CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT PHỤC SINH – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY RỒI (*)– Chú giải của Noel Quession. 7
THEO KINH THÁNH THÌ NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 14
GẶP NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ ĐỨC GIÊSU- Chú giải của Fiches Dominicales 26
NGÔI MỘ TRỐNG- Chú giải của mục vụ của Jacques Hervieux. 30
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 47
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 65
CHÚA ĐÃ PHỤC SINH– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 69
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B.. 74
NIỀM VUI PHỤC SINH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 74
ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ– Lm. Phạm Quốc Hưng. 82
“BÀN TAY” CỨU ĐỘ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 86
ĐỨC KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 90
NIỀM VUI PHỤC SINH- Lm. Goan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 97
SỰ SỐNG LẠI LÀ NIỀM HI VỌNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 102
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 105
NGÀY THỨ NHẤT – Lm Giuse Trần Việt Hùng. 109
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI THÁNH KINH- Lm Antôn Nguyễn văn Độ 114
THẤY VÀ TIN- Trích Logos B.. 119
TRỜ NÊN TẠO VẬT MỚI- Lm. Minh Vận. 124
ĐÊM THÁNH, ĐÊM HI VỌNG (Lễ Đêm)- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP 132
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Cv 10, 34a. 37-43
“Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: “Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được tha tội”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
BÀI ĐỌC II: Cl 3, 1-4
“Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
CA TIẾP LIÊN
Các Kitô hữu hãy tiến dâng
lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:
Ðức Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,
tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe
bà đã thấy gì trên quãng đường đi?
Tôi đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,
Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
ALLELUIA: 1 Cr 5, 7b-8a
All. All. – Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa – All.
PHÚC ÂM: Ga 20, 1-9
“Người phải sống lại từ cõi chết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”. Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY RỒI (*)– Chú giải của Noel Quession
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô” trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các “người nữ”. Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha… còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những “phụ nữ tẩm xác”, tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của “Đức Giêsu Nagiaret”… thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia…
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. “Tảng đá đã được lăn ra”. Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh… được coi như một sự kiện không thể có được… ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?”. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến “thiên thần”, đến “đất rung chuyển” đến tia chớp sáng”… nhưng chỉ đề cập đến một “người thanh niên”. Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu “tả vẽ” về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu “trắng” luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối… đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến “một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy” (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu “trắng” luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!”.
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc” trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ”.
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu… Nhưng chỉ ghi một “Lời” mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin”, một trong những điểm của “kinh Tín Kính” ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại”
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, “người Nagiaret”, kẻ “bị đóng đinh”, Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: “Người sẽ đến Galilê trước các ông”.
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ” nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến “mồ táng” đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: “Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mc 14,28). Chàng “thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn” cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những “dấu chỉ” mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự… và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người”. Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy” (tromos) và “ngây ngất xuất thần” (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến “bí mật” che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ “im lặng” và “chẳng nói gì với ai”: Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự “hiển nhiên tuyệt đối” một sự “ổn định hoàn toàn”, thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
THEO KINH THÁNH THÌ NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ IV.
Cv 10: 34a, 37-43
Bài Đọc I nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, thủ lãnh của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn trích sách Công Vụ nầy.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn chúng ta vào trọng tâm mầu nhiệm Phục Sinh và mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống. Đây là câu chuyện khai mào đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo sách Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô, mà chúng ta không biết rõ nhân vật lịch sử này.
Thánh Lu-ca ôm ấp nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; cũng vậy, trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô; còn trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẻ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
Cuộc kinh lý mục vụ của thánh Phê-rô:
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “kinh lý mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), thời kỳ lắng dịu đã xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ tạm yên nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
Thánh Phê-rô lần đầu tiên bước vào nhà một người ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô đang ở tại nhà ông Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà của một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng xuất phát từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm ngoại giáo, nhưng dần dần lệnh cấm nầy được phổ biến và được tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm gây chấn động.
Bài diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có chung những điểm nhấn với những bài diễn từ khác mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ chứng minh cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vì ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những “chứng nhân” về những hoạt động của Đức Giê-su người Na-da-rét, về cuộc Khổ Nạn của Ngài, và nhất là về cuộc Phục Sinh của Ngài. Có một ít người được diễm phúc gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh và sống thân mật với Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã trao cho họ sứ mạng làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử người sống cũng như kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói thêm rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn lời loan báo của các ngôn sứ để nhấn mạnh: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến nổi Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế, nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô Phục Sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân trình bày cho chúng ta chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh cách sâu xa.
Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết với Đức Ki-tô”. Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh Phao-lô thường sử dụng: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần, từ đó cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây, thánh Phao-lô định nghĩa người Ki-tô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy, được dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ thực trạng tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”, tiếp đó thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; ngay ở đời này, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm: “Ngôi mộ trống” và “Những lần Đấng Phục Sinh hiện ra”. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn.
Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên, chúng ta dám nói kinh nghiệm về sự “trống rỗng”, kinh nghiệm nầy đã khai mở lòng trí của họ để hiểu Kinh Thánh. Tiếp đó, vào cùng ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống; tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh hiện ra với các ông rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm cũng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su với một niềm xác tín tuyệt đối cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một bài tường thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, bài tường thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết vén mở những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác là ngày các Ki-tô hữu tưởng niệm biến cố Phục Sinh.
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài (Lc 8: 1-3), cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã chứng kiến cuộc mai táng của Ngài đế ý nhìn ngôi mộ và xem thi thể Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói rõ rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: lòng mến và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
Ở đây, thánh Gioan chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, theo chính bản văn, dường như có các người phụ nữ khác (hay ít ra một người phụ nữ khác) cùng đồng hành với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Quả thật, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô thì kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1); thánh Lu-ca còn nói đến nhiều người phụ nữ (Lc 24 : 1). Nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh và đặt ở hàng đầu.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà đã là nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó), vì chính bà đã được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng tường thuật và chính Đấng Phục Sinh sai bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ. Vì thế, truyền thống Giáo Hội tôn kính gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là người tông đồ tuyệt hảo bậc nhất.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Trong các sách Tin Mừng nhất lãm, cả hai ông đều đã là nhân chứng của biến cố Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy. Trong sách Công Vụ, hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22).
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn thánh Gioan, vì thế, ông không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mồ trước, nhưng không vào chỉ đứng bên ngoài liếc nhìn vào bên trong trong khi chờ đợi thánh Phê-rô đến và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước để tỏ lòng tôn kính quyền lãnh đạo Tông Đồ của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô được xác nhận chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên biển hồ Ti-bê-ri-a: “Hãy chăm dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15-17), nhưng thật ra đã hàm chứa trong việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho vị Tông Đồ nầy rồi ngay từ cuộc hội ngộ đầu tiên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô: Ga 1: 42). Cả hai người cùng chứng kiến hiện trường: “ngôi mộ trống”. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
Lời chứng của chứng nhân nhãn tiền.
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, hai ông còn thấy băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi, thế mà tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
Mặt khác, làm thế nào hai ông không thể không nghĩ đến cảnh anh La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44), còn Đức Giê-su khi sống lại thì hoàn toàn tự do, không còn bị băng vải liệm buộc chặt thân thể Ngài hay khăn che đầu phủ mặt Ngài được chứ? Như vậy quyền lực của Tử Thần, mà băng vải liệm và khăn che mặt là biểu tượng, không còn có thể trói buộc Ngài được nữa. Nói cách khác, anh La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn bị xích xiềng Tử Thần trói buộc nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi Tử Thần từ nay không có quyền hành gì trên Đức Giê-su nữa, Ngài đã vĩnh viễn đánh bại Tử Thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức ông đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt một tiến trình đức tin từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn vào Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng đức tin đã bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống trong đó chính ông đã chứng kiến: băng vải liệm cùng khăn phủ đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nếu trước đây đức tin của thánh Gioan đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy mình, thì tình yêu của “người môn đệ Chúa yêu” này đã chẳng hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi theo từng bước chân của Thầy cho đến đỉnh đồi Can-vê và chứng kiến giây phút sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này đã dẫn thánh nhân đến niềm tin ngay tức khắc. Đó cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân là người đầu tiên nhân ra Thầy mình dưới hình dạng của một khách vãng lai trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên, thánh nhân lại “tin tối đa”. Độ nhạy bén của tình yêu này hỗ trợ cho thánh nhân thấu hiểu con người và sự vật.
Lời chứng của Kinh Thánh.
Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, thánh nhân cũng cần lý trí soi sáng. Lời ghi nhận “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết” ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, vào lúc này, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho họ (Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, trong Tv 16, chúng ta gặp thấy những hàng nầy:
“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).
Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.
Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ trống với hai yếu tố cần thiết cho niềm xác tín của họ: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh tiên báo.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
GẶP NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ ĐỨC GIÊSU- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Từ ngôi mộ “trống”
Sau ngày Sabát, đó là “ngày thứ nhất trong tuần”, kiểu nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, “đi đến mộ từ sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại trong Tin Mừng Maccô (Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất “theo tục lệ của người Do Thái (19,40), đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ “chỉ vì con tim thúc đẩy thôi” (“Đọc Tin Mừng Gioan”, quyển IV, Seuil, trang 203).
Vừa nhận thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về báo tin cho các môn đệ: từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được đưa đi; từ “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”? Bóng tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình thuật: “Lúc trời còn tối”.
Đến dấu chỉ của ngôi mộ trống.
Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy chậm hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi. Như vậy là giả thuyết Maria Mácđala đưa ra không vững nữa, vì “kẻ trộm sẽ chẳng lợi gì mà lấy băng vải, cuộn lại rồi đặt riêng ra một nơi” (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô. Còn Luca thì viết: “Ông rất đỗi ngạc nhiên” (24,12). Trái lại, “Người môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết.
Léon tự hỏi: “người môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn không phải là ông đã nhìn thấy Đấng phục sinh. Về phương diện này, ông cũng giống như người có lòng lin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người có lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-môn-đệ ấy thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gỡ tiếp xúc với Đấng-Phục-sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết, việc các khăn vải được xếp đã ngăn nắp đã loại bỏ giả thuyết cho rằng người ta đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P. Duplantier nhận định, ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thánh một ngôn ngữ? Nhớ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy người môn đệ kia hiểu rằng Đức Kitô đã chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác, Đức Giêsu đã toàn thắng sự chết (Sđd, trang 212).
Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho mình. Vì “quả thực, cho tới lúc ấy – bản trình thuật kết luận – các môn đệ vẫn chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Hiện diện của tình yêu” (H. Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”. Desclée de Brouwer trang 51).
Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có băng vải và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không còn nữa! Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện – Maria Mácđala đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc này thật khủng khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại?
Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không thể tin rằng Người-đang-sống. Sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống này: đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm do những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối. Mới có thể nói cho lòng mình và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng- đinh vẫn đang sống. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau lúc vượt qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi băng qua vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh sáng chan hoà của đời đống phục sinh.
Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta gặp gỡ Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi con người. Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.
NGÔI MỘ TRỐNG- Chú giải của mục vụ của Jacques Hervieux
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này. Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên. Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a). Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận (Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng “Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
“Chúa đã sống lại rồi”, đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của Phaolô và của mọi thế hệ kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội. Cho dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn và ai cũng phải chết, nhưng cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau khi chết là sống lại, và ai chết trong Chúa thì sẽ được sống lại với Ngài.
Trong Thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta càng ngày càng xác tín hơn về điều ấy.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên chúng ta sống như mục đích của cuộc đời chỉ là ở thế gian này.
– Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên khi gặp gian nan thử thách, chúng ta ngã lòng, thất vọng.
– Cuộc sống chúng ta chưa là một bằng chứng trước mặt người thế về niềm tin có sự sống lại.
LỜI CHÚA
Bài đọc I: Cv 10,34.37-43
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma.
Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Đức Giêsu: a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Đức Giêsu; b/ Cái chết của Ngài; c/ Việc Ngài sống lại; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ.
Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu.
Đáp ca: Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9
Những chi tiết quan trọng nhất của bài tường thuật này là ngôi mồ trống và 3 phản ứng trước hiện tượng ấy.
Maria Mađalêna nghĩ rằng “Người ta đã lấy mất Chúa rồi”. Bà hoang mang chạy đi báo tin “chẳng lành” ấy cho các tông đồ khác. Phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà thì bà mới tin Ngài sống lại.
Phêrô nhìn thấy những hiện tượng nhưng chưa có phản ứng nào cả.
“Người môn đệ kia” khi thấy thì nhớ lại những lời Đức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay.
Bài đọc II: Cl 3,1-4
Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Đức Giêsu sống lại:
Kitô hữu là người đã chết với Đức Giêsu và sống lại với Ngài.
Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới.
Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hai cách nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
– Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
– Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
*
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy.
Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn Thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
* 2. Tin là thế nào?
Đức tin của các tín hữu thường chỉ có một chiều kích, đó là chiều kích của trí óc: tin có Thiên Chúa; tin rằng Ngài đã tạo dựng mọi sự, Ngài biết mọi sự và điều hành mọi sự.
Đức tin của các tín hữu thường hướng tới đời sau: tin rằng mình sẽ được ở với Thiên Chúa sau khi từ giã cõi đời này.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay buộc ta phải điều chỉnh lại đức tin ấy: phải có thêm chiều kích hiện sinh nữa: Không chỉ tin bằng trí óc mà còn bằng cả cuộc sống. Không chỉ nhắm tới cuộc sống mai sau, mà phải nghĩ tới cuộc sống hiện tại. Thánh Phaolô dạy: “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô”.
* 3. Làm chứng là thế nào?
Chỉ có các tông đồ là những “chứng nhân” đúng nghĩa: các ngài đã cùng sống với Đức Giêsu, đã thấy Ngài chết và thấy Ngài sống lại. Việc làm chứng của các ngài dựa trên điều các ngài đã thấy.
Nhưng lời chứng xuất phát từ cảm nghiệm cũng có giá trị, nhiều khi lại còn có sức thuyết phục hơn. Chúng ta có thể làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh theo cách thứ hai này: sống làm sao cho người ta biết chúng ta đang sống một cuộc sống mới, chúng ta hạnh phúc, chúng ta tự do, chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới đó, và trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng chúng ta cũng tràn trề hy vọng.
* 4. Tâm thức kiêu căng của kẻ chiến thắng
Nhiều người trách rằng những người công giáo có tâm thức kiêu căng vì nghĩ rằng mình là kẻ chiến thắng, kẻ mạnh, kẻ giỏi hơn người… Tiếng pháp là “triomphalisme”. Thực ra, chúng ta có tâm thức đó không? Và xét cho cùng, nên có tâm thức đó không?
Chúng ta xác tín rằng chúng ta có một chỗ dựa vô cùng vững chắc là Đức Giêsu phục sinh, và cũng xác tín rằng nếu có Ngài phù trợ thì chúng ta sẽ vượt thắng tất cả. Những câu đáp ca hôm nay trích từ Thánh vịnh 117 tuyên bố niềm xác tín đó: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa cao cả vô song. Tôi không phải chết nhưng còn sống mãi, để tường thuật những kỳ công Chúa làm”.
Thế nhưng, chúng ta không nên kiêu căng, cũng không nên khinh chê những người khác không có được niềm xác tín của chúng ta. Đúng hơn, chúng ta cần làm chứng cho họ và chia xẻ với họ niềm xác tín ấy, một niềm xác tín vẫn giúp con người lạc quan hy vọng cho dù đang ở giữa bao khổ đau, thất bại, bệnh tật và thậm chí sắp chết.
* 5. Mộ mở toang
Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin. “
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sâu thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chấm hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mở trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”, được trích trong Fiches dominicales, năm A, trang 122-123).
* 6. Tin mừng Phục sinh
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm. Bỗng một sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng. Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đón cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
*
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh họa cho chúng ta bài Tin mừng Phục sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ. Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong mộ đá. Còn lại gì? hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn dùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc.16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó sứ thần chờ để loan báo Tin mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê” (x. Mc.16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một Tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Tin mừng chính là: Hễ có bình an là có niềm hy vọng, có trở về và có đổi mới.
Tin mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục sinh.
*
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con, luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang phục sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục sinh của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
(Như Lễ Đêm)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Đức Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây:
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Đức Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh / cho những người lương dân sống chung quanh chúng ta.
CT: Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước ấy được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Đức Giêsu phục sinh đã ban cho các môn đệ. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con trở thành những con người mới, sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn…”
– Trước khi rước lễ: “Đây Chiên Thiên Chúa… phúc cho ai được mời đến dự tiệc của Đức Giêsu phục sinh, Đấng ban cho chúng ta một sự sống mới”.
GIẢI TÁN
Đức Kitô đã sống lại và đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến cho mọi người. Halleluia, Halleluia.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu : đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bài đọc 1)
Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng)
Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 10,34.37-43.
Viên quan bách quản Rôma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này : Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh Kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Keryma thường là :
- a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
- b) Cái chết của Ngài.
- c) Việc Ngài sống lại.
- d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có vì nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Vì thế, sự phục sinh của Đức Giêsu chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.
+ Bài đọc 2 : Cl 3,1-4).
Trong bức thư gửi cho tín hữu Côlôssê, thánh Phaolô kêu gọi những ai đã nhờ phép rửa mà được tham dự vào mầu niệm Vượt qua, hãy sống một đời sống tỏa hương thánh thiện :”Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giói”(Cl 3,1-2).
Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu.
Người tín hữu tìm được ý nghĩa thực của đời sống dưới ánh sáng phục sinh mà họ đang tiến về. Do đó, họ không được thoát ly khỏi cuộc sống đời này với nhiều nghĩa vụ, bao gian nan thử thách; tuy thế, họ đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống trong sự kết hợp với Đức Kitô Phục sinh.
+ Bài Tin Mừng : Ga 20,1-9.
Trong bài Tin mừng này, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy qủi. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết : người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy : ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.
Thực ra, sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh Thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nũa :”Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20,9).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thành công và thất bại
ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI ?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy :
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)
Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).
Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).
Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.
Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).
Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).
Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).
Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)
Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).
Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).
Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).
Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).
Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).
Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.
Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói :”Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói : chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.
Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng như văn hào Corneille đã nói :”Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.
THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.
Suy nghĩ của người đời.
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục :
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh.(Tục ngữ)
Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật :”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.
Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi.(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)
Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói :”Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.
Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người :”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người…, anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi : Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).
Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói :”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.
Ông Henry Ford cũng khuyên :”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.
Chuyển bại thành thắng.
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm : không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại ; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người : đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.
Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.
Có hai loại thất bại :
– Thất bại khách quan (hay thụ động , tiêu cực).
– Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).
Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận…
Thất bại chủ quan : đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp :”Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
– Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao : muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
– Trong chiến trận cũng thế : đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
– Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến vàlùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được , lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.
Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không ? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó :”
“Một ngàn việc tiến,“Chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ”. (Henri Frédéric AMIEL)
THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.
Chúa đã sống lại thật.
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.
Đức Giêsu đã sống lại thế nào ? Ai đã khám phá ra điều này ? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn : sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin : phúc cho ai không thấy mà tin.
Phải sống theo niềm tin ấy.
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu :”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy ! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này : per crucem ad lucem !
Có những nghịch lý phải chấp nhận.
Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu : Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói :”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay ! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ : bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.
Hay một ví dụ khác : trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ : thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).
Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là ø hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau : sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ : con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước :”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu :”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.
Truyện gợi ý : Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây :
Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm :
– Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ :
– Nhưng ta có phải là gió đâu ?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
– Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này : nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình ? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn ? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
– Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh :
– Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích :
– Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:
– Vẫn một dòng suối như cũ ư ?
Giọng nói giải thích :
– Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn. (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)
Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.
Chiến đấu không lùi bước.
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán :”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa:”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).
Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói :
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.
Truyện : Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh :”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi : quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu:”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.
Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo âtông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con : Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy ? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình ; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
- Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
- Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
CHÚA ĐÃ PHỤC SINH– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu đã sống lại. Ngài vẫn còn đang sống. Đó là niềm tin của các tông đồ. Đây cũng là niềm tin của tất cả Hội Thánh, của mọi Kitô hữu. Đức Giêsu đã sống lại, biến cố này làm chấn động tất cả, đặc biệt các tông đồ là những người liên hệ cụ thể với Đức Giêsu.
Các tông đồ trước cái chết ô nhục của Đức Giêsu
Biến cố Đức Giêsu bị bắt và bị giết diễn ra quá nhanh, chỉ từ đêm thứ năm đến trưa thứ sáu, làm các tông đồ và các môn đệ bàng hoàng sửng sốt. Đức Giêsu bị giết, kéo theo tất cả các mơ ước của các tông đồ. Từ mơ ước “ngồi bên tả ngồi bên hữu” đến hoài bão xây dựng một nước Israel mới. Cái chết của Đức Giêsu đánh đổ mọi hy vọng của các tông đồ.
Bây giờ Kitô hữu biết Đức Giêsu như các tông đồ biết Đức Giêsu sau khi Ngài đã sống lại; tuy nhiên, khi Đức Giêsu còn đang sống tại thế với họ, thì các tông đồ chưa biết rõ Đức Giêsu như sau khi Ngài phục sinh. Trước khi Đức Giêsu chết và sống lại, các tông đồ cũng như đa số dân Do Thái, tin Đức Giêsu là một tiên tri, và hơn nữa, là Đấng Kitô Thiên Chúa sai tới để giải phóng dân. Đa số người Do Thái thời đó đang mong chờ Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi cảnh đô hộ của người Roma. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai (Đấng được xức dầu, Đấng Kitô) giải phóng họ, như trong quá khứ cha ông họ đã chờ đợi, cầu xin, và Thiên Chúa đã ban cho họ Môsê và các thẩm phán, để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Đức Giêsu chết, và một cái chết trần trụi ô nhục, làm các tông đồ vỡ mộng. Các tông đồ không chỉ vỡ mộng, mà còn bị khủng hoảng vì tại sao Thầy Giêsu của họ, một người tốt, một người làm nhiều dấu lạ, mà bây giờ Thiên Chúa lại bỏ Ngài, để Ngài phải chết ô nhục như vậy! Lúc Đức Giêsu còn đang sống với các tông đồ, các Ngài chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, và Đức Giêsu là Thiên Chúa Con như các Kitô hữu bây giờ. Các tông đồ buồn sầu, thất vọng, và bị khủng hoảng cả về niềm tin vào Thiên Chúa nữa.
Các tông đồ trước sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh
Tin Đức Giêsu đã sống lại, do các chị phụ nữ mang lại, làm các tông đồ xao xuyến. Chuyện như mơ. Điều các chị phụ nữ nói làm sao tin được? Họ là phụ nữ mà. Gioan và Phêrô chạy tới mộ. Mồ trống. Cái gì đã xảy ra? Tin mừng Gioan nói: “ông thấy và ông tin” (Ga.20, 8). Gioan tin cái gì? Gioan không nói rõ về điều này. Chỉ biết rằng theo tin mừng Máccô: “Sau cùng, Người đã tỏ mình ra cho chính nhóm mười một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trổi dậy” (Mc.16, 14).
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Đức Giêsu sống lại cho dù các chị phụ nữ và các tông đồ khác đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho ông (Ga.20, 24-29), mà tất cả các tông đồ đều không tin Chúa phục sinh, kể cả hai môn đệ đã chán nản bỏ cuộc và đang trên đường về quê (Mc.16, 12-13). Biến cố Đức Giêsu phục sinh là biến cố rất khó tin, kể cả đối với các tông đồ, vì chẳng có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh nếu đã không được Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho họ. Họ chỉ tin Đức Giêsu phục sinh khi họ thấy Ngài.
Trong các tin mừng có nói Đức Giêsu đã loan báo ba lần Ngài sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 30-32; 10, 32-34), nhưng các tông đồ đã quên điều này khi Ngài bị giết. Tại sao họ quên? Có thể vì chuyện đó không thể tin được nên các tông đồ đã quên. Chỉ sau khi sự thực xảy ra, nghĩa là, chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, mới làm các tông đồ nhớ lại các lời đó thôi. Biến cố Đức Giêsu phục sinh, là biến cố không thể tin nếu không được tận mắt thấy Ngài (như các chị phụ nữ và các tông đồ), và nếu có ai tin thì đó là một ơn vô cùng lớn: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga. 20, 29).
Con người trước tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh
Một số người thời các tông đồ đã cho rằng, các tông đồ trộm xác Đức Giêsu và loan tin Ngài sống lại (Mt.28, 11-15). Thế nhưng, các tông đồ đã làm chuyện đó để làm gì? Tại sao tất cả các tông đồ (trừ Gioan) đã đem chính mạng sống họ để làm chứng rằng Đức Giêsu đã phục sinh? Tại sao họ lại phải vất vả, gian khổ, và phải chết vì chuyện đó (nếu đó là gian dối thực!)?
Một số người thời đại cho rằng các tông đồ đã bị hoang tưởng tập thể. Họ đã mong Đức Giêsu sống lại, nên cứ tưởng rằng Đức Giêsu sống lại thật. Tuy nhiên, như các tin mừng làm chứng, các tông đồ đâu có dễ tin Đức Giêsu sống lại. Chẳng có ai tin Đức Giêsu sống lại, nếu không phải chính họ đã thấy Ngài. Trường hợp tông đồ Thomas giúp Kitô hữu thấy điều này rõ ràng hơn. Sự cứng lòng của Thomas lại là một lý chứng giúp các Kitô hữu vững tin vào sự kiện Đức Giêsu phục sinh.
Một số khác cho rằng, Đức Giêsu có phục sinh hay không, cũng không quan trọng. Điều quan trọng là tin mừng Phục Sinh gợi cho người ta một ý nghĩa nào đó. Đức Giêsu Phục Sinh là một biểu tượng của một đời sống mới, của sự chiến thắng. Thánh Phaolô cũng phải đương đầu với lối giải thích này, và ngài nói: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, … thì đức tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…. Và nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cor.15, 12-19).
Kitô hữu là người tin Đức Giêsu sống lại thật sự, tuy dù sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại của Ladarô (Ga.11, 1-44), của em bé (Mc.5, 21-43) được Đức Giêsu cho sống lại. Thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã được biến đổi, vật chất không còn giới hạn được Ngài nữa. Thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh là thân xác thần khí. Đức Giêsu phục sinh, là biến cố vô cùng quan trọng, và giúp con người hiểu hơn về Đức Giêsu, hiểu hơn về Thiên Chúa, và hiểu hơn về chính con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có tin Đức Giêsu đã phục sinh không? Tại sao bạn tin Ngài phục sinh?
- Tin Đức Giêsu phục sinh, bạn được lợi ích gì?
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
NIỀM VUI PHỤC SINH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Sách Công vụ kể lại rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (CVTĐ 2,42); “Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn” (CVTĐ 4,32-35). Đó là những công việc mà Giáo hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình. Sống niềm vui Phục Sinh bằng đời sống phục vụ và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục Sinh của Giáo hội và của chúng ta hôm nay.
Xin cho mỗi người Kitô hữu trở thành sứ giả đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, biết sống niềm vui Phục Sinh trong mọi mối tương quan, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ (Lễ Đêm)– Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong Nghi Thức Phụng Vụ Vọng Phục Sinh, khi rước cây nến Phục Sinh đã được làm phép và thắp sáng vào trong nhà thờ, linh mục chủ tế đọc hay hát ba lần lời tung hô “Ánh Sáng Chúa Kitô” và cộng đoàn cùng hân hoan đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Từ đó, cây nến Phục Sinh chiếm một vị trí quan trọng trên cung thánh và luôn được cung kính như biểu tượng của chính Chúa Kitô-Đấng là chính Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời.
Ánh sáng tuyệt đối cần thiết trong đời sống tự nhiên thế nào, niềm tin vào Chúa Kitô cũng tuyệt đối cần thiết trong đời sống thiêng liêng như thế. Nhờ ánh sáng tự nhiên, mắt chúng ta mới nhận biết các sự vật xung quanh. Nhờ Chúa Kitô là Ngôi Lời Nhập Thể, với con mắt đức tin chúng ta mới nhận biết các thực tại siêu nhiên, nhất là thực tại về Thiên Chúa và về chính con người chúng ta.
Qua bao thế hệ, loài người sống trong bóng đêm do tội lỗi gây ra. Trong bóng đêm ấy, con người bị trăn trở bởi biết bao bức xúc nghi nan, bị đau đớn buồn phiền vì bao hận thù chia rẽ, bị sợ hãi lo âu bởi đủ loại bệnh tật chiến tranh và luôn bị ám ảnh bởi tử thần. Trong bóng đêm ngàn đời ấy, con người khao khát ánh sáng toàn diện để nhận biết ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mong mỏi tìm được câu trả lời cho những khúc mắc thẳm sâu của lòng mình.
Công Đồng Vaticanô II diễn tả những bức xúc muôn thuở của con người trong Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” với những lời thật súc tích như sau: “…trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận thức sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản như: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao chiến thắng đạt được với giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?” (#10).
Tất cả những câu hỏi và những bức xúc muôn thuở của con người như được cô đọng nơi lời than của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh Thập Giá trong cơn hấp hối vào Thứ Sáu Thánh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:14).
Với Tin Mừng Phục Sinh, “Ánh Sáng Chúa Kitô” là câu trả lời cho tất cả!
Đó chính là điều Hội Thánh rao giảng cho mọi thời đại, như Công Đồng Vaticanô II xác định trong cùng văn kiện trên: “Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho mọi người. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài người nhờ đó mà được cứu rỗi. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn tin rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thọ sinh, Công Đồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta”.
Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh cho thấy rằng chính vì không muốn bỏ rơi nhân loại trong bóng tối của tội lỗi và sự chết, nên Thiên Chúa đã muốn Chúa Giêsu phải chịu bỏ rơi và chịu chết trong đau khổ nhục nhã ngút ngàn trên thập giá, để Người sẽ sống lại trong vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết hầu đem lại Ánh Sáng Đức Tin và Sự Sống Đời Đời cho nhân loại.
Ánh Sáng Chúa Kitô là Ánh Sáng Đức Tin chiến thắng tội lỗi, là Ánh Sáng Sự Sống tiêu diệt sự chết, là Ánh Sáng Tình Yêu xóa tan mọi hận thù, là Ánh Sáng Bình An xoa dịu mọi bức xúc, là Ánh Sáng Chân Lý phá tan mọi dối trá, là Ánh Sáng Toàn Thiện hủy diệt mọi gian ác, là Ánh Sáng Toàn Mỹ xóa bỏ mọi khuyết tật, là Ánh Sáng Hiệp Nhất hủy bỏ mọi chia rẽ và là Ánh Sáng của Tin Mừng làm biến tan mọi nỗi sầu khổ và làm thỏa mãn mọi ước vọng thẳm sâu nhất của cõi lòng mọi người.
Chấp nhận Ánh Sáng Chúa Kitô với lòng tin là đón nhận mọi phúc lộc cao quý tốt đẹp nhất hơn cả những gì lòng người có thể mơ tưởng và cầu xin!
Từ khước niềm tin vào Chúa Kitô là tự chọn ở lại trong bóng tối của tội lỗi ngàn đời!
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có được đức tin mạnh mẽ và tuyệt hảo của Mẹ, để chúng con luôn được sống trong Ánh Sáng Chúa Kitô hôm nay và mãi mãi. Amen.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
“BÀN TAY” CỨU ĐỘ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hàng ngàn hành khách vượt Đại Tây Dương trên một con tàu biển lớn, không may, tàu bị va mạnh vào tảng băng trôi khổng lồ. Tảng băng đâm thủng thân tàu, nước biển tràn vào tàu dữ dội làm cho tàu ngập nước và chìm dần xuống biển.
Hàng ngàn hành khách tìm cách thoát ra khỏi chiếc tàu đang chìm đắm và đang chơi vơi giữa biển khơi giá buốt. Tất cả mọi người đều lo âu hoảng sợ. Người không biết bơi thì sau mươi phút uống nước đầy bụng là chìm. Người biết bơi cũng chỉ cầm cự được mươi tiếng đồng hồ rồi cũng chết, hoặc vì đói mà kiệt sức, hoặc vì nước biển quá lạnh nên phải chết cóng, hoặc vì phải làm mồi cho bầy cá mập háu ăn.
Trong cơn gian nguy đó, nhìn chung quanh chỉ thấy biển cuộn sóng mênh mông, nhìn xuống chỉ thấy nước sâu thăm thẳm, nhìn lên chỉ thấy bầu trời kéo mây đen nghịt. Nhìn chung quanh chỉ thấy bao nhiêu người khác cũng sắp chết đuối như mình.
Biết bám víu vào ai bây giờ? Sớm muộn gì rồi cũng làm mồi cho cá. Biết cậy nhờ ai bây giờ?
Giá như có một bàn tay to lớn mạnh mẽ nào đó từ đám mây đen thò xuống để cho những người sắp chết đuối nắm lấy thì hạnh phúc biết bao!
Con người sống trên đời nầy cũng như những người bị đắm tàu đang chơi vơi giữa đại dương đầy sóng gió. Số phận mỗi người chẳng khác gì số phận của người đắm tàu trên đây. Không sớm thì muộn, ai nấy đều phải chìm vào biển chết.
Có người phải chết sớm; số phận họ như số phận những người không biết bơi, hì hụp chốc lát rồi chết đuối. Có người được sống lâu hơn, số phận họ như số phận những người biết bơi, nổi lên được một thời gian, nhưng rồi cũng phải đắm chìm trong lòng biển chết.
Trước tình trạng đau thương và bi đát này, con người biết cậy dựa vào đâu? Ai có thể cứu vớt con người khỏi biển chết đang vây bọc tư bề? Tìm đâu ra một điểm tựa vững bền trên cõi đời này?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật, tai ương và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Tựa vào khoa học kỹ thuật tiên tiến ư? Các khoa học gia hàng đầu cũng đã lần lượt lìa đời vì chết chóc và bệnh tật.
Con người cũng không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo, sắp chết đuối như mình.
Vậy thì cần phải có một “Bàn Tay” đầy quyền năng từ trời cao vươn xuống mới có thể cứu vớt loài người đang đắm chìm trong biển chết.
Hạnh phúc cho chúng ta là những người may mắn tìm thấy “Bàn Tay” cứu vớt từ trời cao.
Chúa Giê-su chính là “Bàn Tay” đầy quyền năng của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn xuống để cứu vớt loài người đang chơi vơi giữa lòng biển chết.
Trong đại lễ phục sinh này, chúng ta hãy hân hoan vui mừng khôn xiết vì nhờ cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của mình, Chúa Giê-su trở thành “Bàn Tay” cứu độ, đang chìa ra để cứu vớt mọi người trên khắp thế gian.
Tuy nhiên, chỉ có những ai chấp nhận nắm lấy “Bàn Tay” từ trời này thì người đó mới được cứu độ mà thôi, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người và Ngài không thể cứu vớt những ai không muốn Ngài cứu vớt.
Muốn được cứu vớt khỏi biển chết đời đời thì chúng ta hãy nắm lấy “Bàn Tay” Chúa Giê-su, nghĩa là phải phó dâng đời mình cho Chúa và phải sống theo luật mến Chúa yêu người. Ai không mến Chúa yêu người như Chúa Giê-su truyền dạy, người đó tự xa lìa Chúa, nên không thể được cứu độ.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh,
Chúa chính là “Bàn Tay” thần diệu đầy quyền lực của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn tới mọi người sắp đắm chìm trong biển đời đầy sóng gió này.
Xin cho chúng con biết nắm chặt lấy bàn tay cứu độ của Chúa bằng đức tin, bằng lòng mến Chúa yêu người thật thiết tha mạnh mẽ, nhờ đó, chúng con sẽ được cứu thoát khỏi biển chết đau thương và được đưa vào vương quốc hằng sống muôn đời.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
ĐỨC KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.
Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.
Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.
Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.
Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không ?”.
Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.
Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:
Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.
Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.
Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không ?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)
Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.
Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.
Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
NIỀM VUI PHỤC SINH- Lm. Goan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa quí ông bà và anh chị em,
Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết (Ga 20,9), đúng như lời Thánh kinh và cũng là lời chứng của các tông đồ. Chúa Kitô Phục sinh là nền tảng đức tin của đạo Công giáo, vì như lời thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền, và lời rao giảng của chúng tôi trở nên vô ích…(1Cor 15,14”.
Thật vậy, nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài không phải là con Thiên Chúa hằng sống; việc Ngài hiến mình chịu chết là một điên rồ. Những phép lạ Ngài làm chỉ là phù phép giả tạo. Toàn bộ giáo lý Ngài rao giảng đều sụp đổ.
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, chắc chắn các Bí tích phát sinh từ cạnh sườn Ngài đều vô hiệu hoá. Giáo hội Ngài thiết lập sẽ không tồn tại. Và như vậy, sẽ không có đạo Công Giáo, không có những ngôi thánh đường trên thế giới.
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài cũng chẳng hơn gì chúng ta, cùng lắm thì như các vị đạo sư, chết là hết.
Nhưng, Đức Kitô đã chết và sống lại, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống, như lời Ngài nói: “Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại (Ga 10,18); Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 10, 25).
Thế thì, Chúa Kitô sống lại Ngài mang lại cho chúng ta những gì?
Trước nhất, Ngài mạng lại cho chúng ta niềm vui. Niềm vui này khởi đi từ các tông đồ, “các ông vui mừng vì xem thấy Chúa” (Ga 20, 20), và cũng là niềm vui cho toàn thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng tử thần“ Ngài không bao giờ chết nữa” (Rm 6, 9). Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô.
Chúa sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng ngày mai đây khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng được sống lại với Chúa, lúc đó sẽ gặp lại những người thân đi trước chúng ta.
Chúa sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi, vì Chúa đã vượt qua cái chết bởi những đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi tiến đến vinh quang.
Như vậy, mọi việc lành chúng ta làm ở đời này đều sinh công ích. Mọi đau khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa.
Chúa sống lại, Ngài muốn minh chứng cho chúng ta biết rằng “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi; chết không phải là là tiếng nói cuối cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới ”.
Chớ gì mỗi năm mừng Chúa Phục Sinh, là dịp nhắc nhở chúng ta sống lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Nếu anh em muốn sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời…” (Cl. 3,1).
Tìm kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết công ăn việc làm để rồi tối ngày chỉ đi nhà thờ quỳ cầu nguyện liên lỉ. Nhưng tìm kiếm những sự trên trời, theo như lời thánh Phaolô khuyên nhủ đó là: “Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh Chúa”(1Cr 10,31).
Mỗi sáng khi thức dậy, người mà chúng ta nhớ đầu tiên phải là Chúa. Việc lo lắng tìm kiếm trước tiên phải là Nước trời “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước…” (Mt 6, 33). Rồi cuối ngày trước khi ngã lưng xuống ngủ, người nhớ cuối cùng cũng phải là Chúa, nếu có gì lầm lỗi trong ngày xin Chúa thứ tha.
Nếu ngày nào chúng ta cũng sống liên kết mật thiết với Chúa như thế, là chúng ta đang tìm kiếm những sự trên trời, đang sống Tin mừng Chúa Phục Sinh.
Quí ông bà và anh chị em thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền phép chúng ta đồng thanh tung hô: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến” (1Cr 11,26).
– Thế nào là loan truyền và tuyên xưng việc Chúa sống lại?
Loan truyền bằng sự cảm thông chia sẻ như thánh Phanxicô nói đó là: đem yêu thương vào nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Tuyên xưng việc Chúa sống lại không phải bằng “đầu môi chót lưỡi” nhưng bằng cách thay đổi lối sống của mình. Như các tông đồ, họ không còn sống cho chính bản thân mình nữa, mà sống cho “Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta”. Vì thế, họ sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết vì danh Chúa Phục sinh.
Ngày xưa, trong cuộc thương khó Chúa, các tông đồ hoảng sợ, đức tin lung lay tận gốc rễ, nhưng nhờ Đức Mẹ củng cố niềm tin mà các ông được vững mạnh. Thì bây giờ, giữa một thế giới có nhiều biến động và nhiều thách đố, nhiều khi làm cho đức tin chúng ta bị lung lay chao đảo, thì hãy bắt chước các tông đồ mau chạy đến với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ ra tay nâng đỡ phù trì, giúp chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng phục sinh của Chúa.
Lạy Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia. Vì Con Mẹ đã sống lại thật. Alleluia. Xin cầu cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
SỰ SỐNG LẠI LÀ NIỀM HI VỌNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:
“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiệm nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)
Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hạt giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giê-su sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: “Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.
Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Chúa Giê-su hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giê-su. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Cách đây ít lâu, một tờ báo phát hành tại California, Hoa kỳ đứa tin như sau: có một công ty nhận làm dịch vụ ướp xác chết trong tủ lạnh để khỏi bị hư thối. Rồi với những khám phá và tiến bộ khoa học, những người chủ trương hy vọng rằng: họ có thể tìm ra nguyên nhân cái chết của xác đó, tình trạng bệnh lý của cái xác đó trước khi chết. Và trong tương lai, họ có thể điều trị chứng bệnh đã tìm thấy và làm cho cái xác ấy được sống lại và sống mãi.
Chúng ta thực sự không biết được chương trình này rồi sẽ ra sao, thành công hay không, chúng ta cứ chờ xem. Nhưng hôm nay, nói về sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta không nói đến chuyện con người sẽ sống lại để tiếp tục sống mãi với cái thân xác mà người ta gọi là xác đất vật hèn này.
Vậy Chúa Giêsu sống lại là thế nào? Khi sống lại Ngài có sống với thân xác cũ không? Ngay từ thời thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rinh-tô, ngài cho biết đã có những người đặt ra các câu hỏi như thế. Và ngài đã khẳng định với họ rằng: thân xác phục sinh không giống như thân xác cũ trước kia, nhưng bất tử và thiêng liêng. Nghĩa là Chúa Giêsu đã sống lại trong thân xác của Ngài. Nhưng thân xác lúc sống lại hoàn toàn khác thân xác lúc còn sống trước kia. Cũng là thân xác lúc trước thật, nhưng sau khi sống lại thân xác Chúa Giêsu trở thành siêu việt, không còn bị ràng buộc bởi những cản trở vật chất nữa, không còn bị chi phối bởi những định luật của không gian và thời gian nữa, nên muốn đi lại đâu tùy ý, vượt qua tường hay vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, và biến mất liền sau đó như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Vì thế, thánh Phaolô nói: “Ngài là Người Trời”.
Đây cũng là tình trạng của thân xác chúng ta sau này, nghĩa là sau ngày tận thế, thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Giêsu sau khi sống lại, tức là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn là thân xác của mình. Về điều này trí óc chúng ta không thể hiểu thấu được, vì chúng ta còn bị giới hạn trong những phạm trù của không gian và thời gian, và chúng ta chỉ có thể chấp nhận được bằng đức tin. Nhưng tin có cơ sở, có bằng chứng, đó là sự sống lại, sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại, có nghĩa là Chúa Giêsu chết trên thập giá, bây giờ vẫn đang sống. Và nếu Ngài muốn, Ngài cũng sẽ xuất hiện cho chúng ta gặp Ngài tận mắt như các tông đồ xưa. Vì thế, chúng ta tin Chúa Giêsu là chúng ta tin một người sống, một người có thể gặp được. Những vĩ nhân trên đời, những anh hùng dân tộc…sự nghiệp của họ lẫy lừng nên chúng ta khâm phục; cuộc đời họ đáng quí, nên chúng ta tưởng nhớ. Và tưởng nhớ vì họ đã chết. Đâu còn gì để gặp gỡ và đâu còn gặp gỡ nữa mà bảo tin. Còn Chúa Giêsu thì hằng sống, Ngài đang sống thực. Chúng ta tin Ngài vì chúng ta vẫn gặp Ngài.
Trải qua gần hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Chúa, là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong thánh lễ, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành giới răn mới của Ngài.
Chúng ta hãy nhớ: ai cũng sống lại: người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo…đều sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục…đều tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay trên trần gian. Vì thế, cuộc sống hôm nay, tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá cho cuộc sống mai sau. Cho nên chúng ta cần sống đúng người Kitô hữu đã được cứu chuộc để được sống mãi với Chúa Ki-tô.
Dưới tựa đề “Trái tim của chàng E-rôn Phơ-lin (Errol Flinn) đã quá lâm lụy”, báo Pa-ri Mát (Paris Match) cho in tấm hình của Phơ-lin, một tài tử lừng danh của Hô-ly-út (Holywood). Tấm hình chụp Phơ-lin nằm trần như nhộng trên chiếc ghế xếp, tay phải cầm ly rượu uýt-ki, tay trái đặt nhẹ trên vai một phụ nữ xinh đẹp cũng đóng khố như chàng. Bên trên tấm hình có hàng chữ sau: “Errol Flinn đã chết như khi chàng sống”. Thì ra tấm hình này, tuy chụp Phơ-lin lúc còn sống, nhưng đồng thời nó cũng ghi lại đầy đủ chi tiết cái chết của chàng. Khi bệnh tim đến kết liễu đời chàng, người ta thấy Phơ-lin giống hệt như trong tấm hình chụp lúc còn sống.
Cây nghiêng về hướng nào sẽ ngả theo hướng đó. Đời sống thế nào, cái chết sẽ thế ấy. Anh chị em tin có đời sau và chắc anh chị em cũng đồng ý với tôi: sống thế nào chết thế ấy. Thế thì chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với phẩm giá con người. Hơn nữa, chúng ta còn phải cố gắng sống sao cho xứng đáng với chức vị là con Chúa nữa.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
NGÀY THỨ NHẤT – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện chưa bao giờ xảy ra. Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời (Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” (Mt 22,32)
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự sống là cần có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” (Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong rêu bé tí cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế, từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khủng long vĩ đại, đều có sự sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ, ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong trứng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống. Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyết. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI THÁNH KINH- Lm Antôn Nguyễn văn Độ
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : “Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ” (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc “lính canh khiếp đảm” (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói” (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong”(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh” (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
THẤY VÀ TIN- Trích Logos B
Văn hào Nga nổi tiếng Lev Tolstoi viết một tác phẩm văn học được nhiều người biết đến mang tên “phục sinh” (Resurrection). Có người nghĩ rằng đây là một tác phẩm thần học Kitô giáo. Thật sự đây chỉ là một tiểu thuyết xã hội, nhưng tác giả đã mượn từ ngữ “phục sinh” để diễn tả sự “hồi sinh” của 2 tâm hồn tội lỗi, cũng là 2 nhân vật chính trong tác phẩm :
Nhêkhơ Liuđốp là một quí tộc thời Nga Hoàng. Khi còn là một sinh viên đã đem lòng yêu thương nàng con gái nhà nghèo tên Maslôva. Sau đó Nhêkhơ Liuđốp đã nhẫn tâm bỏ rơi cô gái vào đúng lúc cô gái đang mang thai. Cô gái đã bị xô đẩy vào con đường cùng cực và tội lỗi của xã hội. Mang tội giết người, Maslôva phải ra toà ngay lúc Nhêkhơ Liuđốp ngồi trên ghế thẩm phán. Nhận ra được cô gái mình đã bỏ rơi, Nhêkhơ Liuđốp đã ăn năn sám hối, cứu giúp cô gái rồi từ bỏ tất cả cuộc sống giàu sang và tội lỗi để trở lại làm một con người chân chính với mục đích chuộc lại tội lỗi ngày xưa.
Moslôva cũng được hoán cải để trở thành một người tốt và có ích cho xã hội.
Lev Tolstoi đã nói lên một phần nào ý nghĩa cốt lõi của sự “phục sinh” : “phục sinh” là chỗi dậy từ nấm mồ của sự chết, là “sống lại” từ con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới tràn đầy ân sủng của Đức Kitô Phục Sinh.
Trong ngày đại lễ Phục Sinh, dưới ánh sáng Thánh Linh chiếu soi, chúng ta lần lượt gặp gỡ những nhân vật đã đến trước “ngôi mộ trống” để tìm được ý nghĩa “phục sinh” trong cuộc đời chúng ta.
Ba nhân vật, ba tính cách
– Nhân vật thứ nhất ra thăm mồ Chúa từ sáng sớm, khi trời còn tối, vào ngày đầu tuần là bà Maria Mađalêna. Phụ nữ luôn sống với những cảm xúc và luôn để cho tình cảm dẫn dắt. Bởi vậy, vì thương nhớ Thầy Chí Thánh, bà Maria đã vội vã ra thăm mồ Chúa vào lúc trời vừa hừng sáng. Hai sự kiện lạ đã đập vào mắt bà khi vừa tới mồ: đó là tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ và xác Chúa không còn nữa. Cũng chính tình cảm và trực giác đã dẫn bà đến chỗ sợ hãi và hoang mang. Bà vội vàng chạy về báo tin cho tông đồ Phêrô và Gioan, với một kết luận : “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.
Chính tình cảm nông cạn đã che khuất tầm nhìn đức tin của bà Maria. Phải chờ đến khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với bà, bà mới tin Ngài sống lại.
– Nhân vật thứ hai chạy ra mồ là một nhân vật quan trọng : tông đồ trưởng Phêrô. Thật ra, cả tông đồ Phêrô và Gioan cùng chạy ra mộ Chúa. Nhưng Phêrô với tuổi khá cao, và đã trải qua nhiều kinh nghiệm đau thương của sự vấp ngã, nên hầu như luôn dè dặt và nghi ngại. Vì thế, ngài chỉ nhìn những hiện tượng trước mắt nhưng chưa có phản ứng nào cả. Chính sự nghi nan đã làm cho ngài chưa dám tỏ lộ niềm tin. Chỉ sau khi đón nhận ánh sáng Phục Sinh, ngài mới tin và tin một cách mạnh mẽ.
– Nhân vật thứ ba được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” đó là tông đồ Gioan. Với người tông đồ trẻ trung này, tình yêu luôn là động lực thúc đẩy ngài tiến tới trước và khám phá ra Thầy Chí Thánh trước những người khác. Cùng chạy với Phêrô, nhưng tông đồ Gioan đã tới trước. Tuy vậy ngài vẫn nhường bước cho tông đồ trưởng Phêrô. Chính tình yêu đã dẫn đến niềm tin. Chính lòng yêu mến đã soi sáng cho Gioan nhớ lại những lời Thầy nói trước kia. Vì thế ngài đã thấy và đã tin.
Qua đó chúng ta luôn nhận ra một điều quan trọng trong đời sống đức tin : chính những giọt nước mắt tình cảm đã làm mờ đôi mắt đức tin của bà Maria Mađalêna. Và chính sự mặc cảm tội lỗi, lòng nghi nan làm chậm bước chân niềm tin của tông đồ Phêrô. Chỉ có lòng yêu mến, sự hăng hái quả cảm, sẵn sàng vượt qua mọi gian khó, mới thúc đẩy chúng ta vững bước trên cuộc hành trình đức tin, theo kinh nghiệm của thánh Gioan tông đồ.
Thấy và tin
Trước “ngôi mộ trống” của Chúa Giêsu có hai cái “nhìn” dẫn đến hai thái độ “tin”.
Cái nhìn của bà Maria Mađalêna là cái nhìn thoáng qua, nghĩa là bà chỉ đứng ngoài nhìn vào cửa mộ. Bà không bước vào mộ dù tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Hơn nữa, lúc ấy là sáng sớm “trời còn tối”, khiến bà bị ngộ nhận là người ta đã lấy xác Chúa ra khỏi mồ. Chính cái nhìn hời hợt này không làm cho bà thấy được sự thật, nên không dẫn bà đến niềm tin đích thật vào sự sống lại của Chúa.
– Cái nhìn của thánh Gioan là cái nhìn của trái tim, nghĩa là cái nhìn xuất phát từ lòng yêu mến và sự chân thành. Thánh Gioan đã vào bên trong ngôi mộ, cúi mình xuống để nhìn những tấm khăn liệm. Khi “cúi mình xuống” trong chân thành và khiêm tốn, thánh Gioan đã được Chúa ban cho niềm tin mạnh mẽ. Ngài đã “thấy và đã tin”.
Để thấy được Chúa Phục Sinh, chúng ta cũng hãy nhìn bằng đôi mắt tin yêu, chân thành và khiêm tốn. Đó là cái nhìn luôn hướng về Chúa và về tha nhân. Như thánh Gioan khi chạy đến mộ, ngài hướng mắt về Chúa nên chạy thật nhanh, nhưng vẫn nhìn sang thánh Phêrô, để chờ đợi trong cảm thông và kính trọng.
Xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt đức tin thật sáng để nhận ra Chúa Phục Sinh đang trỗi dậy trong cuộc đời chúng ta. Có những tảng đá đang che lấp giữa lòng ta, khiến đời ta như ngôi mộ đóng kín.
Từ nấm mộ tối tăm chết chóc của tâm hồn chúng ta, Chúa đã cho sự sống vươn dậy như ánh sáng của ngày mới. Chớ gì chúng ta luôn biết sống lại với Chúa từ nơi huyệt sâu của tội lỗi và gian tà.
Tại giáo xứ kia có một thanh niên hư hỏng và hay quậy phá, là con của một người phụ nữ đạo đức tốt lành trong xứ. Bà mẹ này thường đến tâm sự và xin cha xứ khuyên bảo người con hư đốn. Mỗi lần cha xứ đến khuyên răn, chàng thanh niên thường không nghe, lại còn bướng bỉnh kéo tay áo lên để lộ hàng chữ xâm trên tay “đã chơi, chơi tới cùng”.
Một ngày nọ, vì say xỉn, anh ta dùng xăng tính đốt nhà, bị chính quyền bắt giữ. Bà mẹ lên hỏi cha xứ có nên làm đơn gửi con đi cải tạo không, cha xứ trả lời : môi trường cải tạo sẽ giúp cho anh ta nên người.
Thế là anh ta bị cải tạo hai năm. Vị linh mục nghĩ rằng ; sau này khi trở về, có lẽ anh ta sẽ oán hận mình lắm. Nhưng không, khi ra trại, người đầu tiên mà anh ta tìm đến để xin lỗi chính là vị linh mục. Và cũng từ đó anh ta trở thành một con người tốt.
Chính những lời khuyên bảo của vị linh mục như những hạt giống tốt đã sinh hoa kết quả trong lòng anh ta, và làm cho tâm hồn anh ta được hồi sinh.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con sự sống của Chúa và làm cho cuộc đời chúng con được đâm chồi nảy lộc trong sự hồi sinh.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
TRỞ NÊN TẠO VẬT MỚI- Lm. Minh Vận
Giáo Hội Đông Phương có một tục lệ rất hay và có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, người ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: “Chúa Kitô đã sống lại”. Người kia đáp lại: “Người đã sống lại thật”.
Đập bể trái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sự sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.
Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.
Niềm Tin Mầu Nhiệm Chúa Phục Sinh
Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo “Chúa sẽ phục sinh”. Nay đã được thực hiện, bằng tất cả niềm tin kính sùng mộ.
Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.
Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: “Bình an cho các con!”. Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin”. Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin” (Jn 20:26-29).
Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.
Hạnh Phúc Ơn Làm Con Thiên Chúa
Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.
Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế” (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xứng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.
Điều Kiện Sống Ơn Gọi Làm Con Chúa
Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản thân và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: “Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” và Chúa còn nhắn nhủ: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm”.
Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.
Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người… Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!”
Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: “Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa… Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả”.
Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu”.
Kết Luận
Lời Chúa phán dạy chúng ta: “Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hạt; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng”.
Câu truyện trái “Trứng Phục Sinh” gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.
Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
ĐÊM THÁNH, ĐÊM HI VỌNG (Lễ Đêm)- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).
Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.
Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.
Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.
Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.
Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.
Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).
Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.
Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.
Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.
Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.
Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).
Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.
Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.
Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:
Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.
Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.
Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:
Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.
Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.
Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.
Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.