CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU (*)– Noel Quession 6
ƠN CỨU ĐỘ CHÚA CON ĐEM ĐẾN CHO MUÔN NGƯỜI (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 14
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 23
LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT CHÚNG TA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 28
KHUYẾN KHÍCH SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 41
CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO– Chú giải của William Barclay 53
TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA CỨU CUỘC CON NGƯỜI- Lm. Anthony Đinh Minh Tiên 64
THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.. 73
NHÌN LÊN THÁNH GIÁ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 78
TIN TƯỞNG CHỌN LỰA ĐỨC GIÊSU – Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 85
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÔ BIÊN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 90
ÁNH SÁNG THẬT- Lm. Bar. Lê An Phong, SBD.. 94
NHÌN LÊN THẬP GIÁ- Lm. Goan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 97
LỜI XIN LỖI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 102
GIƯƠNG CAO CON RẮN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 105
NHÌN LÊN THẬP GIÁ – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 109
VUI MỪNG VÀ BƯỚC TIẾP- Lm Antôn Nguyễn văn Độ. 113
THÁNH GIÁ RẠNG NGỜI- Trích Logos B.. 118
CHO LÀ CÕI PHÚC- Lm. Vũ Đình Tường. 123
TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.. 126
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23
“Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”.
Bài trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem. Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường. Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên”.
ĐÁP CA: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: “Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!”.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.
“Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU (*)– Noel Quession
Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm”, “đưa mắt” hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt “bốn mươi” năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm “một dấu hiệu chữa trị”, một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người” (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái “nhìn” tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ “Đức tin”, nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang “quay về” với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn “Đấng chịu đóng đinh” đó, Đấng được “giương cao” trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao” (“upsothènai” trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được “giương cao) trên thập giá, vừa được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm “hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, “Thập giá” và “Phục sinh” thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: “Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất”. Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ “vinh quang” của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh” (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: “‘Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác… phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được “gương cao” giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là “đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một “chóp đỉnh của đau đớn” và chết chóc”, nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để “thấy” những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là “dấu chỉ”: Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu “không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là “dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ “vinh quang” nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh “Lạy Cha”.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng… Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: “Yêu và cho”! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một” hay “độc nhất” (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: “Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa”. Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng “Con Một” Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất”, Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
– Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một “sự sống từ trời” được ban tặng (Ga 3,3).
– Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
– Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
– Công trình của Con Người cũng là “công trình của Thiên Chúa” (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là “Đấng hằng sống” tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định “cứu độ phổ quát” của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận “ân huệ” đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ “hỏa ngục”. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn “sự sống” mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự “đối diện với Thiên Chúa”.
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
– Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
– Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc “lên án” không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc “Con Một của Người hiến thân” cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc “lên án” không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng “diện kiến” tự kết án mình trở thành một thế giới “ở bên ngoài” Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, “bi kịch của thái độ vô tín” không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa “Đấng không đến để xét xử”.
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: “Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa”
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: “Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Sống là “hành động”! Đó là những “hành động”, những “việc làm”; những “công trình”. Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những “việc làm của con người” cũng được công nhận như những “việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
ƠN CỨU ĐỘ CHÚA CON ĐEM ĐẾN CHO MUÔN NGƯỜI (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-23
Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.
Ep 2: 4-10
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.
Ga 3: 14-21
Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.
Tội của dân Ngài:
Tác giả ghi lại những biến cố nầy vào thời gian rất lâu sau nầy, cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.
Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bi trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.
Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.
Thiên Chúa tha thứ:
Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.
Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.
Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)
Thánh Phao-lô viết thư nầy từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư nầy không chỉ cho cộng đoàn Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Thư nầy biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.
Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy, trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
Chúa Cha giàu lòng xót thương.
Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.
Cuộc sống tương lai:
Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.
Đức tin, việc làm và ân sủng.
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ nầy. Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích nầy, nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm nầy nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.
Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.
Dấu chỉ của con rắn đồng (3: 14-15)
Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.
Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.
Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người (3: 16-18)
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.
Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.
Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)
Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối nầy cô đọng Thần Học Gioan.
Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này”: Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).
“Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa”: Chữ “tôn vinh” thứ nhất ở đây quy về các “dấu chỉ” Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ “tôn vinh” thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm”: Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó (“tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi”). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.
“Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này“: Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào “giờ” này thì bị liệt vào phe của “đầu mục thế gian”, đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
“Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài”: Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu “đầu mục thế gian này”. Các giáo sĩ cũng gọi nó là “sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự “thế gian” (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. “Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất”: Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ “nâng đầu lên”: đầu của viên chánh chước tửu sẽ “được nâng lên cao” và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng “được nâng lên cao” nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan “được nhắc cao” và “được tôn dương”. Có lẽ đây là nguồn gốc chữ “được tôn vinh” và “được giương cao” trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ” của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, “giờ” này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến “giờ” của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
-Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp” này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả “lương dân” sẽ trở thành tín hữu.
-Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ “vinh quang” và “sự chết” rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
-Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
-Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: “Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT CHÚNG TA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên :”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được ?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui : Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài ! Đức tin thật cần thiết vì:”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2 : Ep 2,4-10.
Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng : Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ : đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn : đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào :
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết: ”Con người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống… Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng : Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng ? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái : Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện : máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người : có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện…
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to : kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại :”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện : Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt : Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng : một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
KHUYẾN KHÍCH SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU – Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Các bài đọc hôm nay minh họa cho sơ đồ thường gặp trong Thánh Kinh : Tội phạt hối cứu, nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt – nhưng nếu biết sám hối thì được cứu.
– Bài đọc I (2 Sb 36,14-16.19-23) : Trong cảnh khổ của thời lưu đày, dân do thái đã ăn năn nên Thiên Chúa cho vua Kyrô ra chiếu chỉ cho họ hồi hương.
– Bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) : Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng. Ai phạm tội mà nhìn lên nó thì được cứu.
– Bài đọc II (Êp 2,4-10) : Tội lỗi khiến con người phải chết, nhưng nhờ Đức Giêsu nên con người lại được sống.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
– Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
– Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày : vì dân do thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
Đáp ca : Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày : buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
Tin Mừng : Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời”. Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định : Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.
Bài đọc II : Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi…”
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân do thái thấy tình yêu của Ngài:
– Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
– Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
– Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
– Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
– Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận : “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ”. Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, do thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát “giận thì giận mà thương thì thương”. Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
– Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất “giận” (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả “như nhân”). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
– Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất “giận” nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã “ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh” (St 4,15).
– Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy : luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” ; “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý : “Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ “bị Chúa phạt”. Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người do thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như : người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 “Tội của chị đã được tha rồi”), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
- Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần :
– Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu “ban đêm” để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
– Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo do thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói : “Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không ?” (Ga 7,51)
– Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật : “Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái” (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết : “Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng”
Nỗi buồn thánh
“Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion”. Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
– Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
– Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
– Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân do thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
– Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào ? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau :
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày… mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói : “Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người”. Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm : “Không có gì giả tạo nơi Sam”.
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào…
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói : “Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng”.
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô : “Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa” (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. “Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa” (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối ? Có lối nào để trở về với ánh sáng ? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu : Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói : “Đức tin của con đã chữa con” (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin :
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế : Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO– Chú giải của William Barclay
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
-Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
-Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
-Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
-Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
-Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
-Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
-Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
-Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
-Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
-Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
-Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)
Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?
Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy. Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.
Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.
Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.
Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.
Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA CỨU CUỘC CON NGƯỜI- Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
– Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
– Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
– Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
– Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
– Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
– Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
– Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
– Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
– Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
– Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
– Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
– Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
– Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
– Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
– Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
– Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
– Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
– Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
– Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
– Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
– Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
– Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
NHÌN LÊN THÁNH GIÁ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: ” Hãy khôn ngoan như con rắn!” (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh “con rắn đồng được giương cao” với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông : “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê “làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người” (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ “treo lên”; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ “sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Ân huệ vô biên đó là do: “Thiên Chúa yêu thương”.
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: “Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. ” (2Pr 2,24a ). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống “Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: “Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu”; “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. “Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
“Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta”. Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: “Qủa thật người này là Con Thiên Chúa”, vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
TIN TƯỞNG CHỌN LỰA ĐỨC GIÊSU – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Càng lúc càng tiến gần đến mầu nhiệm khổ nạn và thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta càng được mời gọi đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa bằng cách đón nhận người Con một của Thiên Chúa để được sống. Chúa Giêsu đã nói chuyện thân mật và thẳng thắn với Nicôđêmô, một bậc thầy trong dân do thái, và nhắc lại dấu chỉ được tường thuật trong Cựu ước là việc Môisen đã treo con rắn đồng lên cao trong sa mạc là hình ảnh báo trước thực tại là chính Người Con một Thiên Chúa cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai nhìn lên người thì không bị hủy diệt nhưng được sống.
Cái chết đe dọa dân Chúa trong sa mạc là do thái độ cứng lòng tin của họ. Những người do thái, trong hành trình sa mạc để đến đất hứa, bị rắn cắn chết vì thiếu lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ chạy đến với Môisen và nhờ ông kêu cầu Thiên Chúa cứu chữa họ khỏi phải chết. Chúa truyền cho Môisen treo lên một con rắn đồng để những ai nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát. Việc chữa lành này không phải là một phép mầu tự động, nhưng nó là biểu tượng ý nghĩa theo lệnh Chúa truyền cho Môisen, là lòng tin vào Thiên Chúa. Khi nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát không phải bởi sức mạnh ma thuật nào hơn là sức mạnh của Thiên Chúa. Thực tại trọn vẹn mà biểu tượng rắn đồng báo trước giờ đây được mạc khải trọn vẹn nơi cái chết trên thập giá của Đức Giêsu Kitô. Tất cả biểu lộ tình yêu và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho con người : «Như Môisen đã tren con rắn lên ở sa mạc thế nào thì Con người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin ở Người thì không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời ». Lời đối thoại của Chúa Giêsu với Nicôđêmô nhấn mạnh ý định đầy lòng nhân từ và yêu thương của Thiên Chúa muốn cứu độ và giải thoát con người khỏi phải chết đời đời. Thập giá đó là lúc Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa được giương cao lên. Đó cũng là lúc biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập giá, lúc người Con một của Thiên Chúa chịu chết tủi nhục vì sự độc ác của loài người đến độ muốn khai trừ người, kể người vào số các tội nhân, lại là nơi và lúc mạc khải cao độ tình yêu của Thiên Chúa : «Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi đã ban Con một của mình, để tất cả những ai tin người Con của Thiên Chúa thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời ». Thập giá diễn tả tình yêu cứu độ, ý muốn cứu độ đầy tình yêu của Thiên Chúa đến mức độ không từ chối điều gì đối với con người, ngay cả cái chết ô nhục trên thập giá. Vì thế, thập giá vừa diễn tả tình yêu của Chúa Con đối với Cha và tình yêu của Cha đối với Con vừa diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi vong ân. Chúa Cha và Chúa Con đã yêu thương loài người và cùng hiệp nhất trong hành động cứu độ con người. Chúa Cha yêu thương loài người đến mức độ trao ban chính người con một của mình, Chúa Con yêu thương loài người đến mức độ trao ban chính mình nơi cái chết thập giá và Thánh Thần là tình yêu và sức mạnh Thần linh, luôn nối kết tình yêu và ý muốn của Thiên Chúa đối với loài người. Thập giá, nơi diễn tả cái chết đẩm máu, do hậu quả của tội lỗi của con người lại trở thành nguồn ơn tha thứ vô bờ của Thiên Chúa.
Tình yêu mãnh liệt thì cũng đòi hỏi sự ưng thuận, và tình yêu càng mãnh liệt thì sự đáp trả là điều được chờ đợi hơn cả. Thiên Chúa chờ đợi lời ưng thuận của mỗi người đứng trước cái chết cứu độ đẩm máu của người Con một Thiên Chúa. Chúa Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá chờ đợi lời ưng thuận và đáp trả của mỗi người. Đây cũng chính là lúc diễn ra sự phán xét. Sự phán xét diễn ra quyết định và tức thời trong cuộc đời hiện tại của mỗi người do bởi người Con một của Thiên Chúa đã hiện diện và đã chịu treo trên thập giá cho mỗi người. Mọi người được mời gọi ngay từ lúc này phải bó buộc lựa chọn và quyết định, không được phép chần chừ, hoặc họ chọn Chúa Giêsu để được cứu độ và được sống hoặc từ chối Đức Giêsu và vì thế phải bị hư mất đời đời. Chính mỗi người, với tự do của mình, quyết định cho sự sống hay sự hư mất đời đời của mình : «Ai tin người Con ấy thì không bị luận phạt, ai không tin người Con ấy thì bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con một Thiên Chúa ».
Vì thế, tin là chọn lựa và quyết định, là hành vi đến với sự sáng và sự sống, là can đảm và mạnh mẽ từ bỏ bóng tối tội lỗi với những thói hư tật xấu của mình. Thiên Chúa cũng chính là sự sáng và sự sống, mời gọi và thúc đẩy mỗi người chúng ta hãy đến với ngài cũng chính là chân lý cứu độ và giải thoát. Những ý tưởng của lời đối thoại với Nicôđêmô trở đi trở lại nhiều lần trong phần kết, thúc đẩy và hối thúc mỗi người hãy biết can đảm chọn lựa để đến với Thiên Chúa là chân lý và là ánh sáng ban sự sống. Lịch sử luôn là bài học của quá khứ để cho mọi người suy gẫm và biết tránh lặp lại những sai lầm của những người xưa. Hành vi tội lỗi sẽ dẫn tới những hậu quả tai hại chết chóc cho con người, ngược lại Thiên Chúa luôn nhân từ tha thứ và mời gọi toàn dân thống hối và trở lại với ngài. Dân Chúa đã sống bất trung, đã bắt chước lối sống của dân ngoại, đã làm ô uế đền thờ, đã giết hại các tiên tri là những vị được Chúa sai đến với họ, đã xem thường lời Chúa. Vì thế họ phải chịu những hình phạt nặng nề, bị quân thù xâm chiếm và bắt đi nô lệ cho đến thời đế quốc Ba tư. Họ bị bắt làm nô lệ ở Babylon cho đến thời vua Kyrô được Chúa soi sáng, ra lệnh thả họ trở về quê hương và tái thiết đền thờ.
Thánh Phaolô cũng là người nhấn mạnh đến tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Người nhìn thấy tình yêu tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa vượt trên tình trạng tội lỗi và phải chết của con người. Tình trạng thực của mỗi người là tội lỗi và vì thế phải chịu hậu quả là sự chết thì tình yêu của Thiên Chúa mạnh mẽ dồi dào, tha thứ và chữa lành mỗi người để lôi kéo con người chúng ta ra khỏi sự chết đang bao bọc. Chúa Kitô là Đấng thực hiện sự giải thoát chúng ta khỏi tội và sự chết. Vì thế, đây là ân sủng cứu độ, không phải do bởi công nghiệp hay việc làm nào của con người, nhưng hoàn toàn là ân huệ cứu độ của Đức Giêsu Kitô, được dự liệu bởi Thánh ý của Thiên Chúa, vì chúng ta được nối kết mật thiết với Đức Kitô trong trật tự tạo dựng cũng như trong trật tự cứu độ, và luôn được mời gọi kết hiệp với Đức Kitô trong mọi việc làm tốt đẹp hiện tại của chúng ta.
Người tín hữu đã bắt đầu được nối kết với Chúa Kitô từ khi lãnh nhận phép rửa, và được mời gọi hằng ngày xác định lại sự cam kết này. Nhờ được kết hợp với Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi sống mật thiết hơn nữa sự tự hạ của Người, biết từ bỏ lối sống cũ tội lỗi của mình để sống đời sống mới đầy tràn ân sủng của Chúa Kitô. Tin là nhận thức được tình yêu tha thứ cứu độ của Thiên Chúa để rồi can đảm từ bỏ bóng tối tội lỗi của mình để đến với Đức Giêsu. Tin không phải chỉ là việc tuyên xưng ngoài miệng mà thôi, nhưng còn là sự dấn thân mạnh mẽ để kết hiệp đời sống cụ thể của mình với Chúa Giêsu. Mầu nhiệm thập giá cứu độ của người là điều làm cho chúng ta ghê sợ và từ chối, nhưng thập giá này đã trở nên dụng cụ ơn cứu độ bởi vì Đức Giêsu đã đón nhận khổ hình thập giá vì tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và mọi người. Thập giá là con đường chắc chắn nhất để dẫn tới vinh quang phục sinh, và chúng ta được mời gọi tin tưởng và bước theo Đức Giêsu bằng cách đón nhận những thập giá trong đời sống của chính mình.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÔ BIÊN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật bất di bất dịch. Ví dụ, theo quy luật Chúa truyền thì nước phải chảy về chỗ trũng, khi gặp nóng thì bốc thành hơi, khi gặp lạnh dưới 0 độ thì đông cứng như đá… Cứ thế, nước luôn tuân hành quy luật đó không bao giờ sai chạy.
Và loài người cũng phải tuân theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài, một trong những quy luật đó là: Tội lỗi gây ra sự chết. Ai có tội thì người đó phải chết (nghĩa là phải chịu cực hình trong hỏa ngục đời đời.)
Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20).
Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7).
Điều đáng tiếc là mọi người sinh ra trên đời đều có tội và chiếu theo luật thì tất cả đều phải bị án chết. Nhưng nếu để cho muôn người phải chết vì tội lỗi họ gây ra thì Thiên Chúa quá đau lòng. Còn nếu để cho loài người mắc tội mà không phải chết thì chính Thiên Chúa lại tự huỷ bỏ lề luật mà Ngài đã ban hành. Như thế, loài người sẽ tha hồ phạm tội mà chẳng sợ hậu quả nào; thế là nhân loại sẽ sa đoạ, con người dần dần hư hỏng và trần gian này sẽ hoá nên địa ngục.
Vậy phải giải quyết thế nào?
Giải pháp chết thay
Để giải quyết vấn đề này, Thiên Chúa chọn một giải pháp tuyệt vời, đó là tìm người chết thay.
Thiên Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, trở nên Anh cả của loài người, trở nên người đại diện chính thức của loài người, nhờ đó, Ngài mới có thể nhận tội, đền tội và chết thay cho muôn người được.
Đây quả là một giải pháp tuyệt vời: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).
Tình yêu Thiên Chúa vô biên
Thế là Chúa Giê-su, Con Một của Thiên Chúa Cha, vì chấp nhận gánh lấy tội lỗi của muôn người trên thế gian, nên Ngài phải mang lấy hậu quả của tội, là bị kết án như một tên gian phi, chịu chết treo trên thập giá để đền tội cho muôn người, đúng như lời Ngài báo trước với ông Ni-cô-đê-mô:
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” Ga 3,14-15).
Và thánh Phê-rô đã xác nhận điều này như sau: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Pr 2, 24).
Khi chịu khổ nạn đau thương và chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đền tội cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Nhờ Ngài phải chịu đòn vọt đau đớn mà chúng ta được tha tội, nhờ Ngài chịu chết thay mà chúng ta thoát khỏi án chết mà được sống đời đời.
Từ đó, thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương bất tận của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
Tôi tớ thấp hèn chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều tuy hiếm nhưng có thể hiểu được; còn việc Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, vốn rất cao sang, quyền phép… chấp nhận chết thay cho con người thấp hèn, tội lỗi là điều không trí óc nào tưởng tượng được.
Duy chỉ có Thiên Chúa mới dám nghĩ, dám làm điều không tưởng đó.
Duy chỉ có tình yêu cao vời của Thiên Chúa mới đủ sức thực hiện điều phi thường đó mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Vua thống trị muôn loài, là Đấng vô cùng cao cả; trước mặt Ngài, con người chỉ là tro bụi thấp hèn bé mọn, thế mà vì yêu thương, Ngài đã hạ mình xuống thế làm người và hiến thân chết thay cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã dành cho chúng con một tình yêu vô lượng vô biên. Xin cho chúng con cố gắng sống tốt, sống đẹp, sống thánh thiện mỗi ngày, để đền đáp phần nào tình yêu cao vời của Chúa.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
ÁNH SÁNG THẬT- Lm. Bar. Lê An Phong, SBD
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô – Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
NHÌN LÊN THẬP GIÁ- Lm. Goan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Chuyện kể rằng: Có hai bạn già chơi thân với nhau, một ông là người đạo Công Giáo, có sáu người con, còn người kia đạo Tin Lành, chẳng có đứa con nào. Gia đình mà không có con thì nó vắng tanh như chùa Bà Đanh. Cho nên ông thấy bạn mình gia đình có con cái đông vui vẻ như vậy thì ông thích lắm, nên ông ngõ lời: “Tôi với anh chỗ bạn thân với nhau, tuy khác giáo phái, song thờ cùng một Thiên Chúa. Tôi thấy bạn rất đông con, mà hai vợ chồng tôi không có một mống. Vậy xin anh cho tôi một đứa, tôi sẽ nuôi nó ăn học, sẽ nhường gia tài của tôi cho nó… ”.
Nghe vậy, ông bạn Công giáo về nhà bàn với vợ: “ Mình ơi! Tôi có ông bạn thân với nhau từ hồi nhỏ, mình thì được Chúa thương có sáu đứa con, còn ông ta chẳng có đứa nào, vậy chúng ta cho ông một đứa nha ”. Bà vợ bằng lòng và rồi hai người bàn với nhau.
Đứa thứ nhất là trưởng nam, mình không thể cho thằng trưởng nam được, để khi mình chết, nó còn lo xây mồ yên mả đẹp, cầu hồn xin lễ cho mình…
Đứa thứ hai xinh ơi là xinh, cả tá con trai ngấp nghé trồng cây si trước nhà, nhưng cô từ chối, vì có ý định dâng mình cho Chúa. Vậy để nó đi tu làm Soeur mình có chức ông bà cố hãnh diện với người ta.
Đứa thứ ba học giỏi, tính tình hơi đỏng đảnh, đôi mắt gan lỳ mưu cơ, nhưng cô đã làm lễ đính hôn với một bạn trai trong xứ đạo. Vì thế ta không thể cho được, để nó lấy chồng mình có chức sui gia, có rượu mà uống, có cháu ngoại mà bồng.
Đứa thứ tư, cũng là một cô con gái, vừa mới nói tới cô, bà vợ không bằng lòng, bà nói: đừng có cho đi cô công chúa của tôi! Vì nó giống bà ngoại như đúc. Từ đôi môi, nụ cười, khoé mắt, cả dáng đi yểu điệu uyển chuyển như người mẫu. Cứ thấy nó là bà vợ như thấy bà ngoại hiện hình, cho đi sao được.
Đứa thứ năm, là một cậu trai dễ thương, nhưng bị tật bẩm sinh, phải đi lại bằng xe lăn, ai lại cho bạn mình yêu mến một người con tàn tật.
Và đứa thứ sáu là cậu út, cậu út khấu khỉnh, rất ngoan, được cha mẹ cưng chiều, suốt ngày nó bi ba bi bô nói cười, cậu hay ngồi trên đùi vuốt chòm râu bạc, và hay đón mẹ đi chợ về, tỉ tê với mẹ cha, cậu là niềm vui cho tuổi già.
Thế là hôm sau, ông đành vác bộ mặt u buồn đến với ông bạn Tin lành để báo tin buồn rằng: “Tôi không thể nào cho ông được đứa con nào cả ”. Có sáu người con mà không thể cho người bạn thân thiết nhất đời, một người con.
Còn Thiên Chúa thì sao? Ngài chỉ có một người Con duy nhất đẹp lòng Cha mọi đàng, đồng bản tính với Chúa Cha, nghĩa là tốt đẹp hoàn hảo. Vậy mà vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã trao người Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta. Như lời thánh Gioan tồng đồ nói: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Người Con một của Ngài, đến để chết đền tội cho chúng ta”(Ga 3,16).
Ông bạn Tin Lành hứa: “Nếu tôi được một người con, ông sẽ nuôi ăn học, nhường gia tài cho nó ”. Còn đàng này, khi Thiên Chúa trao ban Người Con Một của Ngài, Người Con ấy đến thi ân giáng phúc cho nhân loại, thế mà con người đã phản bội giết chết Người Con ấy.
Ngày xưa trên núi, khi tổ phụ Abraham cầm giao sát tế Isaác, thì từ trời Chúa sai thiên thần đến can ngăn đôi tay. Còn trên núi Sọ, khi quân dữ đóng đinh Con Một của Ngài vào thập giá, thử hỏi Thiên Chúa có sai thiên thần đến ngăn cản đôi tay nào không?. Như vậy, Thiên Chúa hoàn toàn trao ban người Con yêu của Ngài cho chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Dân Do Thái xưa trong sa mạc được ơn chữa lành nhờ nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ. Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ nhìn lên thập giá Chúa. Thập giá có thể nói là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu không biên giới.
Mùa chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm cuộc thương khó Chúa bằng việc nhìn lên thập giá Chúa.
Nhìn lên thập giá Chúa để thấy những thương tích nơi thân mình Chúa, là sự tính toán độc ác của giới lãnh đạo Do thái đã vu khống cho Chúa những tội mà Chúa không hề có, để nộp Chúa cho Philatô xét xử.
Nhìn lên thập giá Chúa để thấy sự hèn nhát của quan Philatô, đã biết rõ ông Giêsu này vô tội mà vẫn lên án tử bất công, vì ông sợ chiếc ghế của mình lung lay.
Nhìn lên thập giá Chúa để thấy sự phản bội của các môn đệ, sự phản bội của Giuđa, dám lấy nụ hôn của mình là dấu chỉ tình yêu để trở thành dấu hiệu của phản bội nộp Thầy mình.
Nhìn lên thập giá Chúa để thấy sự chối bỏ của Phêrô tông đồ trưởng; sự sợ hãi của các môn đệ chạy trốn hết.
Nhìn lên thập giá Chúa để thấy không những quân dữ đóng đinh Chúa Giêsu, mà chính tội lỗi của chúng ta đã góp phần vào việc đóng đinh giết Chúa.
Nhìn lên Thánh Giá để biết lòng Chúa thương yêu chúng ta cao vời hơn ngàn tội lỗi.
Và nhìn lên Thánh Giá để chúng ta thực tâm trở về và đừng cố tình xúc phạm đến Chúa nữa.
Chỉ có tình yêu thương và lòng tha thứ vô biên của Chúa mới có thể khơi dậy nơi lòng con người những giọt nước mắt ăn năn và sám hối thật tâm.
Người Kitô hữu không tôn thờ đau khổ, nhưng là say mê tình yêu. Tình yêu của Chúa Cha khi trao ban người Con yêu dấu; tình yêu của Chúa Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Một vài nơi đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, làm cho bầu khí nhà thờ tươi vui hơn, nhưng chúng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác mang đầy thương tích của Chúa Giêsu trên Núi Sọ. Bởi thân xác nát tan, bầm tím ấy là biểu lộ của một tình yêu vô bờ bến, là hạt mầm ánh sáng phục sinh sẽ bừng lên sau đêm dài của đau khổ và sự chết.
Ước gì, Mùa Chay chúng ta dành nhiều thời giờ trong thinh lặng ngước nhìn lên thập giá Chúa Giêsu Đấng chịu đóng đinh, là biểu tượng của một tình yêu cao cả vô cùng, đã yêu thương nhân loại chúng ta dường ấy. Và quyết tâm trở về với tình yêu cứu độ; Tình yêu mang tên Giêsu; Tình Yêu mang ơn cứu rỗi cho con người. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
LỜI XIN LỖI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: “Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?”. Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.
Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.
Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!
Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp . . .
Thánh Phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.
Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”. 2 Tm 4, 1. Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
GIƯƠNG CAO CON RẮN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an – người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
NHÌN LÊN THẬP GIÁ – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
VUI MỪNG VÀ BƯỚC TIẾP- Lm Antôn Nguyễn văn Độ
Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay với chủ đề (Lætare – Mừng vui lên). Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng mời gọi chúng ta tận hưởng trước niềm vui Phục Sinh : “Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia : “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “.
Những lời trên diễn tả niềm vui thiêng thánh ngập tràn của Dân Chúa. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên, vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân, nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, ” Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Sao không thể vui, không thề mừng được. Vì trước kia, dân phạm tội khiến đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ “được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Chúa là niềm vui, là hạnh phúc của Dân Chúa. Chúa luôn muốn Dân Chúa sống vui và sống hạnh phúc. Một người ốm đau bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác sẽ sống không vui và sống hạnh phúc được. Cho dù tội lỗi có thể làm cho họ xa Chúa, mất niềm tin và trông cậy vào Chúa. Tội có thể đẩy đưa họ đến bờ sông Babylon đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với họ : “Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi” (Tv 136,6). Và món quà làm cho Dân Chúa thỏa mãn niềm vui là Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi “đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).
Quả thật, Thiên Chúa dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để vui sống hạnh phúc.
Chúng ta ngày hôm nay thì sao ? Chúng ta đang trên hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong “hoang địa”. Ðây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).
Khi sánh ví mình như con rắn được Môse giương lên trong sa mạc, Chúa Giêsu gợi cho chúng ta nhớ tới con rắn trong vườn địa đàng (St 3, 1-5). Nếu con rắn trong địa đàng xuất hiện đang lúc loài người đang ở đỉnh cao hạnh phúc, thì con rắn đồng trong sa mạc xuất hiện giữa cảnh cơ cực của những người tha hương vừa thoát khỏi kiếp nô lệ cho người Ai cập.
Nếu con rắn trong địa đàng là hiện thân của tội lỗi và sự dữ, thì con rắn đồng trong sa mạc là “tin mừng” cho những kẻ ngước nhìn lên nó.
Nếu con rắn trong địa đàng hủy diệt mọi tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, thì con rắn đồng trong sa mạc mang lại niềm hy vọng vì nhận ra lòng thương xót của Chúa.
Và nếu con rắn trong địa đàng gieo sự chết vào thế giới loài người, thì con rắn đồng trong sa mạc lại có khả năng trao ban sự sống.
Như vậy, hình tượng của hai con rắn Cựu Ước hoàn toàn trái nghịch nhau. Tuy nhiên, dù trái nghịch, hai con rắn Cựu Ước chẳng những không mâu thuẫn nhau, mà hậu quả do con rắn trong địa đàng gây nên, sẽ được con rắn đồng trong sa mạc báo trước ngày chữa trị. Bởi hậu quả của con rắn thứ nhất gây nên chỉ toàn đổ vỡ, mất mát, ô nhục, sẽ được con rắn thứ hai bổ túc bằng cách cho thấy sự sống bắt đầu phát sinh, hạnh phúc bắt đầu ló dạng và niềm vui cứu chuộc bắt đầu tỏa sáng.
Bởi do con rắn trong địa đàng, nhân loại đã phạm tội. Vì tội, nhân loại đáng được “Đấng Cứu độ đời đời” (bài ca Exultex – đêm Phục sinh), thì con rắn đồng trong sa mạc làm trọn vai trò của mình là báo trước ơn cứu độ đời đời ấy.
Khi nhắc lại: “Như Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14). Chúa Giêsu ám chỉ lúc mình được giương cao trên thập giá, ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ như Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ ” (Ga 3,17).
Nếu ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống, thì ngày nay thập giá Chúa Kitô chính là ơn cứu độ trọn vẹn cho những ai tin (x.Ga 3, 15). Hình bóng cũ thoáng qua đã được hoàn tất bằng thực tại mới sống động và vững bền. Chúa Kitô mãi mãi là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian (x.Dt 13, 8).
Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình, phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá.
Hãy để Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đáp lại chúng ta yêu mến Ngài, và như thế chúng ta bước tiếp hành trình Mùa Chay Thánh với niềm vui. Chúng ta sẽ nhận lãnh niềm vui lớn lao tràn trề vào Lễ Vượt Qua sắp tới.
Chúa là niềm vui của chúng con, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu chuộc mà Chúa mang lại cho chúng con nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
THÁNH GIÁ RẠNG NGỜI- Trích Logos B
Tháng 12 năm 1985, mẹ Têrêxa Calcutta đã đến New York, nước Mỹ. Và tại Manhattan, trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, mẹ đã thực hiện một việc mà báo chí lúc đó gọi là “phép lạ ở Manhattan”. Đó là mẹ đã mở một trung tâm tiếp nhận những người bị Aids, những kẻ bị xã hội loài người và ngay cả gia đình và bạn bè bỏ rơi.
Khởi đầu, những cư dân sống chung quanh phản đối việc xây dựng trung tâm vì sợ lây nhiễm, nhưng mẹ đã được chính tổng thống Mỹ là ông Reagan và cơ quan y tế công cộng Hoa Kỳ ủng hộ, vì trung tâm này không gây ra sự lây nhiễm cho dân chúng.
Tại trung tâm này, mẹ xây một nhà nguyện và cũng ở nơi đây, mẹ đã dựng một thánh giá lớn ghi hai chữ “Tôi khát”.
Cây Thánh Giá chính là một dấu chỉ của sự bình an và sự chữa lành cho những kẻ bất hạnh đang mang chứng bệnh khủng khiếp của thế kỷ. Thánh Giá chính là dấu hiệu của ơn cứu độ.
Hôm nay, Chúa nhật thứ IV mùa Chay, qua hình ảnh con rắn đồng trong sa mạc, Giáo Hội phác họa hình ảnh tuyệt vời của cây Thánh Giá, trên đó, Chúa Giêsu bị treo lên để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Bài Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại lời Chúa Giêsu : “Như Môisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy…”. Thánh Giá luôn là nguồn sự sống, sự sáng và tình yêu cho nhân loại trong thế giới hôm nay.
Thánh Giá, nguồn sự sống
Hình ảnh con rắn đồng được Chúa Giêsu nhắc đến xảy ra vào thời xuất hành của người Do Thái. Trên hành trình về Đất Hứa, dân Chúa phải trải qua 40 năm trường trong sa mạc, phải chịu gian khổ, thiếu thốn mọi thứ. Dân Do Thái mất kiên nhẫn và lòng tin, nên đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môisen. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn lửa xuất hiện cắn chết nhiều người. Dân Do Thái sợ hãi kêu cầu Môisen xin Thiên Chúa tha thứ. Ông Môisen xin Thiên Chúa thương xót tha thứ cho dân. Thiên Chúa truyền cho ông Môisen đúc con rắn đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống (Ds 21, 4-9).
Chúa Giêsu liên kết hình ảnh con rắn đồng bị treo lên với hình ảnh của chính Ngài, Đấng bị treo trên cây thập giá. Thật vậy, Chúa Giêsu bị “giương lên cao” để lôi kéo mọi người lên cùng Ngài và nhất là để ai nhìn lên Đấng chịu đóng đinh với niềm tin, sẽ được sự sống đời đời.
Như thế, mầu nhiệm thập giá chính là mầu nhiệm của sự sống. Ai chịu đánh mất mình vì thập giá Chúa Kitô, sẽ tìm lại được sự sống. Ai chịu đóng đinh mình vào thập giá Chúa, sẽ được cùng Ngài sống lại.
Thánh Giá, nguồn sự sáng
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã kể lại câu chuyện của một con người đã từ bóng tối bước vào nguồn ánh sáng thần linh. Người ấy chính là ông Nicôđêmô. Ông đã đến gặp gỡ Chúa ban đêm vì sợ người Do Thái và nghi ngờ Chúa vì ông là thành viên của Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo. Nhưng qua cuộc đàm đạo trong đêm tối, ông đã được Chúa biến đổi, để ông bước vào ánh sáng với một con người mới. Sau đó, ông đã xuất hiện hai lần nữa trong Tin Mừng theo thánh Gioan : khi các thủ lãnh Do Thái muốn giết Chúa Giêsu, là thành viên của Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, ông Nicôđêmô đã phản đối quyết định ấy. Ông đã bênh vực Chúa : “Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 51).
Khi táng xác Chúa Giêsu, ông Nicôđêmô đã đến để tẩm liệm Chúa theo cách thức thật long trọng : 100 cân mộc dược trộn với trầm hương, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn xác theo tục lệ chôn cất của người Do Thái (Ga 19, 39-40).
Chúa Giêsu đã mạc khải chính Ngài là ánh sáng thật. Ánh sáng đã đến thế gian, để mời gọi mọi người đi theo, yêu mến và hành động theo ánh sáng rạng ngời.
Thánh Giá, nguồn tình yêu
Hôm nay, phụng vụ lời Chúa còn giới thiệu lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa qua hình ảnh người Con Một của Người đã chấp nhận chịu treo trên Thánh Giá vì nhân loại : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Chúa Giêsu chính là hiện thân tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao ban “nhưng không” cho trần gian. Ngài là món quà vô giá không gì có thể sánh ví được. Món quà ấy đã được ban tặng cho con người, ngay cả khi con người không hề hay biết và không một chút xứng đáng.
Thiên Chúa là Chúa cao cả, là Chúa Tể càn khôn, chỉ vì yêu đã cúi xuống đến tận cùng. Cúi sâu đến nỗi không còn cách nào diễn tả hơn là ban tặng chính Con Một của mình.
Còn Chúa Giêsu đã chấp nhận được “giương lên” như con rắn trong sa mạc để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã biến đổi cây thập giá ô nhục thành cây Thánh Giá vinh quang và Ngài đã nêu cao bài học của tình yêu ấy trên Thánh Giá.
Hôm nay, chúng ta được mời gọi để luôn hướng mắt nhìn lên Thánh Giá, chiêm ngưỡng tình yêu cao vời đó. Càng gắn chặt đời mình vào Thánh Giá, chúng ta càng cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho chúng ta thật sâu xa. Càng bước sâu vào con đường khổ giá, chúng ta càng trở nên giống Chúa hơn.
Bài trích sách Ký Sự quyển thứ hai hôm nay chính là một hồi ức về tình yêu cao cả của Thiên Chúa : tác giả điểm lại những giai đoạn trong lịch sử của dân Israel. Vì bất trung và phản bội Thiên Chúa nên Thiên Chúa để cho họ phải mất nước và lưu đầy. Nhưng vì tình yêu, Chúa lại tha thứ và cho họ được hồi hương.
Cuộc đời chúng ta cũng là một “ký ức” về tình yêu. Thiên Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết ăn năn sám hối và quay về với Ngài. Đỉnh cao Thánh Giá chính là đỉnh cao tình yêu Thiên Chúa. Càng ngước trông lên Thánh Giá, chúng ta càng được ngụp lặn trong sự sống, sự sáng và tình yêu Thiên Chúa.
Ngày xưa, khi thánh Bonaventura theo học tại Paris, nước Pháp, ngài quen thân với một sinh viên tài ba là Tôma Aquinô. Chàng trai sinh viên Tôma rất khâm phục và ngạc nhiên trước sự thông thái của Bonaventura nên mới hỏi bạn xem bạn học ở sách vở nào. Bonaventura dẫn Tôma đến trước cây Thánh Giá và nói : “Đây là nguồn mọi sự hiểu biết của tôi. Tôi luôn học Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Bài học từ cây Thánh Giá luôn phải là bài học lớn nhất trong cuộc đời chúng ta. Khi chúng ta phải đối diện với thử thách gian truân, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá để kín múc lấy nghị lực, lòng can đảm, sức mạnh và sẵn sàng vượt qua tất cả. Thánh Giá luôn là điểm hẹn tình yêu, là đích đến sáng ngời, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng và sự bình an.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
CHO LÀ CÕI PHÚC- Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu, tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn. Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại. Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại. Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận, nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế. Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội, một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là cho đi để tình yêu được đong đầy.
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY- Năm B
TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết “Con giun”. Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ.
Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu
Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).
Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.
Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!
Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!
Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.
Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!
Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.
Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).
Ý Nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta
Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:
Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:
Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.
Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!
Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.
Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:
Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13
Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….
Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:
Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.
Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!
Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.
Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….
Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống….
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen.