CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
THÂU NẠP CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 5
ĐỨC GIÊSU HÀNH ĐỘNG NHỜ TRUNG GIAN CÁC MÔN ĐỆ- Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM 13
TIẾP TỤC CHỦ ĐỀ CHÚA KÊU GỌI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 33
ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 47
NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN– PM. Cao Huy Hoàng. 51
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B.. 56
NHÌN VỀ TƯƠNG LAI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 56
THỜI GIAN ĐÃ MÃN, NƯỚC CHÚA GẦN ĐẾN– Lm. Phêrô Lê Văn Chính 61
SÁM HỐI NGAY TỪ HÔM NAY- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 67
SÁM HỐI VÀ TIN THEO CHÚA GIÊSU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 71
“HÃY THEO TA”- Lm. Gioan.M Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 76
NĂM MỚI, NGƯỜI MỚI, CẢ TRỜI ĐẤT MỚI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm 80
HÃY SÁM HỐI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 85
ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ- Trích Logos B.. 91
HÃY HỐI CẢI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG – Lm Bùi Thượng Lưu. 96
THEO CHÚA ĐỂ TRUYỀN GIÁO – Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay”.
Bài trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: “Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi”. Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ”. Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.
ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9.
Đáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. (c. 4b).
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
“Bộ mặt thế gian này đang qua đi”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
All. All. – Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng vào Phúc Âm. – All.
“Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
THÂU NẠP CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay dọi chiếu ánh sáng vào lời đáp trả mau mắn không một chút trì hoãn trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Gn 3: 1-5, 10
Dân thành Ni-ni-vê, dù là một thành phố ngoại giáo, đã không một chút chậm trể ăn năn sám hối khi nghe lời rao giảng của ngôn sứ Giô-na.
1Cr 7: 29-31
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tận mức ơn gọi làm Ki-tô hữu của mình vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.
Mc 1: 14-20
Trước tiếng gọi của Đức Giê-su, các môn đệ đầu tiên đã đáp trả triệt để bằng cách từ bỏ tất cả mà đi theo Ngài.
BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-5, 10)
Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài; nhưng bài học giáo huấn của sách mở ra những viễn cảnh phổ quát.
Ngôn sứ Giô-na không là tác giả nhưng là nhân vật chính của câu chuyện được kể trong sách. Chúng ta không biết một chút gì về tác giả. Theo lời kể trong sách, ngôn sứ Gio-na được Đức Chúa sai đi thi hành sứ vụ của mình cho dân thành Ni-ni-vê vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là tưởng tượng.
Bài học của câu chuyện.
Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh đô của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.
Ấy vậy, khi vị ngôn sứ cất bước rao giảng chưa hết một phần ba thành đô, thì toàn thể dân thành đã ăn năn sám hối rồi, từ vua quan cho đến thường dân. Đây mới thật sự là một bài học nhớ đời cho dân Ít-ra-en. Khi đọc câu chuyện này, làm thế nào dân Do thái không thể nghĩ đến việc ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố những lời cảnh báo ngăm đe như thế cho dân thành Giê-ru-sa-lem để kêu gọi họ ăn năn sám hối; ấy vậy triều thần và ngay cả vua đã ra lệnh đốt sách sấm ngôn của vị ngôn sứ? Vì thế, đó là lý do tại sao thành đô Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân thành đã phải chịu cảnh lưu đày ở đất khách quê người.
Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa” (Mt 12: 41).
Ơn cứu độ phổ quát.
Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Đức Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước nữa. Ngài quan tâm đến những tội lỗi của một dân ngoại giáo; nhưng trước khi trừng phạt dân này, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Ngài chọn. Như vậy, Đức Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt cảnh báo để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế, tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi dân nước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân trả lời những vấn nạn mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài; đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: “Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa”.
Lời loan báo gây sững sốt.
Thật không may, bản dịch: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa” không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: “đây là lúc thuận tiện, các buồm thuyền đã được cuốn lại” khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế, đây là thời gian sẵn sàng vì thuyền sắp cặp bến. Từ đó, thái độ phải có đối với các tín hữu là phải hành xử như người sắp cặp bến đời đời.
Phần minh chứng.
Tiếp đó, thánh nhân đưa ra những minh chứng được kết nối vào nhau một cách tự nhiên như một chuỗi dây xích: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua; những ai có nhiều của cải đừng cho mình là chủ nhân, vân vân.
Chủ đích của thánh Phao-lô.
Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Cũng có thể lắm, nhưng đó không là điều tất yếu. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Thật ra, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng ngày Chúa quang lâm sẽ xảy đến vào thời thế hệ của ngài: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu” (1Tx 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối (Rm 11: 25-26). Chúng ta có thể nói rằng đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô đã làm tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ. Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong thời kỳ viên mãn. Như vậy, cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, bắt cá hai tay, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.
TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)
Khi nghe tin Gioan Tẩy bị bắt, Đức Giê-su nghĩ rằng phải cẩn trọng hơn; vì thế, Ngài rời bỏ miền Giu-đê mà trở về miền Ga-li-lê. Giờ Ngài chưa đến để đón nhận một số phận như thế. Ấy vậy, tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa, người đã ra lệnh bắt giam Gioan Tẩy Giả, hiện đang cai trị xứ Ga-li-lê. Vì thế, xem ra hợp lý hơn, Đức Giê-su đã muốn lánh xa Giê-ru-sa-lem là trung tâm quyền lực Do thái giáo. Quả thật, Tin Mừng Gioan viết: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ hơn ông Gioan… Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3).
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (1: 14-15).
Vào thời đó, miền Ga-li-lê được xem là “ngã tư quốc tế”, vì các đoàn quân ngoại quốc và các thương nhân đều phải qua lại miền nầy. Ngoài ra, miền này từ lâu được mệnh danh là “miền đất của dân ngoại” (Is 8: 28) vì ở đây dân Do thái không chỉ sống chung với dân ngoại nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân. Vì thế, khi định vị sứ vụ đầu tiên của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, thánh Mác-cô muốn nhấn nhấn mạnh rằng sấm ngôn về ơn cứu độ phổ quát của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9: 1).
Tiếng nói của vị Tiền Hô không còn vang lên nữa. Sứ mạng dọn đường cho Tin Mừng đã đến hồi kết thúc. Từ đây, chính Đấng hiện thân Tin Mừng xuất đầu lộ diện. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su bắt đầu sự vụ của mình ở Ga-li-lê với lời công bố tương tự như lời công bố của Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt cốt yếu, sứ điệp của Đức Giê-su không nhằm chuẩn bị cho tương lai, nhưng nhấn mạnh thời hiện tại: “Thời kỳ đã mãn”.
Thâu nạp các môn đệ đầu tiên (1: 16-20).
Câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn nhưng gợi nhiều ý tứ. Hai anh em ông Si-mon và An-rê “đang quăng lưới bắt cá”. Trước lời mời gọi của Đức Giê-su: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, cả hai bỏ lại những ngư cụ và lợi tức nghề nghiệp của mình mà đi theo Ngài. Đối với Gia-cô-bê và Gioan, đoạn tuyệt còn dứt khoát hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình mà còn cả người cha già mà họ có bổn phận phải phụng dưỡng nữa.
Qua Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng cuộc gặp gỡ nầy chắc chắn không là cuộc gặp gỡ đầu tiên. Trước đó không bao lâu, ở miền Giu-đê, họ đã có một cuộc hội ngộ nhớ đời với Đức Giê-su rồi (Ga 1: 35-42). Thánh Lu-ca đặt việc Đức Giê-su thâu nạp các môn đệ đầu tiên tiếp liền ngay sau mẽ cá diệu kỳ; trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu nhấn mạnh tính bất ngờ và không chút trì hoãn về hành động dấn thân của họ, như vậy, cả hai thánh ký đều nêu bật lời đáp trả dứt khoát của họ không phải trước một nhà phép thuật thần thông nhưng trước một bậc tôn sư khôn sánh có sức hấp dẫn không thể nào cưỡng kháng được.
Tận hiến.
Câu chuyện về ơn gọi của bốn ngư phủ miền Ga-li-lê đã trở nên một mẫu thức. Đức Giê-su lên tiếng gọi: Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước. Lời mời gọi của Ngài được họ đáp trả một cách tích cực, không một chút đắn đo tính toán hơn thiệt: từ bỏ nghề nghiệp, lợi tức và gia đình.
Hoạt cảnh những người con của ông Dê-bê-đê từ giả gia đình trái ngược với những hoạt cảnh khác bày tỏ tấm lòng nhân hậu của Đức Giê-su khi Ngài trao lại bé gái cho cha mẹ của em (Mc 4: 29), khi Ngài trao lại cậu con trai duy nhất cho bà mẹ góa của cậu (Lc 7: 15), và khi Ngài trao lại anh La-da-rô cho hai người chị của anh (Ga 11: 32-44). Vì thế, đối với những ai mà Ngài muốn liên kết vào sứ mạng của Ngài một cách tròn đầy tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát triệt để: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37).
Khi nghe đọc bản văn Tin Mừng này, các cộng đoàn Ki-tô giáo tiên khởi biết rất rõ rằng việc dấn thân từ bỏ nầy đã dẫn những môn đệ đầu tiên nầy đến mức độ nào: thánh Gia-cô-bê, vị Tông Đồ đầu tiên đã được phúc tử đạo vào năm 44, vì thế, vị Tông Đồ nầy chắc chắn đã qua đời rồi vào lúc thánh Mác-cô ghi những dòng chữ nầy. Còn thánh Phê-rô, chắc chắn đã nhiều lần kể cho cộng tác viên của mình là thánh Mác-cô câu chuyện ơn gọi trên bờ hồ Ti-bê-ri-át nầy, cũng đã làm chứng cho Đức Giê-su bằng mạng sống của mình ở Rô-ma, có lẽ vào năm 64.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC GIÊSU HÀNH ĐỘNG NHỜ TRUNG GIAN CÁC MÔN ĐỆ- Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM
Ngữ cảnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
Tin Mừng không phải là bản công bố một loạt các chân lý rõ ràng và tách biệt. Ngược lại, đây là một bản tường thuật lôi kéo độc giả vào, đặt câu hỏi cho độc giả, gây ra những nỗi ngờ vực và những câu hỏi. Nhưng chính là nhờ cứ tiếp tục tự hỏi trong công việc giải thích, mà độc giả–thính giả trở thành môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng bước đi đàng sau Thầy. Đọc lần đầu tiên, hoặc đọc những đoạn rời rạc, độc giả thấy ý nghĩa của Tin Mừng không rõ ràng. Do đó độc giả cần có can đảm đọc tiếp, và cứ để cho những thắc mắc mở ra và chờ đợi các câu trả lời đến dần dần.
Cùng với việc Đức Giêsu xuất hiện, hành trình của các môn đệ cũng bắt đầu. Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê. Qua các hành động của Người, Nước Thiên Chúa cũng đến gần.
Bố cục
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c. 14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19),
b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a),
c – Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Người ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc… Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Mt 4,17 Mc 1,14-15
Đức Giêsu rao giảng Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa:
Thời kỳ đã mãn Anh em hãy sám hối
vì Nước Trời đã đến gần Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15): Tác giả Lc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
Vài điểm chú giải
– Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từ Phaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại;
+ giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng;
+ nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolô không bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
– Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
Phêrô-Anrê Giacôbê-Gioan Lêvi
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê Đi xa hơn một chút Đi ngang qua
(trạm thu thuế)
Người thấy Simon với em là Anrê Người thấy Giacôbê
với người em là Gioan Người thấy
Lêvi con Anphê
đang quăng lưới xuống biển vì họ làm nghề đánh cá, đang vá lưới ở trong thuyền đang ngồi ở đó
(trạm thu thuế)
Người bảo: Các anh hãy theo Tôi
(Tôi sẽ làm cho các anh thành
những kẻ lưới người như lưới cá) Người liền gọi các ông Người bảo ông
Anh hãy theo Tôi
Lập tức hai ông bỏ chài lưới Và các ông bỏ cha mình là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công) Ông đứng dậy
mà đi theo Người mà đi theo Người đi theo Người
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
+ Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
+ Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể.
+ Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
– “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
– “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mc đưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cộng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận Simôn nổi lên như người thứ nhất trong anh em do chính sáng kiến của Đức Giêsu (sẽ có lúc tên ông không được nêu ra đầu tiên nữa: x. 16,7); chính Người đã tách ông ra khi thiết lập Nhóm Mười Hai, Người đã đổi tên Simôn thành “Phêrô” (x. 3,13-19).
+ Kết luận
Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
– Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
– Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy).
– “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu.
– Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.
Gợi ý suy niệm
-Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
-Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
-Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là một mệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
-Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong một tương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của một cộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bằng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
-Tiếng gọi này là một lời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ một nhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIẾP TỤC CHỦ ĐỀ CHÚA KÊU GỌI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Gn 3,1-5.10) : Chúa kêu gọi ngôn sứ Giona đến thành Ninivê rao giảng sự sám hối.
– Tin Mừng (Mc 1,14-20) : Bài tường thuật của Thánh Mác cô về việc Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
– Bài đọc II (1 Cr 7,29-31) : Mọi giá trị trần gian đều không bền, vậy hãy xử dụng những của cải thế gian với một tấm lòng không dính bén.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật ra không phải chỉ những kẻ đi tu mới được Chúa kêu gọi, mà tất cả mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một sứ mạng theo đấng bậc của mình.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Lời đầu tiên của Đức Giêsu khi bắt đầu rao giảng là “Hãy sám hối”. Chúng ta hãy ý thức thân phận tội lỗi của mình và sám hối quay về với Chúa.
– Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta “Hãy tin vào Tin Mừng”. Trên thực tế, chúng ta chưa siêng năng đọc Tin Mừng và sống theo Tin Mừng bao nhiêu.
– Nhiều lần Chúa kêu gọi chúng ta làm việc tông đồ, phục vụ Giáo Hội. Nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Gn 3,1-5.10)
Trong lịch sử, Ninivê là thủ đô của Đế quốc Assyria, kẻ thù đã nhiều lần tấn công dân do thái. Vì vậy, trong đầu óc người do thái, Ninivê luôn là một thành phố xấu xa, tội lỗi và đáng bị trừng phạt.
Chính vì thế, khi Thiên Chúa gọi ngôn sứ Giona đi Ninivê rao giảng sự sám hối để được thứ tha, Giona rất khó chịu. Ông cũng đi nhưng cố tình đi lạc đến một nơi khác. Nhưng làm sao mà con người có thể đánh lừa được Thiên Chúa. Thiên Chúa cho tàu chở Giona bị bão, thuỷ thủ quăng ông xuống biển. Một con cá lớn nuốt ông vào bụng rồi nhả ông lên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.
Câu chuyện này đề cập – một cách phản diện – đến ơn gọi và sứ mệnh của kẻ được gọi : Chúa gọi ai không phải để người đó làm theo ý mình, mà làm theo ý Chúa cho dù ý Chúa rất trái ngược với ý riêng mình ; người được gọi có thể rất bất xứng, như Giona, nhưng đó là một dụng cụ Chúa dùng, và Chúa biết cách dùng để dụng cụ ấy sinh ra hiệu quả.
Đáp ca (Tv 24)
Đây là lời van lơn của người tội lỗi, xin Chúa chỉ đường mở lối cho họ theo. Lời van xin này có thể đặt vào miệng dân thành Ninivê tội lỗi, và dĩ nhiên cũng có thể đặt vào môi miệng của chúng ta.
Tin Mừng (Mc 1,14-20)
Bài Tin Mừng ngắn này gồm hai phần :
– Các câu 14-15 : Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài chọn nơi xuất phát là vùng đất Galilê đa số là lương dân. Nội dung rao giảng chính của Ngài là “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
– Các câu 16-20 : Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Những điểm đáng lưu ý là : a/ Ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Đức Giêsu (chính Ngài gọi 4 người ấy chứ không phải họ xin đi theo Ngài) ; b/ Ngài gọi họ ngay trong môi trường làm việc của họ (bên bờ biển), trong lúc họ đang làm việc bình thường (vá lưới) ; c/ Đáp lại, người được gọi phải từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Bài đọc II (1 Cr 7,29-31)
Thánh Phaolô giúp các tín hữu suy nghĩ về giá trị của những thực tại trần thế : hạnh phúc gia đình, những niềm vui nỗi buồn, những của cái vật chất… So với Nước Trời, tất cả những thứ kể trên đều chỉ là những thứ chóng qua chứ không bền vững. Vì thế Thánh nhân kêu gọi : “ai có vợ hãy ăn ở như không có, người than khóc hãy ăn ở như không than khóc, kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có gì”.
Thật là những lời rất lạ lùng và khó hiểu. Nhưng đó là chân lý. Và chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để đáp lại tiếng Chúa kêu gọi.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tiếng Chúa kêu gọi
Phụng vụ hôm nay có một chủ đề chính, đó là “Tiếng Chúa kêu gọi”. Bài Cựu Ước nói về việc Chúa gọi tiên tri Giona đi rao giảng lòng sám hối cho dân Thành Ninivê. Bài Trích thư gởi giáo dân Côrintô nói về sự cấp bách phải đáp lại tiếng Chúa gọi mà hoán cải đời sống. Còn bài Tin Mừng thì nói về việc Chúa gọi 4 Tông đồ đầu tiên là Anrê, Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Người thường hiểu “tiếng Chúa kêu gọi” theo nghĩa hẹp, đó là Chúa gọi một người nào đó từ bỏ thế gian đi tu làm việc tông đồ cho Chúa trong cương vị của một Linh mục, hay một Tu sĩ. Hiểu rộng thêm một chút thì “Tiếng Chúa kêu gọi” cũng có thể là ý Chúa có liên quan đến cuộc sống của mình, hoặc là đi tu, hoặc có gia đình. Nhưng hiểu như thế vẫn còn hẹp nghĩa lắm. Không phải là Chúa chỉ gọi chúng ta đi tu hoặc có gia đình, mà tiếng Chúa còn vang lên kêu gọi chúng ta rất nhiều lần trong cuộc đời.
Mặc dù Chúa vô hình nhưng Chúa vẫn nói chuyện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau : Thời Cựu Ước Chúa nói với loài người qua trung gian các ngôn sứ. Trong 33 năm Đức Giêsu sống ở trần gian, Chúa trực tiếp nói chuyện với loài người bằng miệng bằng lưỡi, như Chúa đã kêu gọi 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Còn ngày nay, Chúa vẫn nói, vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách thức :
. Có khi là trong một lần chúng ta sốt sắng cầu nguyện.
. Có khi trong lúc ta đọc một đoạn Tin Mừng, nghe một bài giảng.
. Và rất nhiều khi Chúa nói với ta qua những biến cố cuộc đời, nhất là những biến cố buồn, như bệnh tật, thất bại, khổ sở, không được vừa ý.
Chúa vẫn còn nói, còn gọi. Nhưng có người thì nghe, có người thì không nghe ; có người làm theo, có người bỏ qua.
Và khi chúng ta đã được nghe tiếng Chúa, đã được biết Chúa muốn mình phải làm gì, thì chúng ta hãy lập tức không chần chừ đáp lại và làm theo tiếng Chúa kêu gọi, như gương 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Câu chuyện chàng trị trưởng trẻ
Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói : “Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua”. Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.
* 3. Chúa cần đến con người
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, cho nên muốn làm bất cứ điều gì thì Ngài cũng làm được, làm cách dễ dàng, làm cách nhanh gọn, không cần vật liệu và cũng không cần ai giúp đỡ. Việc dựng nên trời đất muôn vật đã chứng mình điều này.
Tuy nhiên, trong việc cứu độ thì Ngài lại cần đến con người : Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa kêu gọi ông Abraham ; lịch sử cứu độ thời Tân Ước, như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, bắt đầu bằng việc Chúa kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
Thánh Augustinô đã suy gẫm và rút ra kết luận : “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức con”.
Công trình tạo dựng của Chúa đã hoàn tất. Nhưng công trình cứu độ vẫn còn phải tiếp tục, vì ngày nay còn rất nhiều người chưa được cứu độ. Như thế, Chúa vẫn còn cần con người. Vì vậy Chúa tiếp tục kêu gọi, và cần có những người đáp lại lời kêu gọi đó để công tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
Công trình cứu độ những người trong nước tôi, trong xóm tôi cũng còn phải tiếp tục. Nếu không có ai đáp lại lời kêu gọi của Chúa thì công trình ấy phải đình trệ.
“Hãy sám hối”
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi “Hãy sám hối”. Lời này được gửi đến ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên. Nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành.
Nhìn lại cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài gặp rắc rối với người tội lỗi thì ít nhưng với người tốt lành thì nhiều hơn. Tại sao vậy ? Thưa vì kêu gọi người tội lỗi sám hối thì dễ, vì họ biết mình tội lỗi ; còn kêu người tốt lành sám hối thì rất khó, bởi họ không thấy có gì cần sám hối. Cũng như bảo một người bệnh đi bác sĩ thì dễ hơn bảo một người nghĩ rằng mình không có bệnh.
Bởi thế, để đáp lại lời kêu gọi sám hối thì trước hết ta phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa là điều mình phải là.
Tiếp đến, sám hối còn đòi phải có can đảm : can đảm không tự lừa dối mình nữa, và can đảm đối diện với thực tại phũ phàng của bản thân mình. Can đảm chấp nhận tội lỗi của mình và can đảm thay đổi. Sự can đảm nấy rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi rất là khó.
Có người cũng thấy một tương lai tốt lành hơn nhưng không thể thay đổi chính mình để đi đến tương lai đó, bởi vì con đường phía trước thì dài và tiến bộ thì rất chậm chạp khó khăn. Đó là lý do tại sao nhiều người thà tiếp tục sống như cũ.
Có người xem sám hối là một việc cực nhọc, tiêu cực và buồn thảm, bởi vì họ nghĩ rằng sám hối chỉ là cảm thấy mình tội lỗi và cố gắng làm việc đền tội. Thực ra sám hối là việc rất tích cực : đành rằng một mặt phải ý thức mình tội lỗi, nhưng mặt khác người sám hối cũng ý thức mình có khả năng làm điều tốt. Như thế, sám hối là có một cái nhìn mới, tiến bước theo một hướng mới, đặt cho đời mình những mục tiêu mới. Nếu hiểu được như thế thì sám hối trở thành một sức mạnh khuyến khích và luôn dẫn chúng ta tới niềm vui. (Viết theo Flor McCarthy)
Sống và chia sẻ niềm tin
Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Braxin có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau :
Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ… đạo.
Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi :
– Hôm nay chú nói về đề tài gì ?
Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.
Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói :
– Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của Chúa để rước lễ không ?
Tôi trả lời :
– Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.
Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động :
– Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.
– Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi !
Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản.
*
Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng :”Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc.1,17).
Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.
Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.
Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.
Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định. Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa : “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc.5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết : cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.
Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc “Sám hối và tin vào Tin mừng”.
Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.
Romano Guardini đã ví von : “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta”.
*
Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Một câu hỏi bất ngờ
Chuyện này kể về một vị rabbi thánh thiện. Trong tỉnh của ông, những nhà giàu ở một vùng biệt lập nên phải thuê người canh gác ban đêm.
Một đêm kia vị rabbi trên đường về nhà thì gặp một người gác dan đang đi tới đi lui. Vị rabbi hỏi : “Anh đang làm việc cho ai vậy ?” Người gác dan không trả lời mà hỏi lại : “Thế ông đang làm cho ai vậy ?” Câu hỏi quá bất ngờ, xưa nay vị rabbi chưa hề nghĩ đến. Vì thế ông bối rối đáp “Tôi không làm việc cho ai cả”. Nhưng trả lời xong ông còn bối rối thêm. Thế là hai người cứ im lặng đi tới đi lui bên nhau. Một lúc sau, vị Rabbi hỏi người gác dan : “Anh có muốn làm việc cho to không ?”. Người gác dan cũng đáp lại bằng một câu hỏi : “Nhưng ông mướn tôi để làm gì ?” Vị rabbi trả lời : “Để thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi câu hồi này : “Ông đang làm việc cho ai vậy ?”.
Đó cũng là câu chúng ta phải thỉnh thoảng hỏi chính mình : “Tôi đang làm việc cho ai vậy ?” (Flor McCarthy)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng là những việc mà người Kitô hữu chúng ta phải thực hiện suốt đời. Chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta.
- Hội thánh còn đang hành trình trên trần gian thì còn có nhiều gương xấu / Xin cho những người đang làm gương xấu trong Hội thánh biết ăn năn sám hối.
- Nhìn trong thế giới và trong xã hội chúng ta hôm nay / có nhiều người xấu và việc xấu / Xin cho họ biết nhận ra những hậu quả tai hại của các việc xấu họ làm / để họ thật lòng ăn năn sám hối
- Có nhiều người đang là nạn nhân của những người xấu và việc xấu / xin cho họ biết tin tưởng ở Tin mừng để được nâng đỡ và ủi an.
- Chính trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta, còn nhiều người làm những việc xấu / Xin cho họ biết ăn năn sám hối và trở về với Tin mừng của Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha hay thương xót, Chúa đã đánh động cả một thành lớn để họ ăn năn hối cải, xin Chúa cũng đánh động mỗi người chúng con để chúng con biết thật lòng sám hối. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Hợp lòng hợp ý với tất cả những người được Chúa kêu gọi, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
GIẢI TÁN
Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta làm tông đồ của Chúa giữa trần gian. Cũng như Giona, cũng như Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, chúng ta hãy hăng hái vào đời thi hành nhiệm vụ Chúa giao
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối.
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?
2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…..).
3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
CHÚA NHẬT LỄ III THƯỜNG NIÊN- Năm B
NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN– PM. Cao Huy Hoàng
Con người mở mắt vươn vai chào một ngày mới, chào ánh mặt trời rực rỡ vừa lên, thoắt đã tiễn ngày đi để nhận lấy bóng tà huy buồn bã, thoắt đã nhắm mắt lại với bóng đêm tăm tối mịt mùng. Một ngày sống đã qua đi. Rồi từng ngày qua đi. Cuộc sống cứ như vẫn nhịp đều theo dấu chân của mặt trời đếm bước.
Hình như ở tuổi hồn nhiên, hoặc chưa có khái niệm về thời gian, hoặc khái niệm thời gian chưa đủ làm cho con người bồi hồi xao xuyến. Nhưng khi hơi có tí tuổi, cùng với tình trạng rệu rã trong thân xác, nếm đủ mùi thất bại, trải bao nỗi bi thương, thì ai cũng có thể nhận ra bóng xế, bóng chiều của cuộc đời đang xuất hiện, bóng đêm cuộc đời đang ập đến, và cỗ xe vĩnh cửu đang chờ ngay trước cửa.
Lời Chúa hôm nay không có ý mời gọi chúng ta ngộ ra quỹ thời gian của mình còn quá ít ỏi, và hãy vội vàng nhìn lại ý nghĩa của cuộc sống chóng vánh này. Nhưng, tích cực hơn, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta rằng Nước Thiên Chúa đã đến: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến. Ngài khai mở một ý nghĩa mới cho cuộc đời trần gian chóng vánh này là: sống để được sống muôn đời. Muốn được như thế, Ngài kêu gọi: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Vì “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1,14)
“Hãy ăn năn, sám hối”, lời mời gọi này như một điệp khúc trong đời bạn, trong đời tôi. Chúng ta đã nghe biết bao lần, lặp đi lặp lại biết bao lần, nhưng tiếc là chúng ta vẫn chưa ăn năn sám hối, hoặc nếu có, thì cũng chỉ là mới dừng lại ở bước biết mình đang sống trong tình trạng xấu, mà chưa có có một quyết tâm làm lại cuộc đời.
Đã có nhiều người có phút nhìn lại mình để tự kiểm và tiến thân nên hoàn hảo hơn, nên tốt hơn.
Nhưng cũng có những phút nhìn lại rất kỳ quặc: đó là bước tự kiểm, tự phê của người không tin Chúa, không tin Trời, không tin có đời sau. Tự kiểm, tự phê để đổi mới sao cho kiêu căng hơn, gian tà hơn, ác độc hơn, phạm các tội tày trời cách tinh vi hơn tưởng như mắt trời không nhìn thấy. Hoặc, không tin có trời thì cứ yên tâm mà phạm tội: mắt trời đâu mà nhìn thấy. Cứ thế, người ta tiến dần đến chỗ sống cách sống của ác quỷ.
Ai dám hy vọng là ác quỷ sẽ có lòng sám hối. Lẽ nào chúng ta lại muốn làm ác quỷ để không biết thế nào là sám hối, không biết thế nào là làm lại cuộc đời cho đúng với nhân vị xinh đẹp đáng quí của mình.
Ai cũng yêu sự sống mình, nhưng đã có thời gian chúng ta không biết thế nào là yêu cho phải, cho đúng. Và cứ thế, chúng ta đã kéo dài những ngày đời vô nghĩa biết bao. Có người đã yêu mình bằng cách tự làm nhục đời mình, tự thiêu hủy đời mình, tự chuốc vào mình những liều thuốc cực độc, đó là: kiêu căng, ích kỷ, gian tà, dâm ô, tham lam, thù hận… Trong số đó, liều thuốc kiêu căng vẫn luôn là độc dược số một. Kiêu căng là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, hoặc vẫn tin có Thiên Chúa, nhưng yêu cầu Thiên Chúa phải thực hiện theo ý mình vì mình là ông kia bà nọ, vì mình có trí khôn, có học vị, có danh giá, có tiền bạc, có quyền thế…
Lời Chúa hôm nay nói rằng: “Thời giờ đã mãn” nghĩa là đã đến lúc không chỉ nhận ra mình đang dùng những liều thuốc cực độc, mà còn phải khẩn cấp tránh cho xa, phải khẩn cấp từ bỏ cho tuyệt gốc, và nhất là cần phải sử dụng loại thuốc mới bổ dưỡng cho tâm linh, bảo đảm cho thân xác một cuộc sống và sống lại, sống muôn đời: đó chính là “Tin vào Lời Chúa”, “Tin vào Đức Giêsu Kitô”.
Thời gian chóng vánh, ít ỏi, sẽ không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng cho những ai đã có lòng “sám hối và Tin vào Chúa Giêsu”. Hai việc “sám hối và tin vào Chúa Giêsu” luôn đi đôi với nhau, không thể thiếu một trong hai. Vì nếu sám hối mà không tin vào Chúa Giêsu, thì hãy coi chừng đó là cách sám hối của ma quỷ. Nếu tin vào Chúa Giêsu mà không sám hối thì lòng tin ấy gian trá điêu ngoa, trá hình, lừa bịp Thiên Chúa.
Câu chuyện Cựu Ước mà sách Giona kể về dân thành Ninivê hôm nay, gợi cho chúng ta một ý nghĩa tích cực về lòng sám hối và tin tưởng. Được thông báo: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ”, dân thành Ninivê tin tưởng nơi Chúa, họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.. Họ không chỉ “ăn chay và mặc áo nhặm”, nhưng họ đã thực hiện điều cốt lõi của việc ăn năn sám hối là “bỏ đời sống xấu xa”. Vì thế, sự sám hối toàn bích của họ đã làm thay đổi ý định của Thiên Chúa: “Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó”.(x Gn 3, 1-5. 10)
“Sám hối và tin vào Chúa Giêsu” còn là điều kiện tiên quyết và ắt có để được Chúa Giêsu biến đổi nên người có ích cho công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa không nói với Simon và Anrê rằng “các ngươi là những kẻ chài lưới người” nhưng Ngài nói “Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Trong quá trình “làm cho trở thành”, hẳn nhiên người môn đệ Chúa hẳn phải là những người trước tiên “sám hối và tin vào Chúa Giêsu”.
Không thể có một người tự xưng là môn đệ Chúa, là tông đồ cho Chúa, nếu người ấy không tuyên bố sám hối: “từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ”, tuyên tín vào “Chúa Giêsu Kitô” và tháp nhập vào Chúa Kitô qua bí tích rửa tội. Thế thì, mỗi tín hữu chúng ta đã và đang được Chúa Giêsu “làm cho trở thành những kẻ chài lưới người”. Đó một hồng ân cao quí dành cho tất cả những ai sống với sứ mạng Kitô hữu tông đồ: sống trước cuộc sống của Nước Thiên Chúa ngay khi còn ở trần gian, như Thánh Phaolô đã mô tả: “Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1 Cr 7, 29-31)
Nguyện xin Lời Chúa giúp chúng con liên lỉ “ăn năn sám hối và tin vào Chúa Giêsu”, quyết tâm từ bỏ ma quỷ và các việc gian tà của chúng, để chúng con được Chúa “làm cho trở thành” những nhân chứng sống động cho Tin Mừng, cho Tình Yêu Chúa giữa dòng đời. Amen.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
NHÌN VỀ TƯƠNG LAI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Có một thầy ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là “Tượng Chúa ban ơn”
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: “Lạy Chúa, con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá”.
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: “Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết”. Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: “Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa.”
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, trang 27)
Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ lời Chúa trong sách Isaia: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.
Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể.
Đó là những người chài lưới, “ăn với sóng, nói với gió”, ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?
Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, hai mươi mấy năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. “Chủ nghĩa lý lịch” tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời… Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
THỜI GIAN ĐÃ MÃN, NƯỚC CHÚA GẦN ĐẾN– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Lời công bố của Chúa Giêsu trong khởi đầu Tin mừng theo Máccô là lời công bố triều đại Nước Thiên Chúa gần đến và hãy sám hối và tin vào Tin mừng. Lời công bố này vẫn được nhìn nhận như là lời công bố trung thực và chính yếu của Chúa Giêsu khi bắt đầu rao giảng Tin mừng. Nước Thiên Chúa là đề tài chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, và đồng thời với việc rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu bắt đầu kêu gọi những môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ cách đặc biệt để họ sẽ là những người đón nhận Tin mừng nước Thiên Chúa và tiếp nối công việc rao giảng của người. Giữa lời công bố triều đại Nước Thiên Chúa và việc sám hối để tin vào Tin mừng có liên hệ mật thiết với nhau. Triều đại Nước Thiên Chúa được khai mở với lời rao giảng Tin mừng của con Thiên Chúa nhập thể làm người và mời gọi mọi người sám hối. Đón nhận lời rao giảng Tin mừng thì cũng bắt đầu thực hành sám hối để đón nhận Nước Thiên Chúa được ban tặng. Ngoài ra bài Tin mừng cũng cho chúng ta thấy hình ảnh những môn đệ đầu tiên đã đi theo Chúa Giêsu và chính họ sẽ trở nên những người đón nhận Tin mừng cách cụ thể và khai mào cho thế hệ những người tín hữu sẽ đón nhận lời rao giảng Tin mừng và tham dự vào Nước Thiên Chúa để rồi họ sẽ là những người tiếp nối thầy của mình để rao giảng về Nước Thiên Chúa cho mọi người.
Nước Thiên Chúa và Tin mừng là những thực tại mới mẽ và cấp bách. Tính mới mẽ và cấp bách của những thực tại này là do bởi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa có sức mạnh cứu độ, ban tặng sự sống thần linh cho con người và lôi kéo con người ra khỏi vực thẳm sự chết đang vây bọc họ. Vào thời Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ rao giảng của người, những người do thái quan niệm Nước Thiên Chúa một cách cụ thể và vật chất. Họ quan niệm phần nào như một nước trần gian, trong đó con người có thể hưởng bình an hạnh phúc với những quyền lợi vật chất. Hoặc theo các tiên tri, nước Chúa là lúc mà Thiên Chúa thực thi công bằng, luận phạt những người tội lỗi. Trong khi đó, Chúa Giêsu bắt đầu nhẫn nại rao giảng Nước Chúa, kêu gọi các môn đệ. Người bắt đầu thực thi việc rao giảng, đi đến với mọi người mọi nơi qua các thành thị và làng mạc, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ để biểu lộ sức mạnh cứu độ của Nước Thiên Chúa, sức mạnh chữa lành và tha thứ của Nước Thiên Chúa, không ồn ào, nhưng âm thầm mạnh mẽ như chút men người đàn bà trộn trong đấu bột, như hạt cải bé nhỏ sẽ trở thành một cây lớn chim trời đến nương náu.
Câu chuyện của bài đọc sách tiên tri Giona cho chúng ta hình ảnh của tính cấp bách của việc sám hối và tin vào lời rao giảng. Dân thành Ninivê tội lỗi nên Chúa sai tiên tri đến rao giảng cho họ. Thành phố này rộng bằng ba ngày đường, tiên tri Giona đến rao giảng còn bốn mươi ngày nữa Ninivê sẽ bị phá hủy. Dân thành nghe lời giảng, họ ăn năn sám hối, từ người lớn đến trẻ nhỏ và Chúa nguôi cơn giận và ngài đổi ý định phạt họ. Câu chuyện khá vắn tắt, được Giáo hội dùng để dẫn vào chủ đề của chúa nhật tuần ba này. Điều ngạc nhiên là dân thành Ninivê tội lỗi đã biết nghe lời rao giảng của Giona, và nhờ đó họ đã được tha thứ. Chúng ta cần ở trong tâm trạng của những người dân thành Ninivê để hiểu tầm vóc của vấn đề. Đây là lúc khẩn trương thực sự, chỉ còn bốn mươi ngày nữa thì Ninivê sẽ bị phá hủy. Hiểu được sự cấp bách của sứ điệp sám hối và tin tưởng vào lời rao giảng của vị tiên tri, người dân thành Ninivê đã có sự sáng suốt tỉnh táo thay đổi đời sống và nhờ đó tồn tại và Chúa đã nguôi cơn giận không phạt họ nữa.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng, đó cũng là lúc Gioan tẩy giả bị bắt. Chúa Giêsu đối diện với những nguy hiểm của tình hình chính trị đang diễn ra nhưng người bình tĩnh rao giảng Tin mừng với lời nhắc nhở rất thôi thúc : « thời gian đã mãn, nước Thiên Chúa đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng ». Chúng ta đang đối diện với sự khẩn trương của thời gian theo dự định cứu độ của Thiên Chúa. Lời rao giảng của Chúa Giêsu cũng là lời rao giảng hối thúc đặt con người trước triều đại Nước Thiên Chúa đang đến. Vì Nước này đang đến gần, mọi người phải chuẩn bị sẵn sàng chính mình để đón nhận. Việc chuẩn bị xứng đáng là phải sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối, đó là việc thay đổi lòng trí và ý chí của con người, có can đảm từ bỏ con người cũ với những đam mê tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu. Khi tin vào Tin mừng Chúa Giêsu rao giảng, Lời Chúa sẽ lần hồi huấn luyện, làm cho những người tin trở nên những con người xứng đáng đón nhận Nước Thiên Chúa và Tin mừng cứu độ càng lúc càng hơn.
Để thực hiện cụ thể sứ điệp rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên. Khi đi dọc bờ biển Galilêa, Chúa Giêsu thấy hai anh em Simon và Anrê đang thả lưới xuống biển, Người kêu gọi họ và họ đã đi theo người. Sau đó người gặp hai anh em khác là Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền, người cũng kêu gọi họ, và họ đã bỏ cha và những người làm công lại để đi theo người. Câu chuyện nhấn mạnh lời mời gọi của Chúa Giêsu và thái độ dứt khoát của bốn môn đệ đầu tiên. Chúa Giêsu mời gọi họ theo người và người hứa sẽ thay đổi nghề nghiệp của họ, làm cho họ không chỉ là những người chài lưới cá, nhưng sẽ là những người chài lưới người. Công việc của họ sẽ quan trọng và có giá trị lớn lao hơn nhiều so với công việc đánh cá mà họ đang làm. Phần các môn đệ đầu tiên này, các ông đã lập tức bỏ mọi sự mà theo người. Các ông không chần chờ, không tiếc nuối nghề nghiệp, công việc làm ăn sinh sống, ngay cả lìa bỏ cha già và các bạn đồng nghiệp để lập tức đi theo Chúa.
Thánh Phaolô có cách nhìn thời gian đối chiếu với Lời rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu thực hiện và ban tặng. Khác với những cách nhìn trần thế từ những lối suy tư triết học về thời gian có tính chất bền vững và đều đặn của nó, hết xuân hạ thu đông, rồi lại trở lại với chu kỳ hằng năm và con người cứ an nhàn hưởng thụ cuộc sống với việc mua sắm, dựng vợ lấy chồng. Thánh Phaolô nhìn thời gian đối chiếu với lời loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, và vì thế, thời gian trở nên khẩn cấp và vắn vỏi, vì Nước Chúa đã đến gần, mọi người phải sẵn sàng trước lời mời gọi lắng nghe Tin mừng của Thiên Chúa. Vì lời mời gọi khẩn thiết này, mọi người phải biết từ bỏ nhịp sống bình thường của mình để hướng nhìn về thực tại mới mẽ của Tin mừng Nước Thiên Chúa : ai có vợ hãy ở như không có vợ, ai vui mừng hãy ở như không vui mừng, ai mua sắm hãy ở như không có gì vì bộ mặt thế gian này đang qua đi. Không phải người tín hữu trở nên bi quan và không muốn xây dựng trần thế với những người khác, nhưng người tín hữu trở nên tỉnh táo hơn và lắng nghe lời mời gọi thúc bách của Thiên Chúa hơn để họ biết sống và hưởng dùng những của cải đời này để phục vụ Nước Chúa nhiều hơn.
Lời Tin mừng đã được vang lên thúc bách, và triều đại Nước Thiên Chúa đang đến gần. Chúng ta nghe vang vọng lời này trong những tuần lễ đầu tiên của mùa thường niên năm phụng vụ và thúc đẩy mỗi người có thái độ đáp trả chân thành cho lời mời gọi của Chúa Giêsu : « thời gian đã mãn, Nước Chúa đã đến gần ». Nước Chúa đã đến gần vì Chúa Giêsu đã hiện diện ở trần gian, vì lời hứa tha thứ và đổi mới của Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy can đảm ra khỏi sự chật hẹp của lòng mình. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đối với các môn đệ là lời mời gọi dứt khoát thúc bách họ can đảm bỏ lại sau lưng mọi công việc, mọi liên hệ tình cảm gia đình và nghề nghiệp để dấn thân theo Chúa Giêsu để đón nhận Nước Trời và lời loan báo Tin mừng. Đối với phần lớn nhiều người chúng ta, chúng ta không phải từ bỏ gia đình cha mẹ hay nghề nghiệp giống như các tông đồ, nhưng cũng là lời mời gọi rất khẩn thiết biết trung tín theo Chúa Giêsu hằng ngày trong những công việc bé nhỏ và bình thường hằng ngày của mình. Chúng ta bắt đầu chu toàn những công việc hằng ngày của mình và luôn tỉnh thức để thực thi Lời rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
SÁM HỐI NGAY TỪ HÔM NAY- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một ngạn ngữ La-tinh thông dụng được truyền tụng như sau: “Errare humanum est”, (lầm lỗi vốn thuộc bản tính con người). Đúng vậy, đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm.
Bởi vì ai trong chúng ta cũng thường xuyên mắc phải lỗi lầm nên việc sám hối, sửa mình là điều mỗi người phải ưu tiên thực hiện từng ngày, từng giờ trong cuộc sống.
Chính vì thế, khi bắt đầu sứ vụ rao giảng, ông Gioan Tẩy giả cất cao lời kêu gọi dân chúng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời gần đến” (Mt 3,1-2).
Đặc biệt là qua bài Tin mừng trích đọc hôm nay, thánh sử Mác-cô viết: “Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Sau này, khi Nhóm Mười hai được Chúa Giê-su sai đi thi hành sứ vụ, việc đầu tiên mà các ông quan tâm thực hiện là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12).
Sám hối là điều tối cần
Chiếc xe đang phóng nhanh trên đại lộ luôn có khuynh hướng đi trệch ra ngoài tuyến đường đang chạy nên có thể đưa đến tai họa thảm khốc bất cứ lúc nào; thế nên tài xế phải luôn tỉnh táo để lái xe chạy đúng làn đúng tuyến.
Tương tự như thế, có vô vàn mãnh lực dưới nhiều dạng thức khác nhau liên tục lôi kéo con người đi trệch ra ngoài vòng luân thường đạo lý, nên mỗi người phải thường xuyên phản tỉnh và quay về với nẻo chính đường ngay. Làm như thế là thực hành sám hối như lời Chúa Giê-su mời gọi.
Làn da chúng ta mỗi ngày đón nhận vô số bụi bặm trong không gian, những thứ nầy hoà quyện với mồ hôi và dưới tác động của vô vàn vi khuẩn đang sống lúc nhúc dầy đặc trên làn da (mỗi cm2 da có đến 32 triệu vi khuẩn cư ngụ!) khiến cho cơ thể hoá ra dơ bẩn, ngứa ngáy… Vì thế, việc tắm rửa hằng ngày là điều tối cần để duy trì một thân thể sạch sẽ, khỏe mạnh.
Tương tự như thế, vô vàn “bụi bặm” vô hình như kiêu căng, ích kỷ, tham lam, ganh ghét, gian dối… đang bao trùm xã hội ta đang sống và thường xuyên thấm nhập vào tâm hồn, trí não chúng ta… hòa quyện với những xu hướng xấu trong ta, có thể làm cho con người chúng ta ra hư đốn, bại hoại.
Vì thế, chúng ta cũng cần phải tắm gội tâm hồn hằng ngày.
Sám hối là tắm gội tâm hồn để tẩy sạch tâm hồn khỏi những thứ “bụi bặm” vô hình nhưng vô cùng tai hại này.
Thân xác ta cần được tắm rửa hằng ngày để khỏi bị dơ bẩn và hôi hám.
Áo quần chúng ta vương nhiều bụi bặm và vết bẩn cũng phải được thay đổi ngay.
Ngôi nhà ta đang ở vẫn thường xuyên được quét dọn sạch sẽ tươm tất mỗi ngày…
Thế thì tại sao tâm hồn ta đang vướng nhiều lỗi lầm và thói hư tật xấu… Chúng làm cho ta trở nên khả ố trước mặt mọi người, làm cho phẩm giá bị hạ thấp, làm cho danh dự của ta bị thương tổn… thì không được quan tâm?
Bao giờ mới bắt đầu sám hối?
Dường như tất cả mọi người đều nhìn nhận rằng sám hối, sửa mình, cải thiện cuộc sống là việc cần thiết, không cần bàn cãi, nhưng dường như ai cũng chần chừ không quyết làm ngay.
Nhiều người nói: “Tất nhiên tôi sẽ sám hối, nhưng từ từ đã, vội gì, có thể là ngày mai”… và cái ngày mai đó dường như không bao giờ đến. Thế rồi người ta cứ lần lữa mãi cho đến lúc xuống mồ mà vẫn chứng nào tật ấy.
Muốn tẩy sạch tâm hồn, chúng ta chỉ có hai lựa chọn: hoặc là ngay bây giờ hay là không bao giờ. Nếu ta không bắt đầu ngay hôm nay, thì chẳng hy vọng ở ngày mai.
Vậy ta hãy noi gương dân thành Ni-ni-vê được trích đọc trong phụng vụ hôm nay, mau mắn đáp lời mời gọi sám hối từ tiên tri Giô-na.
Khi “Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” Nghe lời ấy, dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ (tức thời) ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ… Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Giôna 3, 4-5).
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con biết nhìn lại mình và thường xuyên rà soát tâm hồn để nhận ra biết bao lầm lỗi chất chứa bên trong và đang huỷ diệt tư cách, phẩm giá và danh dự của chúng con, xô đẩy linh hồn chúng con vào cõi chết.
Xin ban cho chúng con có đủ quyết tâm để tắm gội tâm hồn và có đủ nghị lực để để bắt tay vào việc sám hối ngay từ hôm nay.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
SÁM HỐI VÀ TIN THEO CHÚA GIÊSU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan xong, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Người là : ” Chiên Thiên Chúa ” (Ga 1, 29). Ông bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, với sứ điệp : ” Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm ” (Mc 1, 14).
Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến
Viên cai ngục của Hêrôđê tra tay bắt Gioan Tẩy Giả tống ngục. Sứ mạng, lời rao giảng cũng như phép rửa của Gioan chấm dứt, thời giờ đã mãn, Đức Giêsu xuất hiện. Không như Gioan, Chúa Giêsu không đến để thay đổi phép rửa thống hối, sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Người loan báo không phải là “tin mới” hay tin mừng như bao tin mừng. Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa loan báo Tin Mừng, Người chính là Tin Mừng, là Lời Thiên Chúa, Lời cứu rỗi, là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người.
Gioan loan báo thời mới sẽ đến, thời viên mãn. ‘Thời khác’ là chính Chúa Giêsu, thời của Gioan và thời của Chúa Giêsu nối liền với nhau không có sự gián đoạn.
Gioan đã lãnh nhận sức thiêng khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giorđan. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu khi Gioan đổ nước. Chúa Cha chứng nhận Chúa Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
Từ ” gần đến ” phải được hiểu là : ” Ở bên anh em “. Người ở giữa chúng ta. Chúa Giêsu đã nói với một viên ký lục khi hỏi Chúa về hai điều răn trọng nhất: ” Ngươi không còn xa Nước Thiên Chúa đâu ” (Mc 12, 34).
Hãy theo Ta
Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển. Chúa gọi hai ông, biến các ông thành những người cộng tác. Chúa không chỉ ủy thác cho họ một học thuyết, nhưng biến họ, những người lưới cá thành những kẻ lưới người, quăng Lời Chúa vào thế gian để đánh bắt người, đưa người ta lên bờ cho Chúa, đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ làm cho các người trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1, 17).
Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền với cha mình cùng với các người làm công. Một sự tương phản Marcô đã quan sát và làm nổi bật. Simon và Anrê đã bỏ lưới. Giacôbê và Gioan đã bỏ cha. Hai người con bỏ lại cha với những người đang làm việc không phải vì tình nghĩa con cái hay gia đình, nhưng là vì đồng tiền bát gạo. Marcô sử dụng thuật ngữ ” người làm thuê ” mà chúng ta dịch là “người làm công”. Hai người con ” bỏ cha”, thay vì ở bên cha, nay thay bằng ” theo sau Chúa Giêsu” (x. Mc 1, 20).
Những ngư phủ đến với Chúa Giêsu, đã trở thành những kẻ đánh bắt người như lời Chúa phán : ” Này Ta sai ngư phủ đến … và họ sẽ (vung) lưới bắt chúng” (Gr 16, 16). Nếu Chúa sai những người khôn ngoan tới, họ sẽ thuyết phục dân, hoặc bắt lấy dân. Nếu Chúa gửi những người giầu đến, họ sẽ dùng tiền mua chuộc dân và thống trị dân. Nếu Chúa gửi những người khỏe mạnh đến, họ sẽ dùng sức mạnh dụ dỗ dân và cưỡng bức dân bằng bạo lực.
Không có ai trong số các tông đồ là những người ấy. Simon Phêrô là một bằng chứng. Ông nhút nhát, đến nỗi sợ cả một đầy tớ nữ; ông nghèo không có gì, thậm trí cả tiền thuế cũng không có (Mt 17, 24). Phêrô nói: “Bạc vàng tôi không có ” (Cv 3,6). Và ông là người ít học, nên từ khi chối Chúa, ông cũng chẳng biết rút ra bài học.
Những kẻ đánh cá được Chúa Giêsu chọn và sai đi, họ ra đi và đã mang lại kết quả mĩ mãn hơn cả những kẻ mạnh, người giầu có và khôn ngoan. Với giáo lý Chúa dạy, họ đã thu hút nhiều người mà không cần bạo lực; phận nghèo khó, họ đã dạy dỗ những kẻ giàu có; là người dốt nát, họ huấn giáo những kẻ khôn ngoan.
Bước theo Chúa Giêsu cần phải sám hối để hiệp nhất
Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “ăn năn sám hối”(Mc 1, 15). Sám hối là đi từ đời sống tội lỗi sang đời sống con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng, từ bóng tối ra ánh sáng. “Sám hối vì nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1, 15) vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Quyết tâm sám hối trở về cùng Chúa là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Chúa. Hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây : ” Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến : “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1,10). Thực ra thánh nhân đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
“HÃY THEO TA”- Lm. Gioan.M Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Theo lẽ thường khi “tầm sư học đạo” thì trò đi tìm thầy. Ấy thế mà bài Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy một điều hết sức nghịch lý đó là: Chính Thầy Giêsu đi chiêu mộ các môn sinh cho mình. Bốn môn đệ đầu tiên mà Thầy Giêsu mời gọi trong Tin mừng hôm nay, nói lên tình thương nhưng không của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa có sáng kiến đi tìm kiếm con người.
“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga. 15,16).
Thật vậy, Ngài không gọi những hạng người chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng gọi những người đang lao động trên bờ biển.
Ngài không gọi những người có học vị bằng cấp, nhưng gọi những anh thuyền chài quê mùa thất học.
Ngài không gọi những người cao sang quyền quí, nhưng gọi những người gia tài sự nghiệp chỉ có con thuyền và tấm lưới rách.
Qua việc Chúa kêu gọi những môn đệ đầu tiên, chúng ta thấy Chúa gọi họ vô điều kiện. Có nghĩa là không phải vì tài cán cá nhân mà các ông được chọn, nhưng do tình thương nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều này nên Ngài nói: “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh. Như thế, không có ai dám tự phụ trước mặt Thiên Chúa” (1Cor 1,26-29).
Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta!” mà không một lời đề nghị hay giải thích, cũng không hứa hẹn gì cho tương lai, không thuyết phục bằng bất cứ điều gì. Vậy mà khi nghe tiếng Chúa gọi, lập tức các ngư phủ đã mau mắn từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Đi theo Chúa, để rồi Chúa sẽ biến đổi các ông. Một cuộc biến đổi lạ lùng, từ lưới cá thành lưới người; từ bắt cá dưới biển trở thành bắt cá người khắp thế giới. Tương lai họ là những tay chài đầu tiên trong con thuyền Hội thánh.
Thế nhưng, trước khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo Chúa, thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi. Ngài theo chúng ta mãnh liệt lắm. Thật vậy,
Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để theo chúng ta.
Ngài từ bỏ thiên đàng hạnh phúc để xuống trần gian theo chúng ta.
Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa hạ mình xuống đi theo chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn.
Ngài là Thiên Chúa thánh thiện nhưng đi theo chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chẳng những Ngài đi theo, nhưng còn hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Anh chị em thân mến,
Ngày lãnh Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được mời gọi đi theo Chúa, bằng chứng Ngài cho chúng ta tham dự vào chức ngôn sứ của Ngài. Qua đó, Chúa ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.
Các tông đồ sau khi nghe tiếng Chúa kêu mời, các ngài sẵn lòng bước đi, dù gian nguy nào sá chi, đi theo Chúa dứt bỏ lợi danh, đi theo Chúa cứu đời lầm than. Các ngài không những trung thành sống với Chúa, nhưng còn tận tâm, tận lực dùng hết năng lực Chúa ban, và ngay cả mạng sống của mình để ra đi gieo rắc tình thương, nên chứng nhân tình yêu, chinh phục các tâm hồn về Giáo Hội Chúa. Sự nghiệp của các ngài thật lớn lao thay, danh thơm tiếng tốt vẫn còn tồn tại trong lòng Giáo Hội cho đến ngày nay.
Vậy thưa anh chị em, ngày nay Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta đi theo Chúa, Ngài không đòi chúng ta phải bỏ tất cả như các môn đệ năm xưa, nhưng chắc chắn Ngài muốn chúng ta khi bước theo Ngài cũng phải từ bỏ những tính hư tật xấu; từ bỏ những dính bén của cải bất chính; từ bỏ những mối tình vụn trộm; từ bỏ những danh lợi chóng qua…., để đi vào con đường Chúa đã đi, con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Ước gì với lòng sám hối chân thành vì những lầm lỗi thiếu sót; mỗi người chúng ta hãy học nơi các môn đệ đầu tiên tinh thần từ bỏ ấy, để theo Chúa mỗi ngày sống khắng khít với Chúa hơn. Amen.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
NĂM MỚI, NGƯỜI MỚI, CẢ TRỜI ĐẤT MỚI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.
Đức nhân thắng số
“Đức nhân thắng số” là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào “tiền định,” tin vào “số mạng” nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào “tiền định” hoặc “số mạng,” câu nói này thực hữu ích.
Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái “số” bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại “số phận” cho họ! Và cũng chính thái độ sống “hiện tại” của họ, đổi được “vận số” của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.
Thế giới này đang qua đi
Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi “nô lệ.” Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn “hèn hạ” mà thường họ không ý thức.
Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!
Khi nhắc nhở con người về thực trạng “thế giới này đang qua đi,” thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người “vĩnh tồn” của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.
Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.
Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: “Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật “không đẹp” của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?
Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành “người tốt” theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người “thành toàn” theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.
“Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?
- Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?
- Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY SÁM HỐI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15)
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai sự việc Chúa đã làm vào lúc khởi sự cuộc đời công khai của Người.
-Tuyên bố về nội dung sứ vụ của Ngài nơi trần thế.
-Gọi 4 môn đệ đầu tiên.
Nếu chỉ nhìn một cách thoáng qua thì xem ra như hai sự việc này chẳng có liên hệ gì với nhau. Nhưng nếu nhìn kỹ một chút thì chúng ta sẽ thấy chúng có liên hệ rất mật thiết
Nếu nghiên cứu Tin Mừng mừng một cách nghiêm chỉnh thì chúng ta sẽ thấy Chúa xuất hiện không như một chuyên viên làm phép lạ.
Những phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng của Marcô rất ít nhưng những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa thì Marcô nói tới một con số rất nhiều.
Mục đích quan trọng nhất và chính yếu nhất trong cuộc đời của Chúa là loan báo cho con người một Tin mừng. Và Tin Mừng này có một nội dung rất rõ rệt đó là Nước Trời, nước Thiên Chúa.
Với bài Tin Mừng ngày hôm nay Chúa nói: “Nước trời đã gần đến”(Mc 3,2)
Vào khoảng giữa cuộc đời công khai của Chúa thì Chúa lại bảo: “Nước Trời đang ở giữa anh em”(Lc 17,19)
Trong Luca cuối đoạn 17 Chúa lại khẳng định: “Nước Trời ở trong lòng anh em” (Lc 17,21)
Tại sao lại có sự khác biệt trong ba lời loan báo như thế?.
Rõ rệt là Chúa muốn nói đến những kết quả mà lời rao giảng của Chúa đã đạt được. Những người được nghe rao giảng đã dần dần hiểu ra rằng Nước Trời mà Chúa rao giảng không phải là một nước theo kiểu của trần thế mà là một thực tại cao cả hơn, siêu việt hơn. Nước đó sẽ đem lại cho con người công lý, sự an bình – tình thương – và hy vọng…nếu con người trở thành công dân trong nước ấy.
* Nhưng để trở thành một người công dân của Nước Trời thì con người phải làm gì?. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra 2 con đường: Sám hối và tin vào Tin Mừng.
+ Sám hối là gì thì trong suốt mùa vọng vừa qua, chúng ta đã nghe Gioan Tẩy giả nói.
– Sám hối đơn thuần không phải chỉ là một tác động đau lòng ăn năn về những lỗi lầm tội lỗi của mình. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì việc sám hối mới chỉ là một hành vi có tính cách tiêu cực. Sám hối như thế chưa phải là sám hối của Tin Mừng.
– Sám hối theo tinh thần của Tin Mừng còn phải là một cuộc quay trở về với Thiên Chúa. Tin Mừng dùng chữ metaloia – một sự trở về sau khi đã bỏ ra đi giống như người con hoang đàng trong Tin Mừng của Luca.
+ Thêm vào đó hay xa hơn thế là Tin vào Chúa.
– Tin không chỉ là một hành vi chấp nhận một mớ những chân lý của Chúa. Tin như thế chưa phải là tin đích thực.
– Tin còn phải là một cái gì hơn nữa. Tin là đi theo Chúa. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ I bảo:”Tin là liều mạng theo Chúa”
Con đường theo Chúa không phải là dễ dàng. Chúa Giêsu đã diễn tả con đường khó khăn này bằng một khẳng định làm cho nhiều người cảm thấy phải sợ: “Ai muốn theo Tôi mà không từ bỏ cha mẹ, nhà cửa, vợ con và cả mạng sống mình thì không xứng đáng là môn đệ của Tôi”.(Lc 14,26) Đòi hỏi gắt gao thật. Một cách nào đó nó cho chúng ta thấy tích cách nghiêm chỉnh của vấn đề.
+ Chúng ta cứ nhìn vào cuộc đời của 4 môn đệ đầu tiên của Chúa chúng ta sẽ thấy điều đó.
– 4 môn đệ mà Tin Mừng hôm nay kể tên là những môn đệ đặc biệt. Ngoại trừ Andrê, còn thì ba người kia là Phêrô, Gioan và Giacôbê là 3 môn đệ có thể nói là “ruột” của Chúa. Ba người này gần gũi Chúa một cách đặc biệt. Chúa cũng tỏ ra ưu ái cách riêng với bộ ba này.
– Thế nhưng thử hỏi con đường theo Chúa đối với họ có dễ dàng hay không?
Tin Mừng cho chúng ta thấy con đường theo Chúa thực không dễ dàng chút nào cả. Có rất nhiều trường hợp Chúa buồn với bộ ba này.
Lúc đầu khi mới theo Chúa, cái chất “người” trong họ còn rất cao. Chúa phải rất vất vả lắm mới cải tạo được họ. Đôi khi Chúa cũng cảm thấy buồn vì họ.
* Gioan và Giacôbê thì Chúa gán cho họ cái biệt danh là “con của sấm sét”.
* Còn Phêrô thì có lần Chúa đã rủa là “Đồ Satan”.
– Con đường Chúa chinh phục những con người này quả là một quá trình nhọc mệt và vất vả. Có lần Chúa đã phải than:”không biết Thầy còn phải ở với chúng con cho đến bao giờ nữa?”(Mt 17,17)
– Bằng việc kêu gọi họ Chúa đã làm cho các môn đệ của Chúa dần dần biết lìa xa đầu óc trần thế. Nghiên cứu Tin Mừng chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
– Rồi bằng cuộc sống cũng như lời dậy nhất là bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã làm cho họ thuộc hẳn về Ngài để cuối cùng họ đã liều mạng vì Ngài, dám chết cho Ngài.
Như vậy chúng ta thấy con đường mà các môn đệ của Chúa đi vào để trở thành những công dân ưu tú của Nước trời, làm tông đồ của Chúa không phải là con đường nào xa lạ. Đó cũng là con đường có tên là sám hối và Tin vào Chúa. Các Tông đồ đã xoay lưng lại với danh – lợi – thú của của trần gian để tìm đến với Chúa, quay về với Chúa. Và sau khi đã quay về với Chúa họ đã để cho Chúa biến đổi cuộc đời của họ, làm cho họ trở nên những con người mới -những con của Thiên Chúa. Và bằng đời sống dấn thân quảng đại với niềm tin yêu vô hạn vào Chúa họ đã trở thành những chứng nhân sống động cho Ngài….và họ đã được lịch sử ca ngợi là những con người “đã làm thay đổi cả lịch sử nhân loại và làm cho bộ mặt của địa cầu đẹp hơn”.
Vâng kính thưa anh chị em,
Đó là câu chuyện của ngày xưa…nhưng xưa không có nghĩa là nó chỉ còn tồn tại như một kỷ niệm mà như một tấm gương cho hậu thế. Giáo Hội đã rất có lý khi nói rằng: “Các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội”. Đây không phải là một nền tảng bằng đá, bằng bêtông cốt sắt mà là bằng cuộc đời và sự nghiệp các Ngài để lại. Cuộc đời của các tông đồ của Chúa Giêsu vẫn còn là tấm gương cho những thế hệ tiếp theo, mai sau và mãi mãi. Cuộc đời các Ngài vẫn còn là tấm gương cho chúng ta. Các Ngài đã cho chúng ta biết thế nào là hy sinh, thế nào là quên mình, thế nào là từ bỏ, thế nào là tin, thế nào là một cuộc đời có ý nghĩa. Các Ngài cũng dạy cho chúng ta biết làm cách nào để “cướp” được Nước trời. Đó chính biết liều mạng để đi theo Chúa.
Vào một buổi chiều năm 1953 các ký giả và một số nhân viên chính phủ tụ tập nhau lại tại một nhà ga xe lửa ở Chicago để chào mừng người vừa được giải thưởng Hòa bình Nobel năm đó trở về quê quán của mình.
Người vừa xuống khỏi xe là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn, chòm râu cắt rất gọn ghẽ.
Các máy hình chớp liên hồi. Còn các nhân vật cao cấp của thành phố thì mở rộng vòng tay chuẩn bị đón chào người con yêu quí của quê hương.
Người được giải Nobel đưa tay chào mọi người và rồi ngay lâp tức ông đưa mắt hướng về hướng bên phải của sân ga. Sau đó ông xin kiếu mọi mọi người vài phút rồi đi thẳng về hướng đó. Mọi người đều nghĩ là chắc ông để quên một cái gì chăng.
Ông băng qua đám đông đi thẳng đến chỗ một người đàn bà lớn tuổi đang khệ nệ với hai cái “valises” nặng hai bên. Ông giơ tay đỡ lấy một cái, mỉm cười với bà và dẫn bà ra một chiếc xe búyt gần đó. Sau khi giúp người đàn bà lên xe xong, ông chúc bà thượng lộ bình an. Rồi quay lại với những người đang chờ chào đón ông, ông nói với họ: “Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị phải chờ đợi”
Người mà tôi vừa nói đó là Bác sĩ Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo nổi tiếng đã dành cả cuộc đời của mình để phục vụ những người nghèo tại Phi châu. Chính vì những phục vụ vô vị lợi và cao cả của ông mà ủy ban Nobel đã quyết định trao giải thưởng Nobel Hoà bình năm đó cho Ông.
Chứng kiến cử chỉ bình thường nhưng cũng rất cao thượng đó, một người trong ban tổ chức lễ đón tiếp đã nói với các ký giả như thế này “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi”.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ- Trích Logos B
Ngày 26/12/2004, thảm họa động đất và sóng thần đã phủ lên các nước Nam Á và Đông Nam Á một màu đen tang tóc và kinh hoàng. Tuy nhiên, giữa cảnh bi thảm và đau thương đó, đã vụt sáng lên khuôn mặt của một bé gái 10 tuổi mà người ta gọi là “Thiên Thần của Biển Cả”.
Cô bé tên Tilly Smith, người Anh, đang đi nghỉ mát với cha mẹ tại đảo Phuket, Thái Lan. Sáng ngày 26/12, cô bé đứng chơi trên bãi biển cùng với gia đình. Bỗng nhiên, em nhìn thấy mặt biển dao động, sau đó nhiều bọt biển nổi lên, rồi nước rút xuống thật nhanh.
Cô bé nhớ ngay đến bài học địa lý của thầy giáo dạy tại trường. Trực giác báo cho em biết một thảm họa sắp giáng xuống. Em bảo mẹ hãy chạy nhanh ra khỏi bờ biển vì sắp có sóng thần. Mẹ em lập tức gọi những người khác chạy ra khỏi bãi biển. Nhờ vậy, hơn 100 người trên bãi biển và ở một khách sạn gần đó, đã kịp chạy thoát trước khi sóng thần ập tới.
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa cũng làm tỏa sáng dung mạo của Chúa Giêsu Kitô, khi Ngài bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài là ánh sáng cứu độ đã bừng lên trong đêm dài đầy bóng tối của nhân loại. Ngài đến để giải thoát loài người khỏi những cơn sóng dữ của tội lỗi và sự chết.
Bối cảnh lịch sử.
Để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu từ bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, để đi ngược dòng lịch sử, trở về thời gian trước công nguyên. Vào năm 732, đế quốc Assyria đã chiếm phần đất thuộc cực bắc Israel, tức là vùng đất Galilê sau này. Quân Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác lập cư trên phần đất ấy. Vì thế, Galilê được gọi là vùng đất của lương dân, một miền đất luôn bao trùm bóng tối của sự thất vọng.
Nhưng tiên tri Isaia tiên báo đã đến ngày ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó. Dân chúng đi trong tối tăm sẽ nhìn thấy một nguồn sáng vĩ đại.
Trong bài Tin Mừng, thánh Matthêu đã nhìn thấy lời tiên tri của Isaia được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, khi Ngài khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Galilê, vùng đất bị coi là “vô đạo” và đầy tối tăm. Ngài đem ánh sáng Tin Mừng chiếu soi vào những tâm hồn “lương dân” : “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Quả thật, Chúa Giêsu chính là ánh sáng xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết, là ánh sáng huy hoàng dẫn đường cho những ai đang đi trong tối tăm.
Chúa là ánh sáng.
Trong suốt cuộc sống công khai, qua lời nói và hành động, Chúa Giêsu đã tự mạc khải Ngài là ánh sáng thế gian : “Ta là ánh sáng đã đến trong thế gian, để ai tin vào Ta sẽ không đi trong tối tăm” (Ga 12, 46).
Tuy nhiên, có nhiều thứ ánh sáng : ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn điện, ánh sáng trí tuệ và văn hóa, ánh sáng tâm hồn … Nhưng ở nơi Chúa Giêsu, chúng ta gặp gỡ được ánh sáng thần linh. Ánh sáng ấy phát ra từ tấm lòng nhân hậu bao dung của Chúa. Ánh sáng ấy chiếu tỏa qua những hành động rất mực yêu thương của Ngài. Những người tội lỗi với tâm hồn u tối đã đến với Ngài và khi ra về, đã được tỏa sáng trong niềm vui và hy vọng. Với đôi tay nhân từ, Ngài dẫn đưa họ vào ánh sáng của ân sủng và tình yêu.
Ngài mở mắt cho người mù để dìu đưa họ bước vào khung trời đầy ánh sáng bình an.
Ngài tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, để chị ra về trong ánh sáng của niềm hy vọng.
Ngài đến nhà ông Giakêu để đem đến cho nhà ông ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài gieo vãi vào lòng người trộm lành ánh sáng niềm tin, để anh ta vươn dậy từ bóng tối của sự tuyệt vọng.
Quan trọng hơn hết, trong ánh sáng Phục Sinh, Ngài xua tan bóng tối tử thần, để những ai theo Ngài, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống (Ga 8, 12).
Đón nhận ánh sáng.
Người ta nói : nếu thiếu vắng ánh sáng mặt trời, trái đất này sẽ chìm trong bóng tối và mọi loài sẽ chết cóng vì lạnh. Cũng vậy, thế gian này sẽ tăm tối biết bao, nếu ánh sáng của Chúa Kitô đã không chiếu rọi tới.
Tuy nhiên, dù Chúa Giêsu mang ánh sáng vào thế gian, không phải mọi người đều đón nhận ánh sáng ấy. Có nhiều người đã khước từ ánh sáng và chọn lựa ở lại trong bóng tối. Vì thế, Chúa đã không khởi đầu cuộc loan báo Tin Mừng tại Giêrusalem, là trung tâm của lòng mộ đạo, nhưng Chúa đã đến Galilê, nơi bị coi là vùng đất của lương dân để rao giảng Tin Mừng. Ngài bắt đầu sứ vụ với lời kêu gọi sám hối : “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”.
Hối cải là nhận ra được bóng tối đang bủa vây tâm hồn. Hối cải là biết mở rộng cõi lòng đón nhận ánh sáng Tin Mừng của Chúa. Hối cải là từ bỏ chính mình và bước theo Chúa là nguồn ánh sáng đích thật.
Trong bước khởi đầu của công cuộc loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chọn cho mình 4 môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Khi được kêu gọi, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả đi theo Chúa, cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Như thế, các môn đệ đã đi theo Chúa là nguồn ánh sáng vĩ đại. Chính họ đã đón nhận ánh sáng Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng ấy cho mọi người. Cũng vậy, khi đón nhận Chúa và sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi trở nên suối nguồn ánh sáng cho mọi người.
Tại một ngôi làng nhỏ bé kia, có 2 gia đình rất thân nhau. Một gia đình ở đầu làng, còn gia đình kia ở cuối làng. Một ngày nọ, chính phủ quyết định đưa nguồn điện về làng. Gia đình ở cuối làng hăng hái hưởng ứng ngay, còn gia đình kia thì ngần ngại không muốn “bắt” điện. Họ cho rằng đã bao năm không có điện cũng chẳng sao cả !
Khi ngày trọng đại đến, gia đình cuối làng mời gia đình bạn đến dự tiệc đón nguồn điện. Khi những bóng đèn sáng lên trong nhà, người ta kinh ngạc kêu lên : “Thật tuyệt diệu !”. Nhưng lúc ấy cũng có tiếng người thốt lên : “Thật dơ bẩn !”. Đúng vậy, trước đây trong ánh sáng lờ mờ của đèn dầu, không ai nhìn thấy màng nhện và bụi bặm bám khắp nơi, cũng không thấy những góc tối bừa bãi. Giờ đây, dưới ánh sáng đèn điện, mọi thứ dơ bẩn phô bày ra trước mắt mọi người.
Gia đình ở đầu làng quyết định sẽ không bao giờ lắp đặt điện. Còn gia đình chủ nhân thì ngay sau buổi tiệc, đã lao vào công việc dọn dẹp nhà cửa. Chỉ trong một ngày, ngôi nhà của họ đã sạch sẽ hơn bao giờ hết.
Hôm nay, nhiều người vẫn chọn sống trong bóng tối. Họ không muốn mọi người và ngay chính bản thân thấy sự dơ bẩn trong cuộc sống của mình. Họ lẩn tránh ánh sáng vì e sợ phải làm sạch cuộc đời mình.
Giờ đây, đã đến lúc chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa là ánh sáng ngự đến. Chính Ngài sẽ xua tan bóng tối trong đời sống chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta tươi sáng hơn.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY HỐI CẢI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG – Lm Bùi Thượng Lưu
Ninivê kinh thành sám hối: một kinh thành “lớn quá trời rộng ba ngày đàng” (Ga 3,3), đặc biệt đó là một kinh thành ngoại giáo. Chính trong kinh thành này, lời sấm của Ngôn sứ Giona đã vang dội khắp hang cùng ngõ hẻm, dội tới cung điện đức vua. Điều kinh ngạc là dân thành đã “tin vào Thiên Chúa” và tin vào lời rao giảng sám hối của sứ giả Thiên Chúa sai đến. Nhà vua đã ra chiếu chỉ bắt toàn dân từ vua quan tới thứ dân phải theo nghi tiết sám hối… Và Thiên Chúa đã chấp nhận tấm lòng thống hối của Ninivê.
Đức Kitô, sau thời gian tĩnh tâm trong sa mạc đã khai mào việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại Galiê:
“Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên” (Mc 1,14)
Theo địa dư, Galilê giáp với xứ Samarie và miền Syrô-Phénicie, ngoài dân địa phương là người Do Thái lập cư, còn có các sắc dân thiểu số ngoại bang khác cư trú, họ là những người ngoại giáo. Điều đáng lưu ý là Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ Galilê. Rồi sau khi sống lại, Ngài cũng hẹn với các môn đệ của Ngài ở Galilê (Mc 14,28 và 16,7). Quả thực, Tin Mừng đã được công bố cho cả dân tộc Do Thái và dân ngoại.
Một trong những điều kiện tiên quyết để đón nhận nước Thiên Chúa chính là lòng hối cải: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14). Đọc hạnh các thánh, nhất là những vị đại thánh, chúng ta kinh ngạc và thán phục con đường cải quá tự tân dẫn các ngài từ con đường sa đọa tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa: Một Augustin, một Charles de Foucauld… và biết bao những tâm hồn lành thánh khác. Lòng hối cải thường bắt đầu với sự đánh động từ thâm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.
Lý do khiến con người hối cải thật lớn lao: để tiếp nhận Nước Thiên Chúa, đón nhận ơn cứu độ. Con người từ bỏ kiếp sống nô lệ tội ác trở về với thiên chức con cái Thiên Chúa. Trong cái nhìn vĩnh cửu và khải huyền đó, thánh Phaolô đã khuyên tín hữu thành Corinthô hãy hướng nhìn về tương lai:
“Vì bộ dạng thế gian này đang qua đi” (1 Cr 7,31)
Dân thành Ninivê sống vào thế kỷ thứ 8 trước kỷ nguyên, rồi đến các tín hữu thành Côrinthô cũng như những người đồng thời với Đức Kitô quả thực họ đã qua đi. Bao nhiêu đế quốc đã sụp đổ hoang tàn không còn vết tích. Và thế gian với những phù hoa của nó: tiền tài, danh vọng và sắc dục… tất cả cũng sẽ qua đi. Sống trong kiếp phù du, con người thường bị vật chất ru ngủ, quên đi kho tàng khôn sánh ví là Nước Thiên Chúa. “Và tức khắc họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài”, các môn đệ đầu tiên theo Đức Kitô hẳn đã hiểu phần nào Tin Mừng nước Thiên Chúa họ đã nghe Thầy mình rao giảng, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, ngay cả những gì cấp thiết nhất cho kế sinh nhai của họ. Còn chúng ta, những người con đang sống trong thế giới mau qua chóng hết này, chúng ta phải có thái độ và nếp sống nào đối với Tin Mừng Nước Thiên Chúa chúng ta đã lãnh nhận?
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- Năm B
THEO CHÚA ĐỂ TRUYỀN GIÁO – Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
(Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20)
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, thánh Gioan đã thuật lại hành trình của một ơn gọi là: Chúa gọi, ta đáp trả để đến xem và ở lại rồi ra đi giới thiệu về Chúa cho người khác.
Chúa Nhật hôm nay, thánh Máccô trình bày câu chuyện Đức Giêsu chọn và gọi đích danh 4 môn đệ đầu tiên, đồng thời tác giả cũng ghi lại rất cụ thể về sứ vụ sẽ được trao cho các ngư phủ này là: theo Chúa để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá (x. Mc 1, 17)
1. Đi theo Chúa để trở thành môn đệ
Câu chuyện được khởi đi từ bối cảnh sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Giođan và chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa (x. Mc 1,12-13). Hôm nay, tác giả đề cập đến sứ vụ công khai của Đức Giêsu tại Galilêa. Khởi đầu cho một hành trình loan báo Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu, nhà thừa sai vĩ đại đã nhận lãnh từ Chúa Cha.
Cũng trong thời điểm này, Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành xuất sắc công việc được trao và ông đã bị bắt. Như vậy, có thể nói, Gioan đã lui vào hậu trường để nhường chỗ cho nhân vật chính là Đức Giêsu xuất hiện. Hai nhân vật, chung sứ vụ. Điều này cho thấy mối giây liên hệ mật thiết, liên tục và quan trọng giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Khi chọn và gọi các môn đệ, Đức Giêsu muốn các ông tin và liều mạng đi theo mình, một cuộc phưu lưu đầy thử thách nhưng chứa chan niềm hy vọng, nên cần các ông phải tin và dứt khoát.
Chính vì vậy, ngay sau lời mời gọi “hãy theo tôi”, ngay lập tức, Đức Giêsu đã loan báo cho các ông biết cụ thể về sứ vụ mà các ông phải thi hành: “Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1, 17). Lời mời gọi rõ ràng. Sứ vụ rất cụ thể, nên thái độ của các ông cũng phải dứt khoát, không tính toán nghĩ suy và bỏ lại sau lưng tất cả mọi sự để đi theo Đức Giêsu.
Thái độ dứt khoát ấy được thánh Máccô trình bày như sau: khi nghe thấy Đức Giêsu gọi, Anrê và Simon đã “lập tức bỏ lưới theo Người” (Mc 1, 18). Còn với Gioan và Giacôbê thì “bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người” (Mc 1, 20).
2. Sứ mạng đến với dân ngoại
Cuộc gặp gỡ giữa thân tình và đầy ấn tượng ấy được diễn ra tại Galilêa, điều này gợi cho người ta nghĩ ngay đến vùng đất ngoại vi, bên lề, vì đây là: “Miền đất của dân ngoại”. Đây cũng còn là vùng đất gần biên giới, nơi ở của những người thập tỉnh từ nhiều nơi tụ về.
Chính vì vậy mà nơi đây bị coi là vùng đất tối tăm, lộn xộn và bị người đương thời khinh miệt. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại chọn vùng đất này làm trung tâm truyền giáo, là nơi ưu tiên để Ngài thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng đầu tiên. Từ đó, nơi đây được biết đến như: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4, 16).
Như vậy, ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được khai mào tại một vùng đất của dân ngoại như tác giả đã thuật lại, điều này cho ta thấy: sứ vụ của các ông phải được ưu tiên tại những vùng bị xã hội loại bỏ, khinh miệt; những nơi thiếu vắng tình thương, mất niềm hy vọng; những nơi nghèo tinh thần và vật chất; vùng sâu vùng xa….
Khung cảnh, sự kiện của vùng đất và con người nơi đây thật gợi cảm, khiến cho ý định của Đức Giêsu được thêm phần rõ nét và lời đáp trả của các môn đệ được tô đậm qua thái độ ra đi, dấn thân và phục vụ.
Đây cũng là sứ vụ và lời mời gọi cho mỗi chúng ta hôm nay.
3. Sứ vụ loan báo Tin Mừng của người Kitô hữu
Trong sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy lại định hướng của tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng) để nói về tinh thần thực thi sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội ngày nay cần phải có, ngài viết: chúng ta bị thách thức “đi ra ngoài khu vực quen thuộc của mình và can đảm đi đến tất cả những vùng ngoại vi, là những người cần ánh sáng của Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20).
Tuy nhiên, muốn trở thành nhà truyền giáo, thành kẻ lưới người, tự bản thân chúng ta phải có sự hấp dẫn vì mang trong mình niềm hy vọng được cứu rỗi. Sự hấp dẫn ấy có thể là một nụ dễ thương, một sự cảm thông sâu xa, một thái độ chia sẻ tận tâm; một sự dấn thân không biết mệt mỏi tại những nơi nghèo đói và thiếu vắng tình thương. Nhưng có lẽ, sự hấp dẫn lớn nhất, đó là có Chúa nơi mình và cảm nghiệm được “Niềm Vui Tin Mừng” trong cuộc sống. Từ đó, chúng ta mới có thể chia sẻ về Chúa cho người khác một cách sống động.
Giáo Hội không bao giờ chấp nhận người Kitô hữu chỉ nghĩ cho chính mình, nhưng Giáo Hội cần lắm một người Tín Hữu Kitô hiền lành, khiêm nhường, đơn sơ, phản ánh trung thực về cuộc đời và sứ vụ của Đấng Cứu Thế (x. sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 7). Đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô trong một lần nói chuyện với các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires, ngài nói: “Tôi thà có một Giáo Hội bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Giáo Hội ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục” (Evangelii Gaudium, 49).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn ý thức sứ mạng của chúng con là phải giới thiệu Chúa cho mọi người, để qua đó, Danh Chúa được rạng rỡ và vinh quang đến tận cùng trái đất. Nhưng trước hết, xin cho chúng con biết sám hối để trở nên khí cụ của Chúa và chỉ làm việc của Chúa muốn mà thôi. Amen.