.
Trong môi trường đông đúc dân cư, nhất là ở những khu đô thị rất ồn ào. Các loại xe chạy ầm ỉ từ sớm tới khuya. Rồi tiếng các thứ loa phóng thanh, tiếng nhạc kích động, tiếng các nhà máy….
Nhịp sống ồn ào như thế dễ làm con người mất khả năng thinh lặng nội tâm. Con người thường bị cuốn hút bởi những công việc, vì bị chi phối nên khó lắng đọng tâm hồn và tìm gặp được Chúa.
Thế thì, tìm ở đâu có bầu khí thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa?. Thưa đó là thánh đường, là tu viện, hay những trung tâm chầu Thánh Thể… chỉ có không gian thanh vắng mới giúp chúng ta thinh lặng nội tâm, dễ dàng sống gắn bó với Chúa và đem lại tâm hồn bình an.
Anh chị em thử nghĩ xem, Chúa cho chúng ta có 6 ngày làm ăn sinh sống, cơm áo gạo tiền, còn ngày Chúa nhật là ngày của Chúa, nhưng thử hỏi chúng ta dành cho Chúa có trọn vẹn không?. Hay là có những người tham công tiếc việc, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật.
Rồi một ngày có 24 tiếng đồng hồ, nhưng hỏi rằng: chúng ta nhớ Chúa được bao nhiêu lần trong ngày?.
Tin mừng hôm nay cho thấy, dân chúng tìm đủ mọi cách để gần Chúa, vì họ khao khát nghe lời Chúa giảng và xem thấy các phép lạ Chúa làm. Nhìn thấy thái độ khao khát của họ, Chúa chạnh lòng thương, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Có khao khát ở gần bên Chúa không?. Chúa có chỗ đứng ưu tiên trong cuộc đời chúng ta không?.
Thật là kỳ lạ cầm tờ 5.000 đồng có giá trị thật lớn khi bỏ vào giỏ nhà thờ, nhưng lại quá nhỏ khi đi chợ mua sắm.
Thật lạ lùng thay, một giờ chầu Chúa thì quá lâu, nhưng một giờ xem phim thì lại mau hết giờ.
Thật là kỳ lạ dành cho Chúa một tiếng đồng hồ tham dự Thánh lễ thì xem ra quá dài, nhưng nếu ngồi ăn nhậu thì lại quá ngắn.
Thật là kỳ lạ khi trận bóng đá kéo dài thêm mấy phút thì thấy hấp dẫn, nhưng lại mệt mỏi chán chường khi cha giảng dài hơn mọi khi.
Cũng thật là kỳ lạ có người thích ngồi ghế đầu khi đi xe hay đi nhận quà, nhưng lại thích ngồi hàng ghế cuối khi đi tham dự Thánh lễ.
Anh chị em thân mến,
Cuộc sống hôm nay dường như con người qua ư là bận rộn với trăm công nghìn việc. Bên cạnh đó còn có quá nhiều thứ lôi cuốn hấp dẫn đó là: Phim ảnh, điện thoại cảm ứng, sách báo, Internét, và đủ mọi hình thức vui chơi giải trí hưởng thụ, làm cho con người không còn nhớ Chúa trong cuộc đời nữa.
Vì thế, dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, chúng ta cần xem lại đời sống đạo của mình. Dù cuộc sống chúng ta có khó khăn đến đâu đi nữa, xin anh chị em ngày Chúa nhật, dành cho Chúa ít là một giờ, đi tham dự Thánh lễ đầy đủ, không được bỏ bớt phần nào trừ khi có lý do chính đáng.
Lời Chúa khuyên các tông đồ năm xưa vẫn còn mang tính thời sự cho chúng ta hôm nay: “Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.
Vậy để thực hiện Lời Chúa dạy, xin anh chị em trong ngày sống dù khi ăn uống, dù khi làm việc, dù khi nghỉ ngơi… chúng ta nên dừng lại một phút, dừng lại một giây để nhớ Chúa trong đời. Nhất là siêng năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể và Bí tích giải tội. Sống bác ái yêu thương, dấn thân phục vụ. Được như vậy, tâm hồn sẽ có Chúa, cuộc sống có ý nghĩa và bình an trong Chúa. Amen.