CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN (*)– Chú giải của Noel Quession 11
CUỘC SÁNG TẠO MỚI(*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 18
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN- Chú giải của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP 28
CHÚA THÁNH THẦN LÀ NGUYÊN LÝ HỢP NHẬT – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 40
THÁNH THẦN, NGUYÊN LÝ HIỆP NHẤT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 57
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG- Đức TGM Jos. Ngô Quang Kiệt 70
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.. 74
CHÚA THÁNH THẦN LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG”- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 74
“CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THỀN”– ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm 81
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Cố ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng. 87
CHÚA THÁNH THẦN ĐẾN ĐẾN ĐỂ SỬA SAI- Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền 94
THẦN KHÍ SỰ THẬT VÀ SỰ THẬT TOÀN VẸN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 97
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 101
VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên. 109
LẠY CHÚA THÁNH THẦN XIN NGÀI NGỰ ĐẾN – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 114
NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 118
THÁNH THẦN, CƠN BÃO DIỆU KỲ- Trích Logos B.. 123
THÁNH THẦ TÌNH YÊU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 129
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC 136
TIẾN BƯỚC CÙNG THÁNH THẦN TRONG BÌNH AN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 140
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Xh 19,3-8a. 16-20b
“Trước mắt toàn dân, Chúa sẽ ngự xuống trên núi Sinai”
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môisen lên cùng Thiên Chúa.
Từ trên núi, Chúa gọi ông và bảo: “Ngươi hãy nói với nhà Giacób, và thông báo cho con cái Israel thế này: “Chính các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai cập. Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng, và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh. Ðó là những lời ngươi sẽ nói lại với con cái Israel”. Môisen trở xuống triệu tập các trưởng lão trong dân và trình bày cho họ mọi điều Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi điều Thiên Chúa dạy, chúng tôi xin thi hành”. Qua ngày thứ ba, trời vừa sáng, có sấm vang chớp loè và mây dày đặc che phủ ngọn núi và tiếng tù và rền vang. Toàn dân trong trại kinh hãi. Môisen đưa dân ra khỏi trại để gặp Chúa, họ đứng dưới chân núi. Khắp núi Sinai bốc khói, vì Chúa ngự xuống đó trong ngọn lửa: khói bốc lên như bởi lò lửa và cả núi rung chuyển dữ dội. Tiếng tù và càng rúc mạnh. Môisen nói và Thiên Chúa đáp lại trong tiếng sấm. Chúa ngự xuống trên đỉnh núi Sinai, Người gọi Môisen lên đỉnh núi.
Ðó là Lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 103, 1-2a và 25c, 27-28, 29bc-30
Ðáp: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và xin canh tân bộ mặt trái đất.
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thượng Ðế của tôi, Ngài quá ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác.
2) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài, kìa biển khơi mênh mông bát ngát, những vật tý hon sống chung cùng loài to lớn.
3) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo.
4) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi tới, chúng được tạo thành, vì Ngài canh tân bộ mặt trái đất.
BÀI ĐỌC II: Rom. 8,22-27
“Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả”.
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng cho đến nay, mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta. Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai đã thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa? Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi. Ðàng khác, cũng có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu ngyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Ðó là Lời Chúa.
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng họ. – All.
PHÚC ÂM: Ga 7,37-39
“Phát sinh nước hằng sống”
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: “Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông”. Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh.
Ðó là Lời Chúa.
THÁNH LỄ CHÍNH NGÀY
BÀI ĐỌC I: Cv 2, 1-11
“Các vị được tràn đầy Chúa Thánh Thần và bắt đầu lên tiếng nói”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói.
Khi ấy, cư ngụ tại Giêrusalem, có những người Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Mọi người đều sửng sốt và bỡ ngỡ nói rằng: “Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư? Nhưng tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pôntô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do-thái và tòng giáo, là người Crêta và Á-rập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa!” [Mọi người đều sửng sốt bỡ ngỡ nói với nhau rằng: “Thế này nghĩa là gì?” Nhưng lại có người khác nhạo báng rằng: “Họ đầy rượu rồi”.]
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 103, 1ab và 24ac. 29bc-30. 31 và 34
Ðáp: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và xin canh tân bộ mặt trái đất (c. 30).
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài quá ư vĩ đại! Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ðịa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài.
2) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất.
3) Nguyện vinh quang Chúa còn tới muôn đời, nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa. Ước chi tiếng nói của con làm cho Chúa được vui; phần con, con sẽ hân hoan trong Chúa.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 3b-7. 12-13
“Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, không ai có thể nói “Ðức Giêsu là Chúa” mà lại không do Thánh Thần. Vậy có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, là Ðấng làm mọi sự trong mọi người. Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích. Cũng như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
CA TIẾP LIÊN
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,/ và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!/ Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;/ Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!/ Lạy Ðấng an ủi tuyệt vời,/ là khách trọ hiền lương của tâm hồn,/ là Ðấng uỷ lạo dịu dàng./ Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,/ là niềm an ủi trong lúc lệ rơi./ Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc,/ xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài./ Nếu không có Chúa trợ phù,/ trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội./ Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan,/ và chữa cho lành nơi thương tích./ Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng,/ chỉnh đốn lại chỗ trật đường./ Xin Chúa ban cho các tín hữu,/ là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn./ Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức,/ được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời./ (Amen. Alleluia.)
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng họ. – All.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-23
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!” Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN (*)– Chú giải của Noel Quession
Chiều ngày thứ nhất trong tuần…
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người” trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ “đất sét” hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến ngày thứ nhất trong tuần khác…. từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần… sống nhịp theo những lần “hiện đến” của Đức Giêsu. Chúng ta không thích “nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật” một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! “Cần phải thở hít mà”? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó “gây khiếp sợ”.
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi “xảy ra biến cố Phục sinh”, là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi” mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ “đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: “Sự chết hoạt động nơi chúng tôi… Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới… Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là “Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống”. Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì “tinh thần” và “thân xác” liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người” cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến “đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người trở thành một “thân thể thiêng liêng”, một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa” (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị “nhốt kín”, giờ lại được “sai đi”.
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ “xí nghiệp” quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai” Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha”. Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: “Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí” (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: “Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hiện hành: đó là “Hơi thở” của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời nay không thích “nhận”: người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình “như thần thánh”. Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
“Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy”. Cần phải “nhận “lãnh” “Thân Thể”. Nên cũng cần phải “nhận lãnh” Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
– Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
– Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: “Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có “lãnh nhận” ơn tha thứ đó không?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
CUỘC SÁNG TẠO MỚI(*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Sau khi đã tưởng niệm triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa trong suốt Mùa Vọng và cuộc giáng trần của Chúa Con từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, chúng ta tưởng niệm lễ Ngũ Tuần khai mạc kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, khi họ tụ họp trong phòng Tiệc Ly. Biến cố nầy có nhiều điểm chung với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân sủng làm chứng về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi tín hữu lãnh nhận những ân sủng của một Chúa Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật “tiền Ngũ Tuần”, tức là ngay khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân sủng của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Phục Sinh của Chúa Giê-su là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Ngay từ ngày đầu tiên này, Chúa Thánh Thần ở với Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13), chắc hẳn đó là căn phòng ở đó Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó cũng chính là căn phòng ở đó, dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; đó cũng chính là căn phòng ở đó Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
Mọi người đang tề tựu ở một nơi.
Không nên hiểu kiểu nói “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”, họ cùng nhau cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do Thái giáo được gọi là lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
Lễ Ngũ Tuần.
Được gọi là “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ nầy được cử hành đúng vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do Thái giáo tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Do thái đều đã trải qua một tiến trình tâm linh hóa, từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Thế nên, lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc, sau cùng lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki-tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc giao ước được làm mới lại hằng năm. Vào ngày đại lễ nầy, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly.
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố nầy được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong theo sau là những cuộc thần hiển. Trong Do thái giáo, chúng ta ghi nhận một nét đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài nhưng chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo khung cảnh của những cuộc thần hiển Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở nơi thể loại văn chương khải huyền nầy, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày cánh chung. Thánh Lu-ca liên kết trực tiếp những hình ảnh nầy với ân ban nói các thứ tiếng khác mà các Tông Đồ lãnh nhận. Như thế, kỷ nguyên Ki-tô giáo thật sự được loan báo theo cùng những dấu chỉ của kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng, truyền thống Kinh Sư đã suy gẫm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được. Hơn nữa, làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29)?
Vì thế, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai chi tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra những khác biệt thật sâu xa.
Phép rửa trong Thần Khí.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Các Tông Đồ đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo nầy: “Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”.
Những biến cố xảy ra trên núi Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố xảy ra trong phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Chúa Thánh Thần. Xưa kia, một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, muôn dân đều được mời gọi chung hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân ban nói các thứ tiếng khác, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11). Theo chuyện tích này sự xáo trộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Vì thế, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng phục hồi sự hiệp nhất của các dân tộc.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục hồi quyền của Đấng chịu đóng đinh và làm chứng là Ngài đã sống lại.
Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a.
Như chúng ta đã ghi nhận trên, kiểu nói: “mọi người đang tề tựu ở một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần thật là quan trọng. Vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí linh thánh của căn phòng Na-da-rét, Thiên Chúa đã kín đáo đến ở giữa nhân loại với tư cách là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Còn bây giờ, Đức Ma-ri-a đảm nhận một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của Nhiệm Thể Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những người phụ nữ nầy không phải dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ, các bà làm chứng theo một cách khác. Rõ ràng, các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”, nghĩa là “tông đồ tuyệt hảo nhất”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, gởi cho cộng đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào khoảng những năm 50-52.
Hoàn cảnh của cộng đoàn Cô-rin-tô:
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô. Giáo đoàn nầy sống ở giữa thế giới lương dân và trong một thành phố mở rộng cửa đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu nầy không phải là không tác động đến cách ăn nếp ở của các Ki-tô hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh đặc thù của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki-tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật, tổ chức còn non yếu và chưa chặt chẻ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu nầy. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều, sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là thực tế.
Xem ra các tín hữu Cô-rin-tô đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế, thánh Phao-lô đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ nầy.
Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu chỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, bắt đầu từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Đức Ki-tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) làm mọi sự trong mọi người”.
Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính vì lợi ích chung.
Thánh Phao-lô đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là đem lại lợi ích cho cộng đoàn, nghĩa là, nếu không vì lợi ích cho cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
Tiếp đó, thánh nhân so sánh thân thể với Đức Ki-tô, hình ảnh này rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki-tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên. Nguyên tắc hiệp nhất chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Chúa Thánh Thần tuôn trào sự sống trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng nầy rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, với một đoạn trích dẫn dài hơn và trong ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Hôm nay, bản văn nầy được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của biến cố Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Biến cố nầy không mâu thuẩn với biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng bổ túc: “Giáo Hội được khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, cho dù những ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy.
Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su trao gởi sứ vụ cho cộng đoàn nhỏ bé nầy, họ tiếp tục sứ vụ của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. “Nhóm còn lại” nầy hình thành Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội được khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Đây là một trong những giáo huấn cốt yếu của bản văn nầy.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, tái hiện cử chỉ của Đấng Sáng Tạo: thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh linh (St 2: 7). Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en dùng để mô tả cuộc hồi sinh những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, đây cốt là khởi điểm của một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành hạt nhân của một nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
Hiệp nhất giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần.
Thánh Gioan luôn luôn liên kết biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống với biến cố Phục Sinh, như thánh ký đã giải thích lời công bố của Chúa Giê-su về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại nầy, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là khúc dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày lễ nầy đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, thánh Gioan khẳng định sự liên đới của hai biến cố nầy trong một viễn cảnh mới.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN- Chú giải của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thánh Thần là Thiên Chúa bị bỏ quên. Để trắc nghiệm, chúng ta thử coi mình có nói về Thánh Thần được hơn 5 phút không! Thời đại của chúng ta, thời đại từ khi Chúa Giêsu về trời cho đến Ngày Tận Thế là thời đại của Thánh Thần; thế mà chúng ta lại biết rất ít về Ngài. May mắn cho chúng ta, Giáo Hội dùng ngày hôm nay để giúp chúng ta ôn lại giáo lý về Chúa Thánh Thần.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của Ngôi Ba Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật Thánh Thần hiện xuống và đậu lại trên mỗi Tông-đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đề cập đến những công việc của Thánh Thần làm nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo Hội. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, và một tình yêu; vì tất cả đều hoạt động trong cùng một Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc sở hữu bình an và quyền tha thứ cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
Bài đọc I: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.
1.1/ Lễ (Ngũ) Tuần: Việt-nam dịch không đúng, lẽ ra phải dịch Lễ Các Tuần hay Lễ Năm Mươi Ngày (Pentecost, 50 ngày, hay 7 tuần). Lễ Các Tuần là một trong 3 lễ trọng thể của người Do-thái, mà tất cả các người nam của họ, sống trong vòng 20 dặm của Jerusalem, phải về Jerusalem để dự lễ. Hai lễ trọng kia là Lễ Vượt Qua và Lễ Lều. Lễ Các Tuần xảy ra đúng 50 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua thường xảy ra vào trung tuần tháng Nissan (tháng tư); vì thế, Lễ Các Tuần rơi vào đầu tháng 6. Tháng 6 là tháng du hành vì thời tiết đã tốt đẹp hơn và thuận tiện cho việc đi lại. Đó là lý do tại sao trong trình thuật hôm nay có bao nhiêu sắc dân, những người theo Đạo Do-thái lên Jerusalem để mừng lễ. Lễ Các Tuần kỷ niệm hai biến cố quan trọng:
(1) Lịch sử: Mừng kỷ niệm Thiên Chúa ban Thập Giới cho Moses trên núi Sinai;
(2): Nông nghiệp: Hai ổ bánh làm bằng bột lúa miến được dâng lên Thiên Chúa để cám ơn Ngài đã cho gặt hái được mùa màng. Trong 3 ngày Lễ Trọng, mọi người phải tuân giữ luật ngày Sabbath.
1.2/ Những gì đã xảy ra trong ngày Lễ Các Tuần:
(1) Tiếng gió mạnh: “Khi đến ngày lễ Các Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.”
+ Từ ngữ: Trong tiếng Do-thái cũng như Hy-lạp, họ chỉ có một danh từ dùng cho cả Thánh Thần lẫn gió: ruah trong tiếng Do-thái, và pneuma trong tiếng Hy-lạp. Vì thế, Thánh Thần được đồng nhất với gió.
+ Thánh Thần là gió, Ngài ban cho con người hơi thở và sự sống: Trong Sách Sáng Thế, khi vũ trụ còn hỗn mang, Thánh Thần của Thiên Chúa bay là là trên mặt nước (Gen 1:2). Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa thổi hơi vào trong lỗ mũi của con người và họ được sống (Gen 2:7), khi Chúa rút hơi thở ra, con người trở về cát bụi (Psa 104:29). Trong cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và Nicodemus, Chúa Giêsu ví hoạt động của Thánh Thần trong con người như gió: “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thánh Thần sinh ra thì cũng vậy” (Jn 3:7-8).
+ Công dụng của gió: Gió có thể cuốn đi tất cả các rác rưởi và làm cho nơi đó được sạch. Chúng ta cứ nhìn những trận gió bão, sẽ biết sức mạnh của gió: Nó cuốn hết những gì trước mặt và hoàn toàn làm đổi mới nơi nào gió đi qua. Tương tự như thế cho hoạt động của Thánh Thần trong con người: Ngài có thể quét sạch những tật xấu trong con người, nếu chúng ta để cho Ngài hoạt động. Gió cũng có thể làm cho con người cảm thấy mát mẻ, dễ chịu, như cơn gió mùa hè, mùa Xuân. Thánh Thần cũng đem lại sự tươi trẻ cho tâm hồn con người.
(2) Hình lưỡi lửa: “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.” Sách Khải Huyền đồng hóa Thánh Thần với lửa (Rev 4:5). Matthew nói tới việc chịu Phép Rửa bởi Thánh Thần và lửa (Mt 3:11, Lk 3:16). Các công dụng của lửa:
+ Lửa dùng cho sự thanh luyện, như lửa dùng để luyện kim như thử vàng (I Pet 1:7). Thánh Thần cũng thanh luyện mọi bất toàn trong con người, và thánh hóa bằng cách làm cho con người trở nên hoàn thiện hơn (I Cor 3:12-15).
+ Lửa cũng dùng để nấu nướng, sưởi ấm, hay kích thích lòng người (Lk 12:49). Ca Tiếp Liên cho chúng ta thấy Thánh Thần có thể sưởi ấm chỗ lạnh lùng trong tâm hồn con người bằng cách ban tình yêu. Thánh Thần giúp tín hữu có lòng nhiệt thành để hăng say rao giảng và làm chứng cho Chúa.
+ Cột Lửa cũng dùng để soi sáng cho dân Israel biết đường đi (Exo 13:21). Thánh Thần soi sáng cho con người nhận ra sự thật, đường đi, và xua tan bóng đêm tội lỗi.
+ Lửa cũng dùng để thiêu rụi và tiêu diệt (Gen 19:24, Rev 8:7). Thị kiến của Moses về lửa cháy mà bụi gai không bị thiêu rụi (Exo 3:2) là hình ảnh của Thánh Thần tạo Ngôi Lời trong lòng Mẹ Maria mà Mẹ vẫn trinh khiết vẹn tuyền (Lk 1:35).
(3) Nói tiếng lạ: “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Lúc đó, tại Jerusalem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Galilee cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
+ Trong tiếng Hy-lạp, danh từ dùng để chỉ cái lưỡi (gnôssa) cũng được dùng để chỉ các ngôn ngữ khác nhau, nhưng chỉ dùng ở số nhiều (gnôssai). Khi dùng danh từ ở số nhiều, nó cũng có ý nghĩa là nói tiếng lạ.
+ Phaolô dành cả một chương 14 để bàn về việc nói tiếng lạ trong Thư I Corintô: Nói tiếng lạ là tiếng con người nói với Chúa khi con người trong trạng thái xuất thần. Để người khác có thể hiểu, cần có người thông dịch; ví dụ, để hiểu một người ngoại quốc nói, chúng ta cần có người thông dịch. Nếu không có người thông dịch, nói tiếng lạ cũng như không. Phaolô cho ơn gọi ngôn sứ cao hơn ơn gọi nói tiếng lạ, vì nó xây dựng Giáo Hội; trong khi người nói tiếng lạ chỉ xây dựng cho chính mình.
+ Biến cố Tháp Babel: là hậu trường để hiểu biến cố hôm nay. Trong biến cố Tháp Babel, Thiên Chúa phân tán con người đi khắp nơi bằng cách cho họ không hiểu ngôn ngữ của nhau. Trong biến cố hôm nay, Thánh Thần qui tụ con người lại bằng cách cho họ hiểu ngôn ngữ của các Tông-đồ đang nói.
+ Nói ngoại ngữ hay nói ngôn ngữ của trái tim? Nhiều tác giả cho các Tông-đồ không thực sự nói tiếng lạ, nhưng nói ngôn ngữ của trái tim. Điều này chỉ là suy đoán theo kiểu của mình rồi áp dụng cho Thiên Chúa. Họ quên đi quyền năng của Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể bắt họ nói các thứ tiếng khác nhau để phân tán họ đi, Ngài cũng có thể cho họ nói cùng một ngôn ngữ để hiệp nhất trở lại. Hơn nữa, nói bằng ngôn ngữ của trái tim, làm sao những người ngoại cuộc có thể hiểu được? Biến cố nói tiếng lạ hôm nay là do quyền lực của Thánh Thần. Ngài “phiên dịch” lời các ông nói trong trí óc khán giả, để chỉ một ngôn ngữ các ông nói ra bằng tiếng Aramaic, mọi người đều hiểu theo ngôn ngữ của họ. Họ nói: “chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa.”
Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần.
2.1/ Công việc của Thánh Thần:
– Hướng dẫn nhận ra sự thật và tất cả mọi sự thật, vì Ngài là Thần Chân Lý. Sự thật trên hết mọi sự thật là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô quả quyết: “Chẳng có ai ở trong Thánh Thần của Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!” cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa,” nếu người ấy không ở trong Thánh Thần.”
– Thánh Thần ban cho mỗi tín hữu các đặc sủng khác nhau; nhưng tất cả các đặc sủng Thánh Thần ban là cho việc xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô là Giáo Hội: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” Đặc sủng cao trọng hơn cả mà mọi người cần có là tình yêu Thiên Chúa (I Cor 13).
– Thánh thần hiệp nhất và liên kết tất cả trong cùng một Phép Rửa, một đức tin, và một tình yêu: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất.”
2.2/ Làm sao để nhận ra Thánh Thần từ những thần khí sai lạc của thế gian? Thánh Gioan khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (I Jn 4:1).
– Thánh Thần và công việc của Ngài được Chúa Giêsu hứa trước, chứ không đột xuất và liên quan tới bất cứ điều gì như nhiều người lầm tưởng. Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:13-14). Vì thế, Lời Chúa là thước đo những gì Thánh Thần hướng dẫn.
– Một cách nhận ra công việc của Thánh Thần là xét xem kết quả có đem lại sự thật, yêu thương, và hiệp nhất; hay đưa đến sai lạc, ghen tị, và chia rẽ. Quà tặng khác nhau không tự nhiên mang lại hiệp nhất, nhưng có thể mang lại giận hờn, ghen tị, và chia rẽ trong cộng đoàn.
Phúc Âm: Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
3.1/ Thánh Thần và bình an: Thánh Thần làm cho các môn đệ nhận ra tất cả sự thật liên quan tới Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Các Tông-đồ phải nhận ra tất cả sự thật này trước khi các ông có bình an. Đây mới là sự bình an thật sự, và không một quyền lực nào có thể lấy đi được, vì nó đến từ sự xác tín của niềm tin trong tâm hồn con người.
Trình thuật kể các Tông-đồ sợ sệt phải đóng kín cửa vì sợ người Do-thái; nhưng một khi các ông đã nhìn thấy Chúa toàn thắng tử thần và phục sinh vinh hiển, và được Thánh Thần giúp nhớ lại và hiểu biết những gì Chúa Giêsu đã nói trước, các ông mở tung cửa ra đi loan báo Tin Mừng, và can đảm đối chất với những người Do-thái trong Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần nhìn đời sống các Tông-đồ trước và sau biến cố Phục Sinh, chúng ta nhận ra sức mạnh của Thánh Thần hoạt động nới các Tông-đồ.
3.2/ Thánh Thần và tha thứ: Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Một sự nhìn lại 4 phần chính của Bí-tích Giải Tội cho chúng ta thấy vai trò của Thánh Thần trong việc tha thứ các tội của con người:
(1) Xét mình: Thánh Thần giúp cho con người nhận ra sự thật: những gì họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Nếu không ngang qua bước đầu quan trọng này, con người không thể ăn năn, xám hối: không nhận ra tội của mình, sẽ không cần thú tội. Thánh Phêrô trong Bài Giảng đầu tiên của Ngài cho người Do-thái tại Jerusalem là một ví dụ cho điều này (Acts 2:36-38).
(2) Ăn năn và dốc lòng chừa: Thánh Thần giúp hối nhân tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa: tội của họ có thể được tha thứ nếu họ thành tâm thống hối và thú tội với các Tông-đồ và linh mục, những người đại diện của Thiên Chúa.
(3) Xưng tội: Thánh Thần giúp hối nhân can đảm đến thú tội nơi tòa cáo giải. Trong Lời Xá Giải của linh mục đọc để tha tội, chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Thánh Thần trong Bí-tích Xá Giải: “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng đã hòa giải với thế gian qua cái chết và sự sống lại của Con Một Ngài, lại ban Thánh Thần để tha tội. Nhờ tác vụ của Giáo Hội, xin Chúa ban cho con ơn tha thứ và bình an. Giờ đây Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.”
(4) Đền tội và sửa chữa các khuyết điểm: Sau khi hối nhân nhận được ơn tha thứ, Thánh Thần giúp họ làm lại cuộc đời bằng việc ban các ân sủng cần thiết để họ làm lại cuộc đời và sống thánh thiện, xứng đáng như những người con cái Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn, như thánh Phaolô nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần;” và chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên với Ngài, nhất là những giờ phút nghi ngờ, do dự, và không biết quyết định làm sao.
– Chúng ta không thể hiểu biết và nhận ra sự thật của Thiên Chúa nếu không nhận được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện với Ngài trên đường đi tìm sự thật.
– Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách quét sạch những xấu xa, tội lỗi; và làm đầy tâm hồn bằng sự thật và ân sủng. Ngài cũng giúp chúng ta có sức mạnh và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
CHÚA THÁNH THẦN LÀ NGUYÊN LÝ HỢP NHẤT – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Đáp ca : Lạy Chúa, xin cử Thánh Thần tới, để canh tân địa cầu.
– Bài đọc II : Chúng ta đã được chịu phép Rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể.
– Tin Mừng : Buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua : Đức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.
– Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
– Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Cv 2,1-11 :
Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
Đáp ca : Tv 103
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do “sinh khí” của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
Bài đọc II : 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần :
– Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
– Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
Tin Mừng : Ga 20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau :
– Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
– Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội : chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
– Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
GỢI Ý GIẢNG
Lưỡi lửa
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó : tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung : hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được “lưỡi lửa” mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Đó là hiệu quả bởi “lưỡi lửa” của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin “lưỡi lửa” hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. “Hơi thở” của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế ? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng “hơi thở” là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng : đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến… Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay :
– Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng “đặc sủng” của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
– Đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
– Tận dụng “đặc sủng” Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
Chúa Thánh Thần, Đấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng. Đúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng CTT lại là Đấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
– Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe : CTT hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả : vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi CTT ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn : nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
– Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô : ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM ! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy ? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn CTT hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy ? Xin đề nghị 2 điều :
– Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với CTT. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Đấng biết tất cả mọi sự kia mà. Điều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với CTT, để CTT soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
– Điều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Đó là CG vừa ban CTT vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ : “Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai… ” Tại sao CG ban CTT và ban ơn tha tội chung nhau ? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẻ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh BTGT cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với CTT. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc : một là xét mình xem mình có những tội gì ; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội ; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào ; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh ; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào ? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với CTT nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với CTT, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó ; xin CTT soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với CTT nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin CTT soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường : gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng… Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội…
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện : các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với CG, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với CG suốt 3 năm trời, được CG dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của CG… Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế ? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục : Đi theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi ; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của CG đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện : thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông : Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa ; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ CTT hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ…. mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Đó cũng chính là ý tưởng của ĐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của Ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo Ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời Ngài “làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền GH, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho GH…”
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được CTT Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Đầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục : chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về TC, về linh hồn, về thiên đàng hoả ngục, về bí tích ; chúng ta đòi hỏi GH có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của GH mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v….Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có CTT hiện xuống trên chúng ta. CTT sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa : làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thể theo lời Đức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
- Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
- Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
- Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
- Đường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT : Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ…
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Đức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
GIẢI TÁN
Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
THÁNH THẦN, NGUYÊN LÝ HIỆP NHẤT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, kỷ niệm việc Ngài được về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao ban cho các môn đệ sứ mạng rao giảng Tin mừng cho muôn dân để tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Sứ mạng này thật vinh dự nhưng cũng không kém phần khó khăn. Cảm thông được với sự giới hạn của thân phận các Tông đồ và của chúng ta, trước khi về trời, Ngài còn căn dặn các Tông đồ hãy ở lại Giêrusalem chờ đợi điều Ngài đã hứa trước kia:”Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa… Ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Lời hứa đó hôm nay đã thành hiện thực với việc Chúa Thánh Thần được ban xuống cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần, mà chúng ta vừa nghe trong bài 1 ở sách Công vụ Tông đồ.
Chúa Thánh Thần hiện xuống để ban cho các Tông đồ bảy ơn cả của Ngài. Ngài đến đổi mới mặt địa cầu, thay lòng đổi dạ các Tông đồ để biến các ông thành chứng nhân dũng cảm của Chúa giữa lòng đời. Trong các ơn Chúa Thánh Thần đã ban cho Giáo hội, ta thấy Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất. Ngài là ân huệ của Đấng Phục sinh, và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai :”Không ai có thể nói : Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 2,1-11.
Đoạn sách Công vụ Tông đồ hôm nay tường thuật việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên cácTông đồ. Thánh Luca cho biết : vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu Phục sinh, các Tông đồ họp nhau lại trong nhà Tiệc ly, tại Giêrusalem, chờ đợi điều Đức Giêsu đã hứa : đón nhận Chúa Thánh Thần.
Khi các Tông đồ đang hội họp nhau cầu nguyện thì sự kiện lạ lùng xẩy ra : từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy căn nhà. Tiếp theo người ta nhìn thấy những gì như hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi Tông đồ, và ai nấy được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Sau đó, mọi người nói được các thứ tiếng lạ khác nhau, ai nghe cũng hiểu được.
Các hình biểu tượng đó đều có ý nghĩa : Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Với ơn Chúa Thánh Thần, các Tông đồ trở nên nhiệt thành can đảm đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa nơi các dân tộc.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,3b-7.12-13.
Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu – để tránh sự chia rẽ đang nhen nhúm trong cộng đoàn – hiểu rằng Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất. Ngài nhắc lại cho họ biết : trong Giáo hội sơ khai, Chúa Thánh Thần đã ban nhiều đặc sủng khác nhau cho nhiều người. Nhưng tất cả những đặc sủng ấy chỉ nhằm xây dựng cộng đoàn, chứ không phải để phục vụ lợi ích cá nhân.
Trong mọi trường hợp, những đặc sủng ấy đều nhằm hướng tới sự hiệp nhất các Giáo hội. Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh sự chia rẽ đang tiềm tàng nơi cộng đoàn, mặt khác phải nỗ lực dùng mọi ân huệ Chúa Thánh Thần ban mà xây dựng thân thể Giáo hội.
+ Bài Tin mừng : Ga 20,19-23.
Theo quan điểm của Gioan, việc trao sứ mạng và ban Thánh Thần cho các môn đệ đã xẩy ra ngay buổi chiều chính hôm lễ Phục sinh. Như vậy, căn bản mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống đã được biểu lộ trọn vẹn trong ngày ấy. Tuy nhiên, theo quan điểm Luca thì Thánh Thần được ban trong lễ Ngũ tuần. Thực ra, Luca và Gioan đều nói cùng một điều : Chúa sống lại ban ân sủng là Thánh Thần, và khai mở sứ vụ Giáo hội. Cách mô tả của hai thánh sử chỉ khác nhau ở thời điểm, do những quan niệm thần học của các ngài.
Thật vậy, Gioan nhìn mầu nhiệm Giáo hội “từ phía” Đức Kitô, nên từ quan điểm này, rõ ràng là Giáo hội được sinh ra trong hành động tuyệt đỉnh của hy tế thập giá. Nhưng nếu cũng mầu nhiệm này được nhìn “từ phía” các Tông đồ thì để trở nên những cột trụ của Hội thánh, rõ ràng các Tông đồ cũng phải làm một hành trình thiêng liêng, vừa đi vừa điều chỉnh đức tin dần dần theo sự thực của Chúa sống lại (Jean Frisque).
Trong lần hiện ra lần đầu tiên với các Tông đồ, ngoài việc ban Thánh Thần cho các ông, Đức Giêsu còn cầu chúc bình an, ban quyền tha tội và sai các ông đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho muôn dân.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hiệp nhất trong Giáo hội Chúa Kitô.
CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG
Lời hứa ban Thánh Thần.
Nhìn lại những đoạn Tin mừng theo thánh Gioan được trích trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ:”Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con”(Ga 16,7).
Và lời hứa ấy đã được thực hiện ngay khi Đức Giêsu sống lại hiện ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào ngày thứ nhất trong tuần. Sau khi chào thăm các ông, Ngài thở hơi và nói với các ông :”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, đối với Gioan. việc Đức Giêsu Tử nạn – Phục sinh – Ban Thánh Thần chỉ là một. Chính vì thế, phụng vụ đã chọn đọc bài Tin mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục sinh : một là vào ngày Chúa nhật trong tuần Bát nhật Phục sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng theo chiều hướng đó, thánh Gioan đã gắn liền cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí, thánh sử đã thuật lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau :”Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần Khí”(Ga 19,30).
Như vậy, ngày Phục sinh Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23), nhưng ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng để trở thành người chiến sĩ của Nước Trời vậy.
Chúa Thánh Thần được ban xuống.
Vào địp lễ Ngũ tuần, tức là 50 ngày sau lễ Vượt Qua, theo lời dặn của Đức Giêsu, các Tông đồ họp nhau lại tại nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ tông đồ kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xẩy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Mẹ ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà, có những lưỡi lửa xuất hiện và đậu trên đầu từng người. Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bõ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xẩy ra ? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa ! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Joel đã tiên báo :”Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ HIỆP NHẤT.
Ngày khai sinh Giáo hội.
Trước hết, Chúa Thánh Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo hội. Thật vậy, các Tông đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do thái”. Thế nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin mừng về Đấng Phục sinh khiến mọi người đều bỡ ngỡ.
Theo sách Công vụ Tông đồ thuật lại lúc đó, tại Giêrusalem có rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi trở về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu điều các Tông đồ loan báo, họ thắc mắc:”Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi : Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây , là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa”.
Khi nêu lên danh sách các dân tộc này, thánh sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin mừng cứu độ. Mọi dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng thế giới theo quan điểm của người Do thái, hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng phải được nghe loan báo Tin mừng và qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền của một chủ chiên là Đức Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của thánh Phaolô trong bài đọc 2 :”Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do : tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
Những ân ban của Chúa Thánh Thần.
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu học về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh Thần và những hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo lý Công giáo dạy có 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Kitô giáo. Còn có những ơn khác nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên… Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều người khác nhau.
Trong ngày lễ Hiện xuống hôm nay, chúng ta đặc biệt chú trọng đến ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta là qui tụ mọi dân tộc lại trong một cộng đoàn tức là Giáo hội. Ngài là hồn sống của Giáo hội và của từng người một. Bài tường thuật của sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó : tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 226).
TA XÂY DỰNG HỘI THÁNH HIỆP NHẤT.
Vai trò của mỗi Kitô hữu.
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta trở thành một phần tử trong Giáo hội, thành một chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi người phải có một vai trò trong Giáo hội tùy theo khả năng mà Chúa Thánh Thần sắp xếp. Không ai được đứng bên lề Giáo hội.
Ta thấy ơn Chúa Thánh Thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội như thánh Phaolô chỉ dạy :”Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3). Như vậy tất cả các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau. Ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các phần tử. Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông dồ nhằm mục đích vinh danh Chúa.
Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm lặng lẽ hoạt động nơi ta và Giáo hội mà ta không thấy. Có người tự hỏi tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống ? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng trong thời đại chúng ta đang sống, miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
Tránh gây sự chia rẽ.
Công đồng Vatican II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử trong Giáo hội đều được gọi để sống đời sống thánh thiện và làm chứng của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi đóng vai trò của mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tùy theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội thánh, nên mỗi thành phần không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể :”Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy”.
Nhìn vào con người chúng ta, chỉ có một thân thể mà có nhiều chi thể : tai, mắt, mũi, miệng, chân tay… Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhằm lợi ích cho toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang Nước Chúa không chỉ tùy thuộc vào cái tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị của mỗi người mà thôi, nhưng còn tùy thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với Chúa.
Truyện : Bất đồng ý kiến.
Hai người bơi chung một chiếc xuồng trên dòng sông nước ngược. Vì có sự bất đồng ý kiến nên qua một hồi lời qua tiếng lại, anh ngồi phía trước gác dầm không bơi nữa.Anh phía sau lái thấy vậy mới nói :
– Này anh, tôi với anh dù có bất đồng ý kiến, nhưng chúng ta cùng đi chung trên một chiếc xuồng, cùng tiến chung về cùng một mục tiêu, anh không thể để mặc tôi bơi một mình như vậy được.
Anh ở trước mũi trả lời tỉnh bơ :
– Chiếc xuồng có hai phần, lái và mũi. Phần lái thuộc về anh. phần mũi thuộc về tôi. Anh cứ bơi phần anh, phần tôi, tôi bỏ, tôi thả trôi thì mặc tôi.
Anh phía sau tức quá, nhưng cũng ráng bơi, vì nếu bỏ thì chiếc xuồng sẽ trôi ngược và không ai tới đích. Không ngờ chỉ một lúc sau, anh nghe tiếng nước tràn vào phía sau, anh quay lại thì thấy anh chàng kia không còn đủ bình tĩnh nữa, đang đục một lỗ để định nhận chìm xuống. Anh kia hoảng sợ nói :
– Ơ này, anh có giận tôi thì giận, chứ anh nhận chìm xuồng, tôi không biết bơi đâu đấy nhé.
Anh phía sau thản nhiên nói :
– Chiếc xuồng có hai phần, phần mũi và phần lái. Phần mũi của anh, còn phần lái của tôi, tôi nhận chìm kệ tôi chứ !
Thế là chẳng mấy chốc cả hai đều chết chìm trong lúc vẫn cứ cố gắng cãi nhau hơn là nỗ lực bơi vào bờ !
Sống hiệp nhất yêu thương.
Tính cách cộng đoàn của lễ Hiện xuống đòi hỏi phải có đức bác ái huynh đệ : Thánh Thần không đến trên từng cá nhân riêng rẽ, nhưng trong một tập thể được nối kết bằng hiệp nhất yêu thương. Nơi nhóm người họp nhau tại căn phòng, Chúa Thánh Thần muốn nối kết thành cộng đoàn hiệp nhất, cộng đoàn này luôn luôn mở rộng ra khắp thế giới mà vẫn luôn giữ được mối hiệp nhất.
Ngày Hiện xuống này chính là ngày thành lập Hội thánh. Thế nên, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ của mình cùng lãnh nhận Thánh Thần ở Giêrusalem bằng một biểu lộ hiệp nhất. Các môn đệ đã thực hiện sự hiệp nhất này qua việc chung sống yêu thương. Sự chung sống yêu thương này khác hẳn thái độ ghen tỵ vẫn thường xẩy ra trong đời sống công khai của Đức Giêsu. Đây chính là kiểu mẫu bác ái phải có nơi các Kitô hữu khắp mọi nơi.
Truyện : Tha nhân là chính Chúa.
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Ông lo âu trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây.
Tu sĩ ẤÂn giáo ôn tồn bảo :
– Các tội đã và đang xẩy ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và giải thích : Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong qúi vị, nhưng qúi vị không nhận ra Ngài.
Nhận được câu trả lời giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện. Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy ? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu thế.
Vậy là từ đó, mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 287)
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG- Đức TGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
CHÚA THÁNH THẦN LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG”- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng với đức tin: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”. “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, là mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (x.Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 4). Chúa Thánh Thần là mạch nước hằng sống xuất phát từ Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là “Nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi (x.Đức Thánh Cha Phanxicô huấn dụ tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ Tư ngày 08.5.2013). Đức Thánh Cha giải thích sự kiện Chúa Thánh Thần là suối nguồn bất tận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi đều ước mong có một cuộc sống tràn đầy và xinh đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể chín mùi và lớn lên cho tới sự tràn đầy của nó. Con người giống như một khách lữ hành đi qua các sa mạc cuộc đời, khát nước mát hằng sống, vọt lên, có khả năng làm cho đã khát trong tận cùng thẳm tâm hồn; nó ước mong sâu đậm có được ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và hòa bình. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được ước mong đó! Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Thiên Chúa Cha và là Đấng mà Chúa Giêsu đỗ tràn đầy con tim chúng ta. Người nói: “Ta đến để ban cho chúng sự sống, và sồng dồi dào” (Ga 10,10).
Chúa Giêsu đã đến để ban cho chúng ta “Nước Hằng Sống” là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được Thiên Chúa hướng dẫn, linh hoạt, dưỡng nuôi.
Chúa Giêsu mời gọi: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,37tt). “Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7,39). Dòng nước đó đã tuôn trào từ trái tim của Người, trái tim bị lưỡi đòng đâm thủng trên đồi Canvê (x. Ga 19,34). Đó chính là thứ nước mà Chúa Giêsu đã từng nhắc đến trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ Samari bên giếng Giacóp, Ngài tỏ cho bà biết rằng ai uống các nguồn nước tự nhiên sẽ còn khát mãi, còn: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Nguồn nước thiêng liêng mà Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống (x. Thông điệp về Chúa Thánh Thần, tựa đề Dominum et Vivificantem – Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, 1986, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Trong Kinh Thánh, nước tượng trưng cho sự sống; do đó, Thánh Thần được biểu tượng hóa thành dòng nước ban sự sống mới.
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nước vẫn len lõi chảy, không gây xích mích hay hận thù với ai. Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước thấm nhập vào các loài hoa giúp chúng trổ sinh những bông hoa muôn màu muôn sắc; nước thấm nhập vào các loài cây ăn trái giúp chúng cung ứng cho đời muôn vạn thứ trái trăng ngon ngọt với những hương vị khác nhau; nước thấm nhập vào đất đai khiến đất cằn khô trở nên vườn cây tươi tốt…Chúa Thánh Thần thấm nhập đến đâu cũng làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng cách diệu kỳ đến đó. Xem quả thì biết cây, Thánh Phaolô nói đến 12 hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết” (Gal 5,22-23).
Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Khởi đi từ Chúa Thánh Thần, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Trước ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, nhưng một khi đã đón nhận Thánh Thần, các ông không thể sống như cũ được nữa: căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên là những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội” tựa như lễ quốc khánh của một quốc gia. Chúa Thánh Thần đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Đấng ban sự sống, thánh hóa, hướng dẫn, soi sáng, phù trợ, hiệp nhất. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo hội hướng đến đại dương của “những kênh truyền thông mới” trong thời đại kỹ thuật số hôm nay.
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân Lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Trong những ngày qua, báo chí nói nhiều về hình ảnh tuyệt đẹp cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Nam Hàn và Chủ Tịch Bắc Hàn. Nói theo Victor Gaetan của tập san Foreign Affairs số gần đây, phương thức hành động của Moon Jae-in mô phỏng theo phương thức của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. “Nhà Xanh” là chỗ cư ngụ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, đồng thời là địa điểm đặt các văn phòng tổng thống và nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn Quốc. Như một tín hữu Công giáo tốt lành, tân tổng thống đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới. Ngày 13.5.2017, cha Phaolô Ryu Jong-man đang coi sóc giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong (Seoul), được mời đến đến làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật. Cha Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và cầu nguyện cho ông được “khôn ngoan như Vua Salômon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến ban ánh sáng và sức mạnh của Người”. Quả thật, ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui bình an và tình yêu. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới, biết xây dựng hòa bình tình thương và công lý.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu. Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người. Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quảng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Chúa Thánh Thần. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Từ đó, người Kitô hữu được thông dự vào nguồn ân sủng của Chúa Kitô, như cành nho được tháp nhập vào cây nho. Nước hằng sống, Chúa Thánh Thần là Ơn của Chúa Phục Sinh ở trong chúng ta, thanh tẩy, soi sáng, canh tân, biến đổi chúng ta, “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
“CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THỀN”– ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Cố ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giêsu chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” – Ông Phê-rô đáp: “Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần…”. Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cùng nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tại vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ rồi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bỏ dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi người một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
– Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
– Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh. Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
CHÚA THÁNH THẦN ĐẾN ĐẾN ĐỂ SỬA SAI- Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy có quá nhiều những sai lầm. Những sai lầm được tích lũy từ thế hệ này chuyển qua thế hệ sau trở thành căn bệnh nan y. Hay có thể nói những sai lầm của người trẻ hôm nay là do thế hệ đi trước không cương quyết giáo dục họ và đôi khi còn làm gương mù gương xấu cho họ. Chúng ta thử ôn lại những điều sai lầm của người trẻ hôm nay là do lối sống của thế hệ trước ảnh hưởng trên lối sống của họ như thế nào ?
Trước tiên đó là một xã hội vô thần. Không có Thiên Chúa. Không có Trời Phật. Con người chỉ là vật, sinh ra chết là hết. Điều đáng tiếc là nhiều người hưởng ứng. Không ai dám mạnh dạnh phản đối lý thuyết sai lầm ấy. Một thời gian rất dài chúng ta đã bị sự giáo dục vô thần ấy khiến con cái chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa để rồi cổ vũ cho lối sống đạo tại tâm là theo ý mình, không theo luật Chúa.
Thứ đến là Cổ súy đạo tại tâm không cần cầu nguyện lễ lạy. Nhiều người cha không đến nhà thờ, coi thường luật lệ dẫn đến giới trẻ cũng không cảm thấy đi lễ, giữ luật Chúa là cần. Có cậu trẻ nói : ba ơi bao giờ con mới bằng ba. Ba hỏi : con hỏi để làm gì ? Con thưa : để bằng ba thì con khỏi đi lễ.
Giáo dục học đường không đưa ra tiêu chuẩn luân lý trong giới tính mà chỉ dạy cho bọn trẻ cách tránh thai đã dẫn đến một số đông giới trẻ tự do luyến ái mà không hề có trách nhiệm về hành vi của mình.
Như vậy, một xã hội không dạy cho trẻ niềm tin, không dạy về luật lệ, và để cho trẻ tự do luyến ái đã dẫn đến một bộ phận giới trẻ sống buông tuồng, vô kỷ luật và phạm pháp.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần là dịp để chúng ta nói lên vai trò của Chúa Thánh Thần là đến trần gian để an ủi, là dậy dỗ và uốn nắn con người. Thế nên, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến sửa sai cho thế gian. Xin Ngài hãy uốn nắn con người hôm nay cho khỏi những sai lầm. Xin Ngài dậy dỗ con người đi theo chân lý và tình yêu.
Dường như Chúa Giê-su đã nhìn thấy những sai lầm của thế gian do ma quỷ dẫn dắt đã và đang làm cho con người đi trong những sai lầm. Ma quỷ đời nào cũng cổ vũ một xã hội không tôn giáo để rồi sống chiều theo bản năng và coi thường luật lệ. Ma quỷ đời nào cũng tìm mọi cách dẫn dắt con người đi theo những đam mê trần tục để đánh mất chính mình trong thói hư tật xấu hay trong những đam mê tội lỗi.
Chúa Thánh Thần đã đến để canh tân thế giới. Nhờ Ngài mà thế giới đã được nghe tin mừng. Nhờ Ngài tác động mà hàng ngàn, hàng vạn người luôn tiếp nối nhau ra đi xây dựng Nước Chúa. Nhưng cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối dường như chưa kết thúc, lúc nào cũng có những bóng tối làm cho người ta ra mê muội lầm lạc. Lúc nào cũng có những bóng tối của tham vọng cuồng loạn dẫn đến loạn lạc chiến tranh và đau khổ.
Đây là lúc mà Giáo hội cần những chứng tá tin mừng để mang Chúa Thánh Thần đến cho thế giới. Xin hãy để Chúa Thánh Thần sử dụng chúng ta như khí cụ mang bình an cho thế giới, nhất là cùng với Chúa Thánh Thần để sửa những sai lầm của thời đại. Hãy can đảm sửa sai từ chính bản thân mỗi người biết đi theo đường lối Chúa. Hãy can đảm sửa sai cho những người thân trong gia đình để gia đình luôn tràn ngập ánh sáng của tin mừng. Hãy mạnh dạn sống tin mừng trong một thế giới có quá nhiều sai lầm ngõ hầu canh tân thế giới này mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người chúng ta như xưa đã ngự xuống trên các tông đồ để nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng. Amen
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
THẦN KHÍ SỰ THẬT VÀ SỰ THẬT TOÀN VẸN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi vẫn thường thắc mắc về ý nghĩa hay nội dung đích thực của ‘sự thật toàn vẹn’. Nhiều bản văn Thánh Kinh Anh ngữ dùng các từ ‘all truth, whole truth, all the truth’ để dịch từ ‘aletheia pase’tiếng Hy Lạp. Đối với tôi, vấn đề chính ở đây là xác định được nội dung của ‘sự thật’ hay ‘chân lý’ mà Đức Giêsu nhiều lần đề cập tới, thậm chí có lúc còn tự đồng hóa mình với aletheia (xem Ga 14:6). Nói như thế vì tôn giáo nào cũng thường cho mình là dạy dỗ sự thật, hoặc mình thủ đắc chân lý duy nhất đúng, và đề ra cả một hệ thống thuyết giáo phức tạp để quảng diễn chân lý hay sự thật đó. Trong lãnh vực này, thiết tưởng đạo Công giáo chúng ta cũng không là ngoại lệ.
Thế nhưng nếu có thứ chân lý của hiểu biết, thì cũng có chân lý hay sự thật của cứu rỗi. Khi tuyên bố với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô rằng: ông đã rao giảng cho họ ‘tất cả ý định của Thiên Chúa’, Phao-lô chỉ đơn thuần khảng định rằng, ông rao truyền cho họ tất cả những hiểu biết cần thiết để tiến tới ơn cứu độ (Cv 20:17-35). Ông cũng nói với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu… mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì!” (1 Cr 13:2). Chính Đức Giêsu đã từng khảng định rằng: có sự thật giải thoát, có chân lý thánh hóa’ (Ga 4:22; 17:17-19). Trong cuộc đối đáp giữa Người với Phi-la-tô, thuật ngữ ‘sự thật’ đã được hai người hiểu rất khác nhau là thế. Rõ ràng ‘chân lý toàn vẹn’ không thể chỉ là hiểu biết, mà phải là ‘sự thật cứu rỗi’.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Có điều gì các môn đệ không chịu nổi hay chậm hiểu? Các lý luận thần học hay các tín lý trong đạo chăng? Đương nhiên là mấy ông môn đệ đó khó có thể hiểu nổi…, nhưng Đức Giêsu đâu có đòi điều này nơi những người bình dân chất phác như các ông. Không, tất cả các ông đều đang đi tìm sự cứu rỗi cho mình và cho toàn dân Ít-ra-en; tuy nhiên cũng như phần đa các người Do Thái khác, các ông cho rằng sự cứu rỗi rõ ràng hệ tại ở việc tuân giữ lề luật. Thực hiện Giao Ước với Gia-vê như thể con đường duy nhất dẫn tới giải thoát, cả về mặt chính trị lẫn thiêng liêng. Vấn đề ở đây là, làm sao các ông chịu hiểu ra rằng, sự cứu rỗi và giải thoát duy nhất phải tới từ Đức Ki-tô, từ cuộc tử nạn của Người, vì qua đó Thiên Chúa mới biểu lộ được trọn vẹn tình yêu và lòng nhân ái của Người?
Rõ ràng, khi giáo huấn các môn đệ bằng các dụ ngôn và lời giảng dạy, Đức Giêsu cố giải thích cho các ông hiểu nội dung cứu rỗi này. Người coi việc thực hiện trước mắt các ông nội dung này, qua việc chính các ông phải là những chứng nhân của cuộc tử nạn và thập giá Người chịu, là điều tối quan trọng. Tiếp theo, trong suốt thời gian sau khi sống lại, Người vẫn không ngừng giải thích cho các ông hiểu sự thật giải thoát này. Tuy nhiên xem ra các ông vẫn chưa thấm; đúng là các ông không có sức chịu nổi, và sẽ chẳng bao giờ chịu nổi, bao lâu còn bị truyền thống xã hội và tôn giáo ngàn năm bao vây. Do đó Đức Giêsu thấy cần phải “sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha… một Đấng Bảo Trợ”. Công việc chính của Đấng này là ‘làm chứng về Thầy’, là làm cho Đức Giêsu được nhận biết, nhất là qua cuộc tử nạn thập giá và phục sinh Người, như dấu chỉ chân thực nhất của mạc khải vĩ đại ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một Người…’ (Ga 3:16). Phải chăng ‘sự thật toàn vẹn – all truth – aletheia pase’ hệ tại chính ở điều này, đó là sự thật của cứu rỗi giải thoát, chứ không chỉ là sự thật của hiểu biết suy tư? Và sự thật này thì chỉ Thần Khí Chúa mới ‘dẫn’ tới được! Phao-lô từng khẳng định với các Ki-tô hữu gốc Do Thái đang sinh sống tại Rô-ma rằng: không có Thần Khí này, họ vẫn chỉ là ‘nô lệ và phải sợ sệt như xưa’, nhưng một khi lãnh nhận Thần Khí “Anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:14-17). Chính vì thế mà Đức Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là ‘Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha’ (Ga 15:26). Và công việc của Thánh Thần không chỉ là dạy dỗ các tín hữu biết mọi lẽ đạo, mà phải là ‘làm chứng về Thầy…’, và ‘cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu’.
Thần học hay giáo lý, chủ yếu vẫn là công việc của trí tuệ và hiểu biết của con người. Điều mà cá nhân tôi và mọi ki-tô hữu thực sự cần là ‘sự thật toàn vẹn’, có sức cứu rỗi và giải thoát. Vì thế sống Thánh Thần liên tục là điều kiện thiết yếu để tôi vun trồng niềm tin yêu vào Thiên Chúa cứu độ trong Đức Ki-tô Giêsu… và biến đời tôi thành nhân chứng sống động của tình yêu nhân hậu đó. Vì từng là một linh mục của thần học và trí tuệ, tôi càng có khuynh hướng coi sự thật chỉ là hiểu biết và lý luận; chính vì thế mà tôi càng cần xác tín về ‘sự thật cứu rỗi’ này và nhận ra sự cần thiết tuyệt đối của nó, nhất là cho chính mình.
Lạy Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa đang hiện diện nơi thẳm sâu cõi lòng con, xin không ngừng dẫn con tới ‘sự thật toàn vẹn’ mà rất nhiều khi con bị trí tuệ làm cho quên lãng. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giữa những thử thách yếu đuối và sa ngã, xin hãy cứ tiếp tục ‘rên siết khôn tả’ trong con (Rm 8:26), cho tới khi con dám chân thành mở miệng thốt lên từ đáy lòng mình: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Kính Thờ Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Thần, đặc biệt với việc kính nhớ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Thánh Tông Đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, chính thức khai sinh nên Hội Thánh. Thiên Chúa Ngôi Hai đã nhập thể, nhập thế. Chân dung của Người đã được lịch sử ghi nhận, cách riêng bốn Tin Mừng đã góp phần trình bày hình ảnh Chúa Ngôi Hai làm người cách rõ nét. Người ta cũng có thể dùng loại suy để hướng về Thiên Chúa Cha. Vì ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Còn Chúa Thánh Thần là Đấng mà chúng ta chỉ có thể nhận ra qua, hoa trái của Người theo dòng lịch sử và đặc biệt theo dòng lịch sử cứu độ. Chúa Kitô đã từng ví Người như là gió (x.Ga 3,8). Điều này không chỉ nói lên sự tự do của Thánh Thần mà còn giúp ta nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua các kết quả hành động của Người. Qua một vài hoa trái đặc trưng của Thánh Thần, chúng ta cũng có thể biết được cách thế hữu hiệu để trãi lòng mình ra đón nhận tác động của Người.
Ơn ngôn ngữ
Ngôn ngữ được biểu hiện dưới nhiều hình thái như chữ viết, ký hiệu… nhưng ở đây chỉ muốn đề cập đến tiếng nói. Tiếng nói là một trong những ưu phẩm của loài người trỗi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Nhờ có tiếng nói mà con người có thể truyền thông cho nhau tâm tư tình cảm và những nghĩ suy của mình. Nhờ có tiếng nói con người có thể hiệp thông với nhau cách đầy đủ và hiệu quả hơn, rộng rãi và sâu đậm hơn.
Đọc Thánh Kinh, nhất là đọc Tân Ước, chúng ta có thể chân nhận một trong những hoa trái của Thánh Thần là ơn ngôn ngữ. Khi Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các Tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, Người đã ban cho các ngài ơn được nói các thứ tiếng khác nhau (x. Cvtđ 2,1-13). Sách Công vụ tông đồ cũng tường thuật nhiểu trường hợp những người lãnh nhận ơn Thánh Thần thì được ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri (x. Cvtđ 10,45-46; 19,6-7). Chúa Giêsu an ủi động viên các tông đồ khi chịu bắt bớ thì Thánh Thần sẽ nói thay cho các ngài (x.Mt 10,20). Được Chúa Thánh Thần tác động chúng ta sẽ biết nói điều phải đạo, nói điều phải nói, nói lời tình yêu.
Các nhà y học cho ta hay một sự thật về những người vừa câm vừa điếc từ thưở mới sinh. Dân gian truyền tụng rằng vì người ta không nói được (bị câm bẩm sinh) nên trời cho luôn bệnh điếc để khỏi phải chịu nghe những lời chướng tai, phật ý. Vì nếu nghe được những lời phật ý, chướng tai mà không có thể nói lại được thì không ai có thể chịu nổi. Trái lại, theo y học thì chính vì bị tật bệnh điếc bẩm sinh nên người ta mới bị câm. Khả năng nói là một khả năng mà người ta học được nhờ bắt chước tha nhân. Không nghe được tiếng nói của tha nhân thì trẻ thơ không thể tập nói được và vì thế mất luôn kỷ năng nói. Như thế một trong những điều kiện tối cần để có thể nói là có khả năng nghe.
Từ dữ kiện ở bình diện thể lý tự nhiên trên đây chúng ta có thể diễn suy lên bình diện siêu nhiên. Để có thể nói lời phải đạo, lời đáng nói, cần nói và nên nói, để có thể nói lời chân lý, lời tình yêu, nghĩa là nói dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì tiên vàn chúng ta cần biết nghe. Dĩ nhiên là phải biết nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy, biết nghe Người phán dạy.
Trong phạm vi gia đình, ta thường nghe nhiều người bố mẹ than thở rằng con cái càng lớn khôn càng khó bảo, nghĩa là càng không biết nghe. Mở rộng ra ngoài xã hội, có chăng tình trạng khi chức càng cao, quyền càng lớn thì ta càng ít biết nghe. Cũng có thể vì điều kiện hoàn cảnh bên ngoài của các tổ chức xã hội, của trách vụ nắm giữ, làm ta xa rời quần chúng, nhưng cũng có thể vì tâm lý chủ quan cho mình luôn luôn đúng, không thể sai lầm, nên chẳng cần nghe, hoặc giả như cần nghe thì chỉ nghe một đôi người thân cận, những người hợp ý mình? Hy vọng rằng tình cảnh này sẽ không có trong đời sống Hội Thánh và giả như có thì mong sao đó chỉ là cá biệt hay đặc thù.
Biết nghe là một trong những cách thế tốt đẹp để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Xin hãy biết nghe bằng đời sống cầu nguyện chuyên chăm, bằng sự chiêm niệm sâu lắng. Xin hãy biết nghe lời chỉ dạy của mẹ Hội Thánh, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Xin hãy biết nghe những nhà lãnh đạo các quốc gia, đặc biệt trong lãnh vực công bình và ích chung. Xin hãy biết nghe, bằng việc tiếp xúc tha nhân, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ, kém phận. Xin hãy biết nghe những người không đồng thuận với chính kiến của ta, biết nghe cả những người trái ý ta…trong sự trân trọng và khiêm nhu chân thành.
Một khi ta biết sẵn sàng lắng nghe, lắng nghe để thuận theo những gì phải đạo, để ngăn ngừa và phòng tránh những gì sai lạc…là lúc ta đang sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần. Và khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ biết cách nói theo hướng dẫn của Đức Chúa Trời Ngôi Ba.
Ơn xây dựng sự hiệp nhất:
Ngày lễ Ngũ Tuần, khi hiện xuống trên các Tông đồ, Chúa Thánh Thần một cách nào đó thông ban ơn xây dựng sự hiệp nhất. Nhiều người thuộc nhiều quốc gia, dân tộc và tiếng nói có mặt lúc bấy giờ đã hiểu những lời rao giảng của các Tông đồ (x.Cvtđ 2,13). Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý của sự hiệp nhất. Người làm cho muôn dân nên một trong Đức Kitô.
Nói đến sự hiệp nhất là giả thiết phải nhìn nhận sự khác biệt. Có những sự khác biệt chính đáng vốn là tất yếu khách quan. Đó là sự khác nhau về màu da, chủng tộc hay ngôn ngữ. Đó là sự khác nhau về phận vị, nghề nghiệp do sự phân công, phân nhiệm của xã hội. Đó là sự khác nhau về tư tưởng, chính kiến hay quan niệm sống do bởi hoàn cảnh lịch sử hay nên văn hóa chi phối hoặc do ý thức tự chọn của mỗi người xét như một chủ thể có lý trí và ý chí tự do… Nếu không nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt chính đáng này thì chỉ có sự đơn nhất và đồng nhất trong bạo lực của độc tài, độc đoán, độc quyền. Và sự chia rẽ sẽ xuất hiện vì nhu cầu đấu tranh sinh tồn.
Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi ơn…nhưng tất cả là để phục vụ ích chung (x. 1Cor 12,4-6). Sự hiệp nhất ở đây được thể hiện nơi việc cùng huớng đến một mục đích: ích chung. Văn hào St Exupéry hình như cảm nhận chân lý này khi nói: “yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng”. Cùng với Đức Bênêđictô XVI qua bài diễn văn đọc tại Hội Đồng Lỉên Hiệp Quốc tháng 7/2008 vừa qua, chúng ta có thể nói rằng ích chung của nhân loại xét như là con người đó là nhân quyền. Những quyền lợi căn bản của con người (quyền sống, lao động, học tập, cư trú, đi lại, ngôn luận…) mà Liên Hiệp Quốc tuyên bố cách đây đúng 60 năm chính là một trong những mục đích chính yếu giúp ta hiệp nhất với nhau khi ta nỗ lực dệt xây.
Với những người tin vào Đức Kitô thì một trong những mục đích chính đó là “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (x.Mt 5,48). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Người anh cả Giêsu, chúng ta là anh chị em với nhau cùng một Cha trên trời. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Nên hoàn thiện như Cha trên trời không chỉ dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà phải tiến đến chỗ tích cực là hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn họ làm cho mình, vì đó là tất cả những gì được dạy trong lề luật và lời các ngôn sứ (x.Mt 7,12). Để cụ thể hóa thái độ sống này Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta là “hãy yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta” (x. Ga 13,34).
Cúi xuống phục vụ người mạnh khỏe cũng như người đau yếu, cúi xuống phục vụ người sang giàu cũng như người nghèo hèn, cúi xuống phục vụ người dễ thương cũng như người đáng ghét… là thái độ sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách rất tốt đẹp. Vũng đất càng sâu thì nước các nơi sẽ tuôn đổ về càng nhiều. Càng khiêm nhu, bỏ mình để yêu thương phục vụ vô vị lợi thì càng xây dựng tình đoàn kết hiệp nhất, vì khi ấy Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất đang tràn đầy trong chúng ta.
Mong sao người ta đừng đánh lận con đen giữa ích chung và ích riêng, ích riêng của cá nhân hay phe phái của mình. Mong sao hai từ phục vụ được thể hiện cách đích thực là việc làm của người tôi tớ. Cũng mong sao ngày càng hiếm dần và mất hẳn cái cảnh các “quan đầy tớ đạo đời” vinh thân phì da, miệng lưỡi gang thép, chỉ tay năm ngón…để cho đoàn đoàn lớp lớp ông chủ phải khom lưng chầu chực và cật lực hầu hạ.
Chúa Thánh Thần đã được ban cho nhân loại từ Trái Tim Cực Thánh của Chúa Kitô chịu đâm thâu trên thập giá (x. Ga 19,31-37). Chúa Thánh Thần đã được ban cho Hội Thánh cách đặc biệt ngày Lễ Ngũ Tuần. Mong sao khi “lửa cháy” và “gió lên” thì phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp, nhờ chúng ta biết sẵn sàng đón nhận, nếu không thì hậu quả sẽ là “tro và bụi” thật nguy hiểm và khó lường.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong các Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản thân mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen.
LỄ VỌNG CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
LẠY CHÚA THÁNH THẦN XIN NGÀI NGỰ ĐẾN – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng : “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn “xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời” (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết : “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo…” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo, nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội, nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói : “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, “mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta”. (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Thưa, Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để “các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa.” (Lời nguyện nhập lễ)
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!” Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến. (Ca tiếp liên)
Lời cầu nguyện trên đây được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Hồi tưởng lại thời điểm “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xảy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? “Chính lúc tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2, 4). Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới đã bắt đầu như thế. Chính Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho 11 Tông đồ khi yêu cầu các ngài hãy ở lại chung với nhau để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Và các ngài họp nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chờ biến cố Chúa đã hứa (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: “Nơi” mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Những “Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực” (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng “Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến “để ở với Giáo hội luôn mãi” (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: “Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: ” Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo “Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một “tinh thần”, thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!” Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
THÁNH THẦN, CƠN BÃO DIỆU KỲ- Trích Logos B
Bão Chanchu, cơn bão số 1 tại Việt Nam đã xảy ra 18/5/2006, nhưng dư âm của cơn bão vẫn làm xốn xang lòng người trong thời gian dài sau đó.
Trước hết, có một điều nghịch lý đến “tức cười” là : ngày 22 tháng 5 là ngày truyền thống chống bão lụt ở Việt Nam, thì lại là ngày đau buồn vì bão lụt : cơn bão số 1 đã ập đến, cướp đi sinh mạng của hàng trăm ngư dân tại Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi…
Thứ đến, cơn bão Chanchu xuất phát từ Phi Luật Tân, thổi qua Đài Loan và Trung Quốc, nhưng các quốc gia này không bị thiệt hại. Trái lại, ở Việt Nam, vì dự báo quá chậm chạp và thiếu chính xác, làm các thuyền đánh cá không kịp quay vào bờ, nên đã góp phần gây nên hậu quả nặng nề.
Trận bão Chanchu ngoài khơi xa đã hóa thành cuồng phong thét gào trong lòng những người vợ mất chồng, những người con mất cha, những người dân mất cả tương lai. Cơn bão Chanchu thổi đến Việt Nam là cơ hội đánh tan đi những tư duy lạc hậu, đổi mới cách nghĩ và cách làm của chúng ta, để chúng ta không rơi vào thảm họa của những cơn bão oan nghiệt như thế nữa.
Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta lại được nghe sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại “cơn bão” kỳ lạ xảy ra trong ngày lễ Ngũ Tuần. Cơn bão mang đến trận cuồng phong dữ dội. Cơn bão mang đến những tiếng động vang trời. Cơn bão mang đến những ngọn lửa rực cháy. Đó chính là “Bão Thánh Thần”.
Tuy nhiên, đó không phải là cơn bão đem đến sự hủy diệt tàn khốc, sự ly tán đau thương, hay sự đổ vỡ lụi tàn. Trái lại, khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài đem đến tình yêu, sự hiệp nhất và sự canh tân toàn diện.
Thánh Thần, ngọn lửa tình yêu
Lửa luôn cần thiết trong cuộc sống con người và là yếu tố nâng cuộc sống nhân loại lên một tầm cao vượt bậc. Nhờ tìm ra lửa, con người mới có thể nấu chín thức ăn và nhờ vậy, con người được thông minh hơn. Lửa làm biến đổi vật chất và nhờ thế, đã giúp con người đi được những bước khổng lồ trên con đường văn minh kỹ thuật.
Tuy vậy, lửa cũng là hiện tượng đáng sợ ! Lửa có thể thiêu đốt cả khu rừng, có thể làm tan chảy cả sắt thép và bạc vàng ! Lửa có thể hủy diệt cả một thành phố hay làng mạc. Tuy thế, đàng sau ngọn lửa, người ta vẫn tìm được những ý nghĩa tích cực : lửa dùng để thanh luyện, lửa mang lại ánh sáng, lửa tượng trưng cho sự sống, nhất là, lửa chính là biểu tượng của tình yêu.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang tề tựu tại một nơi, Chúa Thánh Thần ngự đến dưới hình lưỡi lửa đậu trên các tông đồ. Ngọn lửa Thánh Thần chính là ngọn lửa tình yêu đã bừng cháy lên, thiêu đốt tâm hồn các tông đồ. Từ những con người nhát đảm sợ sệt, những con người với trái tim nguội lạnh, tuyệt vọng sau ngày Chúa chịu chết, các tông đồ trở thành những con người can đảm với trái tim đầy ắp tình yêu và nghị lực, đã ra đi để loan báo Tin Mừng, sẵn sàng hy sinh vì Chúa. Tất cả đều do sự thúc đẩy của ngọn lửa tình yêu, như chiếc phi thuyền bay vào không gian nhờ nhiên liệu được đốt cháy, phóng ra lửa để đẩy không khí bay vút lên cao. Thánh Thần cũng chính là ngọn lửa thúc đẩy “con tàu vũ trụ” là Giáo Hội lướt nhanh trên dòng thời gian để ra đi và hoàn thành chính mình.
Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất
Sự kiện xảy ra trong ngày lễ Ngũ Tuần có thể được gọi là “biến cố đọc ngược” khi so sánh với sự kiện tháp Babel xảy ra trong thời Cựu Ước.
Sau trận lụt đại hồng thủy, con cháu ông Nôê muốn xây một cái tháp cao “chọc trời” để đối phó với Thiên Chúa. Trước sự ngạo mạn và kiêu căng đó, Thiên Chúa đã trừng phạt họ. Từ những con người nói cùng một ngôn ngữ, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, họ đã nói những ngôn ngữ khác nhau. Vì thế, người này không còn hiểu người kia nữa. Họ bị phân tán khắp nơi và tháp Babel đã không thể hoàn thành (St 11, 1-9). Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng : khi con người không phục tùng Thiên Chúa, con người sẽ không thể hiểu nhau, cảm thông với nhau, dẫn đến chia rẽ và phân ly.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đến để sửa lại hậu quả tai hại đó : khi nhận được Thánh Thần, các Tông đồ đã nói những thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói. Dù vậy, tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau, đều nghe và hiểu các Tông đồ. Từ những khác biệt và phân rẽ, Chúa Thánh Thần đã quy tụ tất cả mọi người nên một. Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý của sự hiệp nhất.
Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, Giáo Hội và mỗi người chúng ta cũng cần phải được Chúa Thánh Thần ngự đến để hiệp nhất chúng ta nên một. Chớ gì Chúa Thánh Thần vừa là ngọn gió thúc đẩy, nhưng cũng là sức hút để quy tụ mọi người hiệp nhất lại với nhau thành “ngọn tháp tình yêu”, vượt lên trên những hận thù ghen ghét.
Thánh Thần, luồng gió đổi mới
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần ngự đến như một “cơn bão” cuồng nộ. Trông bề ngoài, Ngài mang đến những điều phi thường : gió lớn như trận cuồng phong, hình lưỡi lửa xuất hiện đậu trên từng người, các Tông đồ nói tiếng lạ… Đứng trước một biến cố vĩ đại, với những điều phi thường, thậm chí là “siêu phàm” nữa, dân chúng bỡ ngỡ, kinh hoàng và đầy thán phục. Đến nỗi, trong cơn xuất thần, các Tông đồ đã mạnh dạn rao giảng và hàng ngàn người xin được rửa tội.
Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đến không phải chỉ để biểu lộ những điều xuất chúng và to lớn. Điều quan trọng, Chúa Thánh Thần đến xóa bỏ tất cả, phá hủy tất cả để thực hiện một cuộc canh tân toàn diện. Sau cơn bão, Ngài là ngọn gió mới thoang thoảng len lỏi vào mỗi tâm hồn để thực hiện một cuộc đổi mới, rất âm thầm nhưng toàn diện và sâu xa. Ngài chính là Ngôi Ba thầm lặng nhưng
mãnh liệt !
Các Tông đồ đã đón nhận sự biến đổi kỳ diệu đó. Các ngài đã đi theo Chúa với một tâm thức đầy thực dụng và sai lầm. Các ngài mong muốn được hưởng vinh quang cùng với người Thầy chiến thắng về chính trị và quân sự. Nhưng khi đứng trước cái chết của Thầy, các ngài đã buông xuôi tất cả, thậm chí trở thành những con người tuyệt vọng. Nhưng từ khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các ngài đã được biến đổi. Chúa Thánh Thần đã đến để làm một cuộc thay đổi toàn diện : thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách rao giảng của các ngài.
Ngày nay, khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội cũng như mỗi người chúng ta không chờ đợi những sự kiện phi thường và vĩ đại. Vậy chúng ta mong chờ điều gì ? Điều chúng ta mong chờ chính là sự biến đổi thật âm thầm nhưng thật sâu xa và toàn diện trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Điều chúng ta mong đợi còn là sự bình an như Chúa Giêsu đã ban cho các Tông đồ ngày xưa. Sự bình an chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Sự bình an không phải là một sự trốn chạy, nhưng sự bình an đến từ giữa cơn bão của cuộc đời.
Trong cơn bão Chanchu kinh hoàng, có một chuyện kỳ diệu đã xảy ra cho một thuyền viên 17 tuổi tên Đỗ Văn Tân, một ngư dân ở Đà Nẵng. Trong cơn bão dữ, Tân trôi dạt trên biển cả, đói khát và kiệt sức. Trong cơn thập tử nhất sinh, Tân đã được một con cá voi cứu mạng. Nó bơi bên cạnh anh, đôi khi nó nâng anh trên mình nó. Sau 3 ngày bị dập vùi trên biển cả, cuối cùng, Tân đã được một ngư dân vớt lên thuyền (Báo Thanh Niên số 147, ngày 27/5/2006).
Giữa giông bão quay cuồng, người ta vẫn tìm được sự bám víu an toàn. Giữa cơn bão tố của cuộc đời, vẫn có một điểm tựa an toàn ở đâu đó. Đó là chính Chúa Thánh Thần. Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, tuy âm thầm nhưng thật mạnh mẽ. Chúa Thánh Thần luôn đem đến sự bình an nếu chúng ta biết đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngài.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
THÁNH THẦN TÌNH YÊU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.(Ga 14,27)
Anh chị em thân mến,
Bài Tin mừng hôm nay rất vắn nhưng qua đó thánh Gioan cũng đã đủ để cho chúng ta thấy được những ơn ban của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, giúp cho chúng ta nhận ra sự hiện diện của Người trong cuộc sống của chúng ta.
Ơn ban đầu tiên và cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia. Thế nhưng sự bình an mà Chúa Thánh Thần ban tặng là thứ bình an như thế nào?
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 2/9/2001 có đăng một bài với tựa đề là “Sự bình an”. Câu chuyện như thế này: Một vị vua kia treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh diễn tả về sự bình an thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo những tiếng sấm chớp long trời. Đổ xuống bên vách núi là một dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây ấy có một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! “
Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an ở ngay trong sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an”.
Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.
Giữa cơn bão táp phong ba, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”.
Bình an của Đấng Phục sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió. Bình an của Người là bình an trong tâm hồn. Bình an ấy không loại trừ việc phải đối đầu với kẻ thù, đối diện với khổ đau và với cả sự chết. Chính vì thế, mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ sẽ phải đi tới.
Ơn ban cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là ơn tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Linh mục Bernado thuộc hội Giáo Hoàng thừa sai người Ý truyền giáo tại Hong Kong kể lại rằng: Vào một ngày thứ sáu tuần thánh, sau khi nói về cái chết trên thập giá và ơn tha thứ của của Chúa Giêsu, Ngài giải thích về ý nghĩa của Bí Tích Giải tội và kêu gọi mọi người xưng tội để cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa. Sau nghi lễ, có một người Hồi giáo đến gặp ngài và nói như sau:
– Thưa Cha, tôi muốn xưng tội để được ơn tha thứ.
Vị linh mục giải thích rằng: Vì chưa được Rửa Tội, ông không thể lãnh nhận Bí Tích Giải tội, nhưng người tín hữu Hồi giáo nài nỉ:
– Thưa Cha, trong Hồi Giáo của chúng tôi không có sự tha tội, nhưng tôi cảm thấy cần phải được Chúa tha thứ và có được một dấu chỉ về sự tha thứ của Ngài.
Cha liền chúc lành cho người tín hữu Hồi Giáo và sau đó người này trở thành người con của Chúa. Từ ngày đó người ấy nói rằng anh ta luôn được sống trong sự bình an.
+ Tại Đại Hàn, nơi có nhiều tín đồ Phật giáo trở lại Công Giáo, Giáo Hội đã làm một cuộc thăm dò với một câu hỏi rất vắn như sau: “Tại sao bạn trở lại và chọn Giáo Hội Công Giáo ?”
Một bác sĩ nổi tiếng trong nước đã trả lời như sau: “Trở lại là một mầu nhiệm và có nhiều động lực thúc đẩy. Một trong những động lực mãnh liệt nhất đó là sự kiện trong Giáo Hội Công Giáo vị linh mục nhân danh Chúa để tha thứ tội lỗi. Đối với tôi, đây là một khám phá vĩ đại nhất. Trong Phật Giáo không có sự tha thứ, tuy có những nghi thức thanh tẩy, có việc cúng tế và cầu kinh, nhưng không có ai tha tội cả. Người tín đồ Phật Giáo vì có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế cho nên suốt đời bị dằn vặt dưới gánh nặng tội lỗi của mình. Khi tôi biết rằng: Giáo Hội Công giáo nhân danh Chúa tha thứ tội lỗi cho tôi, tôi hiểu được niềm tin này mang lại cho tôi những gì.
3- Ơn ban cuối cùng là ơn được sai đi giúp Giáo Hội có thể ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho mọi loài thụ tạo cho tới ngày tận thế. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ? (Rm 10,15). “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”(Ga 20,21).
Linh mục Natarinô Rochky, một thừa sai người Italia làm việc truyền giáo lâu năm ở Nhật Bản, đặc biệt là Ngài làm Cha sở họ đạo Elsaye. Cách thủ đô Tôkyô khoảng 100 km. Ngài kể lại câu chuyện sau đây:
“Có một giáo sư đại học trẻ tuổi người Nhật xin gặp tôi mỗi tuần 2 buổi tối để thảo luận về các vấn đề tôn giáo và Phúc Âm, mặc dù ông chưa phải là tín hữu Công giáo. Những cuộc thảo luận như vậy kéo dài hơn một năm trời. Vị giáo sư này trình bày cho tôi những nghi ngờ, thắc mắc về đạo, đồng thời ông cũng xin tôi giải thích thêm về Phúc Âm, về Giáo hội và về luân lý của đạo công giáo.
Sau hơn một năm, tôi cảm thấy vị giáo sư thông minh đó có vẻ đã sẵn sàng đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nên tôi hỏi ông có muốn được rửa tội và gia nhập vào Hội thánh Công Giáo hay không. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông từ chối cách lịch sự. Và từ đó, tôi không thấy không lui tới với tôi nữa… Bẵng đi hơn 10 tháng, khi tôi hầu như đã quên đi vị giáo sư đó, thì một hôm. Ông trở lại gặp tôi và nói:
– Thưa Cha, Cha đã thuyết phục được con. Bây giờ con sẵn sàng đón nhận Bí Tích Rửa tội và con cũng đã chuẩn bị cho vợ con cũng như hai đứa con của con.
Nghe đến đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi hỏi ông điều gì đã khiến ông thay đổi ý kiến như thế. Ông ta đáp:
Trong những tháng qua, con đã âm thầm quan sát xem Cha đã sống như thế nào. Cha đã từng nói với con rằng Cha thường dâng thánh lễ một mình trong nhà thờ mỗi ngày lúc 7 giờ sáng. Đó cũng là giờ con ra ga xe lửa để đến Tôkyô dạy học, vì thế con vẫn có dịp đi qua Nhà thờ của Cha. Con dừng lại một lát nhìn Cha qua cửa sổ, xem Cha làm gì trong đó. Bao giờ con cũng thấy Cha trong Nhà thờ và cầu nguyện thật sốt sắng. Ngoài ra, con cũng dò hỏi nhiều người về cách sống của Cha. Qua các cuộc điều tra đó, con thấy quả thật Cha đã tin và đã sống những điều Cha đã chia sẻ cho con về đạo. Xét về mặt kiến thức thì con đã xác tín về sự thật Phúc Âm, nhưng con muốn xem Cha có sống Phúc Âm thực sự hay không”.
Cha Rochky không những đã truyền giáo bằng lời nói, giảng dạy, nhưng còn bằng cuộc sống thường nhật của mình nữa!
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chúng ta kết thúc Mùa Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần là ứng nghiệm lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác”(Ga. 14,16). Đồng thời, đây cũng là ngày khai sinh Hội Thánh. Chúng ta dành một vài phút để cùng chia sẻ với nhau Chúa Thánh Thần là ai? Và là Đấng nào?
Trước hết, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Tiếp đến, Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Chân Thật. Chính Chúa Giêsu đã giới thiệu cho các tông đồ: “ Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con tới sự thật vẹn toàn…” (Ga. 16,13). Thật vậy, Chúa Thánh Thần đến phá tan sự dối trá, dạy dỗ những điều hay lẽ phải, ban ơn soi sáng cho các tông đồ nhớ lại những điều Chúa Giêsu giảng dạy (Ga. 20, 26). Nâng đỡ các ông trong lời nói cũng như hành động, và hướng dẫn các ông giảng dạy chân lý vẹn toàn.
Chúa Thánh Thần còn thêm sức mạnh thiêng liêng cho các vị tử đạo, dạy bảo họ nói những lời lẽ khôn ngoan, mạnh mẻ tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua chúa quan quyền, cho dù máu chảy đầu rơi. Như lời Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta bắt nộp các con, thì đừng lo nghĩ phải nói làm sao và nói gì, vì lúc đó không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần sẽ nói trong các con” (Mt. 10,19-20).
Chúa Thánh Thần gìn giữ Hội Thánh luôn vững vàng trong sự thật, không hề sai lầm khi dạy điều gì về đức tin hay phong hoá. Đồng thời, còn ban cho Giáo Hội nhiều vị thông thái lỗi lạc viết những sách chân lý, để phi bác những tà thuyết và những trào lưu văn hoá nguy hại đức tin.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi. Chúa Giêsu biết trước sau khi về trời các tông đồ nói riêng và Hội thánh nói chung, sẽ gặp rất nhiều gian nan thử thách trong sứ vụ rao giảng Tin mừng. Cho nên, Ngài không bỏ các tông đồ mồ côi, nhưng sai Thánh Thần đến với các ông.
Thật vậy, trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các tông đồ tụ họp nhau trong nhà cầu nguyện, cửa vẫn đóng kín vì lo sợ giới lãnh đạo Do thái. Vậy mà, khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đổi mới lòng dạ các tông đồ cách lạ lùng. Từ những người dốt nát trở nên thông thái nói được nhiều thứ tiếng; từ những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ, tung cửa ra, hiên ngang đi rao giảng Tin mừng, mà không hề sợ bất cứ quyền lực trần trần gian nào vây hãm.
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức, các nhà truyền giáo không buồn lòng nản chí khi ra đi rao giảng Tin mừng. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần đến an ủi, mà các tông đồ cũng như các vị tử đạo đã can đảm làm chứng cho Chúa, sẵn sàng chịu mọi hình khổ cho đến chết.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng Hội Thánh. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Rửa tội và Thêm sức. Do đó, chúng ta cũng được mời gọi sống làm chứng nhân cho Chúa như các tông đồ.
Vì thế, chúng ta hãy can đảm mở tung cửa lòng còn đóng kín của mình ra, để luồng gió Thánh Thần thổi vào đổi mới chúng ta. Như thánh Phêrô xưa, nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, mà Ngài mạnh dạn đứng lên với những lời lẽ khôn ngoan đầy sức thuyết phục, làm cho nhiều người phải đấm ngực ăn năn trở lại cùng đạo thánh Chúa.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta đồng tâm hiệp ý với nhau cậy nhờ Mẹ Maria như các tông đồ năm xưa. Tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và canh tân bộ mặt trái đất này. Đồng thời, xin Ngài như làn gió mát xua tan những bóng đêm tội lỗi, và đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn thắm thiết.
Ước gì, trong đời sống đức tin, sẽ có những lúc chúng ta gặp những gian nan thử thách trăm bề khốn khó, làm cho chúng ta sờn lòng nản chí, đức tin bị lung lay. Thì giờ đây, xin Chúa Chúa Thánh Thần ngự đến an ủi, ban ơn đổi mới mọi sự trong ngoài, giúp chúng ta vững tin theo Chúa dưới bất cứ hoàn cảnh nào. Đồng thời, xin Ngài cũng thêm ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa trong nhiệm vụ, trong môi trường sống của mình. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
TIẾN BƯỚC CÙNG THÁNH THẦN TRONG BÌNH AN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tiếp nối sau lễ Chúa Giêsu thăng thiên nhằm nhấn mạnh và nhắc nhở hoạt động của Thánh Thần trong Hội thánh và nơi người tín hữu. Người tín hữu đón nhận Thánh Thần của Chúa Giêsu Phục sinh trong bí tích rửa tội và được sai đi như chính Chúa Giêsu đã được Cha ban Thánh Thần và sai đi loan báo Tin mừng. Bài đọc sách Công vụ sẽ mô tả việc Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần của những người do thái, hiện thực hóa ý nghĩa của ngày lễ Ngũ tuần là ngày Hội mùa và cũng kỷ niệm việc Thiên Chúa giải phóng những người do thái khỏi xứ Ai cập. Ngũ tuần cũng là năm mươi ngày tính từ ngày Chúa Phục sinh và để đánh dấu thời kỳ hoạt động của Hội Thánh. Thánh Thần hiện xuống với những biểu hiện như gió thổi mạnh ùa vào căn nhà nơi các tông đồ tụ họp và dưới hình lưỡi lửa đậu trên từng người và ai nấy đều bắt đầu nói tiếng lạ trong khi đó những người do thái tụ tập ở Giêrusalem mừng lễ đều ngạc nhiên vì ai nấy đều nghe tiếng các tông đồ rao giảng theo tiếng bản xứ của mình.
Bài Tin mừng mô tả việc Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các môn đệ khi người Phục sinh và hiện ra với các ông, người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông và sai các ông đi với quyền năng tha thứ và cầm buộc tội lỗi. Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa, đã hiện diện với Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế của người làm cho người thi thố những công việc đầy quyền năng, giờ đây được ban cho các môn đệ để các môn đệ tiếp nối công việc của người. Thánh Thần được ban tặng qua việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các ông bởi vì Thánh Thần chính là Thần Khí, là hơi thở và là sức mạnh của Chúa Giêsu mà người nhận được từ Cha và không ngừng trao đổi với Cha. Thánh Thần là mối hiệp thông tình yêu và sự sống giữa người với Cha, giờ đây, nhờ Chúa Giêsu mà được thông ban cho người môn đệ để họ cũng đón nhận được sự hiệp thông sự sống, tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa để họ cũng sẽ nói lời tha thứ và cầm buộc tội lỗi. Họ được thánh hóa bởi Thánh Thần và sai đi như Chúa Giêsu đã được sai đi, với quyền năng Thần linh mạnh mẽ.
Trong những lời của Chúa Giêsu trước khi ra đi chịu khổ nạn, người đã báo trước cho các môn đệ về Thánh Thần mà người sẽ ban cho các ông và sẽ ở với các ông để nâng đỡ cho các môn đệ trong hành trình làm chứng cho người. Thánh Thần là Đấng bảo trợ, một danh xưng khác nhằm nói lên vai trò của Thánh Thần là Đấng bênh vực và che chở cho người môn đệ. Người môn đệ là người sống và làm chứng cho thầy Giêsu ở trần thế, họ không cô đơn nhưng có được sức mạnh phi thường là Thánh Thần cũng là Đấng bảo trợ cho họ. Họ sẽ bị bắt bớ vì danh thầy, họ sẽ bị điệu đến các toà án của vua chúa quan quyền, nhưng họ luôn có Thánh Thần là Đấng bảo trợ cho họ. Trong những khi bị bắt bớ và tra hỏi, người môn đệ hãy luôn vững vàng và tin tưởng vì họ đã lãnh nhận Thánh Thần của Chúa Giêsu. Chính Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, bởi vì Thánh Thần là Thần khí sự thật, và người môn đệ cũng sẽ làm chứng cho thầy Giêsu cùng với Thánh Thần bởi vì người môn đệ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ đầu. Thánh Thần còn có vai trò dẫn đưa người môn đệ đến chân lý toàn vẹn, tức là chân lý về Chúa Giêsu. Vai trò cứu độ của Chúa Giêsu đã kết thúc với sứ vụ rao giảng của người và cái chết hiến thân mình trên thập giá. Giờ đây Thánh Thần sẽ làm cho các môn đệ hiểu Tin mừng mà Chúa Giêsu rao giảng, hiểu ý nghĩa cái chết cứu độ của người, cũng như hiểu rõ về lời các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo về Chúa Giêsu bởi vì vai trò của Thánh Thần vốn là vai trò soi sáng hướng dẫn người môn đệ tới chân lý. Sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đến chân lý không gì khác hơn là làm cho các ông hiểu được Lời Chúa, hiểu những lời Thánh Kinh đã loan báo trước về Đức Giêsu chịu khổ nạn để vào trong vinh quang Phục sinh. Đây không đơn giản chỉ là thông truyền cho người môn đệ một tri thức mà thôi, nhưng là sự hiểu biết dẫn đưa tới lòng yêu mến tin tưởng đối với sứ điệp Tin mừng mà Chúa Giêsu đã rao giảng cũng như Lời Thánh Kinh để rồi sống và làm chứng cho Chúa Giêsu. Công việc của Chúa Thánh Thần là soi sáng và hướng dẫn người môn đệ, công việc nội tâm hóa và hiện tại hóa sứ điệp của Chúa Giêsu. Công việc của Chúa Thánh Thần không nhằm đưa ra một mạc khải nào khác hơn mạc khải của Chúa Giêsu, nhưng là thúc đẩy và soi sáng để người môn đệ hiểu biết rõ hơn mạc khải của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần sẽ làm chứng và tôn vinh Chúa Giêsu vì Thánh Thần là của Cha và cũng là của Con.
Thực là mầu nhiệm cao cả, việc Thánh Thần của Thiên Chúa được ban tặng cho các môn đệ và cho mọi người tin nhờ Chúa Giêsu. Nhờ Thánh Thần của Chúa Giêsu mà người môn đệ, vốn là những con người yếu hèn được thông hiệp đời sống thần linh của Chúa Giêsu và được mời gọi đón nhận sứ vụ rao giảng Tin mừng của người và được thông hiệp vào cùng một thân mình của Chúa Giêsu với nhiều tác vụ và đặc sủng khác nhau. Công đoàn Hội thánh sẽ được phát triển nhờ hoạt động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần sẽ kiến tạo những cộng đoàn Kitô giáo sinh động, với nhiều ơn gọi và đặc sủng nhờ hoạt động của Thánh Thần. Ngày nay hoạt động của Thánh Thần vẫn luôn mạnh mẽ trong các cộng đoàn Hội Thánh, nâng đỡ chúng ta trong hành trình đầy vinh dự là sống ơn gọi làm Kitô hữu, làm cho chúng ta biết can đảm ra khỏi con người ích kỷ chật hẹp của mình để đến với những người khác để cùng tham dự vào Thân mình của Chúa Giêsu, được thánh hóa trong thân mình của người, được tham dự vào sứ vụ rao giảng Tin mừng của người và được chia sẻ vinh quang của người trong nước trời. Thánh Thần lôi cuốn chúng ta làm cho chúng ta được luôn vui mừng, bình an và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, làm cho chúng ta biết xa tránh những đam mê xác thịt và dấn thân theo Thần Khí, từ bỏ mọi đam mê xác thịt như dâm bôn, hận thù, ganh ghét, chè chén say sưa. Đây chính là những chia sẻ và cảm nghiệm của thánh Phaolô. Người nhắc nhở các tín hữu ở Corintô và ở Galát về hiệu quả của Thánh Thần trong đời sống người tín hữu là những người bắt đầu đời sống mới : họ trở nên những con người sống theo Thần khí, tức là sống bác ái, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu và trung tín, và họ biết đóng đinh tính xác thịt mình cùng với những thói hư tật xấu và cùng với Thánh Thần họ tiến bước trong bình an.