CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH-
CHÚA THĂNG THIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
LOAN BÁO TIN MỪNG (*)– Chú giải của Noel Quession. 7
BIẾN CỐ THĂNG THIÊN VÀ BIẾN CỐ NGŨ TUẦN(*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông 14
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI- Chú giải của Fiches Dominicales 29
LỜI KẾT THÚC- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieur. 35
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 41
KHỞI ĐIỂM CHO MỘT KỶ NGUYÊN MỚI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 60
NGƯỚC MẮT NHÌN TRỜI- Đức TGM Jos. Ngô Quang Kiệt 77
CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 81
ĐỂ CÓ CHÚA CÙNG HOẠT ĐỘNG– Lm. Phêrô Vũ Văn Quí 90
CHÚA ĐI DỌN CHỖ CHO CHÚNG TA- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 95
HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG- Lm. Đặng Quang Tiến. 100
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 103
CHÚA GIÊSU HOÀN THÀNH SỨ MẠNG VÀ VỀ TRỜI- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền 108
HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 111
CHÚA LÊN TRỜI, XIN HƯỚNG LÒNG CHÚNG CON VỀ TRỜI – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 115
CHÚA LÊN TRỜI, TA VÀO ĐỜI- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.. 119
ĐƯỜNG LÊN TRỜI- Trích Logos B.. 125
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 131
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 137
ĐƯỢC MỜI GỌI LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG PHỤC SINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 141
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Đáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Đấng Tối cao, khả uý, Người là Đại Đế trên khắp trần gian. – Đáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa; hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! – Đáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người; xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
“Người lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
LOAN BÁO TIN MỪNG (*)– Chú giải của Noel Quession
Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành văn cũng có khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng câu này không có gì “mới lạ”. Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.
Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn -Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách: ”Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.
“Khắp thế giới” – “Tất cả loài người”.
Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời, ”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.
Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.
Anh em hãy loan báo Tin Mừng.
Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói: ”Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.
Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.
Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: ”Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.
Làm sao hiểu được điều này?
Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.
Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.
Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.
Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).
Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.
Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1: “Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.
Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.
Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…
Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.
Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của một lời nói.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH-CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
BIẾN CỐ THĂNG THIÊN VÀ BIẾN CỐ NGŨ TUẦN(*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có các Tông Đồ làm chứng và cuộc tôn vinh của Ngài không có nhân chứng.
Cv 1: 1-11
Sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Ngài, sách Công Vụ tường thuật cuộc Thăng Thiên hữu hình: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.
Ep 4: 1-13
Sau khi gợi lên cuộc tôn vinh của Đức Ki-tô: “Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời”, thánh Phao-lô nhắc lại rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu là gặp lại Đức Ki-tô, vì Ngài là Thủ Lãnh của Giáo Hội, và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài.
Mc 16: 15-20
Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc tôn vinh của Chúa Con ngự bên hữu Chúa Cha, theo một công thức cô động mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Tông Đồ Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô nào đó, mà chúng ta không biết.
Sách Tin Mừng Lu-ca kết thúc với cuộc Thăng Thiên của Đức Ki tô: “Người rời khỏi các ông, và được đưa lên trời…” (Lc 24: 51) trong khi sách Công Vụ mở ra với hai lần gợi lên cùng một biến cố: “…cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Như vậy, qua kiểu trình bày văn chương này: “ở phần cuối” sách Tin Mừng Lu-ca và “ở phần đầu” sách Công Vụ, cuộc Thăng Thiên rõ ràng được trình bày vừa đích điểm sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa và vừa khởi điểm sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa ở giữa loài người; đồng thời, vừa hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và vừa bắt đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
Hai cuộc Thăng Thiên:
Một cách nào đó, chúng ta có thể phân biệt hai cuộc Thăng Thiên: Cuộc Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng, đó là việc Đức Giê-su trở về cùng Cha Ngài ngay sau khi Ngài sống lại. Đây là một cuộc đoàn tụ Ba Ngôi, biến cố tuyệt mức thần linh; và đó cũng là cuộc tôn vinh Đức Giê-su bên cạnh cạnh Chúa Cha, cuộc tôn vinh mà Ngài đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Vậy, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
Cuộc Thăng Thiên thứ hai là việc Đức Giê-su lên trời hữu hình trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: chính nhân tính, cùng với Đức Ki-tô, sẽ chiếm chỗ trong vinh quang Thiên Chúa. Cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc thăng thiên của chúng ta.
Lý do của cuộc Thăng Thiên hữu hình.
Vào cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, Ngài chỉ cần loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, đoạn nói lời từ biệt với họ, và rồi biến mất như Ngài đã nhiều lần làm như vậy trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh. Tại sao Đức Giê-su đã chọn cuộc ra đi khỏi thế giới nầy một cách ngoạn mục như thế, dù thoáng qua và kín đáo?
Chúng ta gặp thấy câu trả lời qua cách thức mà Đức Giê-su, trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, đã trình bày cuộc sống tiền hữu và cuộc Nhập Thể của Ngài.
Trước hết, Ngài lên trời theo cách thức như vậy nhằm chỉ rõ mình dưới danh xưng “Con Người”, nhân vật này, theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13; cf. 16: 28; 17: 11, vân vân).
Đức Giê-su cũng sử dụng hình ảnh nầy khi công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Ngài gợi lên sáu lần diễn ngữ “từ trời xuống” nầy, và cuối cùng, Ngài kết thúc bằng những lời nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Đây là cách thức Đức Giê-su dùng để loan báo cuộc Thăng Thiên của mình rõ ràng nhất.
“Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra…”
Con số “bốn mươi” nầy chất chứa biết bao ý nghĩa: nó hình thành nên thể song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su trải qua trong hoang địa để chuẩn bị sứ mạng của Ngài, giữa phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài. Đó cũng là khoảng thời gian để chuẩn bị cho các môn đệ bắt tay vào sứ mạng của họ, giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Ngài.
Chúng ta có thể tự hỏi Ngài đã sống như thế nào sau khi sống lại. Một cách nào đó, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một tiên trưng. Quả thật, khi đọc đoạn văn Tông Đồ Công Vụ nầy làm thế nào chúng ta không nghĩ đến sách Tô-bi-a, trong đó thiên sứ Ra-pha-en, sau khi đã hoàn tất sứ mạng trần thế của mình, mặc khải cho ông Tô-bi-a và vợ của ông là bà Xa-ra chân tính của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Chúa…Đừng sợ! Bình an cho các ngươi!…Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi…do ý muốn của Thiên Chúa…Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy…Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi…Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa” (Tb 12: 15-21).
Chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi từ giả các môn đệ lên trời, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau cùng và loan báo cho các ông biết các ông sẽ đón nhận phép rửa trong Thánh Thần. Ngài nhắc lại lời hứa mà Ngài đã hứa với các ông: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc nầy, các ông đã hỏi Ngài câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Họ vẫn ôm ấp một giấc mơ chính trị xưa cũ về việc khôi phục nền độc lập của quốc gia Ít-ra-en! Đức Giê-su không trách cứ họ; Ngài không trả lời thẳng câu hỏi của họ, nhưng mượn kiểu nói khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá đất nước nhỏ bé của xứ Giu-đê, cho đến tận cùng thế giới. Nhưng vào lúc nầy đây, chưa đón nhận sức mạnh Thánh Thần, họ chưa có thể nào hiểu được.
Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Đây không cốt là đám mây nào, nhưng đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như đã xảy ra biết bao lần trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là thành ký của biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào giây phút Ngôi Lời thụ thai trong lòng trinh khiết của Mẹ; đó cũng là đám mây quyện lấy Đức Giê-su khi Ngài từ giả cõi thế nầy. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ thưa “xin vâng”. Cũng thế, các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Ngũ Tuần; Chúa Thánh Thần ngự xuống sẽ biến đổi các Tông Đồ và thúc đẩy họ bắt tay hành động. Các thiên sứ đã mời gọi họ rồi: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Nhưng phải chuẩn bị ngày Ngài trở lại nầy bằng cách bắt đầu công việc truyền giáo vĩ đại mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-13)
(Phụng Vụ cho phép chúng ta lựa chọn giữa bản văn Ep 1: 17-23 và bản văn Ep 4: 1-13. Bản văn Ep 1: 17-23 đã được chú giải trong lễ Thăng Thiên năm A. Vì thế, để có thêm chất liệu phong phú cho ngày lễ Thăng Thiên năm B, xin chú giải bản văn Ep 4: 1-13).
Thánh Phao-lô đã viết thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô trong khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời chào của bức thư nầy rất tổng quát gởi đến “các tín hữu trong Đức Giê-su Ki-tô”, điều nầy khiến nghĩ rằng bức thư nầy nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn (các cộng đoàn khác miền Tiểu Á).
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý và phần thứ hai về luân lý và khuyên bảo. Phần thứ hai được liên kết chặc chẽ với phần thứ nhất. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
“Tôi là người đang bị tù vì Chúa”.
Để tăng cường những lời khuyên bảo của mình, thánh Phao-lô nhắc nhớ trước hết ngài đang bị giam cầm, như vậy thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là nhân chứng chịu đau khổ vì Đức Ki tô.
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã có chủ ý trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và ra lệnh phải truyền lại cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.
Ơn gọi làm người Ki tô hữu.
Vì thế, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyên họ phải ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại, lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng” (Mt 11: 29). Đoạn thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “ăn ở thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
Lời tuyên xưng đức tin.
Tiếp đó, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề về sự hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa tuyên xưng khi khẳng định niềm tin của mình, chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.
Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa, đoạn sử dụng từ vựng rất gần với từ vựng của phái Khắc Kỷ. Thiên Chúa của phái Khắc Kỷ, nguyên lý hiệp nhất, là “cha của muôn loài muôn vật”, Đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ. Đức Ki-tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh nội tại trong vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”.
Biểu thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo, trong đó họ đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhất là quy chiếu trật tự vũ trụ vào vai trò của các thiên sứ.
Biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần.
Muôn vàn ân sủng mà mỗi người đón nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho, Đấng “đã xuống tận các vùng đất sâu thẩm dưới mặt đất” (nhờ mầu nhiệm Nhập Thể) cũng chínnh là Đấng “đã lên cao hơn mọi tầng trời”. Ở đây, chúng ta nhận ra một trong những ý tưởng chủ đạo của thánh Phao-lô, thánh nhân thiết lập mối liên hệ giữa sự hạ mình của Con Thiên Chúa trong kiếp sống phàm nhân và sự tôn vinh của Ngài.
“Để làm cho vũ trụ được viên mãn”, thánh Phao-lô hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần, tức là việc Đức Giê-su lên trời và việc Ngài ban xuống muôn vàn ân sủng. Để thực hiện điều nầy, thánh nhân dựa vào một bản văn Kinh Thánh: Thánh Vịnh 68. Thánh Vịnh này là một bài ngợi ca được hát lên khi rước Hòm Bia Giao Ước lên Giê-ru-sa-lem; bài ngợi ca nầy trình bày Đức Chúa tiến lên thánh điện của Người như một vị lãnh tụ chiến thắng, dẫn theo đám tù binh. Thánh Phao-lô áp dụng bài ngợi ca nầy vào Đức Ki-tô “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người”. Muôn vàn ân huệ nầy được ban trước tiên cho những ai xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Giáo Hội, sự viên mãn của Đức Kitô.
Lúc đó, thánh Phao-lô hướng về phía các tín hữu, cũng chính họ xây dựng Nhiệm Thể Đức Ki-tô cho đến khi đạt được tầm mức tăng trưởng tối hậu, tầm vóc viên mãn. Sự viên mãn nầy chỉ có thể được thực hiện trong sự hiệp nhất của đức tin (thánh Phao-lô trở lại chủ đề về sự hiệp nhất) và của sự hiểu biết thật sự về Con Thiên Chúa.
Như vậy, cùng với nhau tăng trưởng trong đức tin và trong đức ái, “chúng ta sẽ được đưa lên cao cho đến Ngài”. Biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô loan báo và chuẩn bị biến cố thăng thiên của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 16: 15-20).
Đây là đoạn kết Tin Mừng Mác-cô. Biến cố Thăng Thiên được gợi lên rất ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đây là cách diễn tả mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính. Quả thật, lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố lên trời của Đức Giê-su: Cuộc tôn vinh của Ngài ngay lúc Ngài sống lại và cuộc lên trời hữu hình của Ngài trước mắt các Tông Đồ của Ngài.
Như Tin Mừng Lu-ca, Tin Mừng Mác-cô định vị hai biến cố vào cùng ngày: cả hai thánh ký đều đặt biến cố Thăng Thiên vào buổi chiều Phục Sinh, đây là cách thức thâu tóm hai biến cố trong cùng một quan điểm thần học. Tuy nhiên, sách Công Vụ lại đặt biến cố Thăng Thiên vào một khoảng thời gian “bốn mươi ngày sau”, về phương diện lịch sử xem ra thật hơn, bởi vì Tin Mừng Lu-ca nói về những lần Đấng Phục Sinh tỏ mình ra, dạy dổ các môn đệ của Ngài.
Đoạn Tin Mừng Mác-cô hôm nay có thể được chia thành ba phần:
-Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
-Biến cố Thăng Thiên (16: 19).
-Thi hành sứ mạng (16: 20).
Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
Biến cố Thăng Thiên đánh dấu việc kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và việc khởi đầu sứ vụ của các Tông Đồ.
Sự kiện Đấng Phục Sinh sai nhóm Mười Một đi thi hành sứ vụ đều được nhắc lại trong cả bốn sách Tin Mừng. Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh rõ nhất chiều kích phổ quát của sứ vụ nầy: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ” (Mt 28: 19).
Tin Mừng Mác-cô cũng nhấn mạnh không kém: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Diễn ngữ “mọi loài thọ tạo”, rất gần với diễn ngữ của thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Rô-ma (8: 19-22), có chung một viễn cảnh về sự đổi mới tâm linh, không chỉ của nhân loại nhưng cũng toàn thể vũ trụ.
Tin và không tin.
Thế chọn lựa đôi ngã: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”, gợi nhớ bút pháp của Tin Mừng Gioan: hoặc tiếp đón ánh sáng hay ở trong bóng tối. Cuộc giáng trần của Đức Giê-su đòi buộc con người phải chọn lựa. Tất cả lời rao giảng tông đồ quả quyết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất; không ai có thể đạt được sự sống siêu nhiên mà không qua Ngài. Chỉ Giáo Hội được trao quyền truyền đạt sự sống siêu nhiên nầy nhờ các Bí Tích, trước hết bí tích Thánh Tẩy.
Lập trường không nhân nhượng nầy được giải thích do việc các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái, những ngươi này từ chối tin vào Đức Ki-tô và chỉ thấy ơn cứu độ nhờ Lề Luật.
Dấu lạ.
Đức Giê-su kể ra một loạt dấu lạ mà “những ai có lòng tin vào danh Ngài” có thể làm được. Ở đây, Chúa Giê-su không không chỉ ngỏ lời với các Tông Đồ, nhưng còn với những ai tiếp nối sau các Tông Đồ: “Họ sẽ trừ được quỷ, họ sẽ nói được những tiếng mới lạ…”
Từ ngữ “dấu lạ” có một tầm mức rộng lớn hơn và sâu xa hơn từ ngữ “phép lạ”. Phép lạ hàm chứa một sự ngạc nhiên, một sự thán phục, trong khi dấu lạ hàm chứa một giáo huấn, một mặc khải chứ không luôn luôn là một điều kỳ diệu. Như nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu là một dấu lạ về sự sinh hạ của Giáo Hội; cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su tự nó là dấu lạ về tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại; muôn vàn ân huệ của Chúa Thành Thần, dù kín đáo, cũng là những dấu lạ không kém.
Trước đây Tin Mừng Mác-cô đã tránh dùng từ ngữ dấu lạ, vì đây là thuật ngữ mà các đối thủ của Đức Giê-su đã sử dụng để đòi hỏi Ngài cho họ thấy một bằng chứng để chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a (hai Tin Mừng Nhất Lãm khác cũng tuân theo thái độ dè dặt như thế). Trong đoạn kết nầy, thuật ngữ dấu lạ mặc lấy một giá trị tương đồng với thuật ngữ dấu lạ thường được dùng trong Tin Mừng Gioan: bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng cứu độ của Đức Giê-su.
Chúng ta gặp lại những dấu lạ nầy trong sách Công Vụ: các Tông Đồ đã trừ được quỷ, nói được những ngôn ngữ; thánh Phao-lô bị con rắn độc quấn vào tay mà không hề hấn gì (Cv 28: 3-6), thánh Phê-rô đặt tay và chữa người què (3: 7-8), ông Kha-na-ni-a đặt tay và chữa ông Sao-lô được thấy lại (9: 17-18), vân vân. Vả lại, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài vào lúc sai nhóm Bảy Mươi Hai đi thi hành sứ vụ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10: 19).
Tuy nhiên, các ngôn sứ đã loan báo rằng những dấu lạ như thế đánh dấu triều đại Mê-si-a, như ngôn sứ I-sai-a phác họa một cách sinh động: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất nầy, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11: 8-9).
Thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội được minh họa bởi muôn vàn ân sủng mà các Tông Đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi được hưởng.
Thăng Thiên (16: 19).
“Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời”. Tước hiệu “Chúa” (Kurios) để chỉ Đức Giê-su chỉ được gặp thấy một lần trong Tin Mừng Mác-cô: khi Ngài sai hai môn đệ ra đi chuẩn bị cuộc khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem của Ngài, chính Ngài tự cho mình tước vị nầy: “Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó” (Mc 11: 3). Tước hiệu “Chúa” nầy Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, được các Ki-tô hữu tiên khởi áp dụng cho Đức Giê-su để công bố “quyền chúa tể hoàn vũ của Ngài”.
Cuộc tôn vinh của Đức Giê-su được diễn tả bằng hình ảnh: “ngự bên hữu Thiên Chúa”. “Bên hữu Thiên Chúa” là chỗ danh dự và là dấu chỉ của việc dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là chỗ mà Thánh Vịnh 110 phân định cho Đấng Mê-si-a tương lai, Đấng sẽ là “Đức Chúa”. Chính Đức Giê-su tiên báo biến cố nầy cho các thành viên của Thượng Hội Đồng : “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng…” (Mc 14: 62).
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất cho vài chi tiết rõ ràng về biến cố Thăng Thiên hữu hình (trong sách Công Vụ chi tiết rõ ràng hơn trong sách Tin Mừng của thánh nhân), trong khi Tin Mừng Gioan dọi chiếu ánh sáng trên biến cố Thăng Thiên vinh quang không có nhân chứng. Trong bài Diễn Từ Cáo Biệt của Ngài, Đức Giê-su nhiều lần nói với các Tông Đồ là Ngài “ra đi khỏi thế giới nầy mà về cùng Cha Ngài” và trong lời cầu nguyện của Ngài, Chúa Giê-su gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5). Sau cùng, không phải biến cố Biến Hình trên núi cao là dấu chỉ tiên báo biến cố Thăng Thiên vô hình và vinh quang mà Chúa Con sẽ được nhận lại đó sao?
Thi hành sứ mạng (16: 20).
Đoạn, các Tông Đồ ra đi loan báo Tin Mừng “khắp nơi”; và “có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Sự hiện diện vô hình của Ngài mà thánh Mát-thêu diễn tả trong cùng một bài tường thuật song song khi nhắc lại những lời sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).
Biến cố Thăng Thiên không là một cuộc ra đi của Đức Giê-su, nhưng khai mạc một cách thế hiện diện mới của Ngài. Từ nay, với cách thế hiện diện mới nầy, Ngài không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN-Năm B
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Trong đoạn kết thứ hai của Tin Mừng Maccô
Đoạn kết của Tin Mừng Maccô, dùng trong lễ Thăng Thiên năm B này, thực ra là đoạn kết thứ hai của Tin Mừng này. Thực vậy thoạt tiên -như các bản chép tay cho thấy- Tin Mừng Maccô kết thúc ở đoạn các phụ nữ đi viếng mộ Chúa và các bà im lặng vì sợ hãi: “Các bà không hé cho ai biết điều gì, vì các bà sợ”. Hiển hiện những hàng trên đã có từ rất lâu (đã được thánh Irênê, Giám mục Lyon vào cuối thế kỷ thứ hai công nhận thuộc về Tin Mừng thánh Maccô) và đã được Giáo Hội nhận vào quy điển, nghĩa là thuộc về Kinh Thánh được linh ứng.
Việc sai đi trong một sứ mạng phổ quát
Đoạn kết này cắt ngang những truyền thống mà ta thấy ở nơi khác, trong các Tin Mừng khác. Đức Giêsu hiện ra với 11 Tông đồ “khi họ đang ăn”. Sau khi đã khiển trách những kẻ đã thấy Người sống lại” mà vẫn không tin (14), Người sai họ lên đường sứ mạng.
Đó là một sứ mạng phổ quát: “Hãy đi khắp thế giới. Hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” J. Hervieux nhận xét: “Ta có thể lường được ý thức của Giáo Hội sơ khai. Giáo Hội sơ khai biết mình được kêu gọi đem Tin Mừng cho hết mọi người, hết mọi tạo vật (“Tin Mừng theo thánh Maccô”, Centurion, trang 238).
Đó là một sứ mạng có “các dấu lạ đi kèm”: Những dấu lạ đó đoạn kết thứ hai của Maccô kể ra và ta thấy minh hoạ trong sách Công vụ các Tông đồ: trừ quỉ nhân danh Đức Giêsu (Cv 5,12-16; 8,9; 16,16-18); nói tiếng lạ (một đoàn sủng đôi khi đi tới ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10, 44-46); đặt tay chữa bệnh (Cv 4, 301 9,10-17); cầm rắn mà không sợ nguy hiểm (Cv 28,3-6). Đối với một vài người thì những dấu chỉ cổ điển ấy muốn diễn tả uy quyền tất định của Đấng Phục Sinh thắng những thế lực sự ác và sự Chết. L.Monloubou viết: ‘(Xuyên qua bảng liệt kê bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu của thời ấy, ta thấy xuất hiện niềm xác tín rằng sự phục sinh của Đức Giêsu đem đến một chất men làm đổi mới con người: một ‘tạo dựng mới’ đã bắt đầu nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Mới, vì mọi tâm màn che dấu chân lý về Thiên Chúa đã bị xé rách. Mới, vì mọi rào cản chia cách con người đã bị loại bỏ. Và mới, vì mọi sự ác dày vò con người trong quá khứ nay đã bị khuất phục: Sự thể hiện chiến thắng này không toàn vẹn; trần gian luôn phô bày bộ mặt của một thế giới trần trụi, nhưng đã có những dấu chỉ cho thấy cuộc chiến thắng sẽ hoàn tất (“Tin Mừng theo thánh Maccô, Salvator, trang 166).
Những dấu chỉ ấy có thể thay đổi, tuỳ theo khung cảnh văn hoá. Nhưng điều cốt lõi vẫn luôn luôn, như trong mọi dấu chỉ Đức Giêsu đã thực hiện, là mặc khải một chút về tình yêu của Chúa Cha mà sứ điệp đã loan báo.
Và loan báo sự hiện diện huyền nhiệm của Đấng Phục sinh:
Bức tranh Chúa Thăng Thiên chỉ được chấm phá bằng vài nét như kết thúc cuộc mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu. Người được “cất lên trời” giống như Êlia trong sách Các Vua 2,11; Người ngự “bên hữu Chúa Cha”, Người được tôn phong là Kitô và là Chúa, ứng nghiệm lời Thánh vịnh 110,1 nói về Người: “Đức Chúa đã nói với Chúa tôi: Hãy ngồi bên hữu Ta”. Nhưng việc thăng thiên không mở ra một giai đoạn vắng mặt của Đức Giêsu, mà đánh dấu một “khởi điểm”, khởi đầu một hiện diện mới cho các môn đệ, một hiện diện tích cực đem lại vô vàn hiệu quả cho hoạt động truyền giáo của họ. Đoạn kết thứ hai của Maccô kết luận: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
BÀI ĐỌC THÊM.
“Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (G. Bessière, trong “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDB, tr. 68-69).
Bản văn không đề cao hiện tượng kỳ diệu của việc lên trời, nhưng nhấn mạnh sứ mệnh của các tông đồ. Các ngài mang đi một tin bất ngờ, một tin mừng cho “mọi tạo vật’? Đó là ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn chữa lành, đương đầu với mọi nguy cơ để đổi thay thế giới, cho nhân loại mới ấy, nhân loại ngồi bên hữu Thiên Chúa ấy được hiện hữu và lớn mạnh. Lịch sử đâu có thể nhờ một chiếc đũa thần mà biến đổi trong tích tắc mà phải qua hằng bao thế kỷ, hằng bao thiên niên kỷ, như một nắm men âm thầm nhưng phải luôn luôn khơi dậy Tin Mừng này, để Thánh Linh Thiên Chúa tái tạo bộ mặt địa cầu.
Suốt dòng thời gian, các môn đệ sẽ là những “chứng nhân hăng say”: “cho đến tận cùng trái đất”, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu ra đi, nhưng Người không vắng mặt, trái lại dường như cuộc ra đi này còn làm cho Người hiện diện nhiều hơn qua tất cả những người tiếp tục đón tiếp, sáng tạo và mưu tìm một thế giới mới. Họ cũng sẽ là những kẻ làm phiền vì tin rằng nhân loại có thể tiến xa hơn trên con đường công bình, tha thứ và yêu thương. Những con người mơ về một nhân loại thần linh này (humanité divine) sẽ luôn luôn phản kháng những gì là hỗn loạn, tồi tệ và chai lì trong đời sống cá nhân cũng như tập thể. Họ cũng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của những chủ nhân sống một đời sống trì trệ, những tay quản lý ù lỳ và phó mặc cho số phận, những kẻ tôn thờ tiền bạc. Nhưng ngay cả trong cơn bắt bớ, những con người thân cận với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ấy, những người đã được rửa tội trong trong tai ấy, sẽ nghe thấy trong bản thân một tiếng nói bí ẩn thầm thì: “Thầy ở với các con cho đến ngày tận thế”.
“Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh”(Đức Cha L. Daloz, trong “Vậy người là ai?”, DDB. tr. 109-1 10).
Đức Giêsu chứng minh sự hiện diện phục sinh của Người. Đoạn kết của Tin Mừng Maccô kể lại tóm tắt một vài tình huống chứng minh cho việc này. Đó là 3 tình huống khác nhau: Đức Giêsu ‘xuất hiện’, “tỏ mình ra” cho Maria Madalena, cho hai môn đệ, cho mười một Tông đồ. Những chứng nhân ấy sẽ đi loan truyền điều họ đã thấy. Người ta không tin các ngài; trong lần sai đi cuối cùng này cũng thấy nói đến “ai tin” và “ai không tin”. Đức Giêsu phải “áp đặt” sự hiện diện của Người vì biến cố phục sinh quả thực là bất ngờ. Người khiển trách sự chậm tin và sự cứng lòng của họ, không tin lời những người đã thấy người sống lại”. Đoạn kết Tin Mừng này thật ngắn ngủi, vắn tắt như một bài điểm sách. Biến cố Phục sinh đâu cần chi đến những lời lẽ dao to búa lớn, những bài diễn văn dài dòng. Biến cố có đó để mời gọi đức tin. Biến cố tự nó đã có sức thuyết phục, có tính cách quyết định và đòi hỏi một quyết tâm. Biến cố quá mãnh liệt đã mở ra một tương lai và một chân trời bao la cho: “Toàn thế giới” và mọi tạo vật? Tin Mừng đầy ắp một sức mạnh phục sinh, có khả năng xuyên thấu bề dày tăm tối của thế giới, đem đến cho nó một chất men mới. Đó là ý nghĩa của những dấu chỉ này. Sức mạnh của Tin Mừng được biểu lộ qua con số không nhỏ những dấu chỉ này và tính cách phi thường của chúng, sức mạnh đó không chỉ là những lời nói suông, nhưng còn là chất men biến đổi cuộc sống. Các môn đệ có thể lên đường rao giảng. Đối với các ông, dù đã được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, Chúa vẫn tiếp tục hoạt động và xác nhận Lời. Ngày nay, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng được sai đến tận cùng thế giới để làm chứng nhân cho Tin Mừng, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh”.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH-CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
LỜI KẾT THÚC- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieur
Những câu kết thúc Tin Mừng Maccô không phải là của chính tác giả. Trong nhiều thủ bản quan trọng người ta không thấy có đoạn này. Ngoài ra, văn phong trừu tượng ở đây khác hẳn lối viết cụ thể và đầy màu sắc của Maccô. Do đó các nhà chuyên môn cho rằng đoạn này được “thêm” để xóa đi cảm giác hụt hẫng kết thúc với câu 16,8: các bà sợ hãi và bỏ chạy ra khỏi ngôi mộ trống.
Tuy nhiên, không phải đoạn này chẳng có giá trị gì: nó vẫn là Thánh Kinh được linh hứng. Cũng như ba Tin Mừng khác, nó thuật lại “những lần Chúa Giêsu hiện ra” trước tiên là với các phụ nữ, rồi đến các môn đệ, và cuối cùng là với nhóm các Tông đồ (x. Mt 28,9-20; Lc 24,13-49; Ga 20,11-29). Nhưng ở đây, tác giả soạn thảo đoạn kết này dưới hình thức một bản “tóm lược”, không nhiều chi tiết, chủ yếu dựa vào Luca và kế đó là Gioan. Trước hết, Chúa Giêsu hiện ra với riêng một phụ nữ nhiệt thành nhất trong “đám phụ nữ theo chân Ngài” (c.9). Lần hiện ra này với Maria Magđala được tường thuật chi tiết ở Gioan (Ga 20,11-18). Luca cũng nói bà này là người trung thành với Chúa Giêsu, như Gioan đã nhận định về bà Maria Magđala, truyền thống lại coi đó là kẻ bị “bảy quỷ dữ ám”, và là người phụ nữ có lòng hối cải. Nhưng ta cũng biết rằng Chúa Giêsu cũng trục xuất quỷ khỏi các bệnh nhân (ví dụ 3,10-11) Maria Magđala có thể không phải là một phụ nữ tội lỗi ghê gớm lắm đâu, mà là một bệnh nhân nguy kịch được Chúa Giêsu chữa lành…
Trong cả bốn Tin Mừng, các phụ nữ, chẳng hạn như Maria Magđala ở đây, là những người đầu tiên đã tin và rao giảng Tin Mừng, dù rằng thuở ấy họ không đóng một vai trò công khai nào cả (c. 10-11). Ta cần ghi nhận rằng đoạn Thánh Kinh này đã cho thấy được các môn đệ quả hết sức phiền muộn khi thấy Thầy mình đã chết đi. Họ chịu đựng cảnh tang tóc và không hề tin rằng Thầy Phục Sinh. Trái lại, Maccô nhấn mạnh là các bạn hữu Chúa Giêsu là những kẻ rất cứng lòng tin, họ chẳng hề tin vào lời các phụ nữ, những người đã thấy rõ ràng Chúa đang sống (Lc 24,9-11). Việc Chúa Giêsu hiện ra cách riêng với hai môn đệ cũng được Maccô đề cập tới (c.12). Đó chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu với “hai lữ khách trên đường Emmau” theo như Luca kể lại (Lc 24,13-35). Những tiếng “dưới một hình dạng khác” chỉ về chính Chúa Giêsu “mà họ không nhận ra được” khi Ngài đồng hành với Cleopas và một người bạn khác (Lc 24,15-16). Câu tiếp theo (c.13) là một lời lên án các ông Tông đồ cứng lòng tin.
Sau khi đã thất bại trong hai lần cố tỏ mình ra cho các môn đệ, cuối cùng liệu Chúa Giêsu có gặp được đức tin nơi những kẻ hết sức gần gũi với mình không? Tệ hại hơn thì có (x.14)! Lần này Chúa Giêsu hiện ra thẳng với nhóm Mười Hai trừ Giuđa. Theo các Tin Mừng thì chính nhóm các Tông đồ sẽ trở thành chứng nhân đích thực cho Chúa Phục Sinh. Vậy mà Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng quở trách các ông cứng lòng tin và chai đá. Về việc này sách Tin Mừng nào cũng đều có ghi lại cả: phản ứng đầu tiên của các ông là nghi ngờ, cực kỳ nghi hoặc (x. Mt 28,17’ Lc 24,37-38; Ga 20,25-27). Ta chớ quên thực tế lịch sử đã chắc chắn xảy ra đúng như thế! Sau khi đã quở trách những chứng nhân tương lai, tác giả Maccô không cho biết thêm gì về những dấu chỉ Chúa Giêsu cho họ xem hầu họ có thể nhận ra Ngài cả (x. các dấu tích thương tổn trong Lc 24,39; Ga 20,20). Rồi Ngài sai họ đi rao giảng. Và đó chính là mục đích của những lần Chúa Giêsu hiện ra. Quy mô hoàn vũ của sứ mạng đó thật quá hiển nhiên (c.15). Ở đây ta có thể đánh giá được ý thức lạ thường của Giáo Hội sơ khai hồi bấy giờ. Giáo Hội nhận thức được rằng Tin Mừng phải được rao giảng cho hết mọi người, khắp cả thiên hạ.
Rồi Chúa Giêsu nói thêm rằng đức tin của người chịu thanh tẩy sẽ cứu rỗi được họ, ai từ chối tin thì sẽ bị kết án (c.16). Qua câu này ta thấy biểu lộ một quan niệm rất sống động nơi Giáo Hội vừa mới khai sinh. Sự công bố Tin Mừng nhất thiết phải đi kèm với việc trở lại đạo: phải tin. Phép rửa đến sau như thể là một đăng quang tất yếu cho kẻ có được đức tin. Đức tin quy tụ các tín hữu vào cộng đoàn cứu rỗi (x. Cv 2,38; Mt 28,19). Không được tách lòng tin ra khỏi phép rửa –và ngược lại- đồng thời cũng không được tách họ ra khỏi con đường cứu độ họ đã quyết tâm dấn bước. Kẻ nào từ chối đức tin –với ý thức tự do- khi đã biết đến Tin Mừng, kẻ ấy tự kết án chính mình vậy. Có lẽ tác giả muốn nói về thảm trạng của dân Chúa đã chọn, dân đã kịch liệt chối bỏ Chúa Giêsu chăng? Cuối cùng là những dấu chỉ đi kèm người tín hữu hầu họ chu toàn được sứ mạng lãnh nhận.
Trong thuở còn sinh thời, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu chỉ về sứ điệp được tin nhận. Trong Công Vụ Tông đồ, ta thấy các Tông đồ đã làm nhiều phép lạ để chứng thực lời rao giảng của họ (x. Philipphê: Cv 8,4-7; Phêrô: Cv 9,32-43 v.v…). Ở đây ta thấy có liệt kê các dấu chỉ, ít nhiều “phi thường”. Đuổi trừ ma quỷ kiểu như trong y học thời cổ đại (Cv 5,12-16; 16,16-18), “nói” tiếng lạ đôi khi là đặc sủng của Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10,44-46; 9,10-17), đặt tay trên bệnh nhân để chữa lành (Cv 4,30; 9,10-17), bắt rắn trong tay mà vẫn bình an vô sự như chuyện kể về Phaolô (Cv 28,3-6). Toàn bộ các dấu chỉ này, một số rất xa xưa (chứng tỏ thời Chúa Giêsu ảnh hưởng văn hóa Đông phương rất thịnh hành), thảy đều minh chứng cho uy quyền tuyệt đối của Đấng Phục Sinh trên các quyền lực sự Ác và sự Chết. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng, sứ điệp mang lại một sức mạnh cứu rỗi.
Sau bài tường thuật cuối cùng về những lần Chúa Giêsu hiện ra với mười một Tông đồ, sai các ông đi rao giảng và hứa ban cho các ông những dấu chỉ hỗ trợ, tác giả kết thúc bằng một loạt những hình ảnh hùng hồn (c.19). Với một câu văn cô đọng, tác giả đã đặt độc giả vào một tình trạng mới mẻ của Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài “được rước lên trời”. Đó là Thăng Thiên, một lối diễn tả có tính Kinh Thánh, hình tượng hóa việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ giã cõi trần để về cùng Thiên Chúa trên chốn trời cao. Việc các người công chính và lành thánh được đưa về trời cao, sau khi họ đã trải qua cuộc sống trần thế này cùng với Thiên Chúa, là một chủ đề thường gặp trong truyền thống dân Do Thái (x. Hônôc: St 5,24; Êlia: 2V 2,9-18). Nhưng mục đích đến của Chúa Giêsu khi về trời lại đặc biệt hơn. Văn bản ghi rõ: Ngài “ngự bên hữu Thiên Chúa”. Nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn trở nên Đấng Mêsia, và Đức Chúa do việc Ngài sống lại. Thiên Chúa đã ban cho Ngài thông phần đầy đủ vào quyền năng tối thượng của Đấng Xét xử và Cứu độ của hết thảy mọi người trong thời cuối cùng (x. Maccô 12,35-37: phác họa và Cv 2,32-36: triển khai).
Ở đây ta không thấy nói gì đến ơn cần thiết ban xuống trong Lễ Ngũ Tuần (ngược với Cv 2,32-33; Ga 20,22). Nhưng dù sao thì ơn ban “Mêsia” cốt yếu của Chúa Kitô Phục Sinh cũng đã khiến các môn đệ dấn thân hoàn toàn vào niềm tin Phục Sinh. Chính Thánh Thần mà họ sắp lãnh nhận mới giải thích trọn vẹn được việc thi hành chương trình rao giảng được đề cập đến trong câu cuối cùng (c.20). Mười một Tông đồ sắp rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Và lời rao giảng (đến từ Thiên Chúa và được Thánh Thần linh hứng) sẽ được đi kèm với các dấu chỉ để mọi người tin).
Một lần chót, chúng ta đã thấy rõ Giáo Hội thuở mới khai sinh đã hết sức ý thức được sứ mạng rao giảng cho muôn dân trên khắp cả thế giới, loan báo sứ điệp hạnh phúc của Đấng Mêsia chịu đóng đinh nay đã sống lại và khai mở nguồn ơn cứu thoát cho hết mọi người. Lời cuối cùng nhấn mạnh đến sự hiện diện sống động và hết sức hữu hiệu của Chúa Giêsu trong hoạt động truyền giáo. Chính Đấng Phục Sinh cùng “làm việc” với các tín hữu. Tin Mừng có sức cứu rỗi hết thảy những ai làm chứng cho Tin Mừng, và tiếp nhận Tin Mừng trong đức tin (xem gương Phaolô trong thư gởi giáo hữu Rôma 1,1-7).
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH-CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Cv 1,1-11) : Những lời dạy cuối cùng của Đức Giêsu trước khi thăng thiên.
– Đáp ca (Tv 46) : Chúa lên trời, tiếng hò reo dậy đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi cao.
– Tin Mừng (Mc 16,15-20) : Trước khi lên trời, Đức Giêsu sai các môn đệ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
– Bài đọc II (Êp 1,17-23) : Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa việc Đức Giêsu “lên trời” : “Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên”
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Việc Đức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Đức Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Đức Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
– Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
– Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Cv 1,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
Đáp ca (Tv 46)
Đây là một Tv ca tụng vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, Ngài xứng đáng đón nhận vương quyền. Và vương quyền này đã mở rộng khắp nơi nhờ công tác loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
Tin Mừng (Mc 16,15-20)
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ :
– Sai các ông đi loan Tin Mừng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
– Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông : “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại ; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Đức Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa : a/ Nghĩa bóng : Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ ; b/ Nghĩa đen : các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
Các môn đệ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan Tin Mừng, và những lời Chúa hứa đã thành sự thật : “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”
Bài đọc II (Êp 4,1-13)
“Thánh tông đồ gợi ý cho chúng ta một cách nhìn về sự kiện Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rực rỡ vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh từ nay sẽ mang những chiều kích vĩnh hằng và vũ trụ, vượt khỏi khuôn khổ không gian và thời gian, nghĩa là bây giờ và mãi mãi Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta” (CgvDt, số đặc biệt giáng sinh ’93)
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
-Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
-Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”
-Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.
-Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. 3 em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây ; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế :
-Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
-Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
-Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước ; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là : Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ : Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật ; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như : chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế : Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
* 2. “Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo”
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.
* 3. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói :
– Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi :
– Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời :
– Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói :
– Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất : Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
*
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật” (Mc.16,15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
– Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
– Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
– Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ : “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con” (Ga.17,24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
*
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
– Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời : “Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta”
– Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói : “Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng”.
– Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói : “Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con”.
– Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói : “Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo”.
– Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói : “Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi”.
– Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích : “Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con”.
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
“Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”, đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)
* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Đức Giêsu bảo “Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
– “Thọ tạo” nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
– Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
– Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, mầu nhiệm Đức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
- Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người Kitô hữu / biết luôn làm vinh danh Đức Giêsu Phục sinh / trong khi thì hành những trách nhiệm trần thế nơi gia đình và xã hội.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều người trên thế giới / đang mất dần ý thức về Thiên Chúa hoặc cố tình dửng dưng với Thiên Chúa / được nhận biết Thiên Chúa là Cha và là nguồn hạnh phúc của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quan chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quanh chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho cộng đồng xứ đạo chúng ta đã tin Đức Giêsu Phục sinh về trời / thì cũng luôn sống theo niềm tin đó / để cũng được sống lại và lên trời như Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
TRONG THÁNH LỄ
– Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng Thiên
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp rước Đức Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài trối lại cho chúng ta tiếp nối. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
GIẢI TÁN
Hôm nay Đức Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : “Anh em hãy đi đến với muôn dân…”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- Năm B
KHỞI ĐIỂM CHO MỘT KỶ NGUYÊN MỚI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
- DẪN NHẬP.
Hôm nay Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm vinh quang Chúa lên trời. Thực sự , Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Cha Ngài ngay khi sống lại mà ta không cảm nghiệm được. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài rời bỏ chúng ta, trái lại, Ngài còn hiện diện hơn lúc nào hết giữa chúng ta ngay từ hôm nay :”Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa về trời nhưng Ngài muốn Giáo hội – là cánh tay nối dài của Ngài – tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Ngài cho đến ngày tận thế. Nếu Chúa nói với các môn đệ ngay vào lúc từ giã họ :”Các con hãy là những chứng nhân của Thầy cho toàn thế giới”(Cv 1,8) thì ngày nay Giáo hội cũng phải là chứng nhân trung thành của Ngài trong việc rao giảng Tin mừng, đem Chúa đến cho mọi người mọi nơi.
Ngoài ra, Thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời là quê hương của chúng ta, nơi mà Đức Giêsu đã dọn sẵn và đang đón chờ chúng ta. Nhưng muốn về trời ta phải cố gắng sống đời chứng nhân cho tốt và chu toàn nhiệm vụ của mình theo thánh Chúa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 1.1-11.
Thánh Luca mởi đầu sách Công vụ Tông đồ bằng cách tường thuật lại cho ông Thêôphilê việc Đức Giêsu trước khi giã biệt các Tông đồ đã trao ban cho họ những huấn lệnh cuối cùng và trọng trách tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài cho thế giới. Ngài còn hứa sẽ hiện diện với các ông cho đến ngày tận thế.
Ngày Đức Giêsu về trời không phải là kết thúc công việc của Ngài, nhưng việc Ngài về trời là một khúc quặt trong lịch sử cứu độ. Ngày Chúa về trời là một trang sử mới bắt đầu : Lịch sử của hoạt động Đức Giêsu hiện diện trong thế giới và Giáo hội cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh , các Tông đồ họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận lời Ngài đã hứa : Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vì chưa nhận lãnh Chúa Thánh Thần nên các tông đồ chưa hiểu rõ những lời giảng dạy của Chúa, nhưng các ông sẽ hiểu rằng các ông được Chúa Kitô tuyển chọn để trở thành những chứng nhân của Ngài cho đến tận cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1, 17-23.
Thần khí khôn ngoan mà thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Êphsêsô phải soi lòng mở trí họ “hiểu biết” kế hoạch của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể tuyên xưng lời tối thượng của Đức Kitô mà không thán phục quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đấng chịu đóng đinh. Chính quyền năng ấy từ nay sẽ được thi thố nơi loài người để tạo nên một thân thể có Đức Kitô là Đầu và đạt đến sự viên mãn mà nhân loại hằng tìm kiếm. Tin vào ưu thế tuyệt đối của Đức Kitô, chính là ngay từ bây giờ góp phần vào sứ mạng của Hội thánh, là biết nhìn nhận một ý nghĩa và một nội dung cho niềm hy vọng. Trong viễn tượng này, mầu nhiệm Thăng Thiên làm cho ta hiểu rằng cùng với Đức Kitô, một kỷ nguyên mới đang được mở ra cho nhân loại.(Jean Frisque, Hướng dẫn gặp gỡ Lời Chúa mỗi ngày, tr 124)
+ Bài Tin mừng : Mc 16,15-20.
Trước khi về trời, Đức Giêsu còn hiện ra với Mười một Tông đồ để dạy dỗ các ông những điều sau cùng. Thánh Luca thuật lại những nét chính yếu về các huấn lệnh và chỉ thị của Đức Giêsu cho các ông. Theo đó, Đức Giêsu nhắc nhở cho các ông hai điều :
- a) Ngài sai các ông loan báo Tin mừng :”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
- b) Tin cậy giao phó cho các ông sứ mạng này, Đức Giêsu bảo đảm với các ông rằng Ngài sẽ mãi mãi trợ giúp họ, tăng cường lời giảng dạy của họ bằng những đặc sủng : làm phép lạ như trừ qủi, nói tiếng lạ, cầm rắn trong tay, chũa bệnh…
Các Tông đồ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan báo Tin mừng, và những lời hứa đã thành sự thật :”Có Chúa cùng hành động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”(Mc 16,20).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sứ mạng loan báo Tin mừng
CHÚA GIÊSU VỀ TRỜI
Sự kiện :
Sau khi sống lại, Đức Giêsu còn ở lại trần gian 40 ngày, hiện ra với các môn đệ, dạy dỗ các ông nhiều điều mà trước đó Ngài chưa có thời giờ dạy hết. Hôm nay thánh sử Marcô cho chúng ta biết “Sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”(Mc 16,19).
Bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay của thánh Marcô thuật lại việc trước khi chấm dứt sứ mạng ở trần gian để về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
Ý nghĩa việc lên trời.
Việc Đức Giêsu lên trời có hai ý nghĩa hay có hai cách hiểu :
– Khi sống lại Đức Giêsu đã được tôn vinh. Cuộc tôn vinh đó đã được diễn ra chính vào lúc Chúa sống lại, Chúa lên trời ngay, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Và sau đó, Chúa đã hiện ra với các Tông đồ nhiều lần để củng cố niềm tin của họ trong một thời gian mà sách Công vụ tông đồ xác định là 40 ngày.
– Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng cứ của những người tai nghe mắt thấy, như thánh Luca cho biết :”Vài tuần sau lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đã “được đưa lên trời” trước mặt các môn đệ”.
Mầu nhiệnm lên trời kêu gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liện hệ nhưng riêng biệt nhau : Một bên là Đức Kitô được vinh quang ngay lúc Ngài sống lại; một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:”Đức Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ơ ûlại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở dưới đất nhưng chúng ta đã ở bên Ngài”.
Trao phó sứ mạng loan báo Tin mừng.
Trước khi “lên trời” không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ, Đức Giêsu trao sứ mạng cho họ. Đức Giêsu, Đấng chỉ mới loan báo Tin mừng trong giới hạn là nước Israel, nay Ngài ủy thác cho các môn đệ nối tiếp sứ mạng loan báo của Ngài là loan báo Tin mừng khắp cùng trái đất. Vì thực hiện theo mệnh lệnh của Đức Giêsu nay đã ở trong vinh quang của Chúa Cha, các môn đệ sẽ có thể làm những gì mà xưa kia chính Đức Giêsu chưa làm được:”Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”(Ga 14,12). Việc hơn ấy là nay họ sẽ ra đi loan báo Tin mừng khắp thế giới.
Vì thế, việc rao giảng của các Tông đồ phải mang lại cùng hiệu quả giống như việc rao giảng của Đức Giêsu. Ngài ban cho các ông nhiều quyền năng làm phép lạ. Nhưng chúng ta không nên hiểu từng chữ về câu nói rằng “các tông đồ có thể cầm được rắn trong tay và uống thuốc độc mà vẫn không sao”. Theo tâm lý của người Trung đông, lối nói cường điệu được người ta chấp nhận như một cách thức nhấn mạnh đến một điểm – thông qua quyền năng của Đức Giêsu, các môn đệ sẽ chiến thắng được tất cả mọi sự dữ.
TA Ở LẠI DƯỚI ĐẤT
Chúa muốn ta tiếp tục công cuộc cứu rỗi.
Đức Giêsu muốn dùng Hội thánh cũng như chúng ta như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Hội thánh như một nối dài của Đức Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp cho người ta. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hành động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mệnh của Đức Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng . Nhưng sứ mệnh đó cần được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Đức Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Đức Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta chia sẻ công cuộc cứu rỗi ấy.
Đức Giêsu không bảo các môn đệ là hãy cứ ngồi chờ đó, mọi thọ tạo sẽ đến với các con ! Không . Ngài bảo:”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ. Loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các môn đệ một tư tưởng là : hãy loan báo tin mừng cho “mọi loài thọ tạo”.
– Thọ tạo nghĩa là được Thiên Chúa dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
– Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin mừng cho loài người là có thể. Còn loan báo Tin mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
– Rốt cuộc, loan báo Tin mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.(Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 271)
Phương cách loan báo Tin mừng.
- a) Loan báo trực tiếp hay gián tiếp.
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
- b) Loan báo bằng cách sống đời thường.
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn :”Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau :
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”.(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354)
Truyện : Đọc Thánh kinh hằng ngày.
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc..
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng :
– Sao ông không đọc Kinh thánh ? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời :
– À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh !!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì ?
Có một bài viết ngắn về điều này :“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
- c) Thành công hay thất bại.
Trong việc loan báo Tin mừng, thành công hay kết quả đều do ân sủng của Chúa như Chúa đã nói :”Không có Thầy các con không làm được gì”. Đúng là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhưng Chúa không từ chối thiện chí của con người, Chúa muốn con người cộng tác làm việc, còn Chúa sẽ ban ơn cho. Cho nên, nhiều khi chúng ta thất bại trong việc loan báo Tin mừng vì cách làm chứng của chúng ta còn nghèo nàn quá, không có sức hấp dẫn người ta; có khi thay vì chúng ta là chứng nhân lại trở thành người phản chứng, có khi chúng ta là Kitô hữu lại trở thành phản Kitô. Tốt nhất phải làm gương sáng, vì trăm nghe không bằng một thấy :
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
NHƯNG LÒNG HƯỚNG VỀ TRỜI.
Chúa về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi đã thi hành trọn vẹn sứ mạng đã được trao phó. Chúng ta còn ở lại dưới đất để tiếp nối chương trình cứu chuộc của Đức Kitô, và sau khi hoàn tất sứ mạng được trao phó chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài vì :”Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó”(Ga 12,26). Công việc ở trần gian của chúng ta là mắt nhìn trời, chân đạp đất.
Mắt nhìn trời.
Sách Tông đồ công vụ kể rằng sau khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ đưa mắt trông theo và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc nhở cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc chắn là vì cảnh thiên đàng hấp dẫn lắm !
Chắc hẳn như vậy ! Trời hay thiên đàng là quê hương của ta, nơi ta đang trông ngóng như lời thánh Phalô đã nói với tín hữu Philipphê :”Quê hương chúng ta ở trên trời, vàchúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Quê hương chúng ta ở trên trời, ở đó chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh Hạnh phúc Thiên đàng nói lại cho chúng ta điều họ thử nghiệm như sau :
– Các tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông dậy (Cv 1,9-10).
– Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi mãi trên ngọn núi đó (Mt 17,1tt).
– Thánh Phaolô khi được ngất trí đã thốt lên :”Người ấy đã được nhấc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
– Ở Lộ đức, năm 1858 Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette, vàø ở Fatima, năm 1917. Đức Mẹ lại hiện ra với ba em Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Các nhân chứng chỉ biết khen rằng Đức Mẹ đẹp lắm và luôn ao ước tới ngày được lên trời.
Đó là vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Các nhân chứng chỉ thấy một chút hào quang mà đã say sưa ngây ngất , chỉ muốn sớm chết đi để được vào thiên đàng. Nếu thực sự được hưởng thiên đàng trọn vẹn thì hạnh phút ngây ngất đến chừng nào.
Chân đạp dất.
Khi Đức Giêsu về trời, Ngài hứa sẽ đem chúng ta về với Ngài ở quê hương vĩnh cửu để hưởng phúc vô biên, nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn với hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ trần thế. Chúng ta còn phải xây dựng trần thế theo tinh thần Chúa Kitô.
Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tiến tới thiên đàng, thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này.
Để chuẩn bị về quê trời chúng ta hãy làm hai việc :
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý :
– Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên môi.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH-CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
NGƯỚC MẮT NHÌN TRỜI- Đức TGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.
Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.
Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.
Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?
3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- Năm B
CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời, những chữ lên trời bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của con người. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Con người đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Trời ở đây không phải là một khoảng không gian rõ rệt, nhưng là một tình trạng (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 659-667, 2794-2796) mà Chúa Giêsu đi vào trong đó để dẫn chúng ta theo.
Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ bình dân của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Ngày xưa khi Chúa Giêsu nhập thế thì gọi là ‘xuống trần’. Hôm nay Người trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là ‘lên trời’. “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4,10). Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi trên chốn bồng lai tiên cảnh đầy mây, nhưng đó là tình trạng Người đã lấy lại vinh quang. Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời nghĩa là sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ, Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần. Người chính là “vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người (x. Pl 2,10-11).
Chúa Giêsu lên trời, điều đó dạy cho chúng ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.Lên trời không phải là bay bổng lên không gian, nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa. Lên trời không phải là vắng mặt, là xa cách nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa Giêsu lên trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người và như thế đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô. Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời, đưa mọi người về trời với Người vì chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Thánh Phaolô trong bài đọc II (x.Ep 1,17-23) đã nói, Giáo hội là Hiền thê của Chúa Giêsu, Người là đầu và chúng ta là những chi thể. Khi Chúa Giêsu về trời là mỗi người cũng được chia sẻ thần tính của Người, đi vào một tình trạng kết hợp hoàn toàn mới mẻ với Người. Điều này không phải chỉ xảy ra sau khi ta chết, nhưng có thể thực hiện ngay trong đời sống trần thế như đời sống của nhiều tín hữu đã chứng minh: thánh Phaolô được đưa lên tầng trời thứ ba (x. 2Cr 12,2). Nhiều vị thánh như Phanxicô Assidi, Gioan Thánh Giá, Catarina de Sienna… cảm nghiệm trời trong những lần xuất thần; còn thánh Têrêsa Calcutta lại thấy trời giữa lòng xã hội với những con người khốn khổ, bệnh tật.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Chúa Giêsu lên trời, mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ.Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu lên trời, hướng chúng ta đến cái nhìn lên trời cao và cái nhìn về trần thế.
– Hướng lên trời cao để biết rằng quê hương vĩnh cửu của ta ở trên trời, nơi đó có Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha, để ta biết “ái mộ những sự trên trời” và biết sống niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ được trở về với nguồn cội của mình là thiên đàng vĩnh phúc.
– Hướng về trần thế để biết chu toàn bổn phận xây dựng cuộc sống trong giây phút và hoàn cảnh hiện tại của mỗi người, để biết thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao phó với một thái độ tin tưởng là có Chúa luôn đồng hành.
Nếu bám vào một thứ vật chất nào đó, như những người nghiện ma túy, rượu bia, phim đồi trụy hay tìm thỏa mãn dục vọng, người ta có thể cảm thấy sung sướng như được lên trời trong giây lát. Nhưng đó không phải là trời thật sự vì chúng làm cho người ta bất an, lệ thuộc, tàn tạ, chết chóc. Còn khi vượt lên trên những vật chất, tham vọng, dục vọng, để gắn bó mật thiết với Chúa, chúng ta sẽ được Người chuyển thông sự sống kỳ diệu, hạnh phúc vô biên, niềm vui vô tận, quyền năng lạ lùng. Lúc đó chúng ta cảm thấy mình lên trời với tâm trí nhẹ nhàng, thanh thoát.
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Chủ đề của Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông xã hội năm 2018 là “Tin giả và một nền báo chí vì hòa bình: Sự thật sẽ giải thoát anh em!”. Tin giả là những thông tin sai lạc dựa trên những dữ liệu không tồn tại hoặc bị bóp méo để lừa dối và thao túng độc giả. Tin giả thường dẫn đến việc làm mất uy tín của người khác, trình bày những người ấy như kẻ thù, thậm chí như ma quỷ, và nung nấu lòng căm thù họ. Tin giả là một dấu chỉ của thái độ thiếu khoan dung, quá nhạy cảm, kiêu căng và thù hận.
Chứng kiến tình hình tin giả đang lan rộng trong một thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự thay đổi nhanh chóng các kỹ thuật truyền thông, ĐGH Phanxicô muốn đưa ra một sứ điệp để cộng tác với mọi người trong nỗ lực ngăn chặn sự lan rộng của tin giả, đồng thời tái khám phá phẩm giá của báo chí cũng như trách nhiệm của các nhà báo trong việc truyền đạt sự thật.
Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối là luôn biết thanh lọc mình trong sự thật. Theo Kitô giáo, sự thật không chỉ là điều được đưa ra ánh sáng sau khi bị che giấu, mà là nơi chúng ta có thể dựa vào để cuộc đời của ta không bị sụp đổ. Và nơi đó chính là Đức Kitô, như lời Ngài xác định: “Ta là sự thật” (Ga 14, 6). Và sự thật này sẽ cho ta được tự do: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối chính là kết hiệp với Đức Kitô và thực hiện Lời Ngài.
Các nhà báo có trách nhiệm và sứ mạng rất lớn trong việc bảo vệ tin tức. Sứ mạng này đòi hỏi họ phải luôn ý thức rằng: Thông tin cho người khác chính là đào tạo người khác, vì thế các nhà báo phải luôn quảng bá sự thiện, tạo ra lòng tin, mở đường cho sự hiệp thông và hoà bình.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại.
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
ĐỂ CÓ CHÚA CÙNG HOẠT ĐỘNG– Lm. Phêrô Vũ Văn Quí
“Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16, 19-20).
Hai câu cuối cùng trên trong Tin Mừng Marcô mang lối văn nặng hình tượng nhưng, với tôi, là lời mời gọi vô cùng tha thiết trong thế giới kỹ thuật số hiện nay.
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Lời Chúa, như Phaolô quả quyết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu, tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1, 1), phải là người rao giảng thật xứng danh với địa vị cao cả, vì Chúa Giêsu đã kêu gọi trong chân lý trọn vẹn: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29), hay như thánh Phaolô đã nêu gương: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kiô” (1Cr 11, 1).
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Đức Kitô không thể là những kỳ lục và biệt phái, những kẻ bị Chúa quở trách khi căn dặn dân chúng: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 2-4).
Những người rao giảng Lời Chúa như vừa nêu trên cao rao một lý tưởng sống cao đẹp nhưng bản thân lại sống mâu thuẫn. Họ hô hào những người khác dấn thân vào con đường hẹp. Còn chính họ thì lại vi vút giữa đại lộ thênh thang. Chính vì thế mà những người được nghe giảng khi họ gặp những con người kiên trung với nội dung rao giảng, chấp nhận đau khổ thua thiệt, không bị của cải thế gian vùi dập, vượt lên khỏi những sự dữ tác hại và dám chết vì điều mình loan báo (Mc 16, 17-18), thì đây quả là một ấn tượng rất lớn đối với họ. Một chân lý hiển nhiên là, từ kinh nghiệm bản thân, ai cũng biết rằng người ta chỉ sẵn lòng chịu cực khổ vì những điều họ thực sự thâm tín mà thôi. Do đó, Lời đã được sống có một sức mạnh thu hút vô địch, không gì thay thế được. Lời đó đầy lôi cuốn, đầy thuyết phục bởi đó là Lời đã từng cảm nghiệm, và đã vì đó mà chịu thương chịu khó trong cõi đời và trong nếp sống cầu nguyện của người rao giảng. Lời đó từ môi miệng phát ra mang theo một nhiệt tâm và một sức mạnh hết sức đặc biệt. Trong Lời đó có mảng linh hồn của chính người giảng, và có thể bắt gọn linh hồn người nghe. Sự tương giao giữa người giảng và người nghe xẩy ra không phải trên ý niệm suông, nhưng trên thực tế. Đây cũng chính là điều mà tác giả trong phần cuối của Tin Mừng Marcô đã khẳng định: “có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.”
Chính thánh Phaolô tông đồ đã khích lệ: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4, 5). Vậy ở đâu chưa có sự nhất quán với Lời Chúa, tức chưa cùng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô thì trước tiên cần có đức khiêm nhường. Đây là thái độ tối cần thiết cho những tôi tớ của Lời Chúa. Người rao giảng phải tự xóa nhòa bản thân trước sự hiện diện của Lời Chúa, phải khước từ vinh quang của riêng mình, như thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và đã chia sẻ với các môn sinh của mình: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Không chỉ hạ mình khiêm nhường, thánh Phaolô, Vị Tông Đồ rao giảng vĩ đại đã sống chết với Tin Mừng khi ngài viết cho môn đệ Timôthê yêu dấu: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xich!” (2Tm 2, 9). Với lòng mến thâm sâu, ngài đã đặt trọng tâm tất cả vào việc loan báo Tin Mừng, cho dù có phải bị gông cùm, ngài vẫn sẵn lòng đón nhận. Với lòng mến đầy tin yêu và để “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” như Đấng mà ngài say mê rao giảng, thánh Tông Đồ đã thể hiện được ý nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã truyền đạt trước khi trở về nơi Người đã đến là “dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.”
Mới đây, kết thúc buổi triều yết chung tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng ngày 20/5/2009, ĐTC Biển Đức XVI đã vắn tắt mở lời kêu gọi về Ngày Truyền thông Thế giới sẽ được cử hành vào ngày Chủ nhật 24 tháng 5 sắp tới. Ngài mời gọi:
“Đặc biệt với giới trẻ, cha kêu gọi các con hãy làm nhân chứng cho đức tin của chúng con qua thế giới kỹ thuật số. Hãy dùng những kỹ thuật mới đó để truyền bá Thánh Kinh, hầu cho Tin Mừng về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa vang dội bằng những phương thức mới khắp trong thế giới của chúng ta, một thế giới không ngừng tăng tiến về kỹ thuật.” (trích Vietcatholic.net)
Làm nhân chứng cho đức tin mà ĐTC vừa nhắc nhở trên đã giúp tôi khâm phục biết bao một nhân chứng trên xe lăn mà tôi mới nhận được từ một nhóm trên mạng gửi tới. Bài viết có nội dung như sau và trích từ R. Veritas:
“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo trên một tờ báo địa phương như sau: “Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào, xin hãy gọi điện thoại cho tôi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất thích nói chuyện với bạn”.
Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người khác?
Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rất tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu nói với bà: “Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn con kháng kiện”.
Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.
Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”
Và lời cuối cùng của bài viết cũng là lời nhắc nhở rất cụ thể về việc loan báo Tin Mừng bình an dành cho những ai muốn “có Chúa cùng hoạt động” trong thế giới kỹ thuật số hiện đại như ngày nay:
“Mỗi người tin Chúa phải làm một việc nào đó để giúp đồng bào, đồng loại của mình. Mạnh khỏe hay tật nguyền, trẻ tuổi hay già nua, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện, viết thư hay làm bất cứ điều gì theo khả năng, nếu chúng ta thực sự muốn đem Chúa vào tâm hồn những người chung quanh mình”.
Lạy Chúa,
Xin giúp con sức mạnh để con cũng kiên cường biết sống cho tha nhân như bà Mensi dù cho bà ngồi trên xe lăn như con vậy. Amen.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
CHÚA ĐI DỌN CHỖ CHO CHÚNG TA- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su lên trời vinh hiển. Sự kiện Chúa lên trời chứng tỏ cho chúng ta biết trần gian chỉ là quán trọ còn quê thật của chúng ta ở trên thiên quốc.
Chúa Giê-su lên trời để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3).
Chết là bước vào đời sống mới
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Tuy nhiên, theo giáo huấn của Hội thánh Công giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người ở trọ trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước vào một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử” (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn lấy cả cuộc đời của Ngài để minh chứng có cuộc sống đời sau.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Sở dĩ Chúa Giê-su nộp mình chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá cách đau thương tủi nhục là để đền tội và chết thay cho muôn dân, nhờ đó nhiều người được hưởng hạnh phúc mai sau trên thiên đàng.
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng, hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Chính vì để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại nộp mình chịu chết để cứu muôn người được sống. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa lên trời là để dọn chỗ cho chúng con, để bày tỏ cho chúng con biết đời này chỉ là quán trọ và đời sau mới là chốn định cư muôn thuở muôn đời.
Xin cho chúng con luôn bước theo đường lối Chúa, tức là sống theo lệnh Chúa truyền, nhất là tuân giữ cho trọn luật yêu thương, để mai đây được đoàn tụ vĩnh viễn với Chúa trên thiên quốc.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG- Lm. Đặng Quang Tiến
Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể đây là phần được thêm sau nầy, trong đó tóm tắt những điều mà trong các Tin mừng khác nói đến Đấng Sống Lại. Phần thứ nhất (16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18). Phần thứ hai (16,12-13) kể tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus (x. Lc 24,13-35). Phần thứ ba (16,14-18) kể lại chuyện Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43). Phần cuối cùng (16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Tđcv 1,9-11).
Đoạn nầy không chắc chắn do Marcô viết ra; tuy nhiên nó được viết theo một truyền thống cổ xưa và được công nhận thuộc về Kinh thánh. Có thể phân chia đoạn 16,15-20 làm ba phần: 1- Mệnh lệnh rao giảng Tin mừng và những hành động quyền năng kèm theo (16,15-18); 2- Chúa Giêsu lên trời (16,19); Các tông đồ đi rao giảng và Chúa cùng hoạt động với họ (16,20).
Lần đầu tiên việc rao giảng Tin mừng được giao phó cách rõ ràng và như một mệnh lệnh cho các tông đồ để chu toàn. Ngay từ đầu, Marcô đã ghi nhận nhiều lần là Chúa Giêsu không mệt mỏi đi rao giảng khắp miền Galilê và những vùng lân cận của nó (1,14-15.39.45; 5,20). Khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Marcô ghi nhận là Người kêu họ đến với Người để có thể sai họ đi rao giảng (3,14); tuy nhiên, ông đã không nói là khi nào. Trong diễn từ nói đến những thử thách và bách hại các môn đệ sẽ chịu, Người tiên báo là qua đó Tin mừng sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc (x. 13,10). Như thế, “Anh em hãy rao giảng Tin mừng” là mệnh lệnh trực tiếp và đầu tiên các tông đồ lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu sống lại, và họ sẽ bắt đầu thực hiện nó cách công khai sau khi Người đã lên trời (16,15.20). Đây là thời điểm thích hợp nhất để làm việc đó, vì sứ vụ của Người trên trần gian chấm dứt khi Người lên trời; họ phải tiếp tục sứ vụ ấy của Người. “Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) đã được loan báo trọn vẹn và đã thấm nhập họ không chỉ lời nói mà cả bản thân của Người. Rao giảng Tin mừng lần nầy sẽ được mở rộng cách phổ quát cho mọi người (16,15).
Những hành động quyền năng được hứa như xua trừ ma quỷ, nói được những ngôn ngữ mới, tiêu trừ những độc hại và chữa lành những bệnh tật là biểu trưng cho sự chiến thắng trên sự chết và tội lỗi (16,17-18). Người ban những quyền năng ấy cho tất cả những ai tin vào Người; tuy nhiên, không chỉ chừng ấy thôi, mà cả ơn cứu độ dứt khoát trong sự sống vĩnh cửu nữa.
Như việc sống lại do bởi Chúa Cha thực hiện (16,6), việc Chúa Giêsu được đưa lên trời cũng bởi Người. Được đưa lên trời là trở lại nơi Người đã từ đó mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Cha của Người, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Thành ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành lớn chỉ sau Thiên Chúa (14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1). Sau cùng, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (16,20). Họ đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Thay vào lời hứa Chúa Giêsu sẽ ở cùng họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Marcô ghi nhận là Chúa cùng hoạt động và trợ giúp lời họ rao giảng bằng những dấu hiệu quyền năng (16,20).
Đang ở trong vinh quang và quyền năng với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn luôn hoạt động liên lỉ với Giáo Hội để hoàn thành việc rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa cho muôn dân.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu phục sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người.
Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời
Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9).
Bốn mươi ngày, là thời gian các tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ cũng vẫn còn u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe đi nghe lại nhiều lần.
Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời.
Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế
Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Yoan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Đức Giêsu.
Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.
Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa
Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có nhiều điều bị người ta nói “không lô gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay trái, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một số tác giả diễn tả Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không có nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64). Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức Giêsu ở xa con người, rời bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn?
- Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như thế nào?
- Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái?
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU HOÀN THÀNH SỨ MẠNG VÀ VỀ TRỜI- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người khi đối diện với khó khăn vượt quá sức mình thường tìm đến thần linh. Thần linh như một cứu cánh để giúp con người vượt qua phong ba. Thế nên theo dòng lịch sử rất nhiều những câu chuyện huyền thoại được dựng nên kể về những vị thần dạy người ta trồng trọt, chống lại thiên nhiên, chống lại sự dữ, và sau khi hoàn thành sứ mệnh họ bay về trời.
Ở Việt Nam không ai mà không biết đến câu chuyện về Thánh Gióng. Truyện Thánh Gióng được kể rằng: “Cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Được lời, sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân…”.
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch sử. Một sự kiện xảy ra cách đây hơn 2000 năm đã được biết bao thế hệ tiếp nối nhau làm chứng và loan truyền. Giáo Hội luôn loan tin rằng Chúa Giê-su sau khi hoàn tất việc cứu độ trần gian, Ngài đã được đưa lên trời trước sự chứng giám của các môn đệ. Ngài vinh thăng về trời như một cuộc khải hoàn sau cuộc chiến thắng diệu kỳ là đánh bại sự chết, để từ nay con người không còn chết nữa mà cái chết sẽ mở ra một sự phục sinh trong vinh quang với Đức Giê-su.
Sứ điệp Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một Quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về Trời thì con người con người phải biết hoàn thành sứ mạng trần gian là làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói luôn nói về Chúa và về tin mừng cho anh em. Làm chứng bằng việc dựng xây thiên đường hạ giới ngập tràn tình yêu. Làm chứng bằng đời sống chọn Chúa , chọn giá trị Nước Trời hơn là những vinh hoa phú quý trần. Dẫu chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao đồng tiền đến nỗi bán rẻ nhân phẩm của mình, thì người tín hữu phải sống sao cho nhân loại thấy còn một nhu cầu cao quý hơn vật chất chính là tìm kiếm Nước Trời.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14,26; 16,12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2,4).
Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Têrêxa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Têrêxa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- Năm B
CHÚA LÊN TRỜI, XIN HƯỚNG LÒNG CHÚNG CON VỀ TRỜI – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở : “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.
“Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha”. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu ” đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật ” (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép rửa cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô “cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : “Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa ” (Mc 16, 19).
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- Năm B
CHÚA LÊN TRỜI, TA VÀO ĐỜI- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành cho nhân loại. Mục đích của kế hoạch ấy chính là quy tụ muôn người về một mối trong Nước Trời. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã loan báo về Nước Trời và triều đại của Thiên Chúa; chiêu mộ và huấn luyện các môn đệ; thiết lập Giáo Hội… ; và cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Khi đã kết thúc cuộc sống tại thế, Ngài được Thiên Chúa Cha ân thưởng vinh quang trên Nước Trời.
Nhưng, trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuyển trao cùng một sứ vụ ấy cho các môn đệ, để các ông tiếp tục loan báo về Nước Thiên Chúa cho mọi người.
Chuyển giao sứ vụ cho các môn đệ
Giờ đã điểm, Đức Giêsu đã hẹn: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông” (Mt 28,16).
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu, chẳng ai bảo ai: “Các ông phục lạy Ngài” (Mt 28,17).
Khi phục lạy như thế, các môn đệ muốn bày tỏ sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu. Vì khi phục lạy ai thì nơi người ấy phải tôn nhận uy quyền với người mình phục lạy.
Hành vi này chúng ta cũng đã thấy nơi ba nhà Đạo Sĩ khi gặp được hài Nhi Giêsu, các ông đã phục lạy và tôn nhận vương quyền của Ngài (x. Mt 2,11). Hay như những người bị bệnh mà được Đức Giêsu chữa lành, trong số đó phải kể đến người phong hủi được lành sạch (x. Mt 8,2). Hôm nay, đứng trước sự huy hoàng của vinh quang phục sinh nơi Đức Giêsu, và hơn thế nữa, các ông nhận thấy mọi quyền năng, vinh quang và danh dự được trao ban cho Đấng Phục Sinh, vì vậy, các ông đã phục lạy Ngài.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã tiến lại gần họ và phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,18). Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu chính thức chuyển trao sứ vụ của Ngài cho các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trong tương lai.
Vì thế, sau khi nhận lãnh, các ông có trách nhiệm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Như một lời trấn an trước nghĩa vụ quan trọng mà các ông vừa nhận được, ĐỨc Giêsu đã nói:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).
Tuy nhiên, dù về trời, nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện cách vô hình, và sứ vụ của các môn đệ luôn luôn có sự đồng hành của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều này đã xác tín mạnh mẽ về sự hiện diện của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Đây là niềm vui mừng và động lực mạnh mẽ để các ông ra đi thi hành sứ vụ.
Sau những giây phút chứng kiến cảnh huy hoàng cũng như lãnh nhận sứ vụ, các ông hân hoan trở về để cùng nhau xây dựng và phát triển Giáo Hội. Nhất là loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, kêu gọi mọi người sám hối và lãnh nhận phép rửa để được cứu độ.
Chúa lên trời – ta vào đời
Cùng một sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó cho các môn đệ, hôm nay, Ngài cũng trao phó cho mỗi người chúng ta.
Lời thiên thần nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta.
Chúa lên trời là niềm hy vọng cho chúng ta, vì Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thánh Phaolô cũng đã xác tín khi nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Tuy nhiên, chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng ấy cho riêng mình. Chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở việc tin vào lời Đức Giêsu đã truyền dạy, nhưng chúng ta cũng phải loan báo cho nhân loại về niềm hy vọng và niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Để qua đó: chúng ta hãy đi “và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Cv 1,11).
Nhưng, điều quan trọng, đó là chúng ta loan báo Tin Mừng bằng cách nào?
Lời Đức Giêsu hôm nay đã vạch ra cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta kế hoạch truyền giáo để cho có hiệu quả như:
Trước tiên là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân”. Lời rao giảng rất cần thiết, vì như thánh Phaolô đã nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Tuy nhiên, nếu chỉ rao giảng không thôi thì chưa đủ, mà lời rao giảng quan trọng và hùng hồn nhất là bằng đời sống của người loan báo. Chính lời nói và hành động ăn khớp với nhau làm nên sự thống nhất nơi người môn đệ, và như thế, lời loan báo mới khả tín, đáng tin và đem lại niềm hy vọng cho người nghe.
Thứ đến là: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu cho thấy: Ba Ngôi chính là nội dung và cùng đích của lời rao giảng. Mọi hành vi khi thi hành sứ vụ loan báo Lời Chúa phải quy hướng về Ba Ngôi như là nguồn cội. Tách ra khỏi điểm tựa này, chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái vô định mất phương hướng.
Tiếp theo là: “Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Người môn đệ chỉ là người được sai đi để quy tụ muôn dân về với Đấng đã sai mình. Vì thế, không phải nhân danh cá nhân của mình để phô trương tài cán công lao của bản thân, mà ngược lại, phải trung thành loan báo chính lời của Thầy Giêsu. Chỉ khi nào chúng ta loan báo Lời Chúa cách trung thực, thì bản thân người loan báo mới cảm nhận được hạnh phúc và người nghe mới thấy được niềm hy vọng.
Mặt khác: nội dung của lời rao giảng chính là: “Loan báo về một Vị Thiên Chúa nhân từ, giàu long thương xót với hết mọi người. Ngài đến để yêu họ và yêu đến cùng, nên đã chết thay cho nhân loại để nhân loại được sống và sống dồi dào”. Vì thế, trước, trong và sau khi loan báo, chúng ta hãy: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chúng ta như chính mình”. Làm được điều đó, lời rao giảng của chúng ta mới thành công, nếu không, mọi lời rao giảng chỉ như chiếc phèng la điếc tai thiên hạ mà không có kết quả.
Cuối cùng, trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là mọi thăng trầm của công cuộc loan báo Tin Mừng, chúng ta an vui và vững bước vì có Đức Giêsu luôn ở cùng để bảo vệ, nâng đỡ như lời Ngài đã phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội chọn làm ngày quốc tế truyền thông. Khi chọn như vậy, Giáo Hội đề cao vai trò của truyền thông trong việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy biết tận dụng và chắt lọc khi sử dụng những phương tiện truyền thong như: ti vi, báo đài, điện thoại, Internet và các mạng xã hội toàn cầu để loan báo Lời Hằng Sống cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn hướng lòng lên trời, để ái mộ những sự trên trời. Ngõ hầu mai ngày chúng con cũng sẽ được hưởng trọn vẹn niềm vui Nước Trời. Amen.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
ĐƯỜNG LÊN TRỜI- Trích Logos B
Han Christian Andersen (1805-1875) là nhà văn lớn và là người viết truyện cổ tích nổi tiếng của xứ sở Đan Mạch. Một trong những truyện được ưa thích nhất của ông là truyện “Cô Bé Bán Diêm”. Truyện kể về một bé gái nghèo đói đi bán diêm trong đêm giao thừa lạnh lẽo đầy băng tuyết.
Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé không bán được bao diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô bé đành nép vào một góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá, cô bé đành phải đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé nhìn thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn thấy một bàn ăn thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây noel rực rỡ. Cứ thế, cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những ảo ảnh xuất hiện. Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu đã mất của cô hiện ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi tới nơi không còn giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà cô đã đánh lên để sưởi ấm mình.
Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là cảnh hai bà cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ, đó cũng là ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý cao cả hơn : lên trời không phải là một cuộc chạy trốn, cũng không phải là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi đầu ngay từ trần thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Thăng Thiên, lối mở về thiên quốc
Hằng năm, khi đến lễ Thăng Thiên, chúng ta được chiêm ngưỡng một mầu nhiệm vừa cao cả lại vừa gần gũi với con người : đó là mầu nhiệm Chúa Giêsu “lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”, như lời thánh Marcô vừa kể lại trong Tin Mừng. Cao cả, vì Thăng Thiên là một mầu nhiệm vượt trên trí hiểu của con người, một vấn đề thuộc lãnh vực của niềm tin. Nhưng đây cũng là một biến cố hết sức gần gũi với chúng ta. Trước khi về trời, Chúa đã ân cần trao cho các môn đệ sứ mạng loan báo Tin Mừng và hứa luôn hoạt động cùng các ông mọi nơi mọi lúc.
Trước hết, từ ngữ “Chúa lên trời” chỉ là một cách diễn tả của con người, ám chỉ việc Chúa Giêsu đi vào vinh quang với Chúa Cha, được đặt bên hữu Chúa Cha. Vì thế, “Chúa lên trời” không hiểu theo nghĩa đen là Chúa được đưa lên cao xuyên qua các tầng trời để hiển trị trên Thiên Quốc. “Chúa lên trời” là từ ngữ của Thánh Kinh nhằm diễn tả Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến, và nay trở về với Cha : “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3, 13).
Có một điều đáng lưu ý : Chúa lên trời không phải là một cuộc chia ly giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. “Chúa lên trời” không có nghĩa là Ngài cắt đứt mối tương quan với người thế. Ngài rời khỏi dương gian là để đưa con người vào một mối thâm giao sâu xa hơn.
Là người thế, chúng ta không còn nhìn thấy Ngài, tiếp xúc với Ngài bằng giác quan tự nhiên, nhưng chúng ta vẫn gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Ngài rời khỏi chúng ta về phương diện thể xác, nhưng vẫn hiện diện qua Thánh Thần, qua lời hằng sống, qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Ngài vẫn ở mãi với chúng ta như lời Ngài hứa : “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Như thế, “Chúa lên trời” là để mở ra cho ta một con đường hướng về Thiên Quốc. Chúa muốn dạy chúng ta : đang khi xây dựng trần thế, chúng ta vẫn phải hướng về quê hương đích thật là quê hương trên trời.
Thăng Thiên, con đường khởi đi từ trần thế
“Chúa lên trời” không phải là để mở ra cho con người một cuộc chạy trốn khỏi gian trần với biết bao đa đoan và khổ đau. Được lên trời cũng không phải là “một liều thuốc ru ngủ” của Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và mọi người đi theo Chúa. Nhưng mầu nhiệm Thăng Thiên chính là con đường được khởi đầu ngay từ trần thế này để dẫn về Thiên Quốc. Trong khi con người được mời gọi hướng về trời cao, họ cũng được mời gọi để “vào đời” và lao vào “cuộc hiện sinh” cam go tại trần gian này.
Câu chuyện Chúa lên trời được sách Tông Đồ Công Vụ kể lại trong bài đọc I hôm nay đã chứng minh điều đó : khi Chúa Giêsu được cất lên trời giữa đám mây, các môn đệ đã ngẩn ngơ nhìn theo. Lúc ấy, có hai thiên thần áo trắng hiện ra nhắc nhở các môn đệ : “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời ?” Các thiên thần có ý nhắc nhở các môn đệ : đừng mải mê nhìn lên trời, nhưng hãy trở về với thực tại trần gian để thi hành lệnh truyền của Chúa : làm chứng nhân cho Chúa tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất.
“Chúa lên trời” cũng không phải là một dấu chấm hết cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu tại trần thế. Nhưng thăng thiên chính là cánh cửa mở rộng để các môn đệ được sai đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Chúa từ giã các môn đệ để về trời không phải là kết thúc những hoạt động của Chúa. Nhưng khi Chúa về trời, các môn đệ đã được mời gọi mang lấy trái tim của Chúa để yêu thương nhiều hơn, mang lấy đôi tay của Chúa để phục vụ quảng đại hơn, mang lấy đôi chân của Chúa để đi xa hơn trên bước đường gieo vãi Tin Mừng yêu thương.
“Chúa lên trời” để từ đây, với ngọn gió Thánh Thần, các môn đệ được thúc đẩy bước ra khỏi ranh giới Israel hạn hẹp để “đi khắp thế gian” rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Cho dù các môn đệ đi đến đâu, ở nơi đâu, Chúa đều đồng hành và hoạt động với các ông.
Như thế, “Chúa lên trời” không phải là một biến cố “giải thể” các tông đồ, nhưng đó chính là khởi điểm cho một cuộc lên đường đầy nhiệt tâm và dũng cảm : lên đường xông pha vào thử thách gian nan, lên đường để mang tình yêu đến cho mọi người.
Như vậy, con đường lên trời của mỗi người tín hữu cũng phải được bắt đầu từ trần thế này. Để lên trời, chúng ta không thể chạy trốn trần thế, nhưng phải “nhập thế” để gánh vác lấy trách nhiệm của một chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian này.
Con đường lên trời của chúng ta khởi đi từ những hy sinh và phục vụ, từ những vất vả và cần lao. Chúa vẫn ở cùng ta, hoạt động cùng ta để giúp ta đạt đến đích điểm chúng ta mong chờ.
Năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ hiện ra với ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đã đơn sơ hỏi Đức Mẹ : “Thưa Bà, Bà ở đâu đến ? Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói : “Từ trời xuống”. Ba em liền xin với Đức Mẹ : “Xin Bà cho chúng con cũng được lên trời”. Đức Mẹ mỉm cười đáp : “Phanxicô và Giaxinta sẽ được về trời trong một ngày gần đây. Còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một thời gian nữa”.
Quả thật, sau đó, Phanxicô và Giaxinta đã được về trời sớm. Còn Luxia trở thành một nữ tu trong tu viện kín. Bà sống rất thọ và chỉ qua đời cách đây ít năm. “Luxia” có nghĩa là “ánh sáng”. Vì thế, Luxia đã được mời gọi để trở nên ánh sáng chứng nhân cho Chúa ở trần gian.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để lên đường loan báo Tin Mừng cho anh chị em mình bằng cách chiếu ánh sáng niềm tin và tình yêu cho người thế. Đó chính là con đường ngắn nhất dẫn đưa chúng ta về trời.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa Thăng Thiên. Đây cũng là ngày Giáo Hội dành làm “Ngày truyền thông thế giới”. Khi chọn ngày lễ này làm ngày truyền thông, Giáo Hội muốn nhắc nhở từng người chúng ta ý thức hơn đến việc loan truyền cho mọi người Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng vĩ đại nhất qua mọi thời đại và có khả năng biến đổi cuộc sống của những ai tin nhận.
Không chỉ hôm nay, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong suốt những tuần lễ vừa qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, phụng vụ lời Chúa cũng đã luôn mời gọi chúng ta phải lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, Maria Mađalêna đã là người đầu tiên loan báo cho hai môn đệ Phêrô và Gioan về sự kiện ngôi mộ trống, dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Rồi tám ngày sau, vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong lần hiện ra với các tông đồ có cả Tôma, chính Đấng Phục Sinh đã truyền cho các tông đồ “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Kế đến, trong Chúa Nhật III, Tin Mừng Luca còn thuật lại cho chúng ta việc Đấng Phục Sinh hiện đến với các tông đồ khi đó đang tụ họp cùng với hai môn đệ vừa từ làng Emmaus trở về. Và cả lần này, Đấng Phục Sinh cũng giao cho các ông sứ mạng “nhân danh Người rao giảng sự thống hối… bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Ngài còn nhấn mạnh: “Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48). Còn trong Chúa Nhật IV, chúng ta đọc được tâm sự của Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn” (Ga 10,16a).
Được gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Đấng Phục Sinh như cành nho liên kết với thân nho, từng người chúng ta cũng được mời gọi sinh hoa trái bằng đời sống bác ái yêu thương. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người tin nhận Đấng Phục Sinh. Đó chính là giáo huấn của lời Chúa trong Chúa Nhật V Phục Sinh. Còn trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Kitô xác định rõ với từng người chúng ta: “Chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái” (Ga 15,16). Và hôm nay, trước khi chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình của mình với các môn đệ, một lần nữa, Đấng Phục Sinh đã giao cho các tông đồ sứ mạng: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Như vậy, loan báo Tin Mừng Phục Sinh không còn là một điều mà chúng ta muốn làm hay không tuỳ thích, nhưng là một sứ mạng, một bổn phận bắt buộc cho tất cả những ai muốn xưng mình là Kitô hữu. Ý thức điều đó, Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo, số 2 đã nói: “Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo”. Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người về Tin Mừng Phục Sinh, vì từ đây, Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa. Chúa lên trời, không phải là Ngài không còn hiện diện với con người nữa, nhưng là hiện diện với một cách thức mới, hiệu quả hơn, như lời Ngài đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Lịch sử Giáo Hội đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mở ra cho muôn dân. Đó cũng là một trong những lý do khiến Giáo Hội chọn ngày lễ hôm nay làm ngày “Truyền thông thế giới”. Từ đây, Giáo Hội có nhiệm vụ truyền thông cho thế giới về Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng của Tình yêu và Sự sống, Tin Mừng của niềm Hy vọng.
Sách Công vụ Tông đồ thuật lại, sau khi Đức Giêsu Phục Sinh về trời, đang lúc các môn đệ vẫn còn ngước mắt lên trời, thì thiên sứ đã nhắc các ông: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn trời…”. Các tông đồ không được phép đứng đó mãi nhìn trời. Các ông phải trở về với cuộc sống hiện tại để làm chứng cho Đấng Phục Sinh.
Cũng thế, là một kitô hữu, chúng ta không chỉ đọc kinh, tham dự các nghi lễ phụng vụ ở nhà thờ, chúng ta phải trở về nhà, đối diện với mọi vất vả trong cuộc sống thường ngày như những người khác. Các bậc phụ huynh vẫn phải vất vả làm lụng, ngược xuôi buôn bán, các em nhỏ cũng phải bận rộn với việc học hành các kiến thức văn hoá, xã hội… tắt một lời, trước mắt mọi người, mỗi người chúng ta vẫn phải sinh hoạt, lo toan mọi điều trong cuộc sống như bất cứ một người nào. Tuy nhiên, ngay giữa cuộc sống đó, chúng ta vẫn có thể thông truyền Tin Mừng Phục Sinh, loan báo cho mọi người biết rằng sau cuộc sống hiện tại này, còn có một quê hương vĩnh cửu trên trời, nếu chúng ta giữ mình không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình.
Thủ lĩnh của một bộ tộc đau nặng, đang hấp hối trên giường bệnh. Ông cho gọi ba người con có thể kế vị ông đến và nói:
– Một trong ba chúng con sẽ kế vị ta. Vậy các con hãy leo lên đỉnh núi thiêng của chúng ta và mang về cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn.
Người thứ hai đem về một viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi:
Món quà quý của con đâu?
Anh ta điềm tĩnh trả lời:
– Khi leo lên tới đỉnh núi, con nhìn thấy phía bên kia núi một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, suối nước dồi dào, cây cối xanh tươi, dân chúng có thể sống sung túc hơn ở bên này.
Vị tù trưởng nói:
– Con sẽ nối nghiệp ta. Con đã đem về cho bộ tộc một món quà vô giá đó là một tương lai tốt đẹp, một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Sống ở trần gian này, con người chỉ biết rất mù mờ về cuộc sống mai sau. Cứ nhìn vào những cách bày tỏ lòng hiếu thảo đối với người đã chết của các tôn giáo thì sẽ thấy điều đó. Chỉ khi con người leo lên đến đỉnh núi của cuộc đời là cái chết, lúc đó họ mới thấy được cuộc sống tương lai. Không ai biết trước cuộc sống sau khi chết, chỉ mình Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa từ trời xuống, mới mạc khải cho chúng ta thấy rõ quê hương thực sự của chúng ta mà thôi. Quê hương đó không phải ở trần gian này.
Việc Chúa Phục sinh lên trời nhắc nhở chúng ta về một chân lý căn bản và một bổn phận quan trọng. Chân lý đó là quê hương đích thật của chúng ta là ở với Thiên Chúa, và bổn phận của chúng ta là phải sống yêu thương, chia sẻ niềm tin với người khác, xây dựng cuộc sống hôm nay tốt đẹp, để ngày sau, cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên quê trời.
Như vậy việc Chúa lên trời dạy chúng ta rằng ngoài cuộc sống đời này, còn có một cuộc sống khác. Đó mới chính là quê hương của chúng ta; nơi đó gọi là trời hay thiên đàng. Trời hay thiên đàng là tình trạng con người sống hạnh phúc hoàn toàn, không còn đau khổ; vĩnh viễn không hề bị tiêu diệt. Trời hay thiên đàng là nơi con người trở nên Thần Thánh, chung sống với Thiên Chúa và những người đã sống tốt cuộc đời mình ở trần gian.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Mừng Chúa Phục Sinh 40 ngày đã qua, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng mừng lễ Chúa về trời. Mừng lễ Chúa lên trời, là tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Ngày thứ ba Người sống lại, lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha”.
Thế thì, Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?.
Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào đời sống mới “. Bởi lẽ đây là cuộc lữ hành “Sống gửi thác về”. Thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.
Hy vọng ngày mai đây sau khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành lập công tích đức và gắng bước theo Chúa mỗi ngày.
Ngài bảo chúng ta đi rao giảng Tin mừng.
Trước khi về trời, Chúa căn dặn các tông đồ như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân…..” (Mt. 28,19).
Như thế, Chúa muốn chúng ta tiếp tục đi rao giảng Tin mừng làm chứng cho Chúa. Bởi vì trong ba năm, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài, chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa ra lệnh: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).
Nhưng trước khi sai chúng ta đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người. Ngài là Đấng thánh thiện nhưng ra đi đến với những người tội lỗi.
Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang khắp nẻo đường. “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo. Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến gặp những người nghèo khổ cùng cực đói rách. Chúa giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn bình an và sức sống mới cho họ.
Đáng kể nhất là Chúa dù ở giữa dân Do thái, nhưng luôn ra đi đến những vùng ngoại biên tâm hồn của những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Chẳng hạn như: Giakêu thu thuế. Mađalêna bị quỷ ám. Chị phụ nữ ngoại tình. Những người phong cùi, và đặc biệt nhất là anh trộm lành.
Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.
Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa.
Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi Chúa nói: “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).
Rồi tối trước khi ngủ, người mà chúng ta nhớ cuối cùng cũng phải là Chúa. Bổn phận cuối cùng phải là phần rỗi linh hồn mình. Có thể, chúng ta dành một vài phút hồi tâm lại trong ngày sống, những nơi chúng ta đến, những người chúng ta gặp, những việc chúng ta làm, những lời chúng ta nói, nếu có điều gì làm không hài lòng Chúa và buồn lòng nhau, chúng ta xin Chúa tha thứ. Rồi đọc kinh tối trong gia đình. Nếu ngày nào cũng sống như vậy, là chúng ta đang ái mộ những sự trên trời.
Anh chị em thân mến,
Khi suy niệm về biến cố Chúa về trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “, chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện và đồng hành thiêng liêng với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế. Bằng chứng Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, hiện diện trong Lời Chúa, và hiện diện trong cộng đoàn Tín hữu.
Mừng lễ Chúa lên trời, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống những điều Chúa dạy, biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, hy vọng ngày sau chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời. Amen.
CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH- CHÚA THĂNG THIÊN- Năm B
ĐƯỢC MỜI GỌI LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG PHỤC SINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Từ giã người thân bao giờ cũng là những giờ phút quyến luyến đau buồn khó tả. Chúa Giêsu đã sống đời trần thế với các môn đệ. Giờ đây người lìa xa các ông và chấm dứt sự hiện hữu hữu hình trần thế với các môn đệ. Bài Phúc âm hôm nay tường thuật lại hoàn cảnh Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra lần sau cùng với mười một tông đồ trước khi về trời, và người trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp thế gian, làm phép rửa cho muôn dân. Những lời nói từ giã sau cùng là những lời nói thân tình và quan trọng nhất. Chúa Giêsu trao cho các tông đồ di sản của người là sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp thế gian để cho những ai tin thì được cứu độ. Thăng thiên là thời điểm chấm dứt sứ vụ hiện diện cứu độ ở trần thế của Chúa Cứu thế và bắt đầu giai đoạn sứ vụ rao giảng của Hội thánh. Các tông đồ, những con người còn nhiều khuyết điểm, bắt đầu đảm nhận sứ vụ này. Các ngài đã được chuẩn bị và huấn luyện bởi thầy Giêsu, giờ đây các ngài được trao ban sứ vụ và lên đường ra đi rao giảng khắp mọi nơi Tin mừng cứu độ. Các ngài được sai đi nhưng không phải do quyền bính của riêng mình nhưng là do quyền bính của thầy Giêsu với sức mạnh Thánh Thần của người. Các ngài thi hành sứ vụ không phải của mình nhưng là của chính thầy Giêsu Kitô. Xem ra công việc này là công việc quá lớn lao vượt sức của các ngài, vì làm sao có thể thay thế được công việc của thầy chí thánh được. Dầu vậy, chính thầy Giêsu ban cho các tông đồ quyền năng của chính người để các ông có thể chu toàn công việc của thầy Giêsu. Người ban cho các ông những dấu lạ như cầm rắn trong tay mà không phải chết, uống nhằm thuốc độc cũng không bị hại, đặt tay trên người bệnh để chữa lành bệnh nhân.
Theo một trật tự mà chúng ta có thể nhận thấy, những tường thuật Phục sinh nêu lên những lần hiện ra của Chúa Giêsu cho các phụ nữ, các môn đệ và các tông đồ. Bản văn của Marcô chương 16 này là phần được cho là viết thêm sau để hoàn tất phần tuờng thuật về mồ trống. Hội thánh ý thức mình được qui tụ chung quanh các tông đồ là những chứng nhân trực tiếp và có thẩm quyền nhất của chân lý Tin mừng cứu độ và đây cũng chính là phản ánh ý thức của các tông đồ : được mời gọi để mang Tin mừng cứu độ cho mọi người. Ơn cứu độ đã được hoàn tất, giờ đây cần công bố cho mọi người để ai tin thì được cứu độ và ai không tin thì bị luận phạt đời đời. Việc loan báo Tin mừng là hồng ân sự sống được phân phát dư dật và hào phóng cho mọi người không loại trừ, đồng thời mỗi người được mời gọi chọn lựa và quyết định ưng thuận đón nhận. Tin phải dẫn tới hành động chọn lựa ưng thuận và việc lãnh nhận phép rửa như là điểm nối tiếp cần thiết để hiện thực hóa việc đón nhận Tin mừng cứu độ của mình. Người tin vào lời rao giảng Tin mừng đồng thời quyết định dấn thân cùng với mọi người trong cộng đoàn đức tin dưới sự hướng dẫn của các tông đồ. Hội thánh ý thức sự nối kết mật thiết giữa đức tin và việc lãnh nhận phép rửa để thuộc về cùng một cộng đoàn đức tin. Việc từ chối đón nhận đức tin và đón nhận phép rửa bị qui trách nặng nề như là tự mình tự kết án mình cách chung cuộc. Trong hoàn cảnh cụ thể, chúng ta có thể nghĩ trước hết đến những người do thái là dân được tuyển chọn đã từ khước tin vào Đức Giêsu, thái độ từ khước của họ là chung quyết bởi vì Lời rao giảng Tin mừng đã vang lên cách công khai và thúc bách, không ai có thể tự bào chữa cho rằng mình chưa được nghe Tin mừng cứu độ. Bản văn Tin mừng tiếp nối bằng việc liệt kê những dấu chỉ dành cho những người tin : « Nhân danh thầy họ sẽ trừ quỷ, nói những tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, uống được thuốc độc mà không bị hại cũng như có thể đặt tay để chữa lành bệnh nhân ». Đây là những dấu chỉ được ban cho những người đã tin lời rao giảng của các tông đồ, vì dù sao thế hệ của các tông đồ cũng sẽ qua đi, và nhiều người khác sẽ tiếp nối để đảm nhận những trách nhiệm của các tông đồ. Những dấu chỉ quyền năng mạnh mẽ của Tin mừng làm cho việc làm chứng của những người tin trở nên khả tín trước mặt mọi người. Người tin vào lời rao giảng Tin mừng cũng đón nhận được những quyền năng của thầy Giêsu ban tặng cho các tông đồ. Sách Công vụ tông đồ sẽ tường thuật cho chúng ta những việc chữa lành đầy quyền năng của phó tế Philipphê cũng như của Phêrô, Phaolô, Gioan cũng như nhiều dấu lạ và ơn lành được ban trong cộng đoàn như ơn nói các tiếng lạ được xem là đặc sủng Thánh Thần dành cho cộng đoàn, việc đặt tay để chữa lành các bệnh nhân do bởi các tông đồ. Những dấu chỉ quyền năng này biểu lộ quyền năng quyết định của Chúa Giêsu Phục sinh trên những quyền lực của Ác thần và trên sự chết và sứ điệp Tin mừng là sứ điệp cứu độ hữu hiệu giải thoát con người khỏi mọi sức mạnh của bệnh tật và sự chết đang đè nặng trên thân phận con người.
Những người tin cũng là những người đón nhận Tin mừng cứu độ và nối tiếp các tông đồ làm chứng cho Tin mừng này. Vì thế đón nhận và tin vào Tin mừng, lãnh nhận phép rửa là những dấn thân quyết định và cũng là vinh dự và trọng trách lãnh nhận những sức mạnh quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu. Những người tin, tiếp nối công việc của Chúa Giêsu và các tông đồ, cũng sẽ đón nhận được những dấu chỉ biểu lộ quyền năng của Tin mừng để đảm trách sứ vụ loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu. Thăng thiên là lúc Chúa Giêsu trở về ngự bên hữu Đấng toàn năng, người hiển trị cùng với Chúa Cha, và tin tưởng trao phó cho các tông đồ và mọi người tin sứ vụ cứu độ của người. Các tông đồ đã lãnh nhận và chu toàn sứ vụ này, chúng ta đã được nghe các tông đồ mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu. Các ngài không hoạt động một mình nhưng có Chúa luôn ở với các ngài, hoạt động với các ngài. Chính sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu Phục sinh sẽ nâng đỡ các tông đồ và thế hệ tiếp nối các ngài là những người tin ra đi rao gỉng Tin mừng. Lễ Thăng thiên là lời mời gọi mạnh mẽ đối với chúng ta là những người tin và lãnh nhận phép rửa, nhắc nhở chúng ta cũng như nhắc nhở các tông đồ « sao còn đứng đó nhìn trời ». Phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận cũng là lúc mà chúng ta đón nhận Thánh Thần của Chúa Giêsu nhờ đó chúng ta đã kết hợp nên một với người. Trong sách Công vụ, khi thuật lại việc Chúa Giêsu về trời, có nhắc đến câu hỏi của những người thắc mắc : « Thưa thầy có phải đây là lúc thầy khôi phục là nước Ítraen ». Những người đặt câu hỏi chứng tỏ họ như những người xa lạ với mầu nhiệm Thăng thiên đang diễn ra và như những người chưa bắt được nhịp sống của Chúa Giêsu và Thánh Thần của người. Chúa Giêsu mới trả lời cho họ : « Anh em hãy nhận lấy sức mạnh Thánh Thần xuống trên anh em, anh em sẽ là chứng nhân cho thầy tại Giêrusalem, cho đến mút cùng trái đất ». Nhờ phép rửa, đã được đón nhận Thánh Thần, những người tín hữu, qua đời sống và những việc làm của mình, cũng tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu. Đây là công việc nặng nề, nhưng Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta, người sẽ ở với chúng ta và người sẽ hoạt động nơi chúng ta và Thánh Thần của người sẽ nâng đỡ hoạt động của nguời tín hữu. Đây cũng chính là những xác tín của thánh Phaolô trong bức thư gửi cho tín hữu ở Êphêsô. Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa Giêsu thi thố những quyền năng lớn lao của người nơi người tín hữu. Người tín hữu là người được đón nhận ơn kêu gọi để được tham dự vào một niềm hy vọng lớn lao và chung phần gia nghiệp phong phú là chung phần với Đức Giêsu trong quyền năng của người. Ý thức điều này làm cho chúng ta hãnh diện và mạnh mẽ tiến bước trong ơn gọi này qua đời sống trung tín chu toàn bổn phận hằng ngày.