CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
QUA ĐAU KHỔ THẬP GIÁ TỚI VINH QUANG PHỤC SINH (*)– Chú giải của Noel Quession 14
THẬP GIÁ LÀ “VINH QUANG” CỦA THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 22
ĐẤNG MESSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux 96
LỄ LÁ- Chú giải của Fiches Dominicales. 108
NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 115
NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ– ĐGM Phêrô Nguyễn văn Khảm.. 129
NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 133
CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU– Lm. Phêrô Kiều Công Tùng. 137
LỜI THÁNH KINH ỨNG NGHIỆM- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 142
ĐẤNG LÀ CON THIÊN CHÚA VÀ VUA DÂN DO THÁI– Lm. Phêrô Lê Văn Chính 150
VÁC THỆP GIÁ VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 156
NHỮNG CHIẾC LÀ PHẤT PHƠ- Cố Lm. Vũ Khắc Nghiêm.. 160
CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ- Lm. Đaminh Trần Quang Hiền. 164
CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐẤNG MESSIA CỨU THẾ- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 167
TUẦN LỄ MANG LẠI ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Trần Bình Trọng. 173
CON ĐƯỜNG CHÚA ĐI – Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 176
TẠI LÀM SAO CHÚA CHẾT?- Lm Antôn Nguyễn văn Độ. 180
ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN- Trích Logos B.. 185
THÔNG PHẦN ĐAU KHỔ VỚI CHÚA TRÊN THẬP GIÁ- Lm. Thái Nguyên 191
VẠN PHÚC ĐẤNG NGỰ ĐẾN NHÂN DANH CHÚA- Lm. FX Phạm Đức Trị 202
THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB 205
THẬP GIÁ, TÌNH YÊU CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam.. 209
CHÚA GIÊSU, NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê 213
VÂNG PHỤC NGAY CẢ CHẤP NHẬN CÁI CHẾT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm 218
NHỮNG IM LẶNG SAU TIẾNG HOAN HÔ- Lm. Trịnh Ngọc Danh. 223
TÌNH CHÚA, TÌNH NGƯỜI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 229
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
Năm B – BÀI PHÚC ÂM: Mc 11, 1-10
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con ‘Sao các ông làm thế?’, thì hãy nói rằng: ‘Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'”. Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: “Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?” Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Đavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!”
Đó là lời Chúa.
THÁNH LỄ:
BÀI ĐỌC I: Is 50, 4-7
“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Đáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.
2) Đứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Đấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”
BÀI ĐỌC II: Pl 2, 6-11
“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Đó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Bài Thương Khó: Mc 14,1 – 15,47 (bài dài)
“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. CG: Chúa Giêsu
- Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. “Đừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân”. C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Đập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: CG. “Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà”. C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: CG. “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: CG. “Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta”. C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. “Thưa Thầy, có phải con không?” C. Người đáp: CG. “Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”. C. Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: CG. “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: CG. “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: CG. “Đêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”. C. Phêrô thưa Người: S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không”. C. Chúa Giêsu bảo ông: CG. “Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần”. C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. “Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy”. C. Và tất cả đều nói như vậy. Đi đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: CG. “Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện”. C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: CG. “Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức”. C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: CG. “Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha”. C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: CG. “Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối”. C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: CG. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi”. C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. “Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận”. C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. “Chào Thầy”. C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: CG. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. “Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra”.
Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. “Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông”. C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. “Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” C. Chúa Giêsu đáp: CG. “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây”. C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. “Hãy đoán xem!” C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. “Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét”. C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. “Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì”. C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. “Ông này thuộc bọn đó”. C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. “Đúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa”. C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. “Tôi không biết người mà các ông nói đó”. C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: “Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần”. Và ông liền than khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” C. Chúa Giêsu đáp: CG. “Ông nói đúng!” C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!” C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. “Đóng đinh nó đi!” C. Philatô đáp lại: S. “Người này đã làm gì nên tội?” C. Song chúng càng la to hơn: S. “Đóng đinh nó đi!” C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Đoạn chào Người rằng: S. “Tâu Vua dân Do-thái”. C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. “Kìa! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!” C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Đấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!” C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: CG. “Eloi, Eloi, lema sabachtani!” C. Nghĩa là: CG. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!” C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. “Kìa, nó gọi Elia!” C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. “Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?” C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. “Đúng người này là Con Thiên Chúa!” C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
QUA ĐAU KHỔ THẬP GIÁ TỚI VINH QUANG PHỤC SINH (*)– Chú giải của Noel Quession
(Mc 14,1 – 15,47)
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Mác-cô, bài thương khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn bằng tiếng Hy-Lạp của Mác-cô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ viết…và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Mác-cô thêm vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết cua Đức Giêsu phải là vấn đề chủ yếu: có một “bí mật” nào đó cần phai được khám phá.
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!… Điều gì làm được thì cô đã làm: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng” (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại “âm mưu ám hại Đức Giêsu”, “việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a”, “Giu-đa phản bội”, “chuẩn bị mừng lễ Vượt qua”, “báo trước việc Giuđa phản bội”, “thiết lập Bí tích Thánh Thể và “cơn hấp hối tại Ghét-sê-ma-ni”… tất cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm Ngài Cuộc thụ Khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Máccô. Trong khi đọc như thế, các bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được “mai táng” (14,8), “bị phản bội” (14, 10.14,17), “phải đổ máu” (14,24), “bị mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ” (14, 27-30). “hấp hối” (14,34-36) Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc “Phêrô tuyên xuống Đức tin tại Xê-da-rê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục của mình (Mc 8,3,31 – 9,30 – 10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Mác-cô: Đức Giêsu tiếp tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là “tác động” quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác sao?
Bữa ăn vượt qua (Mc 14,12.13.14.16).
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ “Vượt qua”. Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tướng niệm công cuộc “giải phóng”! Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy diệt ta, kể cả trong cái chết của mình… nhờ đức tin, chúng ta có thể tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp ta vượt thoát nhưng khó khăn đó, tới hạnh phúc bát diệt. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của Người như một cuộc “vượt qua”: thay vì trốn chạy thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm nghiệm về cái chết như thế, Người đã “thay đổi ý nghĩa” cho nó: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pr 2,8). Lạy Chúa, Xin. cho con biết chấp nhập mọi trái ý trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô đơn, tội lỗi… như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy… Đức Giêsu đã nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu “truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã uống rượu đó (“tất cả đều uống” câu 23… Người bảo họ: “Đây là Máu Thầy câu 24…). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và các nghi thức chặt chẽ… như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình Thánh nơi miệng… Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái (độ “tạ ơn” (câu 22) “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hi sinh mạng sống mình” (Mc 10,45; Ga 10.18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thướng khó để “ngay từ bây giờ và một cách tự nguyện hiến dâng” cái chết của ta, hợp ý cùng cái chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó là thái độ thanh thản chờ đợi “ngày đó”, ngày của Thiên Chúa, ngày mà Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới… ngày đó “sẽ không còn sự chết, cũng chẳng. còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là tiệc cưới của con chiên” (Kh 21,4)… đó là “ngày cuối cùng”, kết thúc thời gian, hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt… và tất cả chúng ta đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc thánh thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc? rượu mới trong nước của Chúa Cha”, trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước: “mọi người ” sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn “ba ” người trong các môn đệ để ở bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ” cả (Mc 14,33-37.40–41), tất cả đều “bỏ Người trốn chạy hết” (Mc 14,50)… và trên thập giá, người cảm thấy ngay Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né. Người vâng theo định mệnh con người”.
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc 14,32)… Lạy Cha Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “ê-lô-I, Ê-lô-i, La-ma-sa-bác-tha-ni!” nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Ghét-sê-ma-ni và cầu nguyện tại Gôn-gô-tha. Máccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra-mên, thứ tiếng mà khi Người còn là cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: “Ap-ba” có nghĩa là “Ba ơi”, “Ê-lô-i” có nghĩa là “Thiên Chúa của con”… Lạy Chúa, xin giúp con khi gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
- Xin cho con khỏi đau khổ này!
- Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh thánh (nhưng một gia đình Công giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức Gỉêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG: ĐỨC GIÊSU LÀ “CON THIÊN CHÚA” VÀ LÀ “VUA”.
Trong Tin Mùng Mác-cô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu: Một lời tố cáo có tính “tôn giáo” (Mc 14,53-65), trước Thượng hội đồng, trước “tất cá các vị Thượng tế… và một lời tố cáo mang tính “chính trị ” (Mc 1 5, 1 -20), trước Phi -la-tô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma…để “bí mật ” về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu Na-da-rét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự bên hữu Đấng toàn năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như Ngài nói đó.
Bây giờ “bí mật” đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im lặng, bởi vì con người chỉ có thể “hiểu được” Thiên Chúa, khi nhìn lên thập giá: Người là “Con”, nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là “Vua”, nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều chết cho “kẻ khác”… ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền thống trị: mà trở nên “tôi tớ”, tặng ban mạng sống mình cho “muôn dân”.
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngo ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15,29-30), những người tố cáo thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ rằng’nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá (15,31-32), hai tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông đồ thì chẳng thấy mặt mũi đấu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là con Thiên Chúa”.
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát sinh thái độ Đức tin trên… chứ không phải biến cố “Phục sinh” xảy ra sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải suy gẫm về “cái chết” của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều. Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình thuật này… Con sẽ lắng nghe… bí mật của Chúa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- Năm B
THẬP GIÁ LÀ “VINH QUANG” CỦA THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào việc tưởng niệm cuộc Thương Khó Đức Giê-su theo chu trình Phụng Vụ năm B.
Is 50: 4-7
Trước tiên, ngôn sứ I-sai-a hé mở cho chúng ta Người Công Chính đau khổ, dưới dung mạo của Người Tôi Trung của Đức Chúa. Dù bị nhạo báng, bị lăng nhục, nhưng Người Tôi Trung không hề đả kích mà lại đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
Pl 2: 6-11
Tiếp đó, chúng ta suy niệm mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su mà thánh Phao-lô họa lại trong thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê dưới hình thức một bài thánh thi Ki-tô học. Đây là bằng chứng quý báu của Giáo Hội tiên khởi.
Mc 14: 1-15: 47
Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc thương khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô. Thánh ký nhắc cho chúng ta nhớ rằng qua con đường thương khó và tử nạn, Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)
Với đoạn trích nầy, chúng ta dự phần vào niềm xác tín của vị ngôn sứ. Chính vì thường hằng chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, hằng ngày gẫm suy Lời Chúa, nên ông chẳng những không tránh né sứ mạng của mình mà còn “biết lựa lời mà nâng đỡ ai mệt mỏi chán chường”. Vị ngôn sứ đã không nhận được bất cứ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại chỉ toàn những lời lăng mạ và sỉ nhục. Ông bị đánh đòn, tra tấn (giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), chịu những lời mắng nhiếc, phỉ nhổ vào mặt, khinh bĩ đến tột cùng.
Chân dung của “Người Tôi Tớ chịu đạu khổ”:
Nhưng “người tôi trung” đặt trọn niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra”, nghĩa là “kiên vững không hề nao núng”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng “Đức Giê-su đã trơ mặt ra” khi Ngài lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc Tử Nạn của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết mọi can đảm và khẳng định ý muốn của Ngài.
Đoạn trích này thuộc bài ca thứ ba trong số bốn bài ca “Người Tôi Trung chịu đau khổ”, trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Chân dung của “Người Tôi Trung” nầy gợi lên lúc thì dân Ít-ra-en (ngôn sứ I-sai-a đệ nhị thường gọi dân Ít-ra-en “người tôi trung của Đức Chúa”) lúc thì một cá nhân biệt phân đón nhận một sứ mạng đặc biệt. Vả lại, cách giải thích theo chiều kích tập thể và cách giải thích theo chiều kích cá nhân không loại trừ nhau; cả hai đều chồng chéo lên nhau trong nhiều đoạn văn.
Người tôi trung nầy xử sự với một cung cách dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất). Ông được giao phó sứ mạng giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai). Ông phải chịu những bách hại và những lăng nhục (bài ca thứ ba). Ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).
Một sứ điệp mới:
Với dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ”, chúng ta ở một khúc quanh rất quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến dung mạo của một vị vua vinh quang, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng sẽ thiết lập một triều đại công lý và hòa bình. Ấy vậy, vào lúc nầy không còn vua; vương triều Đa-vít đã bị nhận chìm vào trong phong ba bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị thiêu hủy, dân thành Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh đời nô lệ và một phần lớn dân thành bị lưu đày. Đây là thời điểm thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thuở xưa không hề bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a vẫn sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít), nhưng điều mà những viễn cảnh mới hé mở, chính là sự can thiệp của “một người Thiên Chúa tuyển chọn”, của “một người Đức Chúa xức dầu tấn phong”, Đấng nầy sẽ âm thầm hành động, bên ngoài trông có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng rồi sẽ được tôn vinh.
Vị ngôn sứ bị lăng nhục:
Ở nơi nhân vật chịu nhục nhã ê chề nầy, phải nhận ra chính vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Được Thiên Chúa trao phó sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh, mệt mỏi chán chường, ông không lẫn tránh công việc phụ bạc nầy; ông cố giúp cho họ hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu, kêu mời họ hoán cải, hứa với họ một cuộc cứu thoát. Ấy vậy, ông vấp phải sự vô tri, ngờ vực và giận dữ của những người đã nếm mùi đắng cay của một cuộc lưu đày dài lâu.
Người Công Chính bị bách hại:
Bên kia dung mạo của một vị ngôn sứ hiện hình dung mạo của Người Công Chính thập toàn, bản văn vang lên cung giọng Mê-si-a. Cũng chính Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong một thái độ hoàn toàn vâng phục. Cũng chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn khốn khổ. Như vị ngôn sứ vô tội, thay vì biết ơn, Ngài sẽ bị đánh đập, nhục mạ, khổ hình mà “chẳng hổ ngươi và trơ mặt ra như đá vì biết mình sẽ không phải thẹn thùng”.
Bài ca thứ ba nầy cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư bi thương về Người Tôi Trung sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Phi-líp-phê là một bài thơ sáu khổ, theo thể văn xuôi có vần có điệu. Ba khổ thơ đầu tiên họa lại việc Đức Giê-su tự nguyện hạ mình (2: 6-8), và ba khổ thơ còn lại, theo một chiều hướng ngược lại, thuật lại ba giai đoạn Thiên Chúa Cha tôn vinh Ngài (2: 9-11).
Trong bức thư chất chứa giọng nói nồng nàn rất thân quen nầy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta gặp thấy những câu thơ khôn sánh như tuôn trào từ ngòi bút nầy. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi giàu hình tượng nầy. Dù sao chúng ta cũng vẫn có một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn cổ xưa nhất về thần học Đức Ki-tô; nhất là bài thơ nầy mang đến một lời chứng quý báu đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của Tin Mừng Gio-an) về niềm tin nguyên thủy vào cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su.
Ba giai đoạn tự hạ (2: 6-8):
1-Đức Giê-su, tuy vẫn là Thiên Chúa, từ bỏ không chỉ Thiên Tính nhưng còn cả vinh quang vốn dĩ nội tại ở nơi Ngài.
2-Ngài tự hủy mình ra hư không, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn, sống kiếp phàm nhân, để chia sẻ tận cùng những cảnh đời cơ cực yếu hèn của con người (ngoại trừ tội lỗi).
3-Ngài còn tự hạ hơn nữa khi vâng lời chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá.
Ba giai đoạn vinh quang (2: 9-11):
1-Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu. Danh hiệu ở đây mang lấy một ý nghĩa tuyệt đối, nghĩa là chỉ dành riêng cho một mình Ngài. Đây là danh hiệu của Đức Chúa, danh hiệu mà trong truyền thống Do thái dành riêng để chỉ danh khôn tả của Thiên Chúa như phần tiếp theo chỉ cho thấy: “trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”, vì thế, “vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”.
2-Diễn ngữ “cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty” chỉ toàn thể vũ trụ. Điều nầy muốn nói rằng không chỉ nhân loại, nhưng ngay cả toàn thể mọi loài thọ tạo đều phải cung kính thờ lạy Ngài. Đó cũng là chủ đề được gặp thấy trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh 5: 13).
3-Sau cùng, người Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su Ki-tô danh hiệu “Đức Chúa” mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Đây là nét đặc trưng của lời tuyên xưng đức tin nguyên thủy. Cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Phao-lô nhiều lần nhấn mạnh Thiên Tính của Đức Giê-su.
Mẫu gương của Đức Giê-su:
Thánh Phao-lô rất mực yêu mến Giáo Đoàn Phi-líp-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đồng Ki tô hữu đầu tiên trên vùng đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-xê-đoan, thành phố mang tên vua Phi-líp-phê, thân phụ của đại đế A-lê-xan-đê, người đã xâm chiếm thành nầy vào năm 360 trước Công Nguyên.
Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài sống trong sự hiệp nhất và nhất là trong sự khiêm hạ sâu xa. Thánh nhân lấy Đức Ki-tô làm mẫu gương cho họ noi theo.
TIN MỪNG (Mc 14: 1-15, 47)
Bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (14: 1-15: 47)
Như các thánh ký khác, thánh Mác-cô dành một vị thế quan trọng cho bài trình thuật cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta có bằng chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu: biến cố đồi Can-vê không là một tình tiết xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đến để tẩy xóa đi, nhưng trái lại là tuyệt đỉnh công trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại, là nơi Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng cứu độ. Các Ki tô hữu tiên khởi đảm nhận sự thách đố của Thập Giá, bất chấp Thập Giá gây nên sự kỳ chướng đối với dân ngoại.
Thánh Mác-cô đặc biệt dọi chiếu sự mâu thuẩn của những hoàn cảnh: dù bị nhạo báng, nhục mạ, bị kết án khổ hình ô nhục, nhưng Đức Giê-su vẫn khẳng định quyền năng và tính siêu việt của Ngài với một phẩm chất cao vời.
KHÚC DẠO ĐẦU (14: 1-31)
Khúc dạo đầu của bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô gồm có hai phần: phần thứ nhất (14: 1-11) nêu bật câu chuyện người phụ nữ vô danh xức dầu thơm cho Đức Giê-su ở Bê-ta-ni-a và phần thứ hai (14: 12-31) nêu bật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể.
ÂM MƯU VÀ XỨC DẦU Ở BÊ-TA-NI-A (14: 1-11).
Phân đoạn này được dàn dựng theo kiểu văn chương: “hai câu chuyện trong một bài trình thuật”, nghĩa là, câu chuyện “các nhà lãnh đạo Do thái bài mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su được một người môn đệ thân tín của Ngài là ông Giu-đa cộng tác bằng việc phản bội Ngài” (14: 1-2 và 10-11) được chen vào giữa bởi câu chuyện “người phụ nữ vô danh xức dầu cho Đức Giê-su” (14: 3-9). Câu chuyện này vừa tỏ lộ tấm lòng quảng đại của cô tương phản với sự mù quáng của các nhà lãnh đạo Do thái (14: 1-2) và sự phản bội của ông Giu-đa (14: 10-11), đồng thời cũng nhắm đến tước vị của Ngài là Đấng Mê-si-a, “Đấng được xức dầu” (“Đức Ki tô”) và hướng đến cuộc mai táng của Ngài. Phân đoạn này được cấu trúc như sau:
A.Âm mưu (14: 1-2)
B.Việc xức dầu và ý nghĩa (14: 3-9).
A’.Giu-đa phản bội Thầy (14: 10-11).
A.Âm mưu (14: 1-2):
-“Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men”: Trước đây, lễ Vượt Qua là một dịp lễ hội lễ của các dân du mục. Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho các vị thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12: 1-11). Đến khi dân Ít-ra-en đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, gọi là lễ Bánh Không Men, lễ hội nông nghiệp vào mùa xuân. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ hội này: Vượt Qua và Bánh Không Men, nhanh chóng được làm một với nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân về, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (x. Xh 12: 15-20; 34: 18-20) và thiết lập dân Thiên Chúa (Đnl 16: 1-8). Ở Ít-ra-en, lễ Vượt Qua đã trở thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do thái. Lễ bắt đầu vào đêm 15 trăng tròn của tháng Ni-san (tháng Ba-tháng Tư) và kéo dài trong tám ngày, trong thời gian đó, tất cả men phải cất khỏi nhà, và cấm dùng bánh không men (Xh 12: 15-20). Khi tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, dân Ít-ra-en không chỉ kỷ niệm về một quá khứ nhưng còn hiện tại hóa những ơn lành Thiên Chúa thương ban vf ngưỡng vọng Đấng Mê-si-a Cứu Độ. Do đó không phải ngẫu nhiên mà bản tường thuật Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su được đặt vào khung cảnh của lễ hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.
– “Các thượng tế và kinh sư”: Trước đây chúng ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giê-su, dù mới chỉ là nét phác họa sơ sài chỉ liên quan đến nhóm Biệt Phái và các kẻ thuộc phe Hê-rô-đê (3: 6). Nhưng khi Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, nhất là khi Ngài xua đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền Thờ, thì các thượng tế và kinh sư vạch ra kế hoạch bắt Ngài một cách chính xác hơn (11: 18; 12: 12). Đến bây giờ, họ đang cố nghĩ ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giê-su.
-“Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động”: Họ tìm cách bắt Ngài như thế nào đừng làm kích động dân chúng. Lễ Vượt Qua là ngày đại lễ hành hương lôi kéo dân chúng rất đông từ khắp mọi miền đến thành thánh Giê-ru-sa-lem để mừng lễ. Việc bắt và hành hình Đức Giê-su công khai có nguy cơ gây ra một cuộc náo động. Điều này cho thấy Ngài rất được lòng dân chúng. Vì thế tốt hơn nên đợi khi kỳ lễ chấm dứt, lúc đó mới ra tay hành động. Tuy nhiên, những biến cố xảy đến nhanh hơn họ mong muốn, nhất là khi một trong các môn đệ thân tín của Ngài là ông Giu-đa, tên phản bội, sẵn sàng hợp tác với họ.
Xức dầu và ý nghĩa (14: 3-9):
-“Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon Cùi”: Câu chuyện xảy ra ở Bê-ta-ni-a, một làng nhỏ gần Giê-ru-sa-lem, nơi Chúa Giê-su thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giê-ru-sa-lem (11: 11). Người tiếp đón Ngài được gọi là Si-mon Cùi. Chúng ta không biết ông này là ai, nhưng chắc chắn ông không còn bệnh cùi nữa, bởi vì ông đón tiếp khách vào nhà của mình. Vì thế, thánh Giê-rô-ni-mô giả thiết rằng ông đã được Chúa Giê-su chữa lành bệnh, vì thế Ngài là vị ân nhân của ông.
– “Giữa lúc Người đang dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền”: Chỉ một mình Mác-cô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và một người phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn. Thánh ký không cho chúng ta biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quí giá được đánh giá là ba trăm quan tiền (14: 5), quả thật đây là thứ dầu thơm hảo hạng rất đắt (x. Mt 20: 2).
– “Đổ dầu thơm trên đầu Người”: Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình để có thể đổ dầu thơm trên đầu Ngài thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giê-su là việc quá dể dàng: Chúa Giê-su ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài nằm duỗi dài nghiêng qua một bên, tựa đầu vào bàn tay chống cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ của cô mang ý nghĩa gì? Trong số những nghi thức tỏ lòng hiếu khách, việc thức dầu thơm trên đầu khách là dấu hiệu gia chủ tỏ lòng kính trọng và vinh hạnh. Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Ngài. Theo văn hóa Do thái, khi xức dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua (x. 2V 9: 6). Hơn nữa, Đấng Mê-si-a mà mọi người đang mong đợi có nghĩa là “Đấng được xức dầu” (x. Is 61: 1). Việc người phụ nữ đổ dầu thơm trên đầu của Đức Giê-su đã chỉ rõ Ngài là Đấng Mê-si-a. Vì thế, trong đám thực khách, chỉ duy mình chị nhận biết chân tính của Ngài và sự hiện diện đặc biệt của Ngài, tương phản với các thượng tế, các kinh sư và thậm chí cả ông Giu-đa.
“Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: ‘Phí dầu thơm như thế để làm gì?”: Người ta quên rằng ngoài ông Si-mon, Chúa Giê-su và người phụ nữ còn có nhóm Mười Hai nữa chứ. Vài người môn đệ (trong số đó có ông Giu-đa, theo Tin Mừng Gioan) chỉ thấy việc làm của cô là quá phí phạm.
“Dầu có thể đem bán lấy ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”: Họ ước tính bình dầu thơm đó phải hơn 300 đồng: tương đương với 300 ngày công vất vả của một người lao động chứ đâu phải gì! Thà ràng đem bán lấy tiền mà bố thí cho kẻ khó còn hơn. Lời phê bình này cũng thấu tình đạt lý đấy chứ.
“Cứ để cho cô ấy làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa”: Lời này giải thích thái độ khoan dung của Đức Giê-su và việc Ngài mô tả hành vi của người phụ nữ là một việc nghĩa.
“Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình…Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!”: Người ta chẳng thiếu gì người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Mô-sê thì Thiên Chúa đã đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15: 4). Nhưng cũng không nên quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu. Bởi thế, Ta truyền dạy rằng: ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15: 11). Chúa Giê-su không hề phủ nhận ra tay giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một người đặc trách việc bố thí. Theo Gioan, đó chính là phận vụ của Giu-đa, thủ quỷ của nhóm Mười Hai (Ga 12: 4-6). Vậy rõ ràng là ông Giu-đa, một trong vài môn đệ, đã phê bình chỉ trích việc làm của cô là quá phí phạm.
“Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng”: Chúa Giê-su bất ngờ mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa. Chúa Giê-su muốn nói đến hành động mang tính ngôn sứ của cô. Thân thể mà cô xức dầu thơm chẳng bao lâu sẽ bị giết chết, đoạn được mai táng vội vàng nên không đón nhận những vinh dự khâm liệm như tập tục dành cho những người qua đời. Cô đã tham dự trước nghi thức mai táng của Ngài. Đây là cách thức mới Chúa Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài. Như vậy, Chúa Giê-su đã không ngần ngại liên kết hành động của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu.
“Hễ Tin Mừng được loan báo đến đau trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”: Thánh Mác-cô cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến. Khi ghi lại cảnh tượng này, thánh ký biết rằng việc xức dầu ở Bê-ta-ni-a hẳn sẽ được nối kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su. Ta nhận thấy Mác-cô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô cho cả thế giới (1: 1; 8: 35; 10: 29; 13: 10). Tâm điểm của Tin Mừng này là cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đấng Mê-si-a, và dĩ nhiên, cử chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.
A’.Giu-đa phản bội (14: 10-11):
-“Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong nhóm Mười Hai”: Qua những từ ngữ giản dị này: “Một người trong nhóm Mười Hai”, thánh ký nêu bật sự ghê tởm của hành động phản bội. Đây là một trong những đau khổ thấm thía nhất của Đức Giê-su, vào đêm bi thảm này: một trong số các môn đệ thân tín của Ngài, một trong những người đồng hành mà Ngài đã chọn, đã nộp Ngài. Nhiều lần Ngài đã để lộ những nỗi khổ tâm này và cũng nhiều lần Ngài nhắc khéo ông để ông biết hối lỗi mà từ bỏ ý định gian ác ấy, như vào lúc rửa chân và vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể.
Ông Giu-đa toan tính gặp các thượng tế để tính chuyện nộp Chúa Giê-su cho họ. Ông tìm đúng người đúng chỗ. Chính ở nơi nhóm người này mà lòng căm thù sôi sục trong họ. Chính xác là họ vừa mới quyết định là thủ tiêu Đức Giê-su làm cách nào không làm kinh động đến dân chúng.
Như đã nói trên, trong số các môn đệ chống đối việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giê-su, chắc chắn có “Giu-đa Ít-ca-ri-ô, một trong nhóm Mười Hai”. Nhờ vào Tin Mừng Gioan, chúng ta biết thêm rằng chính y là ngươi quản lý tiền bạc cho nhóm tông đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến nhiệm vụ ấy, bởi lẽ “y là một tên trộm cướp…y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho cho vào trong túi y (Ga 12: 4-6). Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giê-su cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được tiền. Các thánh ký khác làm rõ những động cơ phản bội của Giu-đa, đối với Mát-thêu là tham tiền (Mt 26: 15), còn đối với Lu-ca là do Xa-tan (Lc 22: 3).
“Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền”: Những kẻ bày mưu tính kế hãm hại Ngài gặp thấy ông Giu-đa là một kẻ cộng tác bất ngờ, vfi thế hứa cho ông tiền. Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14: 1b) nay có thể thực hiện được. Tiền làm sáng mắt tên phản bội, kẻ hám lợi. Với vài hàng đơn sơ, thánh Mác-cô đã cho thấy rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng ngũ bạn hữu của Chúa Giê-su. Các tác giả Tin Mừng khác làm rõ động cơ phản bội của Giu-đa, đối với thánh Gioan, y “tên ăn cắp” (Ga 12: 6), đối với thánh Mát-thêu, y là “kẻ tham tiền” (Mt 26: 15), còn đối với thánh Lu-ca, “y do Xa-tan xúi dục” (Lc 22: 3). Cần ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giê-su đến cái chết lại đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài. Sự phản bội của ông tương phản với sự trung tín của người phụ nữ. Sáng kiến của ông cho phép các thượng tế và kinh sư thực hiện mưu đồ của họ.
– “Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện”: Bây giờ Giu-đa chỉ còn việc tìm dịp thuận tiện để nộp Chúa Giê-su. Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần phải chờ đến hết ngày.
BỮA ĂN VƯỢT QUA VÀ BÀN TIỆC THÁNH THỂ (14: 12-31).
2.1.Chuẩn bị (14: 12-16)
Bản văn này được tường thuật với văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Chúa Giê-su về địa điểm dọn tiệc. Chúa Giê-su trả lời khá kỳ lạ. Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giê-su đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ lạ thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẳn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã Quan Phòng hết mọi sự, và Chúa Giê-su được coi như là một ngôn sứ biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? chắc hẳn là thánh Mác-cô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, ngôn sứ Sa-mu-en đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Thiên Chúa) với chàng trai trẻ Sa-un. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai này để làm vua Ít-ra-en (1Sm 10: 1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai người môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã chọn Chúa Giê-su làm Vua-Mê-si-a. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng đoạn khác của Mác-cô: chuyện kể về việc Chúa Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem (11: 1-11), theo đó, Chúa Giê-su cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mê-si-a. Trong cả hai lần, sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước của Chúa Giê-su. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định ngôn sứ của Thầy.
-“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua”: Hai ngày lễ này tự nguồn gốc thì khác nhau: lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi; vào ngày lễ này, người ta sát tế một con chiên non để mừng lễ. Còn vào ngày lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, người ta dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và ăn bánh không men từ những lúa mạch đầu mùa. Từ lâu, hai lễ này được cử hành thành một đại lễ, bắt đầu với lễ Vượt Qua và kéo dài suốt một tuần lễ (Đnl 16: 1-8). Việc hiệp nhất hai lễ này trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men. Việc sát tế xảy ra vào buổi chiều ngày 14 tháng Ni-san trước khi ngày thứ nhất bắt đầu lúc mặt trời lặn. Quả thật, các môn đệ được sai đi ra ngoài để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua được cử hành vào đêm 15 trăng tròn của tháng Ni-san (theo cách tính ngày của người Do thái, một ngày mới bắt đầu vào buổi chiều).
– “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”: Theo luật, lễ Vượt Qua phải được mừng ở Giê-ru-sa-lem. Vì thế, con chiên bị sát tế trong khuôn viên Đền Thờ và bữa ăn Vượt Qua được tổ chức ở trong thành. Điều này khiến các môn đệ bận tâm. Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết lưu động; thêm nữa, các môn đệ và Thầy đều là người Ga-li-lê-a.
-“Sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh”: Hoạt cảnh ở đây giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh xảy ra trước đó khi chuẩn bị cho việc Chúa Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a. Trong cả hai hoạt cảnh, Chúa Giê-su sai hai môn đệ đi thi hành sứ mạng trong đó họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa đang cột sẵn ở đó; còn ở đây: một người mang vò nước đến gặp hai ông.
-“Một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng”: Trong cả hai lần, những sự cố xảy ra đúng như Chúa Giê-su định liệu: trong trường hợp trước, người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; trong trường hợp này, người mang vò nước dẫn hai ông vào nhà và chỉ cho hai ông một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng cho Ngài và các môn đệ cử hành bữa ăn Vượt Qua.
Qua những điều này, thánh Mác-cô muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả. Chính Đức Giê-su tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng này với các môn đệ như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Thánh Mác-cô đồng hóa bữa cuối cùng của Chúa Giê-su với các môn đệ Ngài với bữa ăn Vượt Qua theo nghĩa nhặt, nghĩa là xảy ra vào đúng buổi chiều ngày 15 tháng Ni-san. Hai thánh ký Nhất Lãm khác đã theo niên biểu của Mác-cô. Tuy nhiên, Ga 19: 14 đặt cuộc Tử Nạn của Chúa Giê-su vào buổi chiều ngày 14 tháng Ni-san, vì thế, bữa ăn sau cùng của Chúa Giê-su là bữa Tiệc Ly, bữa tiệc áp lễ Vượt Qua. Niên biểu của Gioan xem ra cụ thể hơn, vì việc các thượng tế và kinh sư đã ra tay hành động vào ngày thứ nhất lễ Vượt Qua thì thật đáng ngờ. Bởi lẽ theo luật lệ tòa án vào thời đó, người ta không thể kêu án và xử tử bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có lẽ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do thái xảy ra vào ngày thứ bảy, tức ngày Sa-bát (Ga 19: 31). Chúa Giê-su đã bị đóng đinh vào hôm trước đó, vào ngày thứ Sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18: 28). Như thế Chúa Giê-su dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sở dĩ các thánh ký Nhất Lãm làm bữa tiệc ly thành bữa ăn Vượt Qua chính là muốn đối chiếu cuộc tử nạn của Chúa Giê-su với những chủ đề hy tế và giải phóng của lễ Vượt Qua. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su gắn liền với lễ “Vượt Qua Mới”: việc giải phóng khỏi ách nô lệ của sự Ác và sự Chết. Thánh Phao-lô là người đầu tiên có thể phát biểu: “Đức Ki-tô, chiên Vượt Qua của tá, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với mem cũ…nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5: 7-8).
Trong đoạn văn này, chúng ta lưu ý đến việc lập lại đến hai lần tỉnh từ “Vượt Qua” (14: 12b và 12d) và danh từ “Vượt Qua” (14: 14, 16), là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú ý đến ý nghĩa tối hậu của bữa ăn Chúa Giê-su sắp đồng bàn với các môn đệ. Bữa ăn này là dịp lễ tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mê-si-a Cứu Thế.
2.2.Thắp sáng việc tự hiến của Đức Giê-su (14: 17-31).
Toàn bộ bản văn này được dàn dựng theo kỷ thuật “hai câu chuyện trong một bài trình thuật”, nghĩa là câu chuyện “Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể” được xen vào giữa câu chuyện Chúa Giê-su loan báo ông Giu-đa phản bội Thầy (14: 17-21) và ông Phê-rô chối Thầy (14: 26-31). Nhờ Kỷ thuật văn chương này, thánh Mác-cô thắp sáng việc Đức Giê-su hiến dâng mạng sống, tương phản với thái độ của hai ông Giu-đa và Phê-rô.
A.Loan báo ông Giu-đa phản bội Thầy (14: 17-21)
B.Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-25)
A’.Loan báo ông Phê-rô chối Thầy (14: 26-31).
A.Loan báo ông Giu-đa phản bội Thầy (14: 17-21):
-“Chiều đến, Đức Giê-su tới cùng với nhóm Mười Hai”: Khi màn đêm buông xuống, người Do thái mới cử hành bữa ăn Vượt Qua. Từ trước cho đến nay, thánh Mác-cô vẫn dùng từ “các môn đệ”, nhưng bây giờ, vào lúc trang trọng này, ông gọi họ chính xác là “nhóm Mười Hai”. Hiển nhiên là muốn nói đến các Tông Đồ, những kẻ đã gắn bó với Chúa Giê-su và với sứ vụ của Ngài. Nhóm người đang quây quần dự tiệc với Chúa Giê-su là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể dân Thiên Chúa Mới (12 chi tộc Ít-ra-en).
-“Có người trong anh em sẽ nộp thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy”: Họ được coi là một cộng đoàn thống nhất, tuy nhiên ở đây từ trong nội bộ đã xuất hiện sự chia rẽ. Chúa Giê-su đã loan báo rất rõ ràng rằng Giu-đa sẽ phản bội, tuy nhiên Ngài không nêu đích danh. Ngài nói đến đề tài có trong Kinh Thánh nói về người công chính bị bách hại, về kẻ bị người thân cận nhất phản bội: “Cả người bạn hữu tín cẩn của tôi, kẻ tôi thường san sẻ cơm bánh, cũng đã vùng lên chống lại tôi” (Tv 41: 10).
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại sự kiện này và đều nhấn mạnh Giu-đa “đang cùng ăn với Thầy” (thánh Gioan xác định “chia sẻ cùng một miêng bánh”). Theo quan niệm xưa, “đồng bàn” đồng nghĩa “đồng hội đồng thuyền”, tức “đồng sinh đồng tử”, sống chết có nhau. Như vậy, hành vi phản bội nêu bật nhân cách vô liêm sĩ của ông Giu-đa.
-“Các môn đệ đâm ra buồn rầu”: Bầu khí trang trọng thân tình giữa Thầy trò bổng trở nên ngột ngạt. Lời loan báo của Chúa Giê-su khiến các ông sửng sờ.
– “Lần lượt hỏi Người: ‘Chẳng lẽ con sao?”: Bởi lẽ Chúa Giê-su không thẳng thừng lột mặt nạ kẻ phản bội nên các tông đồ dồn dập hỏi nhau cho biết ai là kẻ phản bội. Chắc chắn Mác-cô muốn hết thảy mọi Ki-tô hữu cũng phải tự đặt câu hỏi này mỗi lần họ tham dự bữa ăn của Chúa.
-“Chính là một trong trong nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy”: Câu trả lời này cũng thật mơ hồ, vì theo tập quán, mọi người đều cùng chấm chung một đĩa. Lại một lần nữa, Chúa Giê-su vẫn chưa chịu nêu đích danh kẻ phản bội, chỉ xác nhận đó là một người trong họ. Ngài cứ để cho các ông thắc mắc.
-“Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người”: Trong những hoàn cảnh nghiêm trọng như thế, Chúa Giê-su thường gợi lên tước hiệu “Con Người” để nói về sứ mạng của mình. Dưới tước hiệu này, Ngài ẩn dấu mầu nhiệm của Ngài.
Rồi, Chúa đã nêu rõ rằng đó là Thánh Ý Thiên Chúa. Dù việc ứng nghiệm Cựu Ước là chủ đề chính trong câu chuyện Thương Khó của Mác-cô, nhưng không có đoạn văn nào nói về những đau khổ của “Con Người”. Tuy nhiên, Chúa Giê-su viện đến Kinh Thánh để làm cơ sở cuối cùng hầu giải thích cho các môn đệ những điều sắp xảy đến với Ngài. Chỉ vì kế hoạch của Thiên Chúa đang làm việc ở nơi cuộc tử nạn của Đức Giê-su. Chúng ta rất thường gặp các lý do tâm lý trong biến cố Khổ Nạn. Điều gì thúc đẩy Giu-đa phản bội Thầy mình? Các Ki-tô hữu sơ khai không hề quan tâm tới câu hỏi này. Đối với họ điều quan trọng là hiểu cho được việc Đấng Mê-si-a bị các môn đệ chối bỏ lại đã hoàn thành chương trình của Thiên Chúa ra sao (x. Is 53: 7-9).
– “Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”: Chúa Giê-su kết thúc bằng những lời rất dể gây ngộ nhận. Qua những lời này, người ta muốn biết liệu Chúa Giê-su có rõ ràng xác quyết rằng Giu-đa có bị kết án đời đời hay không. Chúng ta không thể nào nghĩ đây là lời nguyền rủa thốt ra từ miệng Đức Giê-su vào giờ Ngài ý thức rất rõ là Ngài sắp đổ máu mình để xóa tội nhân loại. Đúng hơn là lời ghi nhận đượm nỗi buồn phiền. Giả như hắn đừng sinh ra, thì không phạm một tội ác tày trời như vậy. Đừng quên rằng Chúa Giê-su đã phát biểu theo lối than vãn thường gặp trong văn phong Kinh Thánh. Ngài không xét xử kẻ phản bội, cũng không kết án y. Ngài chỉ thương hại y theo cách các ngôn sứ thường than vãn về sự bất trung của toàn thể dân Chúa: “Khốn nạn! Dân tội lỗi! Dân chất đầy tội vạ! Nòi giống ác độc! Phường con hư đốn!” (Is 1: 4). Chúng ta cũng đã thấy Chúa Giê-su đã có lần sử dụng lối nói này để quát đuổi quỷ ma (x. Mc 9: 19). Thực vậy, chúng ta không thể nào kết luận được rằng Chúa Giê-su than van như thế là Ngài đã đày Giu-đa xuống hỏa ngục. .
Sự cố đầu tiên ở bài trình thuật Tiệc Ly nhấn mạnh Đức Giê-su biết trước Giu-đa âm mưu phản bội Ngài và Đức Giê-su sẵn sàng vâng phục ý muốn Chúa Cha chấp nhận cuộc thương khó và tử nạn.
Thiết lập bí tích Thánh Thể (14: 22-26):
Bản văn Mác-cô nối kết bánh và rượu của bữa ăn sau cùng của Đức Giê-su với cuộc Tử Nạn ngay liền sau đó của Ngài (x. Mt 26: 26-29; cf. 1Cr 11: 23-25; Lc 22: 15-20), và giải thích chúng trong ánh sáng của các truyền thống hy tế Cựu Ước (x. Xh 24: 8; Is 53: 12) và niềm hy vọng bàn tiệc Mê-si-a trong Nước Thiên Chúa.
-“Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông”: Chúa Giê-su đã làm một cử điệu mang tính nghi thức rất quen thuộc đối với người Do thái khi tham dự bữa ăn Vượt Qua với nhau trong gia đình hay trong nhóm. Như người cha chủ toạ bữa ăn trong gia đình, Ngài cầm lấy bánh và chúc tụng thiên Chúa về những ơn phúc Người đã ban cho. Lời kinh “Chúc Tụng” của người Do thái không phải là một lời nguyện chiếu lệ, trái lại rất trang trọng, bởi vì qua đó dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa lời “ca ngợi và tạ ơn” Thiên Chúa vì đã giải thoát không chỉ ông bà tổ tiên xa xưa của họ nhưng cả chính họ ngày hôm nay. Trong kinh Haggada mừng lễ Vượt Qua (nghi thức ăn mừng đại lễ Vượt Qua), người ta cũng đọc thấy “Ta mắc nợ này: là phải cảm tạ, ngợi khen…chúc tụng Đấng đã ban cho cha ông chúng ta và cả cho chúng ta hằng hà dấu chỉ. Ngài đã kéo ta ra khỏi ách nô lệ đến nơi tự do, từ cõi u sầu đến miền hoang lạc, từ chốn tan tác vào nơi vui vẻ, từ tối tăm ra ánh sáng và từ chỗ bị áp bức tới nơi giải phóng. Và trước nhan Người ta hãy hát lên bài ca mới Alleluia”. Sau khi đã hát xong lời nguyện, Chúa Giê-su bẻ bánh. Ngài phát cho các vị đồng bàn mỗi người một miếng. Vừa trao ban cho từng người, Ngài vừa nói:
– “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy”: Trong tiếng A-ram, ngôn ngữ Chúa Giê-su dùng, tiếng “mình” không phải chỉ nói riêng đến phần thân xác, mà là đến “con người”, nghĩa là toàn bộ cuộc sống của Ngài. Như thế, Chúa Giê-su không chỉ ban ban phát thân xác của Ngài làm của ăn cho chúng ta, như kiểu giải thích duy vật của Tây Phương, nhưng toàn bộ cuộc sống của Ngài. Ngài loan báo rằng toàn bộ cuộc sống của Ngài sẽ được giải thoát khỏi sự chết và chúng ta sẽ được dự phần vào cuộc sống được giải thoát này.
-“Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông”: Ý nghĩa của món quà tặng này còn được Ngài làm rõ hơn ngay sau đó, qua cử chỉ và lời nói của Ngài khi cầm lấy chén rượu. Mọi lời nói ở đây đều cô động lạ thường. Chúa Giê-su cầm chén rượu nho lên cao, rồi dâng lời “tạ ơn” Thiên Chúa một lần nữa. Chính từ ngữ Hy-lạp này đã phát sinh ra từ “Eucharistie” (“hành vi tạ ơn”) trong tiếng Pháp, rồi từ đó người ta dùng thuật ngữ này để chỉ về toàn bộ các nghi thức liên quan đến bàn tiệc Thánh Thể.
-“Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì mọi người”: Ngài trịnh trọng tuyên bố. Kiểu nói: “máu Thầy” trong ngôn ngữ Do thái có nghĩa là “cuộc đời Thầy” (Lv 17: 14). Khi uống rượu đã được thánh hiến, các môn đệ không phải là đã uống máu người. Họ đâu có phải là những kẻ ăn thịt người. Họ thông phần với con người Đức Ki-tô, Đấng đã hiến dâng mạng sống mình trên thập giá (1Cr 11: 17-34).
Những lời Chúa Giê-su nói tiếp theo sau đó đã giải thích rất minh bạch ý nghĩa cái chết của Ngài. Máu Ngài đổ ra sẽ là “Máu Giao Ước”. Thuở xưa trên núi Xi-nai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao Ước với dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn. Sau khi đọc lề luật Thiên Chúa cho dân Ít-ra-en nghe xong, ông Mô-sê đã ghi dấu giao ước đầu tiên này bằng máu của những tế vật (Xh 24: 3-8). Lúc này đây, qua cái chết của mình, Chúa Giê-su sẽ thiết lập điều mà Phao-lô (1Cr 11: 25) và Lu-ca (22: 20) gọi rất chính xác là “Giao Ước Mới” giữa Thiên Chúa với toàn thể nhân loại. Thực vậy, việc Chúa Giê-su hiến mình chịu chết đã đem lại một ý nghĩa “cứu độ” và phổ quát. Máu Ngài “đổ ra cho nhiều người”. “Nhiều người” là một lối nói trong tiếng Do thái để chỉ toàn thể nhân loại và kiểu nói này đã ám chỉ chắc chắn đến “Người Tôi Tớ đau khổ” sắp lãnh nhận cái chết để hòa giải các dân thiên hạ với Thiên Chúa như các ngôn sứ đã loan báo trước đó (Is 53: 12). Như thế, Chúa Giê-su đã nâng sự chết Ngài sắp phải chịu lên một tầm mức cứu độ phổ quát. Ngài hiến thân mình và mạng sống của mình để cứu chuộc thế giới.
-“Cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”: Rồi khi kết thúc bữa ăn, Chúa Giê-su đã mở ra một viễn cảnh cánh chung. Ở đây, Chúa Giê-su loan báo Ngài sẽ chiến thắng sự chết. Ngài hứa hẹn Nước Thiên Chúa sẽ đến qua hình ảnh một bữa tiệc, ở đó rồi mọi người sẽ được ăn no uống đủ. Ở đó, “rượu mới” sẽ tuôn tràn cho mọi người, một khi sự chết đã bị tiêu diệt (chướng ngại tối hậu), hết thảy mọi dân nước trên địa cầu này sẽ thông phần với Thiên Chúa hằng sống (Is 25: 6-9).
Lễ Vượt Qua Do thái mà Chúa Giê-su tham dự cùng với các môn đệ, biến thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo bởi việc Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể như một Giao Ước Mới với Dân Thiên Chúa Mới. Như vậy, lễ Vượt Qua Ki-tô giáo vừa nối tiếp, nhưng cũng vừa đoạn tuyệt và mới mẻ tận căn đối với lễ Vượt Qua Do thái.
Nếu khung cảnh bữa ăn Vượt Qua soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của bữa ăn Thành Thể như thế nào, thì bữa ăn này, cũng là bữa Tiệc Ly, bữa ăn chia tay, mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như thế. Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương cho đến cùng, những người mà Ngài trao gởi sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài cho hậu thế. Trong giờ phút ly biệt kẻ ở người đi này, Chúa Giê-su gặp thấy một phương tiện để ở với họ, bằng cách thiết lập bàn tiệc Thánh Thể như một kỷ vật kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình; nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi sự hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại được.
Các cộng đoàn Ki-tô hữu đều sử dụng các câu trích dẫn từ bản trình thuật trên. Mác-cô cho thấy rằng Chúa Giê-su đã thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Đối với các Ki-tô hữu, bữa tiệc này đã được lặp lại để “tưởng nhớ” cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng Cứu Độ. Khi cùng nhau “bẻ bánh” và “uống rượu chúc tụng”, người Ki-tô hữu ý thức được họ phải loan truyền cho anh em biết đến các biến cố cứu độ này. Họ biết rằng bí tích này phải thực thi sống động mầu nhiệm Chúa Ki-tô đã chết và đã sống lại. Cũng như các anh em Do thái cử hành lễ Vượt Qua thế nào thì các môn đệ Chúa Giê-su cũng lặp lại những lời nói, nghi lễ này thế ấy, đó là “Từ thời nay tới thời khác, khi con người ra khỏi đất Ai-cập, họ đã mắc nợ. Ta hãy chúc tụng Thiên Chú Chí Thánh, Đấng không chỉ giải thoát cha ông chúng ta mà cả chúng ta nữa. Trong Ngài, chúng ta được cứu thoát!”.
A’.Báo trước việc ông Phê-rô chối Thầy (14: 27-31).
Việc báo trước ông Phê-rô sẽ chối Thầy trở lại với việc loan báo ông Giu-đa phản bội Thầy trước đó (14: 17-21). Thật khó tưởng tượng rằng những Ki-tô hữu tiên khởi sáng tác một câu chuyện Phê-rô chối Thầy một cách gay gắt đến như thế.
-“Hát thánh vịnh xong…”: Chi tiết quý báu này cho thấy bữa tiệc ly mà Chúa Giê-su đồng bàn với nhóm Mười Hai kết thúc như một bữa ăn Vượt Qua của người Do thái. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi là “Hallel”, trích từ Tv 115-118, mà người Do thái hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Khi hát xong bài ca tán tụng này, người ta hát “Alleluia”: “Hãy ca tụng Thiên Chúa”.
– “Chúa Giê-su cùng các môn đệ lên núi Ô-liu”. Đức Giê-su và các môn đệ rời phòng tiệc; họ cùng nhau đi xuống thung lũng Xe-ron nằm giữa thành thánh Giê-ru-sa-lem và núi Ô-liu. Đây là nơi Thầy trò dể dàng tìm được nơi nương náu an toàn, tránh được mối đe dọa đang rình rập họ ở trong thành.
– “Tất cả anh em sẽ vấp ngã”: Trên đường đi, Chúa Giê-su báo trước những gì sẽ xảy đến cho họ. Bầu khí hân hoan hội hè nơi bàn tiệc nay nhường chỗ cho bầu khí nặng nề, u uất. Không phải là Ngài không biết đến hậu quả nặng nề sẽ giáng xuống trên các ông một khi Ngài bị bắt đem đi.
– “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác”: Ngài loan báo là các môn đệ sẽ tản mác và sẽ vấp ngã sa ngã nữa bằng cách trích dẫn sấm ngôn Dcr 13: 7-9 này. Vị ngôn sứ này đã loan báo rằng thời kỳ cứu độ sẽ đi trước bởi một cơn thử thách lớn lao giáng xuống trên một phần dân Thiên Chúa để thanh tẩy họ; nhóm còn sót lại này bất ngờ không có người chăn dắt, vào lúc họ sẵn sàng đón nhận Giao Ước Mới. Như vậy, thử thách đang chờ đợi nhóm Mười Hai xem ra quá ư khốc liệt.
– “Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”: Để an ủi các ông, Chúa Giê-su loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ gặp lại các ông ở Ga-li-lê-a, một cách gián tiếp Ngài báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài. Như vậy, Ngài đã cho các ông một cuộc hẹn gặp trước khi bước vào con đường thương khó và tử nạn rồi, nghĩa là, khi “sống lại”, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục qui tụ và dẫn dắt họ.
-“Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không”: Vị thủ lãnh nhóm Mười Hai là Phê-rô, hăm hở đứng ra tuyên xưng lòng trung thành với Thầy mình.
-“Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần”: Lời tuyên xưng của Phê-rô phát xuất từ tấm lòng quảng đại bộc trực. Nhưng Chúa Giê-su không hề lạ lẫm gì sự yếu đuối của các ông.
-“Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”: Thánh Phê-rô lại càng quả quyết hơn và tất cả mọi người đểu đồng thanh quả quyết như ông. Mãi đến bình minh hôm sau mới ứng nghiệm lời tiên báo của Chúa Giê-su về việc sẽ xảy đến cho Phê-rô (x. 14: 66-72). Lúc này ông vẫn khăng khăng rằng mình và các bạn hữu sẽ một lòng một dạ trung thành với Thầy cho dù phải chết đi nữa. Mác-cô nhấn mạnh đến sự mù quáng của các Tông Đồ trước cái chết sắp đến của Thầy. Tới lúc đó rồi mà họ vẫn hoàn toàn không biết rằng họ sẽ phải làm gì cả.
Để kết luận, ta nên nhớ rằng, Mác-cô đã lồng ghép hai đoạn văn loan báo sự hèn nhát của những kẻ rất thân cận với Chúa Giê-su như bức bình phong để thắp sáng hoạt cảnh Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể (14: 22-25): đó là tội phản bội của Giu-đa (14: 17-21) và tội chối Thầy của Phê-rô (14: 26-31).
CUỘC THƯƠNG KHÓ (14: 32-15: 15)
ĐỨC GIÊ-SU CẦU NGUYỆN VÀ BỊ BẮT (14: 32-52).
Hai sự cố dẫn Đức Giê-su đến gần thập giá hơn: Đức Giê-su cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-ni (14: 32-42) và Ngài bị bắt (14: 43-52). Bài trình thuật này cho thấy Ngài đối mặt với cuộc tử nạn của mình thật lẽ loi đơn độc như thế nào. Ngài không tìm thấy niềm cảm thông chia sẻ ở nơi các môn đệ thân tín nhất của Ngài; chỉ duy mối liên hệ với Chúa Cha và niềm xác tín tuân phục thánh ý Chúa Cha là niềm nâng đỡ độc nhất của Ngài trong nỗi xao xuyến tận mức trước viễn cảnh cuộc Tử Nạn sắp đến.
1.1.Đức Giê-su cầu nguyện (14: 32-42).
Bản văn Mác-cô về cơn hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni trình bày Đức Giê-su là Con Thiên Chúa nhu mì đấu tranh để chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc thương khó của Ngài. Đồng thời, bản văn này cũng phác họa chân dung về các môn đệ, họ chẳng nhận thức một chút nào về những gì đang xảy ra, quả thật như một mẫu gương nên tránh.
-“Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thuở đất gọi là Ghết-sê-ma-ni”: Đoạn Tin Mừng này, được thánh Lu-ca đánh giá là “thống thiết” (22: 24), mở đầu với địa danh “một thuở đất gọi là Ghết-sê-ma-ni”. Đức Giê-su cùng các môn đệ rút vào trong khu vườn này.
– “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện”: Chúa Giê-su có thói quen lánh vào một nơi thanh vắng để cầu nguyện một mình (1: 35; 6: 46).
– “Rồi Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan đi theo”: Không thể nào chịu đựng nổi một mình, Ngài dẫn theo bên mình ba người môn đệ thân tín nhất của mình: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan. Cả ba là những người đã được chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia (5: 37) và cuộc Biến Hình (9: 2). Làm sao họ lại có thể xa Thầy vào thời điểm này được?
– “Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng và xao xuyến”: Chúa Giê-su đã tỏ ra rất là “người”. Khi cảm thấy cái chết đang gần kề không thể tránh khỏi, Ngài, cũng như mọi người khác, cảm thấy hãi hùng xao xuyến đến tận đáy lòng.
-“Tâm hồn Thầy buồn đến chết được”: Mãi cho đến lúc này, Chúa Giê-su vẫn còn giữ được phong thái thanh thản đón chờ những gì sắp xảy đến. Mác-cô chỉ nhắc đến sự buồn rầu nơi các môn đệ (14: 19). Nhưng tới đây, ông nói rõ là ngay cả Chúa Giê-su cũng thú nhận “tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. Nếu Ngài buồn phiền đến chết được chính là do nổi cô đơn tuyệt đối mà không biết ngỏ cùng ai và vì thất bại trong sứ mạng của mình (ít là theo vẻ bên ngoài).
– “Anh em ở lại đây mà canh thức”: Trong thân phận yếu nhược của một phàm nhân, Chúa Giê-su cần đến sự hiện diện của họ bên cạnh mình như nguồn an ủi nâng đỡ Ngài trong cơn cùng khốn này.
– “Người đi xa hơn một chút”: Ngài yêu cầu ba người bạn ở bên mình, nhưng vẫn cách xa một khoảng, bởi vì Chúa Giê-su không nghĩ rằng ngay đến những người thân cận nhất này lại có thể chia sẻ tấn thảm kịch của mình.
– “ Quỵ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi chính mình, nếu có thể được”: Ngài tách xa họ một quãng và cảm thấy mặt đất như chao đảo dưới bước chân mình. Hoàn toàn kiệt sức, Ngài sấp mình xuống đất. Cử chỉ sấp mình xuống đất cho thấy thân xác yếu nhược, nhưng cũng là thái độ cầu nguyện khiêm tốn và khẩn thiết. Không có nơi nào trong Tin Mừng mô tả Đức Giê-su cầu nguyện như thế. Ngài bắt đầu “bị cám dổ” đây là lúc chính nhân tính lâm cơn khủng hoảng muốn chống lại thiên tính. Ngài cầu mong cho “giờ đó” tránh xa khỏi Ngài, giờ mà Ngài bị mọi người lánh bỏ, giờ bị giao nộp.
– “Áp-ba, Cha ơi”: Chỉ có Mác-cô là thánh ký duy nhất ghi lại cho chúng ta biết lời cầu nguyện tận thâm tâm của Chúa Giê-su. Ngài kêu lên với Thiên Chúa một lời nguyện xin thật thống thiết. Bằng tiếng A-ram, Ngài gọi Thiên Chúa là “Abba”, tiếng kêu của con trẻ bập bẹ gọi cha mình. Khi cầu nguyện, người Do thái không bao giờ dùng “Abba” để gọi Thiên Chúa, bởi lẽ từ này quá thân mật. Từ chính miệng Chúa Giê-su, tiếng kêu của con trẻ gọi cha mình này diễn tả một ý thức sâu sắc về mối liên hệ độc đáo giữa Ngài và Chúa Cha.
– “Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này” : “Chén” là hình ảnh Kinh Thánh để nói lên một sự thử thách, một vận mệnh đau thương, đồng thời cũng gợi lên chén máu của hy tế. Ngài biết rất rõ “Cha có thể làm mọi sự” . Đột nhiên Ngài xin Cha tha cho Ngài khỏi phải uống chén đau khổ mà Ngài phải uống cạn cho đến giọt cuối cùng.
– “Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”: Chúa Giê-su đã chiến đấu nội tâm tận lực. Ngài bị cám dỗ (như đã được báo trước ở 1: 12-13) tránh né cái chết đang chờ Ngài. Nhưng Ngài hiểu rằng kế hoạch của Thiên Chúa phải vượt lên trên ý mình. Và Ngài phó thác hoàn toàn. Cuộc chiến đấu thật hết sức cam go. Nhưng rồi nhân tính của Chúa Giê-su đã phục tùng ý Cha. Ngài đã thắng cơn cám dỗ.
– “Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ”: Sau khi cầu nguyện xong, Chúa Giê-su trở lại với các bạn hữu lần thứ nhất. Và Ngài chỉ thấy họ ngủ say vô tư lự.
– “Si-mon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?”: Khi gọi Phê-rô bằng tên tục Si-mon, hẳn Ngài đã quở trách kẻ làm đầu nhóm Mười Hai được chọn để ở bên cạnh Ngài chia sẻ với Ngài, đã xao lãng bổn phận, không thể tha thứ được. Qua lời quở trách này, chúng ta nhận thức được những ân hận của thánh Phê-rô. Những lời quở trách của Chúa Giê-su vẫn hằn sâu trong tâm khảm của ông: “Si-mon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?”.
-“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện”: Lời khẩn khoản của Chúa Giê-su được diễn đạt theo kiểu nói Do thái thường dể bị hiểu lầm. Ở đây chúng ta thấy rõ rằng các môn đệ mê ngủ là lẽ đương nhiên, chỉ là một hiện tượng sinh lý ngược với hiện tượng tỉnh thức. Nhưng khi liên kết việc tỉnh thức để cầu nguyện, không phải Chúa Giê-su chỉ muốn nói họ đừng ngủ nữa mà là phải tỉnh thức tâm linh. Đó mới là điểm đáng chúng ta lưu ý, tương tự như dụ ngôn người canh cửa phải hết sức tỉnh táo để chờ đón chủ về bất cứ giờ nào trong đêm (13: 34).
– “Kẻo sa chước cám dỗ”: Các môn đệ được khuyên răn phải triệt để “không được sa chước cám dỗ”. Lời này rất gần gũi với lời cầu xin: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” trong Kinh “Lạy Cha” mà trong số ba Tin Mừng Nhất Lãm chỉ một mình thánh Mác-cô không ghi lại (x. Mt 6: 13 và Lc 11: 4b). Chước cám dỗ gì đây? Trong những lúc nguy nan khi mà các quan điểm phàm trần không nối kết được với ý Chúa, con người không được quyền đánh mất niềm tin (8: 33).
– “Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”: Người ta thường hiểu lời căn dặn này theo quan niệm Hy-lạp, theo đó con người ta gồm hai thực tại đối nghịch nhau: linh hồn thì tốt lành và xác thịt xấu xa. Nhưng trong ngôn ngữ Do thái, “xác thịt” là “toàn bộ con người” với những mõng dòn yếu đuối của nó. Nó trở nên tội lỗi khi nào nó không hướng về “tâm linh” cửa ngõ dẫn tới Thiên Chúa.
– “Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ…”: Nói xong thế rồi Chúa Giê-su trở lại nơi cầu nguyện. Sau đó, Ngài trở lại lần nữa với các môn đệ và thấy họ vẫn chưa tỉnh thức. Mác-cô tỏ hết sức khoan dung. Ông chỉ nói họ vẫn li bì nặng giấc, chứ thực ra phải nói họ mê mẩn, lú lẫn mới phải. Và lần thứ hai này khi tình thế đã đến hồi nguy ngập hơn, các môn đệ vẫn không hay biết gì đến tấn thảm kịch Chúa Giê-su sẽ gánh chịu: “Các ông chẳng biết ăn nói làm sao”.
-“Lần thứ ba, Người trở lại”: Ba lần Chúa Giê-su trở lại với ba người bạn thân tín nhất của mình. Thật cảm động biết bao khi biết rằng vị Thiên Chúa làm người toan tính dựa vào những bạn hữu nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô hạn của mình. Nhưng thất vọng biết bao! Những người bạn thân nhất của Ngài rốt cuộc không thể cưỡng kháng được cơn mê ngủ. Nhóm Tông Đồ là tượng trưng một cách tuyệt vời thân phận phàm nhân mỏng dòn, yếu đuối và tội lỗi, họ không thể nâng đỡ an ủi Thầy mình trước nỗi bi thương của Thầy. Và rồi Mác-cô lại viết rằng Chúa Giê-su trở lại lần thứ ba (lần cuối cùng) với ba môn đệ thân tín nhất. Lần trở lại cuối cùng này, Chúa Giê-su cũng gặp thấy các bạn hữu của Ngài trong tình trạng chẳng khá gì hơn trước đó: vẫn ngủ say vô tư lự.
– “Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi”: Con đường thương khó đã khởi sự rồi. “Giờ” đã đến. Sự phản bội bởi con người sắp xảy ra trong tích tắc mà thôi. Mác-cô là tác giả đầu tiên nhắc đến “giờ” của Con Người. Trong Tin Mừng Gioan, chủ đề “Giờ” được khai triển rất sâu rộng (Ga 12: 23-30; 13: 1; 17: 1-2, vân vân).
– “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao?”: Chúa Giê-su không còn mong chờ sự nâng đỡ nào từ họ. Ngài hoàn toàn cô độc trong cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni.
-“Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”: Mọi sự đã hoàn tất theo như chương trình Chúa Giê-su đã dự định. Ngài vội vã đánh thức họ dậy bằng những lời lẽ như mấy lần trước. Nhờ lời cầu nguyện nâng đỡ Chúa Giê-su đã sẵn sàng giáp mặt với tên phản bội. Các bạn Ngài liệu có thể ra khỏi cơn mê ngủ được chăng?
Qua trình thuật khá cô động này, chắc chắn Mác-cô muốn giải đáp những câu hỏi đặt ra cho cộng đoàn mình: các Ki-tô hữu thành Rô-ma, bị bách hại, hẳn biết rõ Chúa Giê-su đã “chịu cám dỗ”: làm thế nào đón nhận cái chết mà không chối bỏ niềm tin? Mác-cô đã trình bày cho họ thấy Thầy đã phải đấu tranh cận lực mới nhận ra được thánh ý Thiên Chúa. Thánh sử còn ghi nhận sự trái ngược giữa tình trạng mê ngủ đáng tội của các tông đồ với sự tỉnh táo cầu nguyện của Chúa Giê-su. Ba lần Chúa Giê-su tiếp xúc với Chúa Cha rồi với loài người hẳn mang nhiều ý nghĩa. Con số “3” trong Tin Mừng là con số chỉ sự kiên trì. Trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su cũng đã lặp lại ba lần rằng Con Người phải lãnh nhận cái chết (8: 31; 9: 31; 10: 32-34). Mỗi lần loan báo về Cuộc Khổ Nạn là mỗi lần Chúa Giê-su nhấn mạnh đến số phận nghiệt ngã sắp tới của Ngài. Ở đây, ba lần Chúa Giê-su kêu mời tỉnh thức và cầu nguyện còn muốn nhấn nạnh hơn nữa. Quả vậy, Mác-cô kêu gọi các môn đệ Chúa Giê-su phải phải liên lỉ cầu nguyện theo như kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6: 13; Lc 11: 4). Chúng ta chẳng có gì mà phải xấu hổ cả khi bị chước cám dỗ, bởi lẽ chính Thiên Chúa cũng bị cám dỗ kia mà. Nhưng chính Ngài đặt để con người ta vào tình trạng nguy kịch đó, và con người không nhận ra được hành động khoan nhân của Ngài. Từ lúc ấy đức tin sẽ lâm vào tình trạng nguy nan. Do đó chúng ta phải cầu xin Chúa cho các tín hữu qua được cơn thử thách.
1.2.Đức Giê-su bị bắt (14: 43-52).
Đoạn văn này cốt là nhiều tình tiết ngắn gọn: cuộc bố ráp Đức Giê-su (14: 43-46), chém đức tai tên đầy tớ (14: 47), Đức Giê-su đánh giá (14: 48-49) và các môn đệ trốn chạy (14: 50-52). Đoạn văn này khai triển nhiều chủ đề quen thuộc: Giu-đa phản bội, Đức Giê-su biết trước, ứng nghiệm Kinh Thánh, và các môn đệ không trung thành với Đức Giê-su.
Cuộc bố ráp Đức Giê-su (14: 43-46):
-“Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai, xuất hiện…”: Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giê-su vừa nói với các bạn hữu xong thì ngay lúc đó tên phản bội xuất hiện cùng với đoàn lũ quân lính của thầy thượng tế. Một lần nữa, Mác-cô ghi rằng Giu-đa là một người trong nhóm Mười Hai để nêu bật hành vi bỉ ổi của hắn. Tên phản bội biết nơi chốn; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây; hắn không lầm khi dẫn đến đây đội cận vệ Thượng Hội Đồng được trang bị gươm giáo, và chắc chắn kéo theo những thành phần vô lại, cầm những gậy gộc nhặt được dọc đường.
-“Tôi hôn ai, thì chính người đó”: Những người lãnh nhiệm vụ bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài tận mặt, dù sao trong đêm tối có nguy cơ bắt nhầm người. Giu-đa ước đinh với họ một ám hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận”. Một môn đệ thường chào thầy mình theo cách thức truyền thống này, nhưng Giu-đa đã cho nụ hôn của tình nghĩa thầy trò này một ý nghĩa khác: dấu hiệu nộp Thầy mình. Điều này càng làm tăng thêm sự khinh tởm đối với hành động của Giu-đa.
-“Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói: ‘Thưa Thầy!’ rồi hôn Người”: Vào thời đó, bất kỳ môn đệ nào cũng chào thầy: “Thưa Thầy” và ôm hôn thầy để biểu lộ tình nghĩa của người môn sinh đối với thầy mình. Nhưng ở đây, lời nói và hành động của Giu-đa mới thật xấu xa, bởi vì chúng trở thành dấu chỉ điểm bắt Thầy mình.
Chém đứt tai tên đầy tớ (14: 47):
-“Một trong những kẻ có mặt tại đó tuốt gươm ra…”: Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết tên của người môn đệ này. Nhờ thánh Gioan, chúng ta biết rằng tác giả của hành động này là Phê-rô và tên đầy tớ bị chém đứt tai tên là Man-cô (Ga 18: 10). Và nhờ thánh Lu-ca, chúng ta biết tai bị chém đứt là tai phải và Chúa Giê-su đã chữa lành tai cho y (Lc 22: 50-51).
Chúa Giê-su đánh giá (14: 48-49):
-“Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt?”: Ở Mác-cô, chúng ta không thấy nói gì về chuyện Thầy quở trách vị “anh hùng hào hiệp ra tay bảo vệ” mình đã hành động vụng về rồ dại này cả; trái lại, Ngài vẫn giữ được phong thái hoàn toàn bình thản khi lên tiếng phản đối cách thức những kẻ đến bắt mình.
-“Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở đền thờ…”: Thực vậy, Chúa đã hành xử như một bậc tôn sư hiền hòa. Những lời dạy công khai của Ngài chứng thực điều đó. Bởi đâu mà người ta gán cho Ngài cái tội kích động quần chúng và liệt Ngài vào hàng ngũ những kẻ gian ác sống ngoài vòng pháp luật?
– “Như thế này là để lời Sách Kinh Thánh được ứng nghiệm”: Chúa Giê-su quy chiếu đến bài ca: “Người Tôi Tớ chịu đau khổ” mà Ngài đã nhiều lần áp dụng vào vận mệnh của chính mình. Cách thức bắt Ngài như thế thật vô lý và không thể nào hiểu thấu được. Chỉ có thể dựa vào Kinh Thánh, chấp nhận cho đó là thánh ý của Thiên Chúa mà thôi.
Các môn đệ trốn chạy (14: 50-52):
-“Bấy giờ, các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”: Họ đã từng theo Chúa Giê-su từ xưa cho đến nay, thì dù có yếu đuối tới đâu chăng nữa, cũng không thể “bỏ mặc Thầy mà trốn chạy hết” ngay giữa lúc nguy nan ấy được. Việc họ tháo chạy đã được Chúa Giê-su báo trước: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (14: 27). Chẳng còn một ông nào dám đứng ra bênh vực Ngài, chẳng còn một ai đứng ra làm chứng cho Ngài, mặc dù trước đó họ đã hăm hở xác quyết lòng trung thành với Thầy dù phải chết đi nữa (14: 31). Nỗi cô đơn của Chúa Giê-su đã quá lớn rồi, nay còn lại triệt để hơn.
– “Trong khi đó có một thanh niên đi theo Người…”: Mác-cô kết thúc đoạn văn buồn thảm này bằng một mẫu chuyện nhỏ khiến độc giả phải nghĩ ngợi. Chân tính của người môn đệ trẻ bỏ chạy mình trần đã lôi kéo nhiều phỏng đoán suốt nhiều thế kỷ. Thoạt đầu người ta cho rằng chàng trai trẻ vô danh đó xuất hiện là để giải cứu Chúa Giê-su, nhưng bởi vì anh ta lại tìm đường tháo chạy, nên hầu chắc đó chính là Mác-cô, thánh ký này đã chứng kiến tường tận cảnh tượng vừa diễn ra và đã xác nhận điều đó qua “dấu chứng” kỷ niệm này. Một số độc giả khác lại cho rằng nhân vật bí hiểm đó chính là hình bóng tượng trưng cho người môn đệ đón nhận cái chết trong cảnh trần trụi như chính Thầy mình. Dù anh ta là ai thì trong mạch văn hiện nay anh là một nhân vật đại diện tập thể: “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (14: 50).
CHÚA GIÊ-SU CHỊU XỬ ÁN (14: 53-15: 15).
Mác-cô trình bày hai cuộc xử án: một trước các vị lãnh đạo Do thái và một khác trước tổng trấn Phi-la-tô. Thánh ký xem phiên tòa Do thái là phiên tòa mang tính quyết định hơn, dù từ viễn cảnh luật pháp phiên tòa Rô-ma quan trọng hơn. Suốt hai cuộc xử án, Đức Giê-su vô tội hầu như hoàn toàn thinh lặng (x. Is 53: 7).
2.1.Phiên tòa trước Thượng Hội Đồng (14: 53-72).
Lại một lần nữa, thánh ký sử dụng kỷ thuật “hai câu chuyện trong một bài trình thuật”, nghĩa là, câu chuyện Chúa Giê-su bị xử án trước Thượng Hội Đồng (14: 55-65) được chen vào giữa câu chuyện thánh Phê-rô chối Thầy (14: 53-54 và 66-72). Nhờ kỷ thuật này, thánh Mác-cô nêu bật tinh thần kiên vững của Đức Giê-su và thái độ hèn yếu của ông Phê-rô. Khi viết lại sự kiện này, Mác-cô không hề có ý hạ thấp hình ảnh của vị tông đồ trưởng nơi tâm hồn độc giả. Ông chỉ muốn trình bày hai hình ảnh tương phản xảy ra vào giờ phút thử thách ấy: phong thái can trường dũng khí của Chúa Giê-su khi đối diện với các quan tòa (14: 53-65) và thái độ nhu nhược yếu đuối của người bạn thân tín nhất của Ngài. Các Ki-tô hữu Rô-ma đang bị bách hại hồi ấy được mời gọi suy gẫm về tính yếu đuối của con người: Ở đây, Phê-rô là một điển hình cho một tông đồ đã không dám liều mạng để theo Chúa Giê-su cho tới chân thánh giá (x. 8: 34-35).
Bài trình thuật này được cấu trúc như sau:
A.Thánh Phê-rô theo Thầy xa xa (14: 53-54)
B.Chúa Giê-su chịu xử án trước Thượng Hội Đồng (14: 55-65)
A’.Thánh Phê-rô chối Thầy (14: 66-72)
A.Ông Phê-rô theo Thầy xa xa (14: 53-54):
– “Họ điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư, tất cả đều tựu lại”: Ngay khi bắt được Chúa Giê-su, người ta đưa Ngài ra xét xử liền, không cần đợi chờ. Trong cảnh này, Mác-cô đã đem vào những chức sắc tôn giáo cao nhất của Đạo Do thái. Thầy thượng tế thời đó tên là Cai-pha (Mt 28: 57). Đó là một nhân vật quyền uy lẫm liệt: vị thủ lãnh tối cao của toàn dân tộc. Ông đứng đầu Thượng Hội Đồng. đây chính là toà án tối cao của Đạo Do thái. Thượng Hội Đồng này có 71 thành viên, gồm ba nhóm: nhóm “các thượng tế” đại diện giới tư tế; nhóm “các kỳ mục” đại diện các bậc trưởng lão vị vọng trong dân; và nhóm “các kinh sư” xuất thân từ mọi tầng lớp xã hội, là những tinh hoa của nhóm Biệt Phái, họ rất tinh thông lề luật.
Việc Mác-cô thuật lại rằng toàn thể Thượng Hội Đồng đều có mặt đông đủ ban đêm để xử án Chúa Giê-su đã khiến nhiều sử gia bối rối. Bởi lẽ luật Do thái bấy giờ cấm chỉ việc triệu tập Thượng Hội Đồng vào ban đêm, như trong trường hợp này chẳng hạn. Hơn nữa, đại hội đồng này không phải tề tựu lại ở dinh thượng tế, mà ở phòng riêng của thượng tế trong nơi thánh ở Đền Thờ. Vì những lý do này và một số lý do khác dựa trên các thủ tục tố tụng được áp dụng hồi đó, người ta có thể cho rằng thực sự Chúa Giê-su khó mà bị đem ra xét xử trước Thượng Hội Đồng vào ban đêm.
Truyền thống theo Tin Mừng Gioan có vẻ đúng hơn. Chúa Giê-su bị điệu tới trước vị thượng tế và các cận thần. Và tại đó, trong đêm, Ngài đã chịu tra tấn khá kỹ càng trước khi bị giao nộp cho tòa án Rô-ma vào sáng hôm sau (Ga 18: 12-24). Như thế Mác-cô, và sau đó đến lượt Mát-thêu (26: 57-68) chắc hẳn đã sửa đổi diễn trình lịch sử đó. Với mục đích nào? Những diễn biến bên ngoài đối với thánh ký không quan trọng cho bằng chính mức độ tôn giáo. Một lần nữa, chúng ta nên nhớ rằng tác giả này nghiêng về ý nghĩa tôn giáo hơn là việc mô tả chính xác các sự kiện xảy ra. Ở đây, Mác-cô đề cao giá trị lời Chúa Giê-su long trọng công bố về chân tính sâu xa của Ngài.
-“Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế…”: Trước khi kể đến chuyện này, Mác-cô ghi nhận rằng Phê-rô theo Chúa Giê-su từ xa, và mon men đến gần dinh thượng tế. Ở trong sân, ông trà trộn với đám lính canh và cùng họ sưởi ấm quanh đống lửa. Đây chỉ mới chỉ là phần mào đầu câu chuyện về Phê-rô, vị tông đồ trưởng, chối Thầy.
Đức Giê-su chịu xử án trước Thượng Hội Đồng (14: 55-65):
Thánh ký trình bày phiên tòa ở dinh thượng tế vào đêm thứ nhất lễ Vượt Qua như một cuộc xét xử quy mô (dù có vài vấn đề lịch sử nghiêm trọng được nối kết với bức chân dung nầy). Hai tội được nêu lên trong suốt cuộc xử án đó là Đức Giê-su đã đe dọa phá hủy Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Ngài đã nói phạm thượng vì tự nhận mình là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thiên giới.
-“Bấy giờ, các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giê-su, nhưng họ không tìm ra”: Đến đây, Mác-cô lại quay về với việc xét xử Chúa Giê-su. Như ta đã thấy, Thượng Hội Đồng tiến hành sự thẩm cứu pháp lý cho qua chuyện, bởi vì bản án đã được ấn định sẳn rồi. Vì thế, họ chỉ quan tâm đến điều duy nhất là tìm cho ra một lý chứng để kết án từ hình Chúa Giê-su.
-“Vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau”: Thánh Mác-cô nhấn mạnh rằng những lời chứng không ăn khớp với nhau và những nhân chứng không thể đưa ra chứng cớ buộc tội Ngài được. Người ta không tìm ra được một lời cáo buộc nào có giá trị pháp lý để kết tội Ngài cả. Vì thế, Chúa Giê-su vô tội.
-“Chúng tôi có nghe ông ấy nói rằng Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!”: Trong số các lời cáo gian được đưa ra, thánh Mác-cô lưu ý nhiều nhất đến lời tố cáo này. Sau biến cố Phục Sinh, lời tố cáo này lại quá rõ ràng đối với độc giả, họ hiểu rằng: Đền Thờ sẽ được dựng lại sau ba ngày và không phải do bàn tay con người. đền Thờ đó chính là thân thể Đức Giê-su Phục Sinh (x. Ga 2: 19-22).
-“Nhưng ngay cả điểm này, chúng cớ của họ không ăn khớp với nhau”: Nhưng ngay cả chuyện này cũng không đủ để kết án Chúa Giê-su. Thực ra trong Tin Mừng của mình, khi đánh đuổi và xua dẹp việc buôn bán trong Đền Thờ (11: 15-18), Chúa Giê-su không công bố Đền Thờ sẽ bị phá hủy. Chính hành động xua đuổi người buôn bán ra khỏi Đền Thờ mới thực sự gây khó chịu cho các thượng tế cũng như cho nhóm bảo vệ truyền thống. Chỉ thánh Gioan ghi lại lời tuyên bố của Chúa Giê-su, nhưng chủ từ không là “tôi” như lời tố cáo của họ mà là “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi…” (Ga 2: 19). Còn Mác-cô chỉ chú trọng đến thời điểm.
-“Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giê-su”: Vì các lời tố cáo buộc tội đều không phù hợp với nhau, nên vị thượng tế phải đích thân can thiệp.
– “Đức Giê-su vẫn làm thinh, không đáp một tiếng”: Đối mặt với họ, Chúa Giê-su giữ được phẩm giá cao cả. Khi bị cáo gian và cả khi bị quan tòa tối cao tra vấn, Ngài cũng vẫn giữ phong cách trầm tỉnh và uy nghi. Thái độ im lặng của Ngài nói lên nhiều. Đấng Công Chính biết rằng mình vô tội, vẫn lặng thinh trước những lời cáo gian của kẻ âm mưu giết hại mình (Is 53: 7; Tv 38: 13-15).
– “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?”: Thế rồi, thời điểm quyết định cho hồi diễn này là đây: vị thượng tế hỏi Chúa Giê-su về chân tính cao trọng của Ngài. Câu hỏi được nêu thẳng ra. Đối với người Do thái thì kiểu gọi “Con Thiên Chúa nhân lành” không cao cả bằng kiểu gọi “Đấng Ki-tô”. Người Do thái không thể nào hình dung được rằng đặc phái viên được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài lại chỉ là một con người phàm trần.
-“Phải chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến”: Đáp lại lời tra vấn kỹ càng này, bị cáo phá tan sự im lặng cố hữu bằng một mặc khải gây bàng hoàng sửng sốt. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng Mác-cô, Chúa Giê-su công khai xác nhận tước hiệu của chính mình: Đấng Ki-tô siêu việt. Từ trước tới lúc bây giờ, Ngài vẫn mập mờ giữ kín chân tính này. Giờ đây, Chúa Giê-su là tù nhân: đứng trước một cái chết không tránh khỏi được vào ngày hôm sau, Ngài vẫn không hề nhụt chí mà giải bày công khai cho mọi người biết rõ chân tính huyền nhiệm của mình. Ngài dùng lại tước hiệu “Con Người” mà Ngài vẫn dùng để xưng mình. Nhưng lần này, nhờ hai đoạn Kinh Thánh kèm theo, Ngài xác định rõ ràng tầm vóc của tước hiệu ấy. “Ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” không phải là ngồi vào vị trí danh dự bên cạnh Chúa Tể Càn Khôn như Đấng Mê-si-a đã được loan báo trong Tv 110: 1, mà còn được dự phần vào quyền năng tối thượng của Thiên Chúa (x. 12: 35-37); và “ngự giá mây trời mà đến”, dựa vào hình ảnh trong Đn 7: 13-14, nghĩa là lãnh nhận trọn vẹn quyền năng của Thiên Chúa để xét xử và giải thoát vũ trụ vào thời buổi cuối cùng. Khi trích dẫn hai câu Kinh Thánh này, Chúa Giê-su đã xác nhận rõ đặc quyền Thiên Chúa của Ngài. Ngài là Đấng Mê-si-a ư? Phải, nhưng còn hơn cả điều mà những kẻ cùng thời vẫn hằng tưởng nghĩ nữa. Lời tuyên bố đầy tự tín này lập tức gây ra một phản ứng căm thù dữ dội.
Như vậy cho đến lúc đó, Đức Giê-su bao phủ chung quanh con người của Ngài một mầu nhiệm bát khả xua tan đi được, dù hiện giờ bị bắt, bị xiềng xích và bị xử án như một tên tội phạm nguy hiểm, Ngài vẫn lớn tiếng công bố phẩm tính siêu việt của Ngài.
-“Vị thượng tế liền xé áo mình ra”: Vị thượng tế diễn trò xé áo mình. Theo phong tục chung, việc xé áo là dấu chỉ tang chế. Người ta gặp thấy nghi thức này tại dân Ba-by-lon cũng như tại dân Do thái. Nhưng theo luật Do thái, vị thượng tế không được phép xé áo để bày tỏ tang chế riêng tư (Lv 21: 10). Ông dành riêng hành động này cho những hoàn cảnh nghiêm trọng mang chiều kích công chúng; nhất là khi thi hành chức vụ thẩm phán của mình, như trường hợp này, ông xé áo (dù chỉ vài phần) để bày tỏ sự phẩn nộ của mình.
– “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa”: Theo luật Do thái, Cần phải có tối thiểu hai nhân chứng có đủ chứng cớ buộc tội thì mới có thể công bố bản án (Đnl 19: 15). Luật này được kịch tính hóa ở nơi câu chuyện của bà Su-za-na, một phần bản văn Hy lạp của sách Đa-ni-en. Vị thượng tế kêu mời tất cả thành viên làm chứng. Chẳng cần nhân chứng nào nữa: tất cả họ vừa mới nghe lời tuyên bố phạm thượng và làm chứng đều này.
-“Quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng”: Thật vậy, vị thượng tế đã la lên là phạm thượng. Ông cho rằng Chúa Giê-su đã nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa. Theo luật Do thái, kẻ nào phạm thượng sẽ bị khép vào tội chết (Lv 24: 16). Chứng cớ vậy quá rõ rồi.
– “Tất cả đều kết án Người đáng phải chết”: Toàn thể Thượng Hội Đồng không còn chần chờ gì nữa, họ kết án từ hình Chúa Giê-su. Theo Lv 24: 10-23, tội phạm thượng liên quan đến Danh Thiên Chúa là phải bị ném đá. Các sử gia vẫn còn tranh luận là vào thời Chúa Giê-su, khi bị quân Rô-ma chiếm đóng, liệu các thủ lãnh Do thái có được quyền kết án tử hình hay không? Đối với trường hợp Chúa Giê-su, điều đó xảy ra đúng như thế. Người ta không lập ra một tòa án tôn giáo thực sự, chỉ là một trò bịp bợm công lý, hầu chỉ nhằm lên án tử cho vị Ngôn Sứ người xứ Ga-li-lê này.
Làm thế nào người ta có thể biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng này? Câu trả lời thật đơn giản. Trong số các thành viên Thượng Hội Đồng có những cảm tình viên của Đức Giê-su, như ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê và có lẽ cả ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại sau này, theo lời chứng của sách Công Vụ, có rất đông tư tế đón nhận đức tin (Cv 6: 7).
-“Hãy nói tiên tri đi”: Trình thuật kết thúc bằng một cảnh tượng thương tâm. Những việc đối xử đầy lăng nhục này đối với Chúa Giê-su là do các thành viên của Tòa Án tối cao bày ra. Chắc chắn chính các lính canh và đầy tớ là những kẻ đã tiến hành các trò lăng nhục này. Ngay từ phiên xử đầu tiên, Đức Giê-su chịu những nhục nhã ê chề: khạc nhổ vào mặt, lăng mạ, đánh đập…Thánh Mác-cô không bỏ qua những chi tiết tàn bạo nào, bởi vì cách hành xử dã man phi nhân tính này lại ứng nghiệm những sấm ngôn Cựu Ước về “Người Tôi Trung chịu Đau Khổ” (x. Is 50: 4-6; 53: 3-5).
Qua cả một đoạn văn dài, nhưng ta vẫn thấy Mác-cô không hề loan báo chính xác “giây phút” Chúa Giê-su bị xét xử. Quả Mác-cô còn có một ý khác, ông muốn chỉ cho cộng đoàn Ki-tô hữu của mình thấy rằng các chức sắc Do thái giáo phải chịu trách nhiệm nhiều nhất trong việc gây ra cái chết của Chúa Giê-su. Còn Ngài dù bị tố cáo và lăng nhục nhưng vẫn tỏ ra là Đấng Công Chính tuyệt hảo. Cũng có thể là Mác-cô muốn gán cho hành động xé áo của vị thượng tế một ý nghĩa tượng trưng. Thực vậy, ta nên nhớ rằng vị thượng tế bị cấm không được làm như thế (Lv 21: 10). Nếu ông đã làm như thế, vào đúng thời điểm Chúa Giê-su tuyên bố hùng hồn tước vị Mê-si-a siêu việt của Ngài, đó chẳng qua là một sự “xé áo” sâu sắc phải xảy đến mà thôi (tựa như việc màn Đền Thờ xé làm đôi: 15: 38): lề luật Do thái đã cáo chung. Và giờ đây ta phải coi Chúa Giê-su là vị thượng tế thực sự cho thời đại mới (Dt 9: 11-12).
A’.Ông Phê-rô chối Thầy (14: 66-72):
Bây giờ, thánh ký mời gọi độc giả quay trở lại câu chuyện về thánh Phê-rô còn dang dỡ khi tác giả dừng lại để kể cho chúng ta phiên toà Thượng Hội Đồng xét xử Chúa Giê-su.
-“Ông Phê-rô đang ở dưới sân”: Mác-cô đã ngắt quãng câu chuyện thánh Phê-rô để kể phiên toà xét xử nhằm nhấn mạnh đến nỗi cô đơn kinh khủng đè nặng lên Chúa Giê-su khi Ngài lẽ loi một mình đối mặt với những kẻ xét xử mình: không một bạn hữu nào bên cạnh. Nhiều tiền cảnh đã được mô tả nhằm chuẩn bị cho thời điểm này. Vào bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, khi Chúa Giê-su báo trước một trong số họ sẽ phản bội Thầy, tất cả họ đều hỏi nhau: “Có phải con không?” (14: 19) và Chúa Giê-su đã nghe lời tuyên thệ trung thành của Phê-rô và của các ông (14: 31). Một lúc sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giê-su đã nhận thức rõ bản tính yếu nhược của nhóm Tông Đồ (14: 27). Quả thật, khi Thầy bị bắt, các ông bỏ chạy hết cả, không một ai ở lại (14: 50). Tuy nhiên, có lẽ Phê-rô ý thức được trách nhiệm của mình, nên ông đã trấn tỉnh lại mà bám theo Chúa Giê-su “từ xa”, tìm cách vào tận dinh thượng tế để dò la tin tức của Thầy (14: 66).
-“Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì!”: Hiện nay, chúng ta thấy ông đang ngồi sưởi ấm quanh một lò lửa cùng với đám người trong dinh. Một đầy tớ gái nghĩ rằng mình nhận ra ông này, và lên tiếng tố giác ông là môn đệ Chúa Giê-su. Ông đã kịch liệt bác bỏ:
-“Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!”. Ông đã kịch liệt bác bỏ. Đây là lần nói dối thứ nhất. Bị sa vào bẫy, người môn đệ cắt đứt với Thầy và tìm cách lẫn tránh: “Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh” .
-“Bác này cũng thuộc bọn ấy”: Người tớ gái gặp lại ông, cô liền tố cáo ông với những người đứng đó. Vị tông đồ lại chối tiếp.
-“Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Ga-li-lê!”: Gọng kìm càng lúc càng siết chặt hơn. Bây giờ ông lại bị nhận diện bởi giọng nói miền tỉnh lẽ (như Mt 26: 73 nói rõ).
– “Tôi thề là không người mà các ông nói đó”: Gọng kìm càng lúc càng xiết chặc. Liệu lần này, ông còn chối được nữa không nhỉ? Quá rõ rồi mà. Nhưng ông lại ngoan cố chối phăng. Mác-cô rất tinh vi trong việc mô tả lại diễn tiến việc tông đồ này phản bội Thầy. Thoạt đầu ông làm như không biết gì cả. Câu “tôi chẳng biết” lặp lại đúng như khi ông không hiểu được rằng Đấng Mê-si-a sẽ phải chịu đau khổ (8: 31-32). Nhưng ở đây sự hèn nhát nằm ở chỗ là ông thề độc rằng mình chẳng hề có liên hệ gì đến “người mà các ông nói đó”.
-“Ngay lúc đó, tiếng gà gáy lần thứ hai”: Tiếng gà gáy báo hiệu ánh bình mình sắp đến khiến vị tông đồ trưởng chợt nhớ lại lời báo trước của Thầy: “Hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần” (14: 30) và nhận thức một cách sâu sắc sự yếu đuối của mình.
– “Ông òa lên khóc” : Đã đến lúc Phê-rô ý thức được sự phản bội của mình. Những tiếng khóc nức nở này chính là thái độ hối hận của một kẻ phạm tội vì hèn nhát.
Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô, vị tông đồ trưởng, chối Thầy. Đáng lưu ý là vị lãnh tụ Giáo Hội đã để lưu truyền cho các thế hệ sau tình tiết dádn xấu hổ làm mất thể diện của ông và chỉ mình ông mới có thể cung cấp tình tiết câu chuyện này. Thánh Mác-cô là là cộng tác viên thân cận của thánh nhân, chính xác là một trong các tác giả Tin Mừng nhấn mạnh nhất khuyết điểm của vị tông đồ trưởng này. Trong câu chuyện này, thánh Mác-cô muốn nêu bật đức tính khiêm hạ của vị thủ lãnh các Tông Đồ, những hối hận sâu xa của thánh nhân qua những dòng nước mắt đầm đìa ăn năn của ông. Mẫu gương của thánh nhân không phải là một bài học cho các Ki-tô hữu trong cơn bách hại vào thời điểm thánh Mác-cô viét Tin Mừng sao? Thánh Phê-rô làm cho chúng ta xúc động vì ngài là “một vị thánh rất người”.
2.2.Chúa Giê-su chịu xét xử trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 1-15).
Câu chuyện Chúa Giê-su chịu xét xử trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 2-5) được đặt vào trong câu chuyện các thượng tế dùng hết mọi thủ đoạn để giết Chúa Giê-su (15: 1 và 6-15). Một lần nữa, nhờ kỷ thuật “hai câu chuyện trong một bài trình thuật”, thánh Mác-cô nêu bật trách nhiệm của các giai cấp lãnh đạo Do thái về cái chết của Đức Giê-su.
Về phương diện pháp lý, quan tổng trấn Rô-ma, ông Phi-la-tô, chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su trên thập giá với tội danh là “vua dân Do thái”, một tước hiệu mặc lấy một gợi ý phản động chống chính quyền Rô-ma. Tuy nhiên, việc kết án đóng đinh vào thập giá là do các thượng tế tố cáo Đức Giê-su là “vua dân Do thái”, (như Lc 23: 2 nói rõ). Mác-cô và các thánh ký khác trình bày các vị lãnh đạo Do thái là những người sách động hàng đầu và ông Phi-la-tô đành phải nhượng bộ trước chiến thuật gây áp lực của họ. Bức chân dung này có thể phản ảnh khuynh hướng của các Ki tô hữu tiên khởi nhằm giảm bớt sự dính líu của chính quyền Rô-ma và tăng lên trách nhiệm của người Do thái về cuộc tử nạn của Đức Giê-su. Bài trình thuật của Mác-cô về phiên tòa trước tổng trấn Phi-la-tô thực tế thông qua lời phán quyết. Đức Giê-su hành xử như Người Tôi Trung Đau Khổ của Is 53: 7.
Bài trình thuật này được cấu trúc như sau:
A.Các thượng tế nộp Chúa Giê-su cho chính quyền Rô-ma (15: 1).
B.Chúa Giê-su chịu xét xử trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 2-5)
A’.Các thượng tế sách động quần chúng (15: 6-15).
A.Các thượng tế nộp Chúa Giê-su cho chính quyền Rô-ma (15: 1).
Sau đoạn xen kẽ nói về Phê-rô chối Chúa (14: 66-72), thánh Mác-cô viết tiếp việc xử án Chúa Giê-su.
“Vừa tảng sáng…”: Sau khi đã xét xử Chúa Giê-su lần thứ nhất vào ban đêm, đây là lần thứ hai Chúa Giê-su bị đem ra trước Thượng Hội Đồng vào ban sáng. Theo luật, phiên toà lần thứ hai này cần phải có. Trong phiên toà lần thứ nhất, sau khi công bố một bản án nghiêm trọng, các thành viên Thượng Hội Đồng cần một kỳ hạn để suy nghĩ. Theo luật qui định, kỳ hạn phải là hai mươi bốn tiếng, thì một phiên toà thứ hai phải xác nhận hay hủy bỏ bản án trước đó. Thánh Mác-cô không tiết lộ nội dung của phiên xử án lần thứ hai này. Thật ra, Thượng Hội Đồng đã công bố bản án rồi: “Tất cả đều kết án Người đáng chết” (14: 64).
– “Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô”: Kể từ thời Rô-ma chiếm đóng, người Do thái không còn quyền tuyên án xử tử ai. Vì thế, họ giao nộp Chúa Giê-su cho quan tổng trấn Phi-la-tô. Mác-cô nhấn mạnh là nhóm thượng tế khơi mào việc triệu tập công nghị và cũng chính họ chuyển giao Chúa Giê-su cho chính quyền dân sự. Chúa Giê-su bị trói như một tên tội phạm nguy hiểm và “giải đi nộp” cho ông Phi-la-tô. Việc dẫn độ này thực ra là nhằm để cho các chức sắc Do thái có được quyền lên án tử cho Chúa Giê-su từ phía ông Phi-la-tô, vị đại diện chính quyền dân sự.
Đây là lần đầu tiên Phi-la-tô xuất hiện trong Tin Mừng Mác-cô. Đó là một nhân vật quá nổi tiếng, thánh Mác-cô thấy là cần phải giới thiệu cho các Ki-tô hữu Rô-ma biết. Nhưng ông ta là ai? Là vị đại diện chính thức cho đế quốc Rô-ma. Là vị tổng trấn cai quản miền được gọi là “địa hạt Giu-đê”, ông nắm giữ quyền lực hành pháp của tỉnh đó. Ông lưu trú ở vùng biển Địa Trung Hải; nhưng vào dịp lễ hội của người Do thái năm ấy ông lên Giê-ru-sa-lem bởi ông e rằng sẽ có một cuộc nổi dậy của dân chúng ở đó. Và thế là “vụ án Giê-su” được đem ra cho nhà cầm quyền chính trị tối cao này xem xét.
Chúa Giê-su chịu xét xử trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 2-5).
Kể từ bây giờ, phiên toà từ bình diện tôn giáo được chuyển sang bình diện chính trị. Tội phản nghịch Thiên Chúa Ít-ra-en chuyển sang tội phản loạn chống lại cuộc chiếm đóng của đế quốc Rô-ma.
“Ông là vua dân Do thái sao?”: Một lần nữa, Mác-cô không hề tỏ ra mình có tham vọng tường thuật cặn kẽ cuộc gặp gỡ này. Thánh ký chỉ tóm lược cuộc chất vấn bằng một câu hỏi tối hậu này của tổng trấn. Câu hỏi của Phi-la-tô hoàn toàn đột xuất, không cần phải thăm dò dài dòng gì cả. Chúng ta thấy rằng chủ điểm tố cáo đã lập tức thay đổi. Trước vị thượng tế, Chúa Giê-su bị tố cáo là đã xưng mình là Đấng Mê-si-a thay mặt cho Thiên Chúa. Vị cầm quyền Rô-ma hoàn toàn không lưu tâm gì đến tước hiệu tôn giáo này của Chúa Giê-su; trái lại, tước hiệu “vua dân Do thái” mới là điểm ông lưu tâm hơn cả. Khi nói đến tước hiệu này, điều ông muốn nhắm đến là sắc thái chính trị của nó. Đối với nhiều người Do thái vào thời ấy thì công việc đầu tiên mà Đấng Mê-si-a phải thực hiện khi Ngài đến há chẳng phải là đánh đuổi bọn xâm lược Rô-ma ra khỏi toàn bộ lãnh thổ đất nước và tái lập vương triều Đa-vít đó sao? Chính vì thế Chúa Giê-su không bao giờ tự nhận cho mình tược hiệu “Vua-Mêsia”.
– “Chính ngài nói đó”: Ngay lúc này, dù Chúa Giê-su không trả lời Phi-la-tô như Ngài đã trả lời vị thượng tế: “Phải, đúng vậy”, thì câu trả lời của Ngài cũng rõ ràng, bởi vì đó cũng chính là câu trả lời của Ngài: “Chính anh nói đó” khi ông Giu-đa hỏi Ngài: “Thưa Thày, chẳng lẽ con sao?” (Mt 26: 25).
3-4. “Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội”: Tuy thế, các thượng tế vẫn ra sức “tố cáo” thêm. Mác-cô không nêu nội dung của những lời tố cáo này. Sau này, thánh Lu-ca xác định rõ những lời tố cáo này: “Chúng tôi nhận ra chính tên này kích động dân chúng nổi loạn; hắn ngăn cản việc đóng thuế cho Xê-da và xưng mình là Vua Mê-si-a” (Lc 23: 2). Đó quả là điều mà chính quyền Rô-ma quan ngại nhất.
“Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô ngạc nhiên”: Những lời tố cáo liên tục của họ tương phản với sự thinh lặng của Đức Giê-su. Một lần nữa Mác-cô nhấn mạnh rằng Đấng Công Chính giữ thái độ im lặng trước những kẻ vu khống mình (14: 60-61). Ngay cả viên tổng trấn cũng không có thêm được câu trả lời nào của bị cáo nữa. Thái độ hoàn toàn im lặng của Chúa Giê-su ở vào thời điểm quyết liệt của cuộc đời hẳn gợi lên nơi Mác-cô thái độ của Người Tôi Trung chịu đau khổ trong Kinh Thánh: “Bị ngược đãi, Ngài vẫn nhẫn nhục, không hề mở miệng, như thể con cừu bị đem đi xén lông” (Is 53: 7).
A’.Các thượng tế sách động quần chúng (15: 6-15).
“Vào dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tùy họ xin”: Theo phong tục Do thái, vào mỗi dịp lễ Vượt Qua, nguwofi ta phóng thích một tù nhân, chắc chắn để kỷ niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. Quan tổng trấn Phi-la-tô biết tập tục này, nên để lấy lòng dân Do thái, cứ vào dịp đại lễ này, ông ân xá một tội phạm.
“Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ”: Đây là lần đầu tiên một diễn viên mới mẻ tham gia vào bi kịch của Đức Giê-su, đó là đám đông dân chúng.
“Các ông muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do thái không?”: Bằng đường lối ngoại giao đầy tế nhị, Phi-la-tô đề nghị cho dân chúng chọn ân xá cho tên cướp Ba-ra-ba hay Đức Giê-su. Thực tâm quan tổng trấn muốn tha Chúa Giê-su vì ông biết Ngài vô tội. Vì thế, ông nghĩ chắc hẳn dân chúng chọn Đức Giê-su hơn là tên cướp khét tiếng có tiền án giết người. Đó là sách lược khôn khéo của một nhà chính trị từng trải. Thánh Mác-cô có nêu rõ lý do: Phi-la-tô không hề lạ gì các thủ lãnh Do thái tâm địa hẹp hòi chỉ vì ghen ghét Chúa Giê-su có ảnh hưởng sâu rộng nơi quần chúng, mà muốn giết Ngài mà thôi (15: 10).
“Nhưng các thượng tế sách động đám đông…”: Mác-cô nêu bật thủ đoạn của các thượng tế gây sức ép lên dân chúng yêu cầu tha cho Ba-ra-ba.
“Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do thái?”: Phi-la-tô càng bối rối vì sự việc xảy ra ngoài dự liệu của ông. Nhưng ông giả tảng như không đồng tình với họ. Nếu vậy thì theo họ ông phải xử trí như thế nào với người mà họ gọi vua dân Do thái đây?
“Đóng đinh nó vào thập giá”: Thế là đoàn lũ đám đông gào lên. Thập giá là bản án của chính quyền Rô-ma được quân lính Rô-ma thi hành. Bài trình thuật chỉ cho thấy ông Phi-la-tô ra lệnh đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá không vì Ngài có tội nhưng vì các thượng tế xúi dục đám đông áp lực trên ông.
“Truyền đánh đòn Đức Giê-su”: Câu chuyện Chúa Giê-su chịu xét xử trước tổng trấn Phi-la-tô kết thúc với hình phạt đánh đòn như chuẩn bị cho việc đóng đinh vào thập giá. Đánh đòn tự nó là một khổ hình. Án phạt này cũng là một biện pháp mở đầu cho khổ hình thập giá; nó làm cho tội nhân kiệt quệ vì mất nhiều máu và như vậy rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của tội nhân trên thập giá. Có nhiều loại hình phạt đánh đòn: người ta dùng gậy đối với tội nhân là công dân Rô-ma hoặc dây da có gắn những hạt chì đối với tội nhân có địa vị thấp kém. Chắc chắn đay là loại đánh đòn mà Chúa Giê-su phải chịu.
Cuộc xử án Chúa Giê-su kết thúc như thế đấy. Rõ ràng Mác-cô đã đơn giản hóa tiến trình xử án để nhấn mạnh vào chiều kích tôn giáo. Ngay các sử gia cũng đồng ý cho rằng tiến trình xử án đó quả là sơ sài và cẩu thả. Các lãnh tụ Do thái muốn làm cho xong trước lễ Vượt Qua. Việc đem Chúa Giê-su ra trước tòa Phi-la-tô chẳng qua chỉ là một cuộc bêu diễu. Chúa Giê-su không phải là một công dân Rô-ma, do đó Ngài sẽ không được hưởng sự đảm bảo về mặt luật pháp áp dụng cho công dân Rô-ma. Ngoài ra, ta thấy rằng lời cáo buộc cốt lõi chống lại Ngài thay đổi theo từng lần thẩm vấn. Khởi đầu trước tòa án Do thái, đó chỉ mang tính cách tôn giáo, nhưng khi đến trước tòa án Rô-ma thì nó lại mang tính chất thuần túy chính trị. Phi-la-tô đã ba lần gặp lại tước hiệu “vua dân Do thái” như thể đó là chủ đề cốt lõi vậy (15: 2, 9, 12).
Thánh Mác-cô nêu bật những trách nhiệm khác nhau về cái chết của Đức Giê-su. Trước tiên trách nhiệm của các thành viên Thượng Hội Đồng, họ sách động dân chúng chống lại Đức Giê-su; rồi đến trách nhiệm của dân chúng, họ để cho mình bị xúi dục; sau cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã tính sai một nước cờ khi nghĩ rằng dân chúng sẽ ủng hộ Đức Giê-su. Ông thích được thấy cuộc vận động của các thượng tế thất bại, bởi vì ông chẳng ưa gì tâm điạ hẹp hòi của các vị thượng tế này. Nhưng dù biết Đức Giê-su vô tội, ông đành nhượng bộ đám đông. Với tư cách một nhà chính trị khôn ngoan, ông vừa muốn vừa lòng dân chúng, đồng thời cũng muốn tránh bị tố cáo ở Rô-ma và bị coi là nhu nhược trước một kẻ tự xưng mình là “vua dân Do thái”.
CUỘC TỬ NẠN VÀ MAI TÁNG (15: 16-47)
Đây là phần cao điểm của bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô. Trong phần này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta bốn sự cố: Đức Giê-su chịu sỉ nhục (15: 16-20), Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (15: 21-32), Chúa Giê-su chịu chết trên thập giá (15: 33- 41) và sau cùng, Chúa Giê-su chịu mai táng (15: 42-47).
ĐỨC GIÊ-SU CHỊU SỈ NHỤC (15: 16-20).
Trong thời gian chờ đợi thành lập đội hành quyết, Chúa Giê-su bị giao cho bọn lính tráng làm trò tiêu khiển (15: 16-17). Quả là một hội hóa trang thảm thương! Phán quyết của Phi-la-tô có nói đến vương quyền của Chúa Giê-su. Bởi vậy bọn họ chụp lên đầu Chúa Giê-su những biểu hiệu vương quyền: áo khoắc đỏ, chắc chắn đây là tấm áo khoắc của quân đội Rô-ma biểu tượng sự chiến thắng, nhưng cũng còn biểu hiệu vương đế; vương miện, nhưng là vương miện kết bằng gai nhọn; và cây gậy biểu tượng vương quyền, nhưng là cây sậy. Sự nhạo cười mới độc ác hơn. Cảnh tượng giả trò làm vua thật khôi hài, đồng thời cũng hết sức nhục nhã (15: 18-19). Những cú tát, khạc nhổ gợi lại hình ảnh Người Tôi Trung của Đức Chúa (Is 50: 5-6). Và Mác-cô đã khéo léo cho chấm dứt trò đùa này bằng cách nêu ra sự tương phản giữa các trò đùa với phẩm cách của Đấng Mê-si-a Vua (15: 20).
ĐỨC GIÊ-SU CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀO THẬP GIÁ (15: 21-32).
Câu chuyện khổ nạn được kể một cách đơn giản và không nhấn mạnh quá nhiều trên những chi tiết về những đau khổ thể lý của Đức Giê-su (dù những chi tiết nầy chắc chắn là một phần của đoạn văn này). Bài trình thuật nhấn mạnh rằng cuộc tử nạn của Đức Giê-su đã xảy ra phù hợp với Cựu Ước, mà không giảm nhẹ sự thù hận khôn nguôi mà các đối thủ của Đức Giê-su phô bày (x. 14: 21).
“Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-mon, gốc Ky-rê-nê”: Giờ hành quyết đã đến. Mác-cô tường thuật với giọng văn ảm đạm nhưng chính xác. Thánh ký chỉ đánh dấu “con đường thập giá”. Kẻ tử tội phải tự mình mang lấy thanh ngang để rồi sau đó sẽ giang tay, chịu đóng đinh vào cườm tay trên đó. Bởi vì Ngài đã quá yếu sức, người ta phải bắt một người qua đường đảm nhận việc này thay cho Chúa Giê-su. Mác-cô nêu đích danh kẻ này: đó là ông Si-mon, một người Do thái sinh trưởng ở Ky-rê-nê (thuộc Bắc Phi); phải chăng ông có mặt ở Giê-ru-sa-lem như một người hành hương hay như một người định cư thì không rõ. Việc tham chiếu đến các con ông là A-lê-xan-đê và Ru-phô (x. Rm 16: 13) gợi ra rằng cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi biết họ. Ông Si-mon bị bắt ép phải vác đỡ thập giá cho Đức Giê-su. Việc mô tả ông “từ miền quê lên” có thể quy chiếu công việc đồng áng của ông hay việc ông viếng thăm ở đó.
“Một nơi gọi Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ”: Việc thi hành án tử xảy ra ở ngoài thành thánh. Lãnh địa Giê-ru-sa-lem được xem là vùng đất thánh, vì thế, không thể nào bị ố nhiễm bởi xác chết của tội nhân được. Nơi hành quyết được thánh Mác-cô nêu tên bằng những từ không thể nào quên được. Địa danh này quy chiếu đến hình dáng và cách sử dụng của nó. Tên gọi “Gôn-gô-tha” có nghĩa là “Sọ” vì một gò đất trọc lóc không có cây cối. Trên ngọn đồi này người ta đã chôn sẵn các cột thẳng đứng. người ta chỉ việc kéo thi thể của tử tội lên. Sau vài giờ, tử tội sẽ chết do mòn mỏi và nghẹt thở từ từ.
“Rượu pha mộc dược”: Họ cho tử tội uống một thức uống, dựa trên Cn 31: 6-7, được giải thích như chất gây mê để làm dịu cơn đau của tội nhân. Chúa Giê-su từ chối ân huệ này. Ngài muốn đảm nhận cho đến cùng toàn bộ những đau đớn hàm chứa nơi cái chết tàn bạo mà Ngài phải chịu với tinh thần sáng suốt.
“Chúng đóng đinh Người vào thập giá”: Việc đóng đinh được mô tả bằng những từ ngữ ngắn gọn nhất và đơn giản nhất có thể. Áo của Ngài trở thành chiến lợi phẩm của những người lính, những người đang hành hình Ngài. Trong ánh sáng của Tv 22 nổi bật trong bài trình thuật Thương Khó của Mác-cô, hành động của chúng cũng phải được xem như ứng nghiệm Tv 22: 19.
“Giờ thứ ba”: Chỉ duy có thánh sử Mác-cô ghi lại chính xác giờ Chúa Giê-su chịu đóng đinh; đóng đinh vào giờ thứ ba, tức là vào lúc chín giờ sáng; trời đất tối tăm lúc giữa trưa (15: 33) và Chúa Giê-su chết vào giờ thứ chín, tức vào lúc ba giờ chiều (15: 34). Thời biểu này lập lại thời biểu của một phụng vụ. Việc đóng đinh phù hợp chính xác với nhịp độ cứ ba giờ một các tín đồ Do thái cầu nguyện một lần ở Đền Thờ, và các Ki-tô hữu sơ khai cũng đã lập lại y hệt như thế (Cv 2: 46; 3: 1).
“Vua Dân Do thái”: Lời buộc tội chính thức nầy đã được nêu lên rồi trong phiên tòa trước tổng trấn Phi-la-tô (x. 15: 2, 9, 13) tương phản với hai lời buộc tội được nêu lên trong phiên tòa trước Thượng Hội Đồng (x. 14: 58, 61). Lời buộc tội chính thức xem ra phản ảnh hoàn cảnh lịch sử, theo đó Đức Giê-su bị hành hình bởi chính quyền Rô-ma, vì Ngài tự nhận mình là vua Do thái. Như ở 15: 16-20, sự châm biếm chính là từ viễn cảnh của Mác-cô Đức Giê-su là vua dân Do thái.
“Bên cạnh Người, chúng đóng đinh hai tên cướp”: Việc Chúa Giê-su bị đóng đinh giữa hai tên cướp chính là nhằm sỉ nhục Ngài hơn nữa. Nhưng thánh Mác-cô lại thấy một viễn cảnh khác. Mọi việc kết thúc thế này: Chúa Giê-su trần trụi, nằm trên thập giá có gắn bản án chính thức nhìn nhận Ngài là Vua, ngai vàng là thập giá và bề tôi là hai tên đạo tặc một bên phải, một ở bên trái.
“Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người”: Chỗ hành hình được định vị, trên Đồi Sọ, bên vệ đường, dẫn vào thành Giê-ru-sa-lem, nơi có đông người qua lại. Đây là chỗ hành hình chính quyền Rô-ma muốn: cảnh tượng những tội nhân hấp hối trong đau đớn quằn quại phải có hiệu quả răn đe đối với những người qua đường. Nhóm người đầu tiên nhục mạ Ngài lập lại lời buộc tội được nêu lên ở 14: 58 về việc Ngài hăm dọa phá hủy Đền Thờ .
“Các thượng tế”: Nhóm thứ hai nhục mạ Ngài vang dội lời buộc tội ở 14: 61, theo đó Đức Giê-su tự nhận mình là Đấng Mê-si-a.
“Ông Ki-tô vua Ít-ra-en ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng tôi thấy mà tin”. Lời chế nhạo này thách thức Ngài thoát khỏi cái chết để được mọi người thấy mà tin (8: 11b).
– “Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người”: Ở đây, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su bị ruồng bỏ tột độ, ngay cả kẻ cùng bị xử án cũng buông lời lăng mạ Ngài.
ĐỨC GIÊ-SU CHỊU CHẾT TRÊN THẬP GIÁ (15: 33-39).
Cuộc tử nạn của Đức Giê-su đã xảy ra theo ý muốn của Thiên Chúa được mặc khải trong Cựu Ước. Việc bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai và lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng đem lại cho cuộc tử nạn của Đức Giê-su một chiều kích sâu xa liên quan đến dân Cựu Ước và sứ mạng cho lương dân.
“Bóng tối bao phủ khắp mặt đất”: Giờ định mệnh đã tới Chúa Giê-su chịu chết. Mác-cô tả lại sự kiện này cách hết sức ngắn gọn. Ông lưu tâm đến tính quyết định của thời điểm ấy bằng cách nói tới bóng tối bao trùm. Đây hoàn toàn không là sự kiện lịch sử, mà là biểu trưng. Các ngôn sứ đều cho rằng khi can thiệp ở thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ đảo lộn trật tự vũ trụ. Bóng tối che phủ mặt đất ngay giữa ban ngày, chính là để loan báo rằng ơn cứu độ phổ quát, chứ không phải cái chết, đang gần kề (x. Am 8: 9-10).
“Ê-loi-I, Ê-loi-I, la-ma xa-bác-tha-ni!”: Kể từ lúc bị Phi-la-tô thẩm vấn cho đến đến lúc này, Chúa Giê-su không nói gì cả (15: 2). Và ở đây, Mác-cô ghi lại những lời cuối cùng của Chúa. Đây là tiếng kêu bi thương mà Người Công Chính thốt lên trong cảnh cùng khổ được gặp thấy ở Tv 22. Đức Giê-su lập lại Thánh Vịnh này. Lúc này đây, Đức Giê-su cảm nhận một nỗi chơ vơ cô quạnh tận cùng, ngay cả Chúa Cha cũng dường như bỏ mặc Ngài. Đức Giê-su chết trong nỗi cô đơn tuyệt mức. Đây là một sự dâng hiến trọn vẹn bản thân mình, một sự quên mình tuyệt đối. Nỗi phiền muộn của Người Công Chính trong Tv 22 không là nỗi tuyệt vọng. Lời khẩn nguyện xin này rõ ràng là lời van nài của một kẻ vô tội đang bị áp bức. Nó được bắt đầu bằng lời than ai oán (“Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi…”), nhưng rồi sau đó mở rộng đến lời đoan hứa của Thiên Chúa là không bao giờ bỏ rơi kẻ tin vào Ngài (Tv 22: 23-30). Như vậy, lời cầu nguyện của Người Công Chính chịu đau khổ kết thúc với một hành vi tròn đầy tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì thế, khi Chúa Giê-su thốt ra tiếng kêu này, hoàn toàn đó không phải là tiếng kêu tuyệt vọng. Tác giả Tin Mừng chỉ muốn nhấn mạnh đến nỗi cô đơn tận cùng của Đấng Công Chính đang hấp hối, không những bị loài người chối bỏ mà ngay cả Thiên Chúa cũng bỏ rơi Ngài nữa. Như thế, Ngài đã trải qua được kinh nghiệm tận cùng của thân phận con người. Người ta sẽ chẳng thể nào quên đi được những lời cuối cùng này vào giây phút hấp hối của Ngài.
“Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a”: Những người qua đường, bao giờ cũng có thái độ mỉa mai, chỉ coi những lời cuối cùng đó của Chúa Giê-su là lời của kẻ hấp hối. Thực vậy đối với não trạng dân Do thái hồi ấy thì ngôn sứ Ê-li-a được coi là người giúp đỡ các tín hữu khi họ hấp hối.
“Một bọt biển thấm đầy giấm”: Cử chỉ này được hiểu tốt hơn ở nơi bản văn Tin Mừng Gioan, ở đó Đức Giê-su vừa kêu lên: “Ta khát”. Ở đây, thánh Mác-cô dường như nói bóng gió rằng một trong những kẻ có mặt ở đó thử làm cho Đức Giê-su tỉnh lại để xem ngôn sứ Ê-li-a có đáp lại lời cầu xin của Ngài hay không.
“Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở”: Một cái chết đột ngột và dữ dội. Thanh ký không nhấn mạnh lâu trên cái chết của Đức Giê-su. Bản văn không kể cho chúng ta nội dung tiếng kêu lớn tiếng này (x. Lc 23: 46; Ga 19: 30). Quả thật, Mác-cô thật quá ngắn gọn khi thuật lại giờ phút quan trọng này. Điều ông cho là quan trọng hơn hết, chính là ý nghĩa sâu xa nơi cái chết của Chúa Giê-su.
Khi Chúa Giê-su vừa mới tắt thở, thánh Mác-cô dẫn chứng hai sự kiện, cả hai đều phong phú về ý nghĩa và bổ túc cho nhau:
– Sự kiện thứ nhất: “Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống”: Tác giả không xác định bức màn nào, hoặc bức màn cửa được giăng trong tiền sảnh hay bức màn phân cách nơi thánh với nơi cực thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nơi mà vị thượng tế mới có thể bước vào, một năm một lần, để thực thi nghi thức Xá Tội. Dù bức màn nào bị xé ra làm hai, ý nghĩa vẫn như nhau: “con đường đến với Thiên Chúa từ nay rộng mở cho tất cả mọi người”. Như vậy, việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn đặc quyền đặc lợi của riêng dân Ít-ra-en nữa. Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá trương rộng ra cho hết mọi người: “Khi nào bị giương lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta”. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, đã không còn đóng vai trò của mình nữa; Đền Thờ thực sự của Thiên Chúa sẽ là “Thân Thể Phục Sinh” của Đức Giê-su, như chính Ngài đã công bố.
– Sự kiện thứ hai: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa’”. Viên đại đội trưởng Rô-ma đã nghe nhiều lần nhiều giọng nói ở giữa đám đông: “Người này tự xưng mình là Con Thiên Chúa”. Ông lập lại diễn ngữ này, dù không hiểu hết mức độ của nó, nhưng bị thuyết phục, bởi vì những gì ông chứng kiến cho thấy tội nhân này là một người công chính đặc biệt. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng là “dấu chỉ tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân”. Đây là lời chứng đầu tiên về ơn cứu độ phổ quát mà việc bức màn trong Đền Thờ bị xé ra làm đôi đã loan báo.
Chính ở nơi lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng này, Mác-cô đã dẫn dắt độc giả tới đỉnh cao của Tin Mừng mà ông viết. Chúng ta nên nhớ lại câu hỏi đặt ra về Chúa Giê-su ngay từ đầu tác phẩm: “Người này là ai?”. Qua câu chuyện tuyên xưng đức tin của Phê-rô thay mặt cho nhóm Mười Hai, chỉ mới một ngưỡng cửa cần được vượt qua: Chúa Giê-su quả thật là “Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng niềm tin mới khai sinh này cần được đào sâu thêm. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su là dịp thuận lợi để đào sâu niềm tin đó. Với lời tuyên tín của viên đại đội trưởng ngoại giáo này, bước quyết định đã được hoàn tất: Chúa Giê-su là “Con Thiên Chúa”. Đó cũng tựa như tiếng nói từ trời cao Chúa Cha phán bảo vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa (1: 11). Đó cũng là mong ước của Chúa Giê-su khi Ngài xua đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ: “Hết thảy mọi dân nước” đều có thể tự do đến với Thiên Chúa (11: 17). Điều này đã hiện thực nơi việc lương gia nhập Giáo Hội, dưới ánh sáng Chúa Giê-su Phục Sinh.
Chúng ta thấy rõ sự tương phản trong trình thuật này: đang khi dân Do thái (những người qua đường, các thủ lãnh) sỉ nhục Đấng Mê-si-a trên thập giá, thì một lương dân lại tuyên xưng một đức tin tinh tuyền nhất. Khi nói với các tân tòng Rô-ma gốc lương dân, Mác-cô còn muốn thêm rằng: sự bất toàn của dân Do thái sẽ được bù đắp bằng việc nhiều lương dân gia nhập Giáo Hội (x. Cv 13: 46-48).
ĐỨC GIÊ-SU CHỊU MAI TÁNG (15: 40-47).
Cuộc mai táng là sự chuẩn bị thiết yếu cho câu chuyện ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về biến cố Phục Sinh.
“Nhưng cũng có mấy người phụ nữ đứng xa xa mà nhìn”: Những người phụ nữ này lên Giê-ru-sa-lem cùng với Chúa Giê-su và đã can đảm theo bước Chúa Giê-su tới tận chân thập giá trong khi các tông đồ lại bỏ Thầy ngay lúc Thầy bị bắt (14: 50). Các bà là chứng nhân của ba biến cố liên tiếp nhau: Tử Nạn, Mai Táng và Phục Sinh. Quả thật, các bà cũng đã chứng kiến Đức Giê-su tắt thở (15: 40), đã biết nơi Ngài được mai táng (15: 47), đã phát hiện ngôi mộ trống và nhất là Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được gặp gỡ Chúa Giê-su Phục Sinh vào sáng thứ nhất trong tuần.
– “Trong số đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê thứ và Gio-xê, cùng bà Sa-lô-mê”: Thánh Mác-cô trích dẫn đích danh ba người phụ nữ trung tín, điều này nêu bật tư cách “chứng nhân” ngoại thường của họ.
“Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su…”: Trong Tin Mừng Mác-cô, chúng ta không gặp thấy việc các bà đi theo Đức Giê-su để phục vụ Ngài cùng các môn đệ Ngài, cũng như vai trò của các bà như các môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, Tin Mừng Lu-ca kể cho chúng ta sự kiện này (Lc 8: 1-3).
“Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sa-bát”: Trình thuật ngắn gọn này muốn khẳng định rõ thêm rằng Chúa Giê-su đã chết thực sự, đồng thời nhấn mạnh tới tính cách vội vã lạ thường trong việc mai táng Ngài. Người Rô-ma không quan tâm đến việc chôn cất tử tội; hơn nữa, để có hiệu quả răn đe, xác tội nhân phải bị bêu rếu trong nhiều ngày. Nhưng luật Do thái quy định rằng thi hài tội nhân phải được mai táng trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22-23). Sau cùng, theo cách tính ngày của người Do thái, buổi chiều bắt đầu một ngày mới, ấy vậy buổi chiều ngày hôm đó lji là bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng tất cả mọi việc làm. Vì thế, việc mai táng phải khẩn trương cho kịp. May thay, có một ngôi mộ trống ở gần bên cuộc hành hình.
“Ông Giô-xếp, người thành A-ri-ma-thê”: Ông Giô-xếp là một môn đệ ẩn kín của Đức Giê-su. Trước đây, ông chưa bao giờ dám bày tỏ sự thiện cảm của mình đối với Đức Giê-su khi Ngfi còn sống, bởi vì ông là một thành viên của Thượng Hội Đồng, một trong những người giàu có và có thế giá. Lúc này, ông thu hết can đảm vf mạnh dạn đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su.
“Ông Phi-la-tô…cho viên đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa”: Việc Phi-la-tô kiểm chứng cung cấp một lời xác nhận chính thức rằng Đức Giê-su đã thật sự chết; không có vẫn đề hôn mê hay ngất lịm.
“Hạ xác Người xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẳn trong núi đá”: Việc mua vải để liệm xác Chúa Giê-su, mà không hương liệu, là dấu chỉ một công việc hết sức vội vàng.
– “Đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong đá”: Vào thời Đức Giê-su, vùng chung quanh Giê-ru-sa-lem được mô tả như một nghĩa trang khổng lồ. Ngôi mộ của ông Giô-xếp là một cấu trúc như hang động được đục trong núi đá vôi, ở giữa có một băng đá để đặt thi thể; ở phía trước là tiền sảnh; lối vào thì hẹp và thấp. Để lấp cửa mộ, người ta lăn một phiến đá lớn.
“Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Gio-xê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người”: Một lần nữa, Mác-cô ghi nhận cái nhìn và cả tên của hai người phụ nữ đã theo chân Chúa Giê-su tới khi Ngài chết (14: 40-41). Cái nhìn này đảm bảo sự liên tục của “chứng từ” về những nền tảng của niềm tin Ki-tô giáo.
Như vậy ngày đau thương được hoàn tất giữa những dấu ấn của lòng trung thành và tình yêu mến.
KẾT LUẬN:
Bài tường thuật của Mác-cô – như bài tường thuật của các thánh ký khác – được diển tả một cách rất đơn giản. Không một chi tiết bi thương nào được thêm vào cho bài tường thuật đơn giản nầy; những sự kiện tự nó đủ để nẩy sinh tình cảm.
Ba tấn thảm kịch được chồng chéo nhau trong cuộc thương khó của Đức Giê-su:
-Tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối;
-Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người;
-Tấn thảm kịch của tội lỗi.
Tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối:
Đức Giê-su đã công bố sứ điệp một cách khó khăn, tuy nhiên không nhượng bộ và thỏa hiệp. Ngài đã lật đổ những ý tưởng cố hữu, kết án thái độcâu nệ luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, rồi sự thù hận liên kết với nhau tấn công Ngài. Những vị lãnh đạo tôn giáo Ít-ra-en đã từ chối nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a vì Ngài không đáp ứng đúng hình ảnh mà họ tự tạo nên. Việc họ quyết tâm thua đủ với Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ nghĩ tưởng: Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết, nhưng Ít-ra-en với tư cách dân thừa hưởng Lời Hứa, không còn hiện hữu nữa.
Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người:
Khi đón nhận kiếp người, Đức Giê-su chấp nhận thân phận “sinh ly tử biệt”. Vì thế, Ngài muốn đảm nhận cái chết trong tất cả sự khiếp sợ cùng với những đau khổ của nó. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho Ngài phải chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài. Số phận nầy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi nhận được” (Ga 10: 17-18). Đây là cử chỉ bác ái tột cùng: Đức Giê-su đã muốn chia sẻ số phận của những kẻ bị tra tấn, bị khổ hình, những người chết vì đạo, để tất cả những ai phải chết trong những khốn khổ thậm tệ nhất, và tất cả những ai phải chịu đau đớn về thể xác cũng như luân lý, gặp thấy trong cuộc thương khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có sự sung mãn: sự sung mãn của sự sống, sự sung mãn của những điều thiện hảo, sự sung mãn của ân sủng.
Tấm thảm kịch của tội lỗi:
“Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Vì nầy là máu Thầy đổ ra để muôn người được tha tội”. Đức Giê-su đã giải thích rõ cái chết của Ngài. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì cả nếu chúng ta không để mình vào trong mầu nhiệm: Mầu nhiệm của “ơn Cứu Chuộc”. Người cứu chuộc (gô-en), chính là người phục hồi nhân phẩm cho thành viên của gia đình bị hoạn nạn, và chuộc lại, nếu phải chịu cảnh đời nô lệ vì nợ nần. Chính đó là ý nghĩa đặc thù của từ ngữ Hy bá mà chúng ta dịch “Đấng cứu chuộc”.
Bất chấp được Thánh Kinh soi sáng, biết bao câu hỏi nẩy sinh trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Sự Thiện. Ấy vậy, Sự Thiện, chính là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa chan chứa tình yêu, Đấng đã không muốn con người một mình gánh chịu những hậu quả của tội lỗi mình. Ngài đã sai Con Một Ngài để chia sẻ tận mức gánh nặng tội lỗi và xóa đi những vết nhơ của chúng ta. Đó là lý do tại sao Thập Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa như thánh Gioan phát biểu.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
ĐẤNG MESSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux
Sau một cuộc hành trình dài, Chúa Giêsu cũng các môn đệ đã đến Giêrusalem. Đây chính là thời kỳ quan trọng –Maccô cũng như ba vị thánh sử kia (Mt 21,1-10; Lc 19,28-40; Ga 12,12-19), đã kể lại biến cố này bằng một bối cảnh rất rõ ràng. Bản tường thuật của Maccô đầy tràn các hình ảnh Kinh Thánh. Nghĩa là các Kitô hữu sơ khai vẫn ấp ủ và chiêm ngắm việc Chúa Giêsu vào thủ đô như là hình ảnh báo trước việc Đấng Phục Sinh sẽ trả lời trong vinh quang.
Bối cảnh cho giai đoạn này cũng rất đặc sắc. Từ Giêricô, Chúa Giêsu tiến về thành thánh từ hướng đông. Ngài băng qua các làng Betphaghê và Bêtania, theo hướng xuôi xuống triền núi Ôliviê (c.2a). vào thời Chúa Giêsu, có một truyền thống Do Thái xa xưa cho rằng chính Thiên Chúa –và Đấng Mêsia của Ngài- chắc chắn sẽ theo lộ trình đó để đến phán xét vào thời cuối cùng. “Vào ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliviê đối diện với Giêrusalem về hướng đông” (Dc 14,4). Chính bối cảnh tiên tri này đã mang lại âm sắc độc đáo cho biến cố xảy ra ngay sau đoạn khơi mào: sự thanh tẩy Đền thờ (11,15-18).
Trong lúc ấy, việc Đấng Mêsia vào thành vẫn chưa mang vẻ uy nghi gì cả. Chúa Giêsu chưa phát biểu gì. Ngài chỉ phái hai môn đệ đi tìm cho Ngài một con vật để cỡi (c.1b-6). Kiểu tường thuật này được lặp lại trong việc chuẩn bị chi cảnh cuối cùng (14,12-16). Trong cả hai lần, Chúa Giêsu muốn chính mình sắp đặt mọi sự, và muốn mọi việc Ngài ủy thác phải được thi hành hoàn hảo. Điều này càng nhấn mạnh tính chất linh thiêng của biến cố sắp xảy ra. Đó là một sáng kiến cao cả và hoàn toàn không do ngẫu nhiên. Việc Chúa Giêsu ra lệnh đem về cho mình “một con lừa nhỏ có cột dây, chưa có ai cỡi” (c.2) rất đáng ta chú ý đến. Con vật đó phải còn nguyên tuyền, chưa ai dùng đến. Đó phải là một con vật thánh. Ở xứ Israel, lừa là một gia súc quen thuộc với công việc gia đình. Và trong Thánh Kinh, đó là con vật để cỡi theo truyền thống của vua chúa (1V 32-35). Chính trong trường hợp này, qua việc chọn lấy một con lừa, Chúa Giêsu đã hoàn tất một trong những lời tiên tri mang tính Mêsia được biết đến nhất. “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên! Này đây Vua ngươi ngự đến, Ngài công minh và vinh quang, nhưng khiêm tốn cỡi trên lừa còn nhỏ. Ngài sẽ cất khỏi Êphraim các cỗ chiến xa và khỏi Giêrusalem các xe trận. Người sẽ bẻ gẫy cung nỏ chiến tranh và tuyên bố hòa bình cho mọi dân nước” (Dc 9,9-10).
Nghịch lý đã được bộc lộ ra ở đây. Chúa Giêsu muốn tỏ mình ra là Đấng Mêsia của Israel. Ngài khiêm hạ, đem đến sự an bình. Con vật tầm thường của Ngài cỡi trái ngược hẳn với đoàn hộ tống của vua chúa thân chinh: ngựa chiến oai phong, chiến xa. Trang phục kín đáo của Ngài cũng không xứng với danh xưng dân chúng gán cho Ngài. Ngài là “Chúa” (c.3). Dưới ngòi bút của Maccô, tước hiệu này có lẽ chỉ là do sự lầm lẫn khi viết ra. Maccô rất ít khi dùng đến tước hiệu này khi Chúa Giêsu còn sống (7,28 và 12,36-37). Trước tiên, nó muốn ám chỉ Đấng mà các Kitô hữu sẽ thờ phương sau khi Ngài sống lại vinh quang, đó chính là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Những câu 7-10 gợi lên nghi thức phong vương. Các môn đệ dắt lừa con tới, trải áo làm yên, Chúa Giêsu ngồi lên (c.7). Những cử chỉ này làm nhận biết tính cách vương đế của Thầy họ. Và dân chúng phấn khởi (c.8). Họ trải thảm cho Chúa Giêsu đi, thảm danh dự trong các ngày lễ thánh (xem chuyện Jêhu trong 2V 12b-13) #. Việc chặt lá cây là mượn hình ảnh ngày lễ Trại. Thời Chúa Giêsu vào dịp lễ này người ta hoan hỉ đón mừng vương quyền của Giavê. Niềm mong chờ Đấng Mêsia bỗng trở nên sống động nhờ một cuộc diễn hành trong đó dân chúng tán tụng Thiên Chúa, tay cầm các nhành vạn tuế và lá dừa (x. Lv 23,39-40) miệng tung hô.
Chúa Giêsu là vị anh hùng y như trong nghi thức trên đây. Người ta tung hô đón tiếp Ngài. Họ hoan hỉ hộ tống Ngài vào thành (c.9). những lời ca tụng tán dương dân chúng dành cho Ngài mang một sắc thái lễ nghi rõ rệt. Chúng được trích từ Thánh vịnh 118, và cũng được hát trong dịp lễ trại “Hosana!” là một từ ngữ Hy Bá Lai có nghĩa “Xin cứu giúp chúng tôi!”. Dần dà, lời kêu cầu xin giúp đỡ này trở thành một tiếng tán dương, một lời “hoan hô”. Chúa Giêsu đã được hoan hô, được công nhận là Mêsia, “Đấng sẽ đến” (Tv 118,26). Maccô còn làm cho thời điểm này mang tính Mêsia hơn khi ông thêm vào: “Vạn tuế vạn phúc triều đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (c.10a). dân chúng nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, vị vua đã hoàn thành được những lời hứa hẹn của Thiên Chúa với các vị vua Giuđa (2V 7,12-16). Tiếng kêu cuối cùng của dân chúng có thể khiến ta ngạc nhiên, tựa như một âm vang: “Hoan hô Chúa!” (c.10b).
Sau cùng, thánh sử khéo léo ghi nhận đích đến của đám rước hoan hỉ này: “Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và đi vào Đền thờ” (c.11a). Vị Vua Mêsia hoàn tất cuộc diễn hành tại nơi trung tâm của thành thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa. Toàn bộ hành trình của Chúa Giêsu hướng về Giêrusalem như nơi Ngài chọn để hoàn tất sứ vụ. Những cuộc gặp gỡ, tranh luận sau đó đều xảy ra xung quanh hoặc chính trong nơi thánh này của Israel (11,12-12,44). Những từ Maccô dùng để kết thúc bản tường thuật không làm ta ngỡ ngàng chút nào. Khi đã vào đền, Chúa Giêsu “rảo mắt nhìn xem mọi sự” (c.11b). Chắc hẳn Thầy đã biểu lộ sự hiện diện uy nghi của mình qua việc đảo mắt dò xét xung quanh. Và Maccô biết điều bí mật đó.
Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giêsu vẫn ẩn náu một vẻ bình thản lạ lùng. Hội hè lễ lạc đã xong hẳn. Một tấn kịch đang hình thành và sắp mở màn. Ngài đợi đến ngày hôm sau mới ra tay hành động bởi vì trời đã về chiều. Chúa Giêsu cùng với Mười Hai môn đệ trở về nghỉ ở Bêtania (c.11b). Cuộc rút lui chiến thuật này thật đầy ý nghĩa. Bêtania, tiếng Hy Bá Lai có nghĩa là “nhà của kẻ nghèo”. Với vẻ trang trọng lạ thường, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có thể làm người ta quên đi điều này: Con Người đến đó để trải qua cuộc khổ nạn (10,32-34).
Người ta thường cho rằng cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem chỉ xảy ra vắn vỏi. Mọi người đều tin rằng bản văn tường thuật hiện nay chỉ mang màu sắc hội hè sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh mà thôi. Cộng đoàn sơ khai hẳn rất thích thú đọc lại, qua ánh sáng Kinh Thánh, về một biến cố nguyên tuyền, đồng thời lại khiêm nhường nhất. Gioan đã nói lại điều đó khi ông viết: “Thoạt đầu các môn đệ không hiểu điều này, nhưng khi Chúa Giêsu đã được vinh hiển rồi, họ mới nhớ lại rằng điều đó chỉ về Ngài…” (Ga 12,16). Chúng ta chỉ kết luận rằng vào dịp lễ độc đáo đó, Chúa Giêsu đã được dân chúng tiếp rước nồng hậu nhưng vẫn hàm hồ. Những biến cố kế tiếp sẽ chứng tỏ điều này.
ÂM MƯU CHỐNG LẠI CHÚA GIÊSU (14,1-2)
Lần đầu tiên độc giả có dịp đặt mình vào bối cảnh “Lễ Vượt Qua”. Trước kia, Vượt Qua chỉ là một dịp lễ hội của dân du mục. Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12,1-11). Đến khi dân Israel đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, cũng mang dáng dấp nông nghiệp như trên, gọi là “bánh không men”. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ hội này –Vượt Qua và bánh không men- nhanh chóng được nhập làm một với nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân đến, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi ách nô lệ (ra khỏi xứ Ai Cập) và thiết lập dân Thiên Chúa (Dt 16,1-8). Ở Israel, Vượt Qua đã trở thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do Thái. Do đó không phải ngẫu nhiên mà bản tường thuật khổ nạn lại được đặt vào khung cảnh của lễ hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.
Và thế là một sự diễn ra rất chính xác (c.1b). Trước đây ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giêsu, dù mới chỉ là nét phác họa sơ sài (c.3,6). Nhưng âm mưu này chỉ liên quan đến nhóm biệt phái và các kẻ thuộc phe Hêrôđê. Nhưng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, kế hoạch bắt Ngài được vạch ra chính xác hơn, phát xuất từ giới tư tế, và được giới thường dân hùa theo, nhất là sau “vụ việc” Đền thờ (11,15-18; 12,12). Đến bây giờ các thượng tế, với sự giúp đỡ của các ký lục, đang cố tìm ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giêsu. Họ “tìm mưu” hầu tránh gây kích động nơi dân chúng (c.2). Vào dịp lễ Vượt Qua rất nhiều khách hành hương tuôn về Giêrusalem, họ là những người Do Thái tản mác khắp bốn phương thiên hạ. Đó hẳn là một thời cơ thuận lợi để nổi dậy: Vả lại, Chúa Giêsu được dân mến mộ vì những lời giảng dạy sáng chói trong Đền thờ (12,12-57). Các thủ lãnh Do Thái phải nhanh chóng hành động, trước khi ngày lễ bắt đầu: phải đảm bảo trật tự công cộng.
XỨC DẦU THƠM Ở BÊTANIA (14,3-9)
Đây chính là lời dẫn nhập về Cuộc Khổ Nạn. Câu chuyện xảy ra ở Bêtania, một làng nhỏ gần Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giêrusalem (11,11). Người tiếp đón Ngài không ai khác hơn là chính người phong cùi trước đây tên là Simon (c.3a). Ông đã được lành bệnh và đã tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình.
Chỉ một mình Maccô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn (c.b). Ta không biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quý, “rất tinh tuyền”. Có lẽ đó là loại dầu thơm chiết xuất từ một loài cây cỏ Ấn Độ. Đập bể bình ra, “Cô đổ dầu thơm trên đầu Người” (c.3c). Maccô nhấn mạnh đến sự hoang phí này. Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình để đổ thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu là việc quá dễ dàng: Chúa Giêsu ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài tựa mình dài lên một cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ này mang ý nghĩa gì? Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Thầy. Có thể cô đã nhận ra tính cách Thiên sai nơi Chúa Giêsu. Bởi vì khi xức dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua. Theo như sự mong đợi của người Do Thái thì Đấng Mêsia đã được “xức dầu” (x. Is 61,1). Nhưng việc vừa xảy ra khiến các môn đệ Chúa Giêsu phản ứng dữ dội.
Người ta quên rằng ngoài Simon, Chúa Giêsu và người phụ nữ còn có nhóm Mười Hai môn đệ nữa chứ. Họ mới là những kẻ nổi xung lên, cho rằng làm như thế là phí phạm quá. Họ ước tính bình dầu thơm đó phải hơn ba trăm đồng: tương đương với ba trăm ngày công vất vả của một nông dân chớ đâu phải ít gì! (c.4-5). Thà rằng đem bán lấy tiền cho kẻ khó còn hơn. Lời phê phán này cũng có lý đấy chứ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bênh đỡ cho hành vi của cô ấy: “Cô ấy vừa làm cho Tôi một việc nghĩa” (c.6). Các môn đệ phải nhận thức ra điều này. Người ta chẳng thiếu gì người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Môsê thì Thiên Chúa đã đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15,4). Nhưng cũng không nên quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu. Bởi thế Ta truyền dạy rằng: Ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15,11). Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc phải cấp tốc giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một kẻ đặc trách việc phân phát tiền bố thí. Theo Gioan, đó chính là phần vụ của Giuđa, thủ quỹ của nhóm Mười Hai (Ga 12,4-6). Vậy rõ ràng là các Tông đồ, mà đầu tiên là Giuđa, đã tỏ ra giả dối khi lên án người phụ nữ đó phí phạm. Và Chúa Giêsu bất ngờ mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa: vả lại, “Cô ấy đã lấy dầu thơm để chuẩn bị ngày mai táng” (c.8). Ý Chúa Giêsu muốn nói về hành động mang tính tiên tri của cô ấy. Cô đã thấy trước sự ướp thơm tử thi Chúa Giêsu. Đó là một việc rất có giá bởi lẽ ta nên nhớ rằng nấm mồ nơi chôn cất Chúa Giêsu là mồ của kẻ đã bị kêu án tử; phải nhanh chóng táng xác Ngài và cũng không cần chi mà phải ướp dầu thơm (15,46). Ta cũng nên lưu ý rằng theo đạo Do Thái hồi ấy, người ta vẫn thường coi trọng việc thực thi bác ái. Theo truyền thống thì chôn xác kẻ chết là một nghĩa cử rất đáng biểu dương, tương tự như việc bố thí cho kẻ nghèo khó vậy (x. Tb 1,16-18).
Chúa Giêsu đã không ngần ngại liên kết hành động của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu. Và Maccô cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến (c.9). Khi ghi lại cảnh này, thánh sử biết rằng việc xức dầu ở Bêtania hẳn sẽ được nối kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Ta nhận thấy Maccô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho cả thế giới (1,1; 8,35; 10,29; 13,10). Tâm điểm của Tin Mừng này là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Mêsia, và dĩ nhiên, cử chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.
NGÃ GIÁ ĐỂ GIUĐA PHẢN THẦY (14,10-11)
Như ta đã nói ở trên, trong số các môn đệ chống đối việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giêsu (14,3-9), chắc chắn có “Giuđa Iscariot, một trong nhóm Mười Hai” (c.10a). nhờ vào Tin Mừng Gioan, ta biết thêm rằng chính y là người quản lý tiền bạc cho nhóm Tông đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến những nhiệm vụ ấy, bởi lẽ “y là một tên trộm cướp… y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho vào trong túi ấy (Ga 12,4-6). Và ta có cần phải tưởng tượng nhiều lắm mới nhận ra chính y là kẻ biển lận và dễ bị mua chuộc phản bội lại Thầy mình nhất không? Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giêsu cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được tiền (c.10b-11a). Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14,1b) nay sắp tới lúc chín muồi. Và qua những dòng đơn sơ Maccô đã chỉ cho thấy rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng ngũ bạn hữu của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Giuđa làm Tông đồ như những Tông đồ khác, tin tưởng y, cùng sống với y và giúp đỡ y (3,13-19). Cần ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giêsu đến cái chết lại đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài.
Bây giờ Giuđa chỉ còn tìm dịp thuận tiện để giao nộp Chúa Giêsu (c.11b). Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần phải chờ đến hết ngày (14,43-50).
CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13)-cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a). và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.
LỄ LÁ- Chú giải của Fiches Dominicales
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH MACCÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Maccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Am mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2).
+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác.
+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
– Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).
+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).
+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).
+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).
+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).
+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
– Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)
Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
– Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)
+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
– Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
– Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.
– Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Maccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong “Lire ba Bible” số 55, trang 1 13).
Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc
E.Charpentier, giải thích: “Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị “tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, ” (Sđd) .
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là “Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải “Vua dân Do Thái” không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng (“Đức Giêsu không trả lời gì nữa”) ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ “Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông ” (Is 53, 7) .
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Maccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.
– Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
– J. Hervieux nhận xét: “Maccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là “Con Thiên Chúa”. Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (…).
Đồng thời Maccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là ai” Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng” Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. ” Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian” (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 230) .
– Sau cùng, địa vị của phụ nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa – việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái – trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế “nhân chứng” duy nhất: “họ đứng nhìn”, “đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng “Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải (“La Bible du dimanche” trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Maccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Maccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy.”
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Chủ Ðề: Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đi vào con đường chịu nạn
Dẫn vào Thánh lễ
(Như lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người. Ðể thực hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục sinh và sự sống.
Lời Chúa
Bài Tin Mừng lúc kiệu lá: Mc 11,1-10
Việc Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần long trọng (dân chúng đón rước, tung hô…) nhưng không phải là một cuộc biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Ðức Giêsu là người như thế nào:
Ðức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).
Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi mật hiệu với nhau).
Ðức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo hơn là chính trị (“Hoan hô Ðấng nhân danh Chúa mà đến”, “Hoan hô trên các tầng trời”)
Như thế, Ðức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
Bài đọc Cựu Ước: Is 50,4-7
Ðây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách Isaia.
Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.
Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý Chúa.
Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành hạ.
Ðáp ca: Tv 21
Tâm tình của người công chính bị bách hại:
Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải chịu
Ðồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.
Bài Thánh Thư: Pl 2,6-11
Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Ðức Giêsu:
Con đường hạ mình: dù là Con Thiên Chúa, nhưng Ðức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết trên thập giá)
Con đường được tôn vinh: Ngài càng hạ mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn thờ Ngài).
Bài Thương khó: Mc 14,1-15, 47
Diễn tiến cuộc chịu nạn của Ðức Giêsu đều giống nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn:
a/ Ðức Giêsu “bị trao nộp”: Ðộng từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Ðức Giêsu là: Giuđa (nộp Ðức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Ðức Giêsu cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Ðức Giêsu, Ngài cũng tự trao nộp mình.
Lý do trao nộp cũng khác nhau: vì tiền (Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mị dân (Philatô), và vì yêu thương (Chúa Cha, Ðức Giêsu).
b/ Ðức Giêsu là “Con Thiên Chúa”: Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Ðức Giêsu: Ngài là người – là Kitô (Messia) – Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1: “Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”. Mặc khải cao nhất về Ðức Giêsu là tư cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15,39).
Gợi ý giảng
* 1. Chúa chọn con lừa
Nhiều độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Ðức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào thành trước: “Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay” (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì cả, mà là chính Ðức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong làng: đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu trả lời đã quy ước sẵn.
Tại sao Ðức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này? Thưa có hai lý do:
1/ Sự việc diễn ra “mấy ngày trước lễ Vượt Qua” (c 1). Lễ này kỷ niệm việc dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu khí nhạy cảm đó, Ðức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước chuyến vào thành của Ngài.
2/ Mọi chi tiết mà Ðức Giêsu đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao? Vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó”, dân chúng thì cũng “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy” (các câu 7-9). Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng: Hôm nay ngày giải phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện! Tóm lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay Ðức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh:
Tại sao các Thượng Tế Do Thái tìm bắt Ðức Giêsu? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Ðức Giêsu sẽ dẫn đến sự đàn áp của quân Rôma: “Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta” (Ga 11,48).
Tại sao Giuđa nộp Ðức Giêsu cho các Thượng Tế? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Ðức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Ðức Giêsu làm gì nên hắn nộp Ðức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Ðức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.
Tại sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết Ðức Giêsu? Ðó là phản ứng thất vọng của những người đã từng hy vọng quá nhiều: Họ hy vọng Ðức Giêsu giải phóng đất nước nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
Hôm nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Ðức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi Ngài?
Nếu chúng ta coi Ðức Giêsu là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ Do Thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.
Nếu chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.
Nếu chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.
Ðức Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Ði theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.
* 2. Con đường dẫn đến vinh quang
Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam và Ðức Giêsu.
Ađam đã muốn “dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi hạnh phúc địa đàng.
Còn Ðức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam: tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý Ngài muốn.
* 3. Trao nộp Ðức Giêsu
Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người đều trao nộp Ðức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải thích phía trên).
Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác nhau:
Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa, Philatô): cách trao vụ lợi
Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng tế): cách trao ác độc.
Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha): cách trao yêu thương.
Trao chính mình (Ðức Giêsu): yêu thương tột cùng.
Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và về cách mình trao Ðức Giêsu cho người khác.
* 4. Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ. Giáo lý đạo Phật dạy “Ðời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và diệt hết được.
Ðức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.
Nino Salveneschi có suy nghĩ này: “Thật lạ khi người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay… nhưng không tính nổi sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu” (Savoir souffrir)
* 5. Phêrô chối Thầy
Việc ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ:
– Ông là người nhiệt tình nhất với Ðức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.
– Lý do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Ðức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Ðức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Phêrô đã dám theo Ðức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ… Trong thời gian đó không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh đến một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra – tuy một cách vô ý thức – cho việc chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.
* 6. Vương quốc Tình yêu
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Ðau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Ðến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Ðức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Ðức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Ðức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Ðức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga.11,55-57). Vậy Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr.9,9). Ðức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Ðấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Ðấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Ðavít. Trái lại, Ðức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Ðức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Ðức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Ðức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Ðức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo Ðức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới. Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin:
Ðức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
Ðức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị / nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.
Ðức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ðức Giêsu Con Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hiến mình làm lễ vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa. Xin cho Nước Thiên Chúa mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.
Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức sốt sắng trong tâm tình kết hợp với Ðức Giêsu, với Ðức Mẹ và với toàn thể Hội Thánh. Hãy cùng chết với Ðức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ– ĐGM Phêrô Nguyễn văn Khảm
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ:
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU– Lm. Phêrô Kiều Công Tùng
Nghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem. Một cuộc kiệu tưng bừng tiếng tung hô: “Hoan hô thái tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Vua Ít-ra-en”, nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh – kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh – kiệu Nến Phục Sinh. Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh.
Đường đưa tới vinh quang
Bài thương khó theo thánh Mát-thêu đã gợi lên những hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha.
Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối, chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu thống thiết trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).
Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài, đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ, lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại. “Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53, 4).
Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất.
Đường nở hoa tình yêu
Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả tâm tình đó thật tuyệt vời.
Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được I-sai-a báo trước qua hình ảnh người tôi trung: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50, 5). Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7 – 8). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất cả sự vâng phục yêu mến: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42).
Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ.
Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở ra cho chúng ta chẳng phải là “con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về”, nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu – Con Đường Thập Giá.
Cùng Chúa ta lên đường
Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Pascal đã nói: “Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế”. Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức… dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn”.
Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi: “Hãy vác thập giá mình hằng ngày” (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo cười… Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn, đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: “Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình… Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối…” Chớ gì chúng ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình Yêu dẫn tới Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
LỜI THÁNH KINH ỨNG NGHIỆM- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
Đau khổ về thân xác
– Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
– Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
Đau khổ về tinh thần
– Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
– Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
———————————–
[i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
[ii] sđd trang 232-269.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
ĐẤNG LÀ CON THIÊN CHÚA VÀ VUA DÂN DO THÁI– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Bước vào lễ Lá, tường thuật thương khó theo Tin mừng Marcô có nhiều tình tiết liên tục nối tiếp nhau từ khi Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà ông Simon tật phong cho đến khi người và các môn đệ lên núi cây dầu, và bị trao nộp ở đây, rồi điệu đi xét xử ở các dinh thượng tế và Philatô cho đến khi người chịu chết trên thập giá và mai táng. Biết bao là chuyện tố cáo gian ác của những người làm chứng gian, chuyện xét xử của thầy thượng tế, chuyện người phụ nữ xức dầu thơm trên đầu Chúa khi người dùng bữa ở nhà Simon tật phong, chuyện người thiết lập thánh thể, chuyện Giuđa nộp người, rồi chuyện người bị xét xử ở dinh Philatô và sau cùng bị đóng đinh trên thập giá và mai táng. .
Người phụ nữ xức thuốc thơm trên đầu Chúa để tỏ dấu yêu mến và quí trọng người đã được Chúa Giêsu biết ơn và đón nhận hành động quảng đại của bà và mặc cho hành động này ý nghĩa cao quí hướng về cái chết cứu độ của người. Thái độ của Chúa Giêsu thực khác với thái độ của các môn đệ và nhiều người khác vì người tập trung vào hiến tế cứu độ của người trên thập giá. Chính trong bữa tiệc vượt qua với các môn đệ, Chúa Giêsu thiết lập thánh thể, báo trước và trao tặng mình máu người sẽ đổ ra làm giao ước mới đem lại ơn cứu độ cho nhiều người. Cũng trong bữa tiệc vượt qua này, Chúa Giêsu báo trước một người trong nhóm đồng bàn sẽ phản bội người, trong khi đó thì Giuđa đã đi tìm những thượng tế để đề nghị nộp người, và từ đó ông tìm dịp để nộp người. Trên đường đi đến núi cây dầu, Chúa Giêsu báo trước các môn đệ sẽ bỏ người khi người bị nộp, Phêrô và các tông đồ khác đã thề sẽ không bao giờ bỏ thầy nhưng Chúa Giêsu cho Phêrô biết rằng trước khi gà gáy hai lần thì ông đã chối người ba lần.
Chúa Giêsu đem theo ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan đến vườn Giếtsêmani, và người buồn sầu và bắt đầu cầu nguyện thống thiết : «Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi con, nhưng xin đừng theo ý con mà xin theo ý Cha ». Chúa Giêsu mong muốn ba người môn đệ thân tín sẽ thức với người, nhưng các ông đều thiếp ngủ mê mệt. Khi đó, Giuđa đã dẫn một toán quân đến để bắt người, và hắn lấy cái hôn làm hiệu cho toán lính để nộp người. Các môn đệ bắt đầu hoảng sợ và bỏ chạy, trong số đó có một người còn trẻ mình chỉ quấn một tấm khăn, anh quá sợ hãi nên bỏ lại chiếc khăn và chạy mình trần. Ở phiên tòa thượng tế, nhiều người chứng gian tố cáo nhiều điều, có kẻ tố cáo người đã nói người sẽ phá đền thờ và trong ba ngày sẽ xây dựng lại nhưng Chúa Giêsu giữ thinh lặng trước những lời chứng gian này. Thầy thượng tế tra hỏi người có phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa không và Chúa Giêsu nhìn nhận và tuyên xưng người là Con Thiên Chúa và sẽ ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên mây trời. Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến thượng tế tức giận và cùng với mọi người trong cộng nghị ông tuyên bố Chúa Giêsu đáng phải chết. Trong khi đó, ngoài sân dinh thượng tế, Phêrô đã bắt đầu chối thầy ba lần và gà liền gáy. Phêrô và các môn đệ đã tỏ ra dũng khí thề sẽ không bỏ thầy, nhưng trước sức mạnh của những người vũ trang khí giới và quyền lực, ông đã đành tâm chối thầy vì yếu đuối.
Ở dinh Philatô, quan hỏi người có phải là vua dân do thái, Chúa Giêsu đã xác nhận người là vua, trong khi đó những thượng tế tố cáo người nhiều điều khác nữa, nhưng người vẫn giữ thinh lặng. Philatô tìm nhiều cách để tha người, nhưng dân do thái lại càng muốn đóng đinh người vào thập giá, ngay cả họ chọn lựa tha cho Baraba là tên tử tội và xin giết Chúa Giêsu khiến Philatô đành phải trao nộp Chúa Giêsu cho quân lính. Quân lính liền đánh đòn người và chế giễu người cách rất độc ác và bắt người vác thập giá lên núi sọ. Từ giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh người trên thập giá, giữa hai tên trộm cướp, và mọi người đi qua đường chế nhạo người nhiều điều. Đến giờ thứ chín, người kêu lớn tiếng : Lạy Chúa con, sao Chúa bỏ con và tắt thở. Viên đại đội trưởng, chứng kiến mọi sự từ đầu tuyên bố Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Tại nơi đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá, có nhiều phụ nữ đứng thinh lặng, còn Giuse Arimathia thì chôn cất Chúa Giêsu. Trong những giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, chỉ có một vài người thân tín ở bên người như các bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu, bà Salômê và một số bà khác.
Thánh Marcô vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, từ việc dùng bữa tại nhà Simon tật phong nơi có người đàn bà tội lỗi đến để xức dầu thơm cho ngài cho tới khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá. Có nhiều thái độ khác nhau được phơi bày đứng trước cái chết của Chúa Giêsu, từ thái độ của các môn đệ cho đến thái độ và hành động của Giuđa. Các môn đệ không thể tỉnh thức với thầy, các ông cũng đã phản ứng theo thái độ tự nhiên là bỏ chạy thoát thân khi gặp phải nguy hiểm bắt bớ. Trong khi đó thì Giuđa vì tham tiền, đành tâm đi tìm kiếm những thượng tế để đề nghị nộp người và là người dẫn đường cho toán lính để đến bắt Chúa Giêsu với cái hôn làm hiệu. Phần Chúa Giêsu, người vẫn giữ thái độ bình thản và hoàn toàn tin tưởng vào thánh ý của Cha để đối diện trước mọi hoàn cảnh. Người vẫn bình an để dự tiệc vượt qua với các môn đệ và thiết lập thánh thể báo trước cái chết thập giá cứu độ của người. Người cầu nguyện thống thiết với Cha, và sáng suốt để xin thi hành theo thánh ý Cha để rồi chấp nhận bị bắt dẫn đi đến dinh thượng tế để bị xét xử và tuyên xưng rõ ràng người thực là Con Thiên Chúa và sẽ ngự đến trong vinh quang. Thái độ của các thượng tế càng muốn kết án Chúa Giêsu hơn vì người tuyên xưng mình là Con Thiên Chúa và họ luôn tìm kiếm những chứng cứ cũng như lôi kéo dân chúng để tố cáo người trước toà án của Philatô. Philatô xét xử Chúa Giêsu về một điểm chính trị khi hỏi người có phải là vua dân do thái không, đồng thời cũng không nhận thấy nơi Chúa Giêsu có tội gì đáng phải lên án, nhưng vì áp lực của dân chúng, ông cũng đành trao Chúa Giêsu cho quân lính đánh đòn và đưa đi đóng đinh trên thập giá. Thái độ của quân lính thực là tàn nhẫn đối với Chúa Giêsu. Chúng đã lạm dụng quyền lực để hành hạ, đánh đòn và chế giễu người cách độc ác, nhưng Chúa Giêsu vẫn giữ thái độ im lặng và tha thứ trước những xúc phạm tàn ác của họ đối với người. Tại nơi đóng đinh, quân lính đã đóng đinh người vào thập giá giữa hai tên trộm cướp như bị liệt vào số những kẻ gian ác, trong khi các thượng tế và luật sĩ vẫn tiếp tục nhạo báng người. Trình thuật được kết bằng cách mô tả từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm mặt đất, và màn trong đền thờ xé ra làm đôi. Chứng kiến những cảnh tượng này, viên sĩ quan tuyên xưng Đức Giêsu quả thật là Con Thiên Chúa: «Quả thật, người này thực là Con Thiên Chúa ».
Đấng được chào và bị cười nhạo như là vua ngưòi do thái, Đấng bị đóng đinh, bị chối bỏ sau cùng đã được mạc khải với căn tính sâu xa nhất của mình là Con Thiên Chúa. Sứ vụ của người đã hoàn tất, và khi máu của người đổ ra người đã ban tặng máu này như là hoa quả mới của cây nho mới, như hiến tế cứu độ mọi người mà chúng ta được chia sẻ khi chúng ta tưởng niệm người trong Thánh thể. Loài người có thể lăn tảng đá lấp ngôi mộ chôn cất người lại, nhưng không thể giam cầm căn tính và sứ vụ Đấng cứu thế của người. Loài người có thể phủ nhận, tố cáo và loại trừ người, nhưng người vẫn yêu thương và tha thứ đến cùng. Tường thuật thương khó này làm sáng tỏ công trình cứu độ đẩm máu của Đức Giêsu và mời gọi chúng ta sống trọn vẹn hơn nữa lời cam kết phép rửa của mình để theo người và tiếp nối sứ vụ của người một cách mạnh mẽ quyết liệt hơn.
Điều thiết yếu của đời sống người môn đệ là bước đi với người trên con đường thập giá mà Chúa Giêsu đã trãi qua. Người môn đệ là người bước theo sau thầy và đi theo đường thầy đã đi. Đây không phải là điều dễ dàng. Giống như thầy Giêsu, chúng ta sống như người bằng cách vác thập giá của mình, chúng ta sẽ cảm nghiệm được điều này cách sâu xa trong đời sống của mình, đòi hỏi phải từ bỏ đến chừng nào : chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ, chúng ta sẽ cảm thấy lòng mình trĩu nặng, chúng ta sẽ phải khóc lóc kêu than với Chúa xin ngài cất đi nổi đau khổ của mình, nhưng cũng như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh thần linh để có thể vác thánh giá hằng ngày. Chính đời sống thần linh mà chúng ta đã lãnh nhận từ bí tích rửa tội sẽ thúc đẩy chúng ta, nâng đỡ con người yếu hèn của chúng ta, làm cho chúng ta trở nên những môn đệ trung tín để vác thập giá, những môn đệ trung tín biết bước đi theo thầy Giêsu, như là môn đệ và là thân mình của người.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
VÁC THỆP GIÁ VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong mùa chay và đặc biệt trong tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta thông hiệp sâu xa vào cuộc thương khó của Chúa Giê-su và cùng vác thập giá với Ngài. Việc này có ý nghĩa gì và có mang lại lợi ích gì không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua mấy điểm sau đây:
Chúa Giê-su không vác thập giá một mình
Khi vác thập giá lên đồi Can-vê, Chúa Giê-su muốn cho ông Si-mon cùng vác thập giá với Ngài, muốn có Mẹ Ma-ri-a, thánh Gioan cùng đồng hành, cùng thông phần đau khổ với Ngài từ lúc bắt đầu cuộc thương khó cho đến lúc Ngài nhắm mắt tắt hơi.
Chúa Giê-su mời ta vác thập giá với Ngài
Và hôm nay, Ngài kêu gọi mỗi người chúng ta cùng vác thập giá với Ngài. Ngài nói: “Ai muốn theo tôi thì hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).
Để thực hiện việc này, Ngài lập nên bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) để tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài[1]. Rồi Ngài lại cho trao cho chúng ta chức linh mục (vai trò tư tế) của Ngài[2] để chúng ta cùng hiến tế với Ngài mọi lúc mọi nơi.
Thế là từ đây,
Vì đã trở nên vai của Chúa Giê-su, gánh nặng chúng ta đang mang cũng chính là thập giá mà Chúa Giê-su đang vác;
Vì đã trở nên bàn tay, bàn chân… của Chúa Giê-su, những đau thương ta chịu hôm nay cũng chính là những mũi đinh nhọn đâm thâu tay chân Ngài… và máu của các thánh tử đạo đổ ra hôm nay cũng chính là máu của Chúa đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Như thế, Chúa Giê-su cần có chúng ta vác thập giá với Ngài, chịu khổ nạn với Ngài để đền tội cho vô vàn tội nhân đang phạm đủ mọi thứ tội lỗi khắp nơi trên thế giới.
Vác thập giá cách nào?
Vác thập giá theo Chúa Giê-su không phải là vác cây gỗ hình chữ thập đi lui đi tới, nhưng là kết hợp với Chúa Giê-su để làm những việc bổn phận hằng ngày.
Trước hết chúng ta hãy nhớ rằng hôm nay, Chúa Giê-su đang sống trong ta như lời thánh Phao-lô dạy: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi” (Galat 2, 20).
Vì có Chúa Giê-su đang sống trong ta và ta là chi thể của Ngài, nên những việc ta làm không còn là việc ta làm nữa, mà là “chính Chúa Giê-su đang làm” việc đó trong ta.
Vậy thì khi tôi quét rác, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang quét trong tôi… Khi tôi vất vả cực nhọc, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang chịu vất vả cực nhọc trong tôi…
Như thế, nếu chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, thì chính Chúa Giê-su đang tiếp tục cuộc thương khó của Ngài trong thân mình chúng ta, qua mỗi công việc ta làm, và khi ta làm bất cứ việc gì với Chúa, là cùng vác thập giá với Chúa.
Vác thập giá hằng ngày với Chúa
Đề nghị: Mỗi sáng, chúng ta hãy thưa với Chúa một câu: “Lạy Chúa Giê-su, xin cùng làm việc với con suốt ngày hôm nay.”
Và mỗi tối trước khi đi ngủ, cũng nhớ thưa với Chúa một câu: “Con xin dâng mọi việc con làm cho Chúa.”
Thế là có Chúa Giê-su làm việc với ta suốt ngày. Đời ta ý nghĩa biết bao!
Thế là ta đang vác thập giá với Chúa Giê-su suốt ngày. Biết bao nhiêu là công phúc!
Như vậy, những công việc ta làm hằng ngày “sẽ trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” như lời thánh Công đồng Vatican II dạy:
“Người giáo dân, vì đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần… tất cả những việc đó đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô…”[3]
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con cùng vác thập giá với Chúa mỗi ngày bằng cách kết hợp với Chúa mà làm mọi việc bổn phận của chúng con, qua đó, chúng con thi hành vai trò linh mục (tư tế) của mình, đồng thời tham gia vào công trình cứu độ của Chúa.
[1] Giáo lý HTCG số 1267
[2] Hiến Chế tín lý về Giáo hội, chương IV, số 34
[3] Hiến Chế tín lý về Giáo hội, chương IV số 34
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
NHỮNG CHIẾC LÀ PHẤT PHƠ- Cố Lm. Vũ Khắc Nghiêm
Tôi đang nhìn thấy những chiếc lá phất phơ trên tay những cụ già đầu tóc bạc phơ đến tay những bé thơ còn măng sữa, trên tay những mái đầu xanh cường tráng đến tay những mái tóc rủ liễu yếu đào tơ.
Những chiếc lá này bao nhiêu năm đã phất phơ, vật vờ, xơ xác, tung lên, nhào xuống, quay cuồng theo chiều gió bão táp, thật tội nghiệp !
Hôm nay, dân Do thái đã reo hò vang dậy: Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua David tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời với một rừng lá giương cao phất phơ, vùng vẫy như trên đỉnh gió hú.
Cơn lốc ầm ầm đó không do khí trời mà do khí người bị dồn ép bao nhiêu năm, nay được dịp bùng lên: Dịp Đức Giêsu vào thành Giêrusalem khác thường, Ngài ngồi trên lừa con, như Salomon ngồi trên lừa của cha là David để vào thành Sion làm vua (1V. 1, 33). Dân chúng tưởng triều đại David đã vùng dậy, vinh quang của Israel đã đến rồi, không còn nô lệ, không còn khổ dịch ô nhục nữa, không còn chết nữa. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho dòng dõi David lên ngai vương quyền kiên vững đến muôn đời (2Sm. 12). “Thiên Chúa ban quyền xét xử cho vua, và cho hoàng tử đức công minh … Ngài thống trị từ biển này qua biển khác, từ sông cả đến mút cùng cõi đất ! … Vua chúa Tarsis, Saba sẽ đem triều cống lại chầu, vua chúa hết thảy sẽ bái lậy Ngài, tất cả muôn dân sẽ làm tôi Ngài” (Tv. 72, 1. 8. 10-11).
Nhưng than ôi, giấc mộng vàng muôn thuở chóng tan như mây khói. Họ chẳng thấy Ngài ra tay thực hiện chi cả, chỉ thấy Ngài xua đuổi con buôn đang đem lại giàu sang phú quý cho đền thánh. Ngài lại bị các thượng tế, kinh sư, thủ lãnh tra hỏi. Ngài bảo của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, dân còn gì sống đây ! Đế quốc đã bóc lột hết, lấy đâu mà trả Thiên Chúa. Ngài lại loan báo những điều quái gở: Đền thờ sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng, tinh tú sẽ rơi xuống kinh hoàng (Mc. 11, 13). Tận thế rồi ! Họ còn mong ở Ngài gì nữa ! Họ tuyệt vọng, xa tránh Ngài, Ngài xúc phạm đến đền thờ, xúc phạm đến trời đất. Ghê gớm hơn nữa Ngài là thứ gì, đã dám cho mình là có trước Abraham và xưng mình là Thiên Chúa. Tội tầy trời ! Không thể tha thứ. Toàn quyền Philatô chỉ treo hình hoàng đế Xêda trong khuôn viên đền thờ, dân đã nổi loạn chiến đấu với quân Rôma, dù phải đóng đinh họ vẫn bất chấp, huống chi thanh niên con bác thợ mộc dám xưng mình là Thiên Chúa tại đền thờ trong tuần đại lễ của toàn dân. Ghê gớm kinh khủng ! cho nên đành tha tướng cướp Baraba giết người còn hơn tha Giêsu. Thế là họ la hét: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Ôi lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết !
Họ như những chiếc lá phất phơ, vật vờ ray rứt, tung lên, nhào xuống giữa phong ba bão táp, những cơn cuồng phong dục vọng đam mê mù quáng đang bùng dậy trong lòng họ, trong lòng dân, trong lòng trần thế, xô đẩy vùi dập nhân thế xuống sâu trong lòng ham hố, giành giựt, mơ ước vinh quang bụi trần.
Ôi lạy Chúa, xin thương xót con. Đời là bể khổ, giòng đời cuồn cuộn trôi dạt, không biết trôi về đâu. Bao nhiêu thuyết … duy tâm, duy vật, duy dân, duy tân … tương đối, biến dịch, biến hóa chẳng bao giờ thấy chỗ thủy chung. Chẳng thấy cùng đích, chẳng bao giờ thấy nền tảng vững vàng, rõ ràng, luôn luôn là giả thuyết mơ hồ, mò mẫm, tối tăm, tịch diệt cuộc đời, thật khủng khiếp sống trong cảnh bể khổ trần ai như thế. Chẳng lạ gì, họ đã giải quyết, đã xử lý Ngài bằng đóng đinh thập giá, treo Ngài trên đỉnh gió hú: “Trong bóng tối bao phủ, mặt trời tối đi” (Lc. 23, 44-45) “Đất rung đá vỡ, mồ mả lật tung” (Mt. 27, 52).
Ôi lạy Ngài, ai bảo Ngài không ở lại thiên đường, nơi ánh sáng vinh quang, nơi chân lý ngàn đời, nơi hằng hữu trường tồn, nơi bất biến, bất diệt, nơi thỏa mãn mọi giấc mơ. Ai xui Ngài xuống cõi u minh trần tục, cõi tịch diệt đắng cay, mang thân phận nô lệ phàm nhân. Ai xui Ngài tự hạ sống giữa sói rừng, chúng cấu xé Ngài, bắt Ngài phải tùng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl. 2, 6-11).
Lạy Ngài, xin thương xót chúng con, xin muôn vàn thương xót ! Chúng con chỉ còn trông cậy vào lòng thương xót vô lượng vô biên của Ngài. Chính vì lòng thương xót vô lượng vô biên mà Ngài đến thế gian, dầu bất cứ giá nào, dầu phải thí mạng sống Ngài cũng đến cứu sống chúng con. Cho chúng con được hằng sống, được tồn tại bền vững trong ánh sáng phục sinh vinh phúc của Ngài. Chúng con xin trọn đời cảm tạ Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ- Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐẤNG MESSIA CỨU THẾ- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
TUẦN LỄ MANG LẠI ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Trần Bình Trọng
Cùng với Giáo Hội, hôm nay người tín hữu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh bắt đầu từ Chúa nhật Thương Khó đến Chúa nhật Phục sinh, là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đó là tuần lễ ghi lại nhiều biến cố nhất trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Trong Tuần thánh, Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ Lá, đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.
Chúa Nhật Thương Khó, ta được nghe và suy niệm Bài Thương khó của Chúa (Mc 14:1-15:47) khiến ta cảm động, khóc thương Chúa. Đi ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa, không phải để nghe ai ngắm giọng Bắc, ai giọng Trung, ai giọng Nam, ai ngâm cung triều, ai ngâm cung dòng. Việc suy niệm về cuộc khải hoàn của Chúa vào thành Giêrusalem, về cuộc khổ nạn trong vườn câu dầu, về cuộc khổ hình thập giá, về cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, chỉ mang lại ý nghĩa, nếu ta biết đem ra áp dụng vào đời sống.
Phúc Âm Thứ Hai Tuần thánh kể lại câu chuyện Chúa đến dùng bữa tại nhà ba chị em Marta, Maria và Lazarô. Giuđa phản đối việc Maria làm khi bà đem một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa, rồi lấy tóc mà lau (Ga 1:3). Giu-đa nại cớ để dành tiền cho người nghèo, nhưng thực sự Giu-đa không quan tâm gì đến người nghèo (Ga 1:4-5). Việc Maria làm Chúa bảo cứ để bà làm công việc ám chỉ về ngày táng xác Chúa. Hôm nay là thời giờ giúp ta suy niệm cái kinh nghiệm sống đức tin của mỗi người, để tìm ra những yếu điểm của mình và để xem ta có sống trung thực với lòng mình không?
Phúc Âm Thứ Ba Tuần thánh tiên đoán cái tội bán Thày của Giuđa và cái tội chối Thày của Phêrô. Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa, có lúc giống Phêrô. Ta giống Giuđa khi ta khước từ ơn Chúa, rồi đóng thêm đinh vào mình Chúa bằng cách sa phạm tội. Ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, không dám tỏ ra mình là người công giáo.
Phúc Âm Thứ Tư Tuần thánh nêu đích danh Giuđa là người sẽ nộp Chúa và cảnh cáo về cái hậu quả trầm luân của kẻ nộp Chúa khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ ấy đừng sinh ra thì hơn (Mt 26:24). Tuy nhiên Giuđa vẫn một mực theo đuổi tội phản bội. Ta thấy tội của Giuđa và tội của Phêrô không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên lòng thống hối của Phêrô – ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75) – tạo ra một trời khác biệt.
Thứ Năm Tuần thánh kỷ niệm việc Chúa rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học khiêm tốn. Chúa còn bảo các tông đồ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Hôm nay Chúa còn thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và để tiếp tục Bí Tích Thánh Thể, Chúa còn lập Chức linh mục. Như vậy ta thấy Bí Tích Thánh Thể và Chức linh mục đi liền với nhau vì không thể có Bí Tích Thánh thể nếu không có linh mục.
Thứ Sáu Tuần thánh kỷ niệm cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Hôm nay là ngày ăn chay kiêng thịt. Chúa đã chết cho tội lỗi loài người. Còn ta có cùng với Chúa chết đi cho tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu không?
Vẻ trầm lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh giúp ta tiếp tục suy niệm về cuộc tử nạn của Chúa và mong được sống lại về phần linh hồn cùng với Chúa sống lại vào CHÚA NHẬT PHỤC SINH.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
CON ĐƯỜNG CHÚA ĐI – Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Tuần thánh là thời gian hết sức đặc biệt và linh thiêng nhất trong năm Phụng vụ. Tuần thánh bắt đầu từ ngày hôm nay bằng việc cử hành Lễ Lá, kỷ niệm việc Chúa Giêsu đi vào thành Giêrusalem. Trong bối cảnh ngày hôm ấy, dân chúng đông đảo tung hô Ngài là Đấng Mêsia Con vua Đavit. Họ tỏ lòng ngưỡng mộ đến nỗi trải áo ra và lấy những cành vạn tuế lót đường cho Chúa đi qua, rồi đồng thanh tung hô: “Vạn tuế con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9).
Bước vào tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta dành nhiều thời giờ trong thinh lặng suy niệm cuộc thương khó Chúa, để hiểu rằng: nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, và yêu mến tôi (Gl 2,20). Đồng thời khi suy niệm như thế, sẽ giúp chúng ta thấu cảm được những nỗi niềm đau thương của Chúa hơn.
Đầu tiên là ba môn đệ thân tín nhất nơi vườn Giếtsêmani, đã ngủ say đến độ bỏ rơi Chúa một mình trong cô đơn. Giuđa cả lòng dám dùng nụ hôn là dấu chỉ tình yêu để trở thành nụ hôn phản bội trao nộp Thầy. Phêrô nhát đảm đến nỗi chối Thầy ba lần. Các môn đệ khác thì sợ hãi bỏ Thầy mà trốn đi hết.
Các thượng tế và luật sĩ đã vu khống cho Chúa những tội mà Chúa không hề có để trao nộp Chúa cho quan Philatô xét xử.
Philatô đã biết rõ ông Giêsu này vô tội mà vì sợ mất lòng dân chúng nên đành trao Chúa cho quân dữ đánh đòn và hành hạ Chúa cho đến chết.
Còn dân chúng thì mau thay lòng đổi dạ. Ngày hôm trước khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ dùng những cành vạn tuế tung hô Chúa, nhưng hôm sau họ biến thành những ngọn roi đánh trên thân mình Chúa.
Những cành cây những bông hoa hôm trước trải đường cho Chúa đi qua, nhưng hôm sau họ làm thành mão gai đội trên đầu Chúa. Những lời tung hô xưng tụng sẽ được thay thế bằng những lời đả đảo sỉ nhục, thách thức và kết án: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23,21).
Ôi thương thay! Dung mạo Chúa rạng ngời sáng láng trong lần biến hình nay bị con người khạc nhổ, sỉ vã và nhục mạ. Đôi mắt quan tâm với ánh nhìn bao dung tha thứ nay bị lý hình bịt lại làm thành một trò chơi như trẻ con.
Tấm thân Chúa gánh lấy bao nỗi khổ đau của nhân loại, giờ đây được phơi ra gánh lấy những trận mưa đòn. Đôi bàn tay đã đưa ta chữa bệnh và nâng đỡ biết bao người, nay phải dang ra dín chặt vào thập giá cho chúng đóng đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường rao giảng Tin mừng, nay không thể nâng cả thân mình đang trĩu nặng vì kiệt sức.
Dân chúng đồng thanh đòi đóng đinh Chúa. Họ coi Chúa còn thua Baraba tên trộm cướp. Chúa Giêsu đã đi đến tột cùng của bao cực hình khi Ngài cảm thấy dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ: “Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi?” (Mc 15, 34).
Ước gì mỗi lần suy ngắm cuộc thương khó Chúa, xin Chúa ban cho chúng ta ơn hoán cải nội tâm và cố gắng bước theo con đường Chúa đã đi.
Đường vào thành Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang, mọi người đều chung lối bước, nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp không mấy người đi theo Chúa
Đường vào Giêrusalem đông vui mọi người ca hát tưng bừng, nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có những lời nhiếc mắng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem Chúa ngồi trên lưng con lừa, nhưng đường lên Núi Sọ Thập giá ở trên lưng Chúa.
Đường vào Giêrusalem dân chúng tung hô Chúa là Đấng Mêsia, họ sẵn sàng trải áo cho Chúa đi qua, nhưng đường Núi Sọ khi Chúa vác thánh giá té ngã nhiều lần, mà chỉ có một người duy nhất đứng ta vác đỡ thánh giá cho Chúa.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã vượt qua muôn ngàn đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi tiến tới vinh quang. Như thế, Chúa muốn dạy chúng ta rằng “Muốn được vinh quang với Chúa chúng ta cũng phải trải qua đau khổ “. Thật vậy, nếu không có ngày thứ sáu chịu nhục nhã đau thương, thì chắc chắn không có ngày phục sinh vinh hiển.
Thế thì, là những người con Chúa, nhưng thử hỏi chúng ta đã bước theo Chúa trên con đường nào? Đường vào Giêrusalem hay đường lên núi Sọ? Nếu chúng ta dõi bước theo chân Chúa mỗi ngày, đồng cảm với sứ vụ của Chúa, thì mọi việc làm chúng ta sẽ sinh công ích, mọi đau khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, như thế ngày mai đây hi vọng sẽ được Chúa cho vinh quang với Chúa trên Nước trời. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
TẠI LÀM SAO CHÚA CHẾT?- Lm Antôn Nguyễn văn Độ
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc : một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1) ; “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu : “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp: “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án : “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14, 64).
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi : “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp : “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15, 15).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “ tại sao Chúa chết ? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN- Trích Logos B
Thành ngữ Việt Nam có câu : “Nợ như chúa chổm”. Câu thành ngữ này ám chỉ những kẻ nợ nần “ngập đầu ngập cổ”. Thành ngữ xuất phát từ câu chuyện dã sử sau đây :
Ngày xưa, vào thời nhà Lê, có một vị quan lớn trong triều tên Mạc Đăng Dung âm mưu làm phản và cướp ngôi vua. Vua Lê bị Mạc Đăng Dung bắt giam vào ngục.
Trong thời gian bị giam cầm, nhà vua quen với một cô hàng rượu thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Nàng thường chuốc rượu cho lính canh say mềm rồi vào thăm vua. Dần dần giữa hai người nảy nở một mối tình thắm thiết, đến nỗi một ngày kia cô hàng rượu có thai.
Vì biết mình không thể thoát khỏi bàn tay tàn bạo của họ Mạc, vua trao ấn ngọc lại cho cô nàng bán rượu, để sau này nàng sinh con trai thì nó sẽ phục thù cho cha. Quả thật, sau đó nhà vua và cả hoàng tộc bị Mạc Đăng Dung giết chết.
Sau đó, cô hàng rượu sinh được một con trai đặt tên là Chổm. Chổm lớn lên rất thông minh sáng sủa, được mọi người quý mến, nên sinh tật ăn nhậu, đến nỗi nợ nần rất nhiều người.
Trong thời gian đó, có một vị quan phò vua Lê là Nguyễn Kim nổi lên chống Mạc Đăng Dung. Biết rõ thân phận của Chổm nên Nguyễn Kim gọi chàng đến giao nhiệm vụ đem quân đánh họ Mạc.
Quân của Chổm chiến thắng vẻ vang. Chổm được tôn lên làm chúa và được dân chúng gọi là “Chúa Chổm”. Nhưng cũng vào lúc ấy, các con nợ tuốn đến đòi nợ Chúa Chổm. Chúa Chổm phải mở kho bạc để trả cho xong những món nợ thuở hàn vi.
Từ đó những kẻ mắc nợ nhiều được dân gian gọi là “nợ như chúa chổm”. (Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam).
Chúa Chổm là kẻ mắc nợ, nhưng Vua Giêsu, một vị Vua đã mang trên vai mình “món nợ” tội lụy to lớn của nhân loại. Ngài đã trả nợ thay cho nhân loại. Ngài chính là vị Vua “gánh tội trần gian” (Ga 1, 29).
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta bước vào tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ : đó là Tuần Thánh. Hôm nay, Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem như một vị Vua. Thật ra, Ngài chính là vị Vua hiền lành và khiêm tốn, Đấng đã đến để “gánh tội trần gian”.
Vị Vua hiền lành và khiêm tốn
Phụng vụ hôm nay dẫn đưa chúng ta đến việc tưởng niệm Chúa Giêsu tiến vào thành Thánh Giêrusalem trên lưng một con lừa. Hình ảnh vừa độc đáo vừa đáng ghi nhớ ấy nhắc nhở dân Do Thái: Ngài là Đấng Mêsia mà dân Chúa hằng mong đợi (Dcr 9, 9-10). Ngài đến một cách khiêm nhu trên lưng một con lừa.
Tuy nhiên, hình ảnh Chúa Giêsu ngồi trên lưng con lừa cũng còn gợi lên hình ảnh Salomon ngồi trên lưng con la cái để đi đến nơi được phong vương. Như thế, hình ảnh Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa tiến vào thành Giêrusalem cũng làm sáng lên hình ảnh vương giả của Ngài. Chúa Giêsu được dân chúng chặt cành lá rải lối đi, trải áo xuống đường để đón tiếp và tung hô như một “vị vua”.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu, một vị Vua cao cả, đã vào thành không phải trên lưng con ngựa chiến, với vó ngựa dập dồn, bụi bay mịt mù, với đoàn quân hộ tống và cờ xí rợp trời. Trái lại, Ngài ngồi trên lưng một con lừa con mượn của người khác. Thật là một vị Vua khiêm tốn và hiền lành !
Có một chi tiết đáng cho chúng ta chú ý : đó là Chúa Giêsu cỡi con lừa con “chưa ai cỡi bao giờ”. Chi tiết này, làm nổi bật tư cách linh thánh của Đấng ngồi trên lưng lừa. Ngài chính là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, như lời tung hô của dân chúng.
Vậy, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là hành vi Chúa long trọng tiến vào Thành Thánh trong tư cách là Vua dân Do Thái, cho dù Ngài không phải làm Vua để thống trị, nhưng làm Vua để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Khi chứng tỏ vương quyền của Đấng Mêsia qua hình ảnh của một vị Vua hiền lành và khiêm tốn, Chúa Giêsu còn muốn loan báo Ngài chính là vị Vua sẵn sàng chết thay cho nhân loại qua cuộc thương khó của Ngài.
Vị Vua gánh tội trần gian
Bài Thương Khó Chúa Giêsu theo thánh Marcô hôm nay nhiều lần nhắc đến hình ảnh Chúa Giêsu là “Vua”.
– Khi Chúa Giêsu bị điệu đến dinh tổng trấn Philatô, ông ta đã hỏi Ngài : “Ông có phải là Vua dân Do Thái không ?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông nói đúng !”. Chúa Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài và chứng tỏ Ngài là Vua. Nhưng đó là một vị Vua với hai tay bị trói chặt sau lưng, khuôn mặt đầm đìa máu và thân thể nát tan. Ngài muốn cho mọi người thấy : Ngài chính là vị Vua “gánh tội trần gian”.
– Quan tổng trấn Philatô dẫn Chúa Giêsu ra trước dân Do Thái và hỏi : “Các ngươi muốn ta làm gì cho Vua dân Do Thái ?”. Dân chúng la to : “Đóng đinh nó đi ! Đóng đinh nó đi !”. Lời tung hô khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã thay thế bằng những lời kết án đóng đinh Ngài vào thập giá.
– Quân lính mặc áo choàng đỏ cho Chúa Giêsu, quấn một vòng gai đặt trên đầu Ngài, rồi nhạo báng : “Tâu Vua dân Do Thái”. Chiếc áo choàng tầm thường thay cho áo cẩm bào, vòng gai nhọn thay cho vương miện uy quyền. Tất cả đều cho thấy dung mạo của một vị Vua đau khổ, vị Vua sẵn sàng chết thay cho mọi người.
– Quân lính điệu Chúa Giêsu đi đóng đinh vào thập giá với bản án ghi trên đầu : “Vua dân Do Thái”. Quả thật, đó chính là phút giây Chúa Giêsu nhục nhã nhất. Ngài đã bị treo trên thập giá như một tử tội xấu xa. Chính vào lúc đó, Ngài được gọi là Vua, một vị Vua hoàn toàn thất bại và thua cuộc. Nhưng trong chính sự ô nhục nhất, thập giá đã nở hoa cứu độ. Trong chính sự thất vọng ê chề, Ngài đã trở thành niềm vui ơn cứu độ.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hà Lan, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Bức tranh diễn tả Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Dưới chân thập giá là một đám đông, mà gương mặt người nào cũng biểu lộ sự hận thù ghen ghét.
Thế nhưng, khi tiến lại gần bức tranh và nhìn kỹ, người ta khám phá thấy một khuôn mặt gần như mất hút trong bóng tối, một khuôn mặt dường như chứa đầy sự đau khổ. Các nhà chuyên môn phỏng đoán đó là khuôn mặt của chính tác giả.
Khi vẽ khuôn mặt mình ở đó, họa sĩ Rembrandt muốn thú nhận rằng : ông là một người trong đám đông kia và chính tội lỗi của ông cũng góp phần vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá.
Hôm nay, chúng ta cũng đang nhìn vào bức tranh toàn cảnh của cuộc thương khó Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông dưới chân cây thập giá cũng có chúng ta. Khi phạm tội, chúng ta cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.
Chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh. Chớ gì chúng ta cũng biết thông phần vào sự đau khổ của Chúa và nhận ra được giá trị cao cả của sự thương khó Chúa đã chịu vì yêu thương và để cứu chuộc chúng ta.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
THÔNG PHẦN ĐAU KHỔ VỚI CHÚA TRÊN THẬP GIÁ- Lm. Thái Nguyên
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?” (Mt 27, 46)
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.
Chúa Giêsu bị bỏ rơi.
Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt 27, 46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”. Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: “Đó là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của Ngài… Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư không”.
Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì “Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12). Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22, 37).
“Vị xứng kỳ đức”: người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.
Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?
Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn lường:
– Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul Sartre).
– Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.
– Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.
Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:
” Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.
Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha.
Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên “dốt nát”.
Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người “tội lỗi”.
Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.
Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi.
Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục.”
Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.
– Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng.
– Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự
Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ “tetelestai”, đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: ” Chính trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất…Công trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng ơn thánh” [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.
Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.
Thập giá trong đời sống của chúng ta
Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài.
Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi được cứu chuộc.
Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.
Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.
” Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa”. [2]
Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.
Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.
Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.
Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.
—————————-
[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in: Opere, Roma, 1979, pp. 92-93.
[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr. 152.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
VẠN PHÚC ĐẤNG NGỰ ĐẾN NHÂN DANH CHÚA- Lm. FX Phạm Đức Trị
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng… Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: “Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?” Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết “Đây là Vua dân Do thái”. Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa… nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?” (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu – tu sĩ – linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
THẬP GIÁ, TÌNH YÊU CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu “Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng “tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma “Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”. Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
CHÚA GIÊSU, NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết danh tính địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
-Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
-Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
-Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống: “Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa…”. Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
VÂNG PHỤC NGAY CẢ CHẤP NHẬN CÁI CHẾT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn” (Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết?
- Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
- Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
NHỮNG IM LẶNG SAU TIẾNG HOAN HÔ- Lm. Trịnh Ngọc Danh
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat…Trước những lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: “Đúng như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im lặng như Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời người ta tố cáo như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là “xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi” (Mt. 27: 24), “ Ta không thấy người này có tội gì” (Lc. 23: 4), “ Ta không thấy nơi người này có lý do để kết án” (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội…phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ- Năm B
TÌNH CHÚA, TÌNH NGƯỜI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.