CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
GIA ĐÌNH THÁNH (*)– Chú giải của Noel Quession. 8
TUÂN THEO LUẬT CHÚA TRUYỀN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 17
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN DO CỦA THÁNH GIUSE VÀ ĐỨC MẸ MARIA- Chú giải của Fiches Dominicales 27
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH KITÔ HỮU- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 38
LÀ GƯƠNG MẪU MỌI GIA ĐÌNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 55
TRÌNH DÂNG CHÚA GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ– Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt. 68
GIA ĐÌNH- CON ĐƯỜNG- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 80
GIA ĐÌNH NHỎ, HẠNH PHÚC TO– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 83
GIA ĐÌNH, NIỀM VUI TÌNH YÊU- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 89
SỐNG THÁNH THIỆN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH – Lm. Phêrô Lê Văn Chính 98
NHÌN NGẮM GIA ĐÌNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 105
GIA ĐÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 109
SỐNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH- Lm. Anphong Trần Đức Phương. 114
LỄ CỦA MỌI GIA ĐÌNH- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm.. 120
TỔ ẤM- Lm. Đỗ Vân Lực, OP.. 126
GIA ĐÌNH, TỔ ẤM YÊU THƯƠNG- Trích Logos B.. 131
TRÁCH NHIỆM-TÌNH YÊU- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.. 136
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT – NĂM B- NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ”.
Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. – Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. – Ðáp.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con! – Ðáp.
“Về đời sống gia đình trong Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.
Alleluia, alleluia! – Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 22-40 (bài dài)
“Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Hoặc đọc bài vắn này: Lc 2, 22. 39-40
“Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và Con Trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
GIA ĐÌNH THÁNH (*)– Chú giải của Noel Quession
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê… tiến dâng như Luật Chúa quy định… để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền…theo như những gì đã ghi trong luật… khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là “Con Thiên Chúa” Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc quyền”. Người hành xử “như mọi người” không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một “cuộc làm cho mình hóa ra không”, một “kénose” (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem… vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của “hai chương” Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình “trong hoang địa” (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận biết như Đấng “Mêsia” trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước ” trang cuối cùng” … kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang “chu toàn lề luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là “cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người” như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao “! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo… Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ “bé mọn” trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc “nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương” đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: “Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:” một số nhỏ “còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng “(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già “góa bụa”, nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu…
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay… Đấng Mêsia của Chúa… ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân… ánh sáng soi đường cho dân ngoại… vinh quang của Israel…
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ “vinh quang”, “quyền lực”! Thì Ngài lại xuất hiện trong thân phận một “trẻ nhỏ”, một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến “hình dạng bề ngoài” của bánh mà ta lãnh nhận…), lại chính là lễ tấn phong cách công khai của Đức Giêsu “trong Đền thờ của Người”: Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa… “ơn cứu độ của muôn người “… “ánh sáng”… “Vinh quang”… “Sự giải thoát” Giêrusalem… Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, “đức tin của cha mẹ” cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những “tước hiệu” mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa… và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày “nghi thức” mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở đây là (“parastènai”: “dâng hiến”), cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. “Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa” (Rm 6,13). “Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện” (Rm 6,19). “Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá… và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình! “Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”. Lạy Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một (“tiến dâng con” và “hiến dâng của lễ”), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều kích “vượt qua” của trình thuật này: “Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa” (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để “ghi nhớ” ngày cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải “chuộc lại” . Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải “chuộc lại”. Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được “hiến thánh” cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào “ngày thứ bốn mươi”, thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một “ngày thứ bốn mươi” nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra “ở Giêrusalem” (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là “nội dung” thần học, là “ý nghĩa” thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): “Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là “tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến” cho Thiên Chúa… điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới, lại “xứng đáng” với Thiên Chúa và được thánh hiến… Những người nghèo được “thánh hiến”! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một “dấu hiệu”, một “dấu hiệu bị chống báng”, một “dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận” . Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận ” dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: “Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả”. Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp “Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống… ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên…
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng “Thẩm phán vũ trụ”, Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh… tiến triển…
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc… ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành… Người sẽ tiến bộ.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
TUÂN THEO LUẬT CHÚA TRUYỀN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng Đức Giê-su sống thầm lặng trong suốt thời thơ ấu và trưởng thành dưới mái ấm gia đình Na-da-rét, mẫu gương của mọi gia đình.
Hc 3: 2-6, 12-14.
Hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
Cl 3: 12-21.
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-xê thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một trong đời sống gia đình và cộng đoàn.
Lc 2: 22-40.
Tin Mừng Lu-ca trước hết tường thuật lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Hài Nhi Giê-su ở Đền Thánh, tiếp đó gợi lên một cách ngắn gọn thời thơ ấu của Đức Giê-su ở dưới mái ấm gia đình Na-da-rét.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 2-6, 12-14)
Ông Si-rắc là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm và những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri, sau đó được cháu nội của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 130 trước Công Nguyên.
Tác phẩm của ông là sách dạy đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiển. Ông viết tác phẩm nầy vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình, đồng thời không muốn dân mình bị ảnh hưởng do văn hóa ngoại giáo chung quanh, đặc biệt do sức quyến rủ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất đa dạng. Sách được điểm xuyết bằng những câu châm ngôn dễ nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách nầy như Sách Thánh của mình.
Sách cho thấy ông nhất mực gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rắc khai triển phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
Thảo kính cha mẹ, đạo tự nhiên.
Bổn phận thảo kính cha mẹ nhất là vào lúc các ngài già yếu thuộc về những truyền thống rất lâu đời của các nền văn minh, được các tôn giáo lẫn triết học ca ngợi. Chúng ta có thể sánh ví những lời khuyên bảo của hiền nhân Cựu Ước nầy với nhiều bản văn của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy lạp xưa. Ở Trung Quốc cũng như ở Ấn độ, bổn phận làm con đối với cha mẹ trở thành một thứ đạo hiếu đòi buộc hết mọi người. Ở Hy-lạp, xin được trích dẫn mẫu gương của hiền nhân Socrate khuyên các con của mình phải bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với mẹ của chúng, vì tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ đối với mình (Xénophon, Les Mémorables, II, 2). Ở Việt Nam chúng ta, không ai không thuộc câu ca dao nầy:
“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Thảo kính cha mẹ, đạo Thiên Chúa.
Giới răn thảo kính cha mẹ không chỉ thuộc đạo tự nhiên, nhưng cũng còn chương trình của Đấng Tạo Hóa đối với con người. Cuộc sống gia đình ở Ít-ra-en được ghi khắc trong chiều kích siêu nhiên: không chỉ lưu truyền nòi gióng, mà còn truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác niềm tin của cha ông vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải mình ra. Chính vị Thiên Chúa nầy “muốn con cái phải có lòng thảo kính cha và phục quyền mẹ”. Chính Ngài chúc phúc cho con cái nào giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ của mình.
“Kẻ kính cha sẽ được trường thọ”, đây là lời chúc phúc cổ truyền nhất. Cuộc sống trường thọ là phần thưởng dành cho con cái có tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (chỉ vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, viễn cảnh niềm tin vào cuộc sống mai sau mới xuất hiện).
Còn ngạc nhiên hơn nữa đối với lời hứa “Kẻ thờ cha thì được thứ tha tội lỗi”, cũng như “người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng”, nghĩa là lập công tích đức để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi của mình. Cách nói nầy tương tự với câu cuối của đoạn trích hôm nay: “Vì việc hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.
Trong Do thái giáo sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rắc thuộc vào những thế hệ nầy: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng nầy, ông khai triển rất xa và ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt ở đây: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rắc cẩn trọng trích dẫn bổn phận đối với cha và bổn phận đối với mẹ gần như đối xứng với nhau. Điều nầy rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-xê đã được thánh Phao-lô viết trong cảnh thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-63 sau Công Nguyên, vì thế nội dung của hai bức thư nầy rất gần nhau.
Hoàn cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki-tô hữu. Cộng đoàn nầy được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ nầy. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư nầy cho các tín hữu Cô-lô-xê. Thánh nhân tập chú giáo huấn của mình vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
Nội dung:
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát.
Đoạn thư hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều nầy trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32.
TIN MỪNG (Lc 2: 22-40)
Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Đức Giê-su, con trai đầu lòng.
Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ nầy, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều nầy cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ nầy như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”.
Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, dâng hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là của lễ của một gia đình nghèo.
Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se.
Vào giây phút Đức Giê-su, được trao ban hoàn toàn vào tay của con người và được dâng tiến lên Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi nầy.
Cụ già Si-mê-on.
Cụ già Si-mê-on đang mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en”, đây là tước hiệu chỉ Đấng Mê-si-a từ thời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tức là cuối thời lưu đày (Is 49: 13). Cụ nhận ra ở nơi Hài Nhi nầy Đấng Cứu Độ không chỉ của dân Ít-ra-en nhưng của muôn dân nữa. Mặc Khải nầy làm cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Bài thánh thi của cụ già Si-mê-on tiên báo về sứ mạng của Đức Giê-su đối xứng với bài thánh thi của ông Da-ca-ri-a tiên báo sứ mạng của Gioan Tẩy giả. Thánh Lu-ca thiết lập một sự đối xứng giữa cuộc đời thơ ấu của hai con trẻ nầy.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cha hai ông bà”, nhưng chỉ hướng về một mình Đức Ma-ria và nói với chỉ một mình Mẹ, bởi vì thánh Giu-se qua đời sớm nên không thể làm chứng về cuộc đời công khai của Đức Giê-su. Cụ già Si-mê-on báo trước cho Đức Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi, số phận bi thương đang chờ đợi Mẹ: Mẹ sẽ đau khổ vì dân Ít-ra-en bị chia rẻ về Con của Mẹ: tin vào Ngài hay từ chối Ngài. Chúng ta có thể đọc thấy trong lời tiên báo nầy viễn cảnh núi Sọ. Mạch văn không đòi buộc điều nầy nhưng cũng không tuyệt đối loại bỏ.
Bà ngôn sứ An-na.
Còn Bà ngôn sứ An-na cảm tạ Thiên Chúa và lớn tiếng thông báo cho những ai mong chờ ngày Thiên Chúa giải phóng Giê-ru-sa-lem qua con trẻ nầy.
Đây là sự ghi nhận mang đậm nét của thánh ký Lu-ca. Đối với thánh Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là trung tâm Mặc Khải. Dung mạo của hai ông bà cao tuổi nầy đại diện rất rõ nét nỗi mong chờ dài lâu của dân Ít-ra-en. Thế nên, đây là hai người tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa đến chứng thực rằng việc dân Ít-ra-en chuẩn bị chờ đón Đấng Mê-si-a đã đến hồi kết thúc. Họ được sánh ví như thời Cựu Ước đã đến hồi hoàn tất để nhường chỗ cho thời Tân Ước, kỷ nguyên Mê-si-a. Trong số bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất những giai đoạn cứu độ.
Lời kết.
Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay với đời sống ẩn dật của Đức Giê-su trong mái ấm gia đình Na-da-rét. Thánh ký ghi nhận rất ngắn gọn cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su: “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh”. Lời nhận xét nầy được đặt đối xứng với lời nhận xét khác liên quan đến cuộc đời thơ ấu của Gioan Tẩy giả: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc1: 80) . Tuy nhiên, thánh ký còn nói thêm về Chúa Giê-su: “Đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, Đức Giê-su thì vĩ đại hơn Gioan Tẩy giả ngay từ thời thơ ấu.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN DO CỦA THÁNH GIUSE VÀ ĐỨC MẸ MARIA- Chú giải của Fiches Dominicales
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ.
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến “Luật Môsê” ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là “Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời “: Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên (“L’evangile de lúc”, Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô “Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc “xuất hành” của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
– Bối cảnh của sự việc là “Đền thờ’, nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu “Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (24,25). ‘ ‘
“Cha mẹ Đức Giêsu” đem con lên Giêrusalem, “để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ “thanh tẩy” cho người mẹ trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc “con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc “như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: “Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon… cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
– Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là “người công chính” (nghĩa là người hoàn toàn “khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi” của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được “bồng bế trên tay mình” Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia ” là “ơn cứu độ ” của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này “là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: “Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi “ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: “Này, người con của bà đây…ông loan báo cảnh “chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải “vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải “Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ “dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò” (“L’evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique”. Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là “nữ ngôn sứ”. J . Potin viết: “”Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
“Một khởi đầu mới mong manh”. (L. Sintas, trong “Parole du Dteu pour la méditation ét l’homélie. Năm B”, Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (…). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (…). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (…).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
“ Trung tín với thần khí” (Đức Cha L.Daloz, trong “diệu a visité son peuple”; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
“Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. “Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng. Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ” … Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô – Anh sáng.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH KITÔ HỮU- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Hôm nay Giáo hội cho chúng ta mừng lễ kính Thánh Gia, một mẫu gương cho các gia đình Kitô giáo. Tuy bài Tin mừng hôm nay không trực tiếp nói đến đời sống Thánh gia, chỉ có vài đoạn đề cập đến nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse, sự vâng phục của Đức Giêsu, nhưng đó cũng là gương mẫu cho các gia đình noi theo.
Các gia đình ngày nay đang xuống dốc, làm lung lay cả nền tảng xã hội. Chúng ta là những gia đình Kitô hữu cần phải được củng cố lại cho bền vững để nêu gương cho các gia đình khác đang bị lung lay, bằng cách làm cho mái ấm gia đình thấm nhuần đức tin Kitô giáo : biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sống trên thuận dưới hoà, biết phục vụ, tha thứ cho nhau và trung thành trong đời sống hôn nhân.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 3,2-6,12-14.
Khi nói về những đức tính phải có trong đời sống gia đình, Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, nói ngay đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Sách Huấn ca này được viết vào khoảng năm 190 trước Chúa Kitô, bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Đây là tuyển tập các phương ngôn, phản ánh sự khôn ngoan của xã hội thời đó, một sự khôn ngoan dựa trên kinh nghiệm và lương tri.
Theo tác gia sách Huấn ca, lòng hiếu thảo đưa đến nhiều lợi ích :
– Đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
– Phải thảo kính nhất là khi cha mẹ già yếu.
+ Bài đọc 2 : Cl 3,12-21.
Trong lễ Thánh gia hôm nay, Giáo hội trích đoạn thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê trong khi Ngài đang bị cầm tù lần thứ nhất. Ngài nói về “nếp sống mới” của những người đã cùng chết và sống lại với Đức Kitô. Theo đó, người theo nếp sống mới phải có những đức tính nhân bản : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Nền tảng của những đức tính này là Thiên Chúa. Nếu thánh Gioan tông đồ nói :”Thiên Chúa là tình yêu” thì căn bản của đời sống gia đình cũng là thực tình yêu thương nhau trong Chúa. Nếu Thiên Chúa đã xử đối với chúng ta thế nào thì chúng ta cũng phải xử đối với nhau như vậy.
+ Bài Tin mừng : Lc 2,22-30.
Thánh Luca đã tường thuật việc thánh Giuse và Đức Maria đem con lên đền thờ Giêrusalem để dâng Con cho Thiên Chúa theo luật dạy. Cuộc hành hương lên Giêrusalem này hé mở cho chúng ta biết một số đặc tính của gia đình Thánh gia :
– Thánh gia là một gia đình nghèo, của lễ dâng chỉ là cặp bồ câu.
– Cặn kẽ giữ luật Chúa mặc dầu Luật không đòi buộc các Ngài phải giữ.
– Gia đình hiệp nhất cùng đi dâng lễ.
Trong dịp này, thánh Giuse và Đức Maria đã nhìn thấy rõ và xác định được sứ mạng của Người Con các ngài, qua lời tiên tri của cụ già Simêon và bà Anna : sứ mạng của con trẻ này sẽ vừa bi thương vừa vinh quang. Tuy thế, các Ngài hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa, các Ngài đã quảng đại chấp nhận và thi hành ý Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xây dựng mái ấm gia đình.
NGÀY LỄ THÁNH GIA
Lý do mừng lễ.
Lễ Thánh gia được thiết lập vào cuối thế kỷ 19, tương đối mới. Đức Giáo hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở… Những phong trào “gia đình công giáo” có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh gia. Đức Giáo hoàng Lêô XIII cũng như các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh gia được thiết lập theo bối cảnh ấy.
Do đó, Giáo hội muốn cho chúng ta mừng lễ này là nhằm đề cao vai trò của gia đình và đưa ra một mẫu gương tuyệt hảo cho mọi người noi theo.
Thánh gia, một gia đình gương mẫu.
Dựa theo Tin mừng chúng ta có thể biết được rằng gia đình Thánh gia là một gia đình gương mẫu trong việc giữ luật Chúa, mặc dù luật không buộc các ngài phải giữ, nhưng các Ngài đã làm như thế để nêu gương cho chúng ta. Các nghi lễ đó là :
-Lễ nghi cắt bì : Theo luật, mỗi con trai người Do thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám sau khi sinh, và trong ngày này con trẻ được đặt tên. Thánh Giuse và Đức Maria cũng cho con trẻ được cắt bì và đặt tên là Giêsu, tên mà thiên sứ đã báo trước khi truyền tin cho Đức Maria.
-Chuộc con đầu lòng : Theo sách Đệ nhị luật (13,2) thì mọi con đầu lòng, dù người hay súc vật đều được dành riêng cho Thiên Chúa. Người ta qui định rằng dâng một số tiền 5 shekel, cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa, hoặc dâng một số lễ vật khác như chiên hay đôi chim câu. Thánh Giuse và Đức Maria cũng đã chuộc lại con trẻ Giêsu bằng đôi chim câu.
-Lễ thanh tẩy sau khi sinh : Theo luật, khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu sinh con gái thì bị ô uế 80 ngày. Khi thời gian qui định chấm dứt, người mẹ phải vào đền thờ để được tẩy uế và đem theo con chiên làm của lễ toàn thiêu và một chim bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Nếu người nghèo không có chiên thì dâng bồ câu thứ hai thay vì chiên. Đức Maria nghèo nên dâng lễ theo kiểu này.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cổ và lạ, nhưng cũng hàm chứa một niềm tin rằng con cái là hồng phúc Chúa ban cho. Trong các hồng phúc Chúa đưa đến không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái. Sinh con ra, chúng ta còn lo nuôi dưỡng và giáo dục chúng cho nên người.
NÓI VỀ GIA ĐÌNH KITÔ HỮU.
Ý nghĩa gia đình.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rằng :”Gia đình là nền tảng của xã hội”. Chính vì vậy , mà năm 1994 Liên hiệp quốc đã chọn làm năm quốc tế về gia đình. Nếu gia đình là nền tảng của xã hội mà ngày nay đang bị khủng hoảng một cách trầm trọng thì tương lai xã hội sẽ ra sao ?
Vì thế, đứng về phương diện Giáo hội, chúng ta coi gia đình là một “Tổ ấm” hay một “Mái ấm”, một” Giáo hội nhỏ” và là một” trường dạy đức tin”
Gia đình là một tổ ấm yêu thương.
Gia đình làø tổ ấm yêu thương, là chiếc nôi hạnh phúc. Dù ai ở trong giai cấp nào trong xã hội, nếu tìm thấy niềm an vui trong gia đình, thì họ chính là người hạnh phúc nhất, vì gia đình tồi tàn đi nữa thì đối với một con người, chẳng nơi nào có thể so sánh được với gia đình. Nhưng nếu có người phản đối cho rằng : gia đình là nguồn hạnh phúc, vậy sao gia đình cũng là nguồn đau khổ của đời người ? Thực ra, đau khổ, bế tắc chính là cơ hội để mỗi thành viên trong gia đình động não, sáng tạo và thể hiện tình yêu của mình một cách thuyết phục nhất.
Tổ ấm hay mái ấm gia đình thì cũng vậy. Khi nói tới mái ấm thì nhiều người có rất nhiều ý tưởng cao đẹp về hình ảnh này, một hình ảnh gợi cảm và thân thương nhất mà ai cũng mơ ước.
Truyện : Mái ấm gia đình là gì ?
Mới đây một tờ báo ở London, thủ đô nước Anh, đã gửi câu hỏi “Mái ấm gia đình là gi ,theo anh chị” tới 1000 người. Có 800 người đã trả lời, tập trung vào các ý tưởng sau đây :
-Mái ấm : một thế giới xung đột khép lại, một thế giới tình thương mở ra..
-Mái ấm : nơi chuyện nhỏ là quan trọng, chuyện quan trọng là chuyện nhỏ.
– Mái ấm : vương quốc của cha, thế giới của mẹ và thiên đàng của con cái.
– Mái ấm : nơi chúng ta cằn nhằn nhiều nhất nhưng được đối đãi tốt nhất.
-Mái ấm : trung tâm của tình thương mà mọi lời ước nguyện của con tim quyện vào đấy.
-Mái ấm : nơi dạ dầy chúng ta ăn 3 lần mỗi ngày và tâm hồn ăn ngàn lần mỗi ngày.
-Mái ấm : nơi duy nhất nơi trần gian mà mọi lỗi lầm và thất bại của con người được che đậy dưới lớp áo bác ái che đậy.(GM Arthur Tone, Góp nhặt, tr 125-126).
Gia đình là một Giáo hội nhỏ.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn về Gia đình cũng dạy :”Giữa những nghĩa vụ căn bản của gia đình Kitô hữu, có một nghĩa vụ có thể nói là có tính cách Hội thánh, vì nghĩa vụ này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, đó là tham dự vào cuộc sống và sứ mạng của Hội thánh” (GĐ số 49).
Mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Hội thánh tại gia” (L.G. số 11), hay “Hội thánh rút gọn”, “Hội thánh bỏ túi”. Gia đình công giáo có nhiều liên hệ đến Hội thánh.
* Về phía Hội thánh : Mẹ Hội thánh sinh ra, dưỡng dục và xây dựng gia đình công giáo bằng cách thực hiện cho gia đình sứ mạng Hội thánh đã nhận từ Đức Kitô.
* Về phía gia đình : Gia đình công giáo đã được tháp nhập vào Hội thánh ; sứ mạng tháp nhập này cho phép gia đình dự phần vào sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình. Nếu Hội thánh được tham dự vào 3 chức năng của Chúa Kitô : tư tế, tiên tri và vương giả, thì gia đình công giáo là Hội thánh tại gia cũng phải xây dựng nếp sống theo mẫu mực Hội thánh gồm 3 chức năng ấy và cũng phải thực hiện 3 chức năng ấy theo chiều kích Hội thánh toàn cầu.
Gia đình, một trường dạy đức tin.
Trong tông huấn về gia đình, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :”Gia đình là trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(GĐ số 3). Ta cũng có thể nói : gia đình là môi trường thuận lợi cho việc giáo dục đức tin cho con cái. Gia đình là trường dạy đức tin tốt nhất.
Giáo dục đức tin đây không có nghĩa là dạy giáo lý cho các em khi các em còn quá nhỏ không thể tiếp thu được. Cha mẹ chỉ dạy con bằng cách nói về Chúa. Dạy các em biết lạy Chúa, chào Chúa, làm dấu thánh giá hay đọc kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Nhưng cách dạy tốt nhất là cha mẹ cứ đọc kinh cầu nguyện để chúng bắt chước, nhất là khi hai vợ chồng cầu nguyện có đứa con ở giữa.
Truyện : Dạy bằng gương sáng
Thực là cảm động khi thấy đứa trẻ ngây thơ nhưng chăm chú nhìn xem nét mặt dịu dàng của bà mẹ đang cầu nguyện.
Bà Vaugham là một trong những người mẹ đáng kể làm gương. Bà đặt tất cả uy tín của bà trong tình yêu thương và lòng đạo đức. Cầu nguyện, bà thường để những đứa nhỏ ngồi bên. Và các em sung sướng học được lòng mến Chúa trên khuôn mặt bà. Cô nhỏ Gladys lần kia đã kêu lên :”Mẹ ơi, sao khi mẹ ở trong nhà thờ, mẹ xinh đẹp thế” ? Bà mỉm cười :”Con ơi, vì có Chúa Giêsu ở đấy”. Cô bé lui ra, vừa đi vừa nhẩm lại lời của mẹ. (Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 124)
Đời sống trong gia đình.
Trật tự trong gia đình.
Trong gia đình Thánh gia chỉ có 3 thành viên : Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Theo pháp lý, thánh Giuse phải là chủ gia đình vì là chồng và là cha. Đức Maria và Đức Giêsu phải phục tùng thánh Giuse như người có quyền trên hết.
Trong cuộc sống gia đình chúng ta cũng vậy :”Kim chỉ phải có đầu”, không thể sống trong cảnh “cá đối bằng đầu”. Gia đình và xã hội phải có trật tự, như bài hát sinh hoạt của thiếu nhi, nếu không sẽ rối loạn :
Con vỏi con voi,
Cái vòi đi trước,
Hai chân trước đi trước,
Hai chân sau đi sau,
Còn cái đuôi thì đi sau rốt…
Một nhà văn viết :”Trật tự là tất cả đều ở trong vị trí của mình để điều động cho tất cả, với một mục tiêu cho tất cả”.
Nếu tục ngữ Việt nam nói :”Kim chỉ phải có đầu” thì ngạn ngữ Tây phương cũng nói :”Piscis e capite vivit et e capite faetet” (cá sống tự đầu và cá thối tự đầu).
Thánh Phaolô nói :”Người chồng là đầu người vợ”(Ep 5,23). Thánh nhân cũng biết đầu thì rất hay và cũng rất dở theo kiểu nói Tây phương “cá sống cũng tự đầu và cá thối cũng tự đầu”, nên Ngài còn thêm mấy chữ khác vào câu nói trên :”Người chồng là đầu người vợ như Chúa Giêsu là đầu Hội thánh”.
Do đó, ta có thể kết luận : “Người chồng là đầu sống của người vợ nghĩa là làm cho vợ sống chứ không làm cho nó hư đi như cá thối tự đầu vậy : nghĩa là chồng phải yêu thương vợ như yêu thương chính mình.
Đạo Hiếu trong gia đình.
Trong bài đọc I của sách Huấn ca có câu :”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”. Như thế, Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho những kẻ biết thờ cha kính mẹ theo như điều răn thứ bốn dạy :”Hãy thảo kính cha mẹ”. Ai giữ điều răn đó thì làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Tư tưởng trên cũng rất giống với tư tưởng của người Việt nam chúng ta mà các em nhỏ đã hiểu khi đọc câu ca dao này :
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là Đạo con.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành mộtĐẠO. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một Đạo. Mà lỗi Đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một thiếu sót.
Truyện : Hàn Bá Du có hiếu.
Hàn bá Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Môt hôm Hàn bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi :
– Mọi khi mẹ đánh con, con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai như thế ?
Bá Du thưa :
– Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.
Ôi ! con ăn ở với mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở cũng không dám oán. Như Bá Du trong truyện này, không những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ thế mới là thắm thiết (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển 2, tr 18).
Hoà hợp trong gia đình.
Ai cũng có một ngôi nhà để ở, nếu không, phải ở đầu đường xó chợ hoặc phải đi ở nhờ nhà người khác. Chỗ ở là một nơi rất quan trọng vì người ta nói:”An cư lạc nghiệp”, muốn làm việc cần phải có chỗ ở đã. Việc lập gia đình ví như việc xây dựng một ngôi nhà. Nhà nào cũng là nhà lớn nhỏ, đẹp xấu, tùy theo khả năng của mình. Nhưng ngôi nhà phải luôn ấm cúng. Vì thế, ngôi nhà của gia đình được gọi là MÁI ẤM. Mái ấm này trước tiên được vợ chồng xây dựng, sau này con cái góp phần làm cho mái ấm trở nên khang trang, đẹp đẽ và ấm cúng hơn.
Người ta thường nói :”Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Xây dựng được ngôi nhà thì dễ còn làm sao cho ngôi nhà trở nên ấm cúng thì càng khó. Có những ngôi nhà trong đó có những người không hòa hợp với nhau, bề ngoài tuy đồ sộ nguy nga, nhưng bên trong thì lạnh lẽo , vắng vẻ, tiêu điều ; ngược lại, có những ngôi nhà tuy đơn sơ, có khi còn nghèo nàn như một túp lều tranh mà lại ấm cúng vì trong đó có những người biết sống hòa hợp thương yêu nhau, biết mưu cầu hạnh phúc cho nhau, biết quên mình phục vụ, biết nhịn nhục nhau, tha thứ cho nhau… để ngôi nhà đơn sơ đó trở nên một hình ảnh rất đẹp “Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng”. Mái ấm đó được thành hình do sự cộng tác và hoà hợp của vợ chồng như hình ảnh :
Em về chẻ rạ đánh tranh
Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa thuận đôi ta
Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình(ca dao)
Thánh gia thất Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse là một gia đình kiểu mẫu đáng cho mọi gia đình Kitô hữu noi theo, trong đó mọi người yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau trong tình bác ái, mỗi thành viên làm trọn nhiệm vụ của mình để xây đắp cho gia đình. Gia đình không phải là nơi tạm trú mà phải là nơi thường trú của mọi người, không ai có thể rời bỏ được. Nếu hiểu được ý nghĩa thực của gia đình thì phải nói gia đình là một kho tàng quí giá.
Truyện : Gia đình là một kho tàng.
Ông George đã đến tuổi 70, ông không lập gia đình, ông là một thủy thủ, cả cuộc đời lênh đênh trên biển cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông tên là BILL rất thương bác George nên đã mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là sự giúp đỡ lẫn nhau : bác George có nhà ở, còn gia đình của Bill có dịp làm những chuyến viễn du tưởng tượng quanh thế giới mỗi khi lắng nghe bác George kể lại kinh nghiệm của mình.
Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Được rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi vui sướng biết bao. Và Bill đã bày tỏ nỗi lòng cho bác.
Một chiều kia, bác George nhắc đến một nơi xa xăm. Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ điều đó, nên sau khi bác George chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác và tìm thấy một bao thư đề tên Bill , trong đó có một tấm bản đồ. Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm : đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng.
Bác George đã trối lại cho chàng một kho báu là ý thức rằng nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là kho báu (Góp nhặt 4, tr 109).
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
LÀ GƯƠNG MẪU MỌI GIA ĐÌNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Ai kính sợ Chúa thì thảo kính cha mẹ.
– Đáp ca : Kẻ kính sợ Chúa thì được hưởng hạnh phúc gia đình.
– Tin Mừng : Gương Thánh Giuse gia trưởng.
– Bài đọc II : Sống hòa thuận trong gia đình.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Lễ Thánh Gia hôm nay rất có ý nghĩa đối với người Việt Nam chúng ta vốn coi trọng gia đình và các giá trị gia đình.
Lời Chúa hôm nay tuy chưa liệt kê đầy đủ mọi đức tính phải có trong cuộc sống gia đình, nhưng những đức tính được đề cập tới đều rất quan trọng.
Trong Thánh lễ đặc biệt này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Lời Chúa, và tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta xây dựng gia đình mình theo gương mẫu Thánh gia Nadarét.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta đã thiếu sót rất nhiều trong bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm anh chị em trong gia đình.
– Chúng ta đã cố gắng rất nhiều để lo cho gia đình về phương diện vật chất, nhưng chưa cố gắng đủ để lo cho gia đình về phương diện tinh thần và đạo đức.
– Gia đình chúng ta chưa là một nắm men, một hạt muối, một ngọn đèn sáng trong khu xóm.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Hc 3,2-14) :
Đoạn sách Huấn Ca này đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận con cái phải thảo kính cha mẹ.
Nền tảng của việc thảo kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa : “Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, quyền lợi người mẹ Ngài củng cố trên đàn con”.
Thảo kính cha mẹ sinh ra rất nhiều ơn ích :
– đền bù tội lỗi, thu được một kho tàng, làm cho cha mẹ vui, sống lâu
– khi cầu xin sẽ được Thiên Chúa nhậm lời
– sau này đến lượt mình có con cái thì sẽ được chúng hiếu thảo
Đáp ca (Tv 127) :
Tác giả Tv 127 coi việc kính sợ Chúa là nguồn mọi hạnh phúc gia đình :
– những lao công khó nhọc sẽ sinh kết quả
– được vợ hiền con ngoan
– hạnh phúc suốt đời
Tin Mừng (Mt 2,13-15.19-23) :
Trong bức tranh vẽ cảnh gia đình Nadarét, có hai nét đáng lưu ý hơn cả :
-Vai trò nổi bật của người gia trưởng : vai người mẹ Maria và người con Giêsu đều mờ nhạt để làm nổi bật hẳn lên vai người gia trưởng Giuse. Người gia trưởng này tuy âm thầm nhưng rất tận tuỵ lo lắng chăm sóc mọi người trong gia đình. à Một gia đình hợp nhất quanh người gia trưởng.
-Nhưng bên trên vai trò người gia trưởng, còn một vai khác quan trọng hơn, đó là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dẫn dắt cuộc sống gia đình Nadarét qua đại diện của Ngài là gia trưởng Giuse. à Thiên Chúa là gia trưởng tối cao của gia đình.
Bài đọc II (Cl 3,12-21) :
Thánh Phaolô liệt kê những đức tính phải có trong cuộc sống gia đình : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa Giêsu : “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”.
Và để có thể thực hiện các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương.
GỢI Ý GIẢNG
Vai trò người cha
Đương nhiên người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất trong gia đình. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn :
– Gia đình nào có người mẹ tốt nhưng người cha xấu thì các con trong gia đình khó mà tốt hết được. Hình như tấm lòng của người mẹ không hữu hiệu bằng sự hướng dẫn của người cha.
– Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi người trong nhà đều dễ trở thành tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng.
Gia đình Nadarét có Thánh Giuse làm gia trưởng. Dù Đức Maria và Chúa Giêsu là những người cao quý hơn thánh Giuse, nhưng Thiên Chúa đã đặt hai vị dưới quyền Thánh Giuse ; khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình này thì Ngài nói với Thánh Giuse ; và hai vị kia vâng lời Thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Phần Thánh Giuse, có lẽ Ngài không thông minh và tài cán bao nhiêu, nhưng Ngài rất tận tuỵ trong bổn phận, nhất là Ngài điều hành việc gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay kể : trong hai tình huống nghiêm trọng nhất là trốn sang Ai cập và hồi hương về Nadarét, Thánh Giuse đều làm theo lời Chúa. Bản văn viết rõ : “Giuse liền thức dậy, đưa hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (hoặc : “về đất Israel”). Dù đang ngủ nhưng mau mắn “thức dậy” và “liền” thi hành ngay lời Chúa dạy.
Đối chiếu với gương thánh Giuse, chúng ta hiểu được lý do khiến cho nhiều gia đình không được tốt :
– Lý do thứ nhất là vì người cha gia đình không tận tuỵ với bổn phận mình.
– Lý do thứ hai là vì người cha gia đình không điều hành gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Lòng hiếu thảo không phải là bản năng
Cha mẹ thương con là do bản năng : dù đứa con xinh đẹp hay xấu xí, ngoan ngoãn hay ngỗ nghịch, cha mẹ vẫn luôn yêu thương và hy sinh tất cả cho nó. Người ta nói “Nước bao giờ cũng chảy xuôi xuống”.
Nhưng con cái thương cha mẹ không phải là bản năng (con cái bám lấy cha mẹ mới là bản năng) : khi đứa con còn cần đến cha mẹ thì xem ra nó “thương” cha mẹ lắm. Đến khi nó không cần đến cha mẹ nữa, nhất là khi cha mẹ cần đến nó thì nhiều đứa thờ ơ, hất hủi, bất hiếu… “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nếu là bản năng thì không cần được dạy. Vì không phải là bản năng nên cần được dạy mới biết.
– Người Việt Nam dạy con cái hiếu thảo cha mẹ cách tiêu cực bằng lời đe dọa : ai bất hiếu ngỗ nghịch với cha mẹ thì sẽ bị “trời đánh”.
– Sách Đức Huấn Ca dạy cách tích cực bằng Lời Chúa hứa ban cho kẻ thảo hiếu cha mẹ nhiều ơn lành (xem phần giải thích Bài đọc I phía trên)
Dù dạy cách tiêu cực bằng lời đe dọa, hay cách tích cực bằng lời hứa, cả hai lời dạy trên đều giống nhau ở điểm quy lòng hiếu thảo về nguồn gốc là Thiên Chúa (hay “Ông Trời”) : chính Thiên Chúa muốn con cái hiếu thảo với cha mẹ, do đó Ngài thưởng kẻ hiếu thảo và phạt kẻ bất hiếu.
Vì thế những kẻ làm con phải ý thức rằng : Hiếu thảo với cha mẹ
– không chỉ là một tình cảm tự nhiên được thúc đẩy bởi bản năng,
– mà còn là một đạo lý nhân bản (đạo làm người : nhân-đạo)
– hơn nữa, đó còn là lệnh truyền của chính Thiên Chúa (thiên-đạo)
Bảo vệ con
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt qua con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai Cập, một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh, đoàn quân Rôma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tị nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước chân trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tị nạn của Thánh Gia như thiên đường : những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các Ngài ngủ mát, ăn điểm tâm ; nước chảy lênh láng để các Ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc ! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ, p. 268)
Ở trần gian, Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó. Chúa muốn các Ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan biết vui lòng hy sinh như các Ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài Nhi Giêsu, bảo vệ Hội Thánh, bảo vệ đức tin và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không bị hận thù bất công, khỏi bạn bè gian ác, trộm cắp, đồi truỵ. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi kitô hữu.
Biết bao hài nhi đã bị huỷ hoại trong bào thai, khi chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm !
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là hãy dắt con em mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.(Lm Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A)
Những bài học của trẻ con
Nếu trẻ con sống với những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án.
Nếu chúng sống với sự hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau.
Nếu chúng sống với những lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát.
Nếu chúng sống với sự chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi
Nếu chúng sống với sự bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục
Nếu chúng sống với sự khuyến khích, chúng học được lòng tự tin.
Nếu chúng sống với lời khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người.
Nếu chúng sống với sự lương thiện, chúng học được tính công bình.
Nếu chúng sống với sự che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy.
Nếu chúng sống với sự chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình.
Nếu chúng sống với tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời. (Anon, “Children learn what they live”)
Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Đôn
Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con : cả thảy 13 đứa ! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà : “Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể ?” Bà tươi cười bảo : “Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan : trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, là vườn ươm hạt giống đức tin, là trường đào tạo tông đồ, là nơi rèn luyện nhân cách. Nhân ngày lễ kính Thánh Gia Thất, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện cho hết mọi gia đình.
1- Hội Thánh luôn xác nhận tầm quan trọng của gia đình, và tìm hết mọi cách để bảo vệ đời sống hôn nhân và gia đình, khỏi bị tội lỗi làm hoen ố. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình công giáo / luôn biết tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
2- Những biến động xã hội trên thế giới ngày nay / gây ra biết bao xáo trộn trong đời sống gia đình / làm lung lay tận gốc rễ nền tảng của xã hội và Giáo Hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả các gia đình vượt qua được những thử thách gian nan / để luôn sống trong hạnh phúc và an bình.
3- Giáo dục đầu tiên trong gia đình hết sức quan trọng / vì giúp hình thành nhân cách cũng như dời sống đạo nơi trẻ em / và cha mẹ là những thầy dạy không ai có thể thay thế được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bận cha mẹ / biết luôn quan tâm đến việc giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái / bằng lời nói cũng như bằng gương tốt.
4- Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết sống lời Thánh Phaolô dạy trong thư Côlôxê : “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái / vì đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng sống trọn vẹn lời Thánh Phaolô đã dạy.
CT : Lạy Chúa, Thánh Gia Nadarét quả là một gương mẫu tuyệt hảo cho tất cả các gia đình công giáo về đời sống tin cậy mến cũng như đời sống lao động cần cù. Xin cho chúng con biết luôn noi gương Thánh Gia, sống một cuộc đời đẹp lòng Chúa, và nên gương sáng cho những người chưa nhận biết Chúa. Chúng con cầu xin…
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
TRÌNH DÂNG CHÚA GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ– Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Theo luật Môisen”: người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa” (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay .
“Họ phải được thanh tẩy”: Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy”, vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc “họ được thanh tẩy”, vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
“Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem”: Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ “họ” thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ “họ” thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. “Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. “Niềm an ủi của Israel”: Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2 … từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông”: Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17 .11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ.
“Đức Kitô của Chúa”: Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16 …) và tương đương với tước hiệu “Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa” (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu “Kitô Chúa” này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu “Đức Kitô của Chúa”.
“Cha mẹ”: Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. “cha mẹ Người” (x. cc. 41.43) và ngay cả “cha Người” (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
“Giờ đây, lạy Chúa …”: Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
“Theo lời Ngài”: Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
“Ánh sáng rạng soi dân ngoại”: Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài”: Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: “Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư “. Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ “thấy cái chết” (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa” (2,26), thấy … Vinh quang” (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy “vinh quang” và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông “thấy” Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc”: Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
“Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel”: Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp” (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: “Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng” (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua”: Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek …) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ. Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một “lưỡi gươm sắc bén” (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15 .21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa” (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là “ánh sáng muôn dân”, thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit …) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi “dấu chỉ vấp phạm” được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
“Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
“Họ trở về Galilê, đến Nagiarét …”: Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên “ánh sáng” (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
-Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
-Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel”, đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
-Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
-Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì “ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống” (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
-Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng “gẫm suy mọi sự ấy trong lòng” (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
GIA ĐÌNH- CON ĐƯỜNG- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Tục ngữ Việt nam có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét, “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái… mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, “càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
GIA ĐÌNH NHỎ, HẠNH PHÚC TO– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tình cảm gia đình là thứ rất quý giá của mỗi con người, gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người. Con người cần một chỗ đi về là mái ấm gia đình. Không có mái ấm gia đình thì chúng ta chỉ là kẻ mồ côi chơi vơi giữa dòng đời, cho dù có quyền lực, địa vị cũng cảm thấy trống vắng, lẻ loi.
Có một dịp tết tôi nói với các ông trùm: tết đến chúng ta nhớ đến người nghèo, giúp họ ít quà bánh để dùng 3 ngày tết. Nhân tiện tôi nói chơi: ở đầu nhà thờ mình có một người không còn cha mẹ, vợ con không có, ba ngày tết chắc chẳng có gì ăn đâu! Các ông quan tâm họ nhé. Các ông trùm bảo: Tên nó là gì vậy cha? Tôi trả lời: Tạ duy Tuyền! Thế là mọi người cười vui vẻ.
Kỳ thực không có mái ấm gia đình thì cuộc đời thật vô vị, thật buồn, vì mình chẳng còn nơi để ngả lưng sau những vất vả bởi cuộc sống mưu sinh như có ai đã đã viết rằng:
Đau đáu lo âu chẳng thảnh thơi
Không mái ấm gia đình khiến ta trở thành kẻ chơi vơi giữa dòng đời trôi nổi. Thế nên, có một mái ấm gia đình là niềm vui, là hạnh phúc. Mái ấm gia đình dù là nhỏ nhưng hạnh phúc thật to lớn. Dù là nghèo nhưng vẫn đầy ắp tình thương. Vì nơi mái ấm gia đình ta tìm được sự ủi an, nâng đỡ, sự quan tâm chăm sóc tận tụy và vô điều kiện. Đây cũng là tâm tình của tác giả Nguyễn Văn Chung đã bày tỏ trong nhạc khúc: Gia đình nhỏ hạnh phúc to. Một ước mơ thật nhẹ nhàng. Một hạnh phúc thật gần gũi nơi các mái ấm gia đình trẻ mà cha mẹ đã làm nên kỷ niệm tuổi thơ đầy ắp yêu thương cho con.
Một nụ cười bé,cha vui cả ngày
Một vài tiếng khóc,mẹ lo hằng đêm
Thầm cầu mong cho,con sẽ an lành
Chín tháng sinh thành,một đời yêu thương.
Một vòng tay lớn,ôm con vào lòng
Một bàn chân to,cho con tập đi
Dù ngày mai khi,con lớn lên người
Nhưng với cha mẹ,vẫn mãi bé thơ.
Một gia đình nhỏ,một hạnh phúc to.
Con Thiên Chúa làm người cũng cần một mái ấm gia đình. Nơi mái ấm ấy Ngài đã học được bài học bao dung, đầy yêu thương nơi người cha, người mẹ trần thế. Ngài mới hiểu được nỗi truân chuyên vất vả mà tất cả những người cha người mẹ trải qua khi phải bảo vệ gìn giữ gia đình trước biết bao khó khăn. Và chính Ngài cũng đóng góp phần mình để làm nên một gia đình thánh gia ngập tràn yêu thương.
Hôm nay lễ Thánh giá là dịp chúng ta chiêm ngắm một gia đình nhỏ nhưng hạnh phúc to. Gia đình các ngài tuy đơn sơ nhỏ bé, không giầu có, không lắm tiện nghi, nhưng chắc chắn một điều là niềm vui và hạnh phúc thì không bao giờ thiếu. Gia đình thánh gia không phải là gia đình quyền thế, nhưng là một gia đình hạnh phúc bởi mỗi thành viên luôn quan tâm và hy sinh cho nhau.
Bởi vì, nơi đó ta thấy bóng dáng một người chồng bao dung, lại thương vợ thương con. Thánh Giuse đã quảng đại đón Mẹ Maria về nhà làm bạn mình. Nơi đó ta thấy bóng dáng của một người gia trưởng tận tụy hy sinh. Thánh nhân đã giang rộng đôi vai để bảo vệ gia đình trước mọi sóng gió cuộc đời. Suốt cuộc đời luôn tận tụy với đôi tay thợ mộc để mang lại miếng cơm manh áo cho gia đình.
Nơi đó ta cũng thấy bóng dáng một người vợ hiền luôn để chồng làm chủ mọi sự. Một người vợ luôn biết chia sẻ công việc với gia đình khi vá may thêu thùa. Nơi đó ta cũng thấy bóng dáng hiền từ của một người mẹ dám chết cho con, luôn hy sinh hạnh phúc mình để cho con niềm vui tiếng cười. Đó là Maria. Một người vợ khôn khéo và một người mẹ thương con hết mình.
Nơi đó ta cũng thấy bóng dáng một người con luôn làm vui lòng cha mẹ, vì Người càng lớn càng khôn ngoan nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Đó chính là Chúa Giê-su, tuy là Thiên Chúa nhưng Ngài đã học vâng lời kể cả vâng lời cha mẹ loài người của mình. Ngài đã sống nêu gương cho mọi người con về đời sống hiếu thảo vâng lời mẹ cha.
Xem ra một gia đình hạnh phúc là một gia đình mà mọi thành viên đều sống hết mình với bổn phận để đem lại hạnh phúc cho nhau. Xem ra một gia đình nhỏ hạnh phúc to thì quan trọng hơn là tiền bạc, quyền bình mà gia đình lại không có hạnh phúc. Điều này cũng là thực trạng của các gia đình hôm nay. Họ chú trọng đến kiếm tiền đôi khi bỏ rơi nhau. Vợ chồng không có thời giờ dành cho nhau. Cha mẹ không còn thời gian dạy dỗ con cái. Mái nhà chỉ còn là quán trọ nên thiếu vắng niềm vui tiếng cười. Ngày nay người ta cố gắng xây dựng một gia đình to nhưng hạnh phúc nhỏ vì thiếu quan tâm tới nhau. Đây không phải là ước mơ của con thơ, những đứa con thơ chỉ cần : “một gia đình nhỏ mà hạnh phúc to” mà thôi.
Thánh gia là một gia đính lý tưởng, đạo đức, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn. Thánh gia dù là gia đình nhỏ nhưng hạnh phúc quá lơn lao bởi các ngài luôn sống quan tâm cho nhau, nhất là luôn sống theo ý Thiên Chúa để phục vụ gia đình cách tốt hơn
Nguyện xin Thánh Gia luôn nâng đỡ và gìn giữ gia đình chúng con luôn hạnh phúc an vui. Amen
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
GIA ĐÌNH, NIỀM VUI TÌNH YÊU- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đức cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Phan Thiết viết trong “Thư Định Hướng Mục Vụ Năm 2018” như sau:Năm 2017, Giáo phận Phan Thiết chúng ta đã hưởng ứng cách nồng nhiệt định hướng mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam với chủ đề “Chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân” bằng việc quan tâm tổ chức các lớp Giáo lý Hôn nhân tại các giáo xứ cách hiệu quả hơn, giúp các bạn trẻ khám phá vẻ đẹp, sự cao quý và tầm quan trọng của Hôn nhân Kitô giáo; các linh mục cũng đã tham dự các cuộc thường huấn về chủ đề trên vào mỗi dịp tĩnh tâm tháng tại Tòa Giám mục. Bước vào chương trình mục vụ năm 2018 với chủ đề: “Đồng hành với các gia đình trẻ”, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong Thư Mục vụ gởi Cộng Đồng Dân Chúa nhân dịp họp Hội nghị kỳ II/2017, mong muốn chúng ta tiếp tục quan tâm đến việc mục vụ gia đình. Vì thế, Giáo phận Phan Thiết chúng ta tích cực hưởng ứng và nhiệt tâm triển khai chủ đề mục vụ trên qua hai sinh hoạt chính, đó là Học và Hành với các chương trình cụ thể sau đây:
Việc Học Hỏi
Các gia đình trẻ sẽ được hướng dẫn để càng đào sâu tầm quan trọng, ý nghĩa và bản chất của bí tích Hôn phối, đời sống chung vợ chồng, sự trung thành và chung thủy trong tình yêu đến trọn đời. Chúng ta sẽ triển khai chủ đề nầy với ba gợi ý của Thư Mục vụ:
-Hôn nhân là một hành trình dài, trong đó mọi người phải gạt đi những ảo tưởng để đón nhận bạn đời của mình như họ là và cùng nhau hoàn thiện hơn đời sống gia đình.
-Hành trình nầy đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết, hy sinh và quảng đại.
-Hành trình đó giúp đôi bạn đào sâu và làm phong phú hơn quyết định của họ khi bước vào đời sống hôn nhân.
Việc Thực Hành
Thư Mục vụ 2018 xác quyết rằng các linh mục và các cộng đoàn giáo xứ đóng vai trò quan trọng trong việc đồng hành với các gia đình trẻ. Chúng tôi đề nghị những gia đình trẻ là những đôi bạn đã kết hôn từ 5 năm đến 7 hay 10 năm tùy hoàn cảnh của từng giáo xứ với sự thẩm định của cha xứ. Trong Năm mục vụ “Đồng hành với các gia đình trẻ” nầy, Tòa Giám mục đề nghị tổ chức các sinh hoạt sau đây:
Cấp giáo phận:
-Ngày 01.01.2018, lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Bổn mạng Giáo phận, sẽ là ngày khai mạc Năm Mục vụ “Đồng hành với các gia đình trẻ” tại nhà thờ Chánh tòa Phan Thiết.
-Ngày 13.12.2018 sẽ là ngày Bế mạc Năm Mục vụ nầy tại Trung tâm Thánh Mẫu Tà Pao.
-Cấp giáo hạt, giáo xứ hay liên xứ do cha quản hạt và các cha xứ ấn định gồm các sinh hoạt sau đây:
+Kết hợp với Ban Mục Vụ Gia đình của Giáo phận, tổ chức ngày tĩnh tâm, tĩnh huấn, gặp gỡ, hội thảo, tọa đàm chuyên đề dành cho các gia đình trẻ trong giáo hạt, giáo xứ hay liên xứ, ít là 01 lần trong năm.
+Tổ chức Thánh lễ mừng kỷ niệm ngày thành hôn của các đôi bạn trẻ tại mỗi giáo xứ, đặc biệt trong ngày lễ Thánh Gia. Ngoài ra, có thể liên kết thành nhóm nhỏ các gia đình trẻ để thuận lợi trong việc đồng hành với các sinh hoạt đặc thù.
+Cha xứ và Hội đồng Mục vụ, các giới, các hội đoàn, tích cực cổ võ và tham dự việc đọc kinh liên gia tại các gia đình trẻ, khuyến khích việc siêng năng tham dự Thánh lễ và lãnh nhận bí tích Hòa Giải, đặc biệt thường xuyên thăm viếng các gia đình trẻ.
***
Học và hành về hôn nhân gia đình để cùng nhau: “Xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương” (x.Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN).
Gia đình “ngôi nhà thờ phượng Chúa”
Công Đồng Vaticanô II đã ví “gia đình như một Hội Thánh nhỏ” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 11).Thánh Gioan Phaolô II định nghĩa: “Gia đình là Hội Thánh tại gia” (Tông huấn đời sống gia đình, số 11).
Gia đình là Hội Thánh tại gia, bởi lẽ: Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth,có Thánh Giuse và Đức Mẹ;Thánh gia là mẫu mực cho mọi gia đình; Gia đình Công giáo là trường học đức tin đầu tiên, là môi trường sống các bí tích và thực hành các nhân đức Kitô giáo; Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái; Gia đình là cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa. Qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, gia đình toả sáng sự bình an, trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện. Để trở thành Hội Thánh tại gia, mỗi thành viên phải ý thức về căn tính cao cả và chức năng quan trọng của mình. Mỗi ngày thể hiện rõ nét hơn những tính chất căn bản của Hội Thánh tại gia như hiệp thông, liên đới, yêu thương, thuận hoà, tôn ti trật tự, kinh nguyện sáng tối, sống phục vụ và làm chứng nhân Tin Mừng.
Gia đình “trường dạy đức tin”
Tin Mừng Lễ Thánh Gia kể chuyện: gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đi hành hương lên Giêrusalem. Hai ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Theo luật quy định, người Do thái phải hành hương về Đền Thánh “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng Toàn Năng là Đức Chúa”. Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cùng cha mẹ và đoàn hành hương tiến về Đền Thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do thái, 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự lễ vượt qua, Người ở lại Đền Thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”. Sau đó cả gia đình trở về Nazareth “Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà”. Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình, một mái ấm có cha có mẹ. Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sống dưới mái nhà Nazareth, Đức Giêsu đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó. Đức Giêsu đã học nơi Thánh Giuse tinh thần lao động miệt mài, tâm tình tín thác và luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giêsu học nơi Đức Mẹ nét đẹp hiền lành đơn sơ tế nhị, tận tụy phục vụ, tin tưởng phó thác, cầu nguyện thâm trầm.Nếp sống đạo đức của cha mẹ đã ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời Đức Giêsu. Người thừa hưởng nơi cha mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa. Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, chuyên chăm làm việc, ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.
Gia đình là nơi trẻ em và thanh thiếu niên hấp thụ nền giáo lý chân chính từ cha mẹ.Công đồng Vaticanô II mong muốn các bậc cha mẹ là những người đầu tiên “dùng gương lành và lời nói truyền dạy đức tin cho con cái”. (Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 11).Gia đình chu toàn được sứ mệnh cao cả này nhờ yêu thương,cùng nhau học hỏi và cầu nguyện để hạt giống đức tin được triển nở (Sắc lệnh tông đồ giáo dân, số 11). Cha mẹ chăm lo giáo dục nhân bản và giáo dục tâm linh cho con cái.Với con cái, cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của Chúa (GLTC # 2225). Hạt giống đức tin nơi trẻ em được gieo và chăm sóc trong môi trường gia đình sẽ phát triển thành cây đức tin.Gia đình là vườn ươm, là thửa đất tốt. Dạy giáo lý như cung cấp chất dinh dưỡng. Tuỳ theo mức độ hấp thụ, tuỳ theo thời điểm, cây đức tin nơi đứa trẻ sẽ phát triển và đơm bông kết trái. Dạy giáo lý tại gia đình, cha mẹ góp phần với Hội Thánh trong sứ vụ đào tạo đức tin cho con cái.
Gia đình “mái ấm tình thương”.
Gia đình là cộng đoàn hiệp thông và liên đới chặt chẽ giữa các thành viên với nhau, bình đẳng về phẩm giá, về ơn gọi trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Nhờ đó gia đình trở nên mái ấm với cuộc sống an hoà, yêu thương đầm ấm, chia sẽ, giúp đỡ, hy sinh quên mình vì hạnh phúc của nhau.Hãy gìn giữ mái ấm gia đình. Hãy đặt ưu tiên cho hạnh phúc gia đình.
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ.Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục đức tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có những em sau khi Thêm Sức là bỏ nhà thờ. Sự đa dạng của vi tính và internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế và lao vào thế giới ảo, lối sống ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau. “Một gia đình mà hiếm khi mọi người ngồi ăn chung với nhau, hoặc giả có cùng ngồi quanh bàn ăn thì chẳng ai mở miệng trò chuyện với ai, bởi lẽ họ còn đang bận dán mắt vào màn ảnh truyền hình, hoặc đang mê mải với điện thoại thông minh, thế thì gia đình đó không còn đúng nghĩa là một gia đình nữa. Khi ngồi tại bàn ăn mà con cái cứ dán mắt vào máy tính hay điện thoại thông minh và không lắng nghe người khác, thì đó không phải là gia đình nữa, mà là một nhà hưu dưỡng”. (x.Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình quanh bàn ăn trong buổi tiếp kiến chung ngày 11.11.2015, tại quảng trường Thánh Phêrô).
Các bậc phụ huynh xin hãy nhớ, sức mạnh của sự hiệp nhất các thành viên và đồng hành với nhau trong đức tin làm thành mái ấm gia đình cao quý. Chính tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình. “Gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức”.Từ mái ấm gia đình, cha mẹ con cái siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên chăm Kinh Hạt tại gia, biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau.Theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình hãy nỗ lực thực thi lời mời gọi của HĐGMVN : “Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Công Giáo”.
“Thư Mục vụ năm 2018 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hướng về các đôi bạn trẻ. Giáo phận và các cộng đoàn giáo xứ hướng về các bạn với tâm tình trìu mến. Chúng tôi muốn được đồng hành với các bạn để chia sẻ với các bạn những vui mừng và hy vọng, những ưu tư và thao thức, những khó khăn và thử thách mà các bạn gặp phải trong đời sống hôn nhân gia đình…Với sự hiện diện đồng hành nâng đỡ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, các bạn hãy luôn vững tin, mạnh mẽ và can đảm dấn thân kiên trì kiến tạo gia đình trẻ của mình thành một ngôi nhà thờ phượng, một tổ ấm yêu thương và một cộng đoàn phục vụ cho sự sống của con người. Chỉ như thế, các bạn mới có thể làm bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu lan tỏa đến mọi gia đình bên cạnh các bạn. Nguyện chúc các bạn, những gia đình trẻ, luôn thấm đậm Bình an, Tình yêu, Ơn sủng và Niềm vui của Thiên Chúa nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Tà Pao” (Thư Định Hướng Mục Vụ Năm 2018, GP Phan Thiết”.
Gia đình là nơi thể hiện niềm vui tình yêu trong đời sống hằng ngày, từ đó sẽ là “vườn ươm” các nhân đức, là “nơi đào tạo” nhân bản và tâm linh cho con cái, để trở thành một Hội Thánh tại gia.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
SỐNG THÁNH THIỆN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Sau những ngày mừng lễ Chúa Giáng sinh, Giáo hội mừng lễ thánh gia thất, mời gọi mỗi người chúng ta cùng nhìn ngắm mẫu gương thánh gia thất qua hình ảnh Tin mừng thánh Luca trình bày : Cha mẹ Chúa Giêsu đem hài nhi lên đền thờ để chu toàn nghi thức thanh tẩy theo lề luật do thái và dâng con vào đền thờ.
Còn gì đẹp hơn hình ảnh của vợ chồng và con cái xum họp. Gia đình là cái nôi của đời sống xã hội, là mái ấm của mỗi người, là nơi mà mỗi người chúng ta được bảo vệ và lớn lên, được dưỡng dục, được trải nghiệm những giây phút thần tiên đầu đời. Thiên Chúa chúc phúc cho gia đình và cho các vợ chồng khi tạo dựng và lời chúc phúc này vẫn muôn đời bền vững. Chúng ta thường hình dung gia đình theo cặp mắt nhân loại. Vợ chồng phải đẹp đôi vừa lứa, trai tài gái sắc con cái ngoan ngoãn. Ngày nay người ta nhìn một gia đình thành đạt là lý tưởng, người chồng có công ăn việc làm vững vàng, người vợ xinh đẹp và cũng có việc làm ổn định. Cả hai đều là những người có học thức có việc làm ổn định, có nhà cửa cơ ngơi của cải. Thế nhưng Tin mừng lại trình bày cho chúng ta một lý tưởng gia đình theo hình ảnh khác. Thánh Giuse không phải là một người có bằng cấp, người không phải là một doanh nhân, người chỉ là một thợ mộc ở làng quê nghèo Nazarét. Đức Maria cũng không phải là một ngôi sao hay một người phụ nữ học thức ở thành phố biết ăn diện đua đòi sành điệu, người chỉ là một thiếu nữ ở làng Nazarét quê mùa. Nhưng điều mà những gia đình khác không bao giờ có thể có như thánh gia thất là một đời sống đức tin mẫu mực. Thánh Giuse và Đức Maria là những người thực sự đã sống trọn vẹn lý tưởng của đời sống hôn nhân gia đình hơn mọi gia đình khác.
Lối hình dung hạnh phúc gia đình của chúng ta rất là phiến diện. Lập gia đình, người ta hưởng quyền lợi của gia đình là đời sống tình dục. Báo chí không ngừng giảng dạy việc hưởng thụ đời sống vợ chồng sao cho thăng hoa, sử dụng nhiều phương tiện thuốc men để hưởng thụ tình dục. Ngoài ra nhiều vợ chồng cố gắng làm ăn để sao có thực nhiều của cải, buôn may bán đắt, nhiều khi còn tính cả chuyện lừa lọc người khác để được giàu có. Hạnh phúc gia đình được xây đắp trên tình dục, của cải, danh vọng giàu sang. Trái lại, hạnh phúc của thánh gia thất lại được xây dựng trên điều gì khác hơn, đó là trên tình yêu chân thành và vợ chồng giúp đỡ nhau để chu toàn thánh ý Thiên Chúa cho từng người. Đức Mẹ Maria giúp đỡ thánh Giuse để thánh Giuse chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa trao phó, thánh Giuse giúp đỡ Đức Maria chu toàn bổn phận mà Chúa trao phó. Cả hai người đều lớn lên trong tình yêu và tự do chân thành. Các ngài đã sống ý nghĩa của tình yêu hôn nhân và gia đình cách thực sự và ý nghĩa nhất, loại trừ mọi bóng dáng của hưởng thụ tình dục, mọi ích kỷ vun quén của cải cho bản thân hay cho gia đình. Thánh Giuse tin tưởng trọn vẹn nơi Đức Maria và ngược lại Đức Maria tin tưởng phó thác nơi sự khôn ngoan nhạy bén của thánh Giuse. Sách Tin mừng nói rằng khi Đức Maria mang thai thì thánh Giuse suy nghĩ nhiều, nhưng không dám nói cho ai cả mà chỉ định âm thầm rút lui. Nhưng đang khi định tâm như vậy thì sứ thần hiện ra trong giấc mơ và nói : « Hãy nhận Maria về nhà làm vợ vì thai sinh nơi bà là do bởi tác động của Chúa Thánh Thần ». Đây là cách diễn tả của thánh sử. Nói cho đúng ra, chúng ta hãy hình dung một cách thực tế hơn. Có thể thánh Giuse có suy nghĩ và định tâm lìa bỏ vợ mình, nhưng nhờ bởi cầu nguyện, suy nghĩ, và được ơn Chúa soi sáng thúc đẩy thánh Giuse hiểu được ý Chúa mời gọi mình đón nhận Đức Maria về nhà mình. Sự chọn lựa can đảm của thánh Giuse dựa trên việc cầu nguyện chân thành và can đảm sống theo lời Chúa mời gọi trong lương tâm nên được Thánh Thần hướng dẫn hành động đúng. Tiêu chuẩn để thánh nhân hành động là thánh ý Chúa và tình yêu chân thành đối với người bạn đời của mình. Thánh Giuse công chính không phải cứ nhắm mắt làm theo lề luật mà biết suy nghĩ lựa chọn dù có phải hành động ngược lại chọn lựa thông thường của người đời. Làm sao có thể nói là hành động công chính khi phải tố cáo để giết người bạn đời của mình. Thánh Giuse đã có lúc muốn chọn lựa một cách nhẹ nhàng hơn là lìa bỏ Maria cách kín đáo. Thế nhưng cách thế này cũng chưa phải là một lựa chọn tích cực bởi vì làm sao có thể bỏ người bạn đời của mình bơ vơ khi phải sinh nở và nuôi con giữa chợ đời nhiều khó khăn. Có lẽ chúng ta hãy hình dung thánh Giuse một cách bình thường và đầy tình người. Người đã can đảm chấp nhận phần thua thiệt về phần mình để đón nhận Maria. Động lực sâu xa là tình yêu chân thành và tin tưởng. Hai người đã tin tưởng yêu nhau sau bao năm tìm hiểu và đã hứa hôn với nhau. Có lẽ điểm mấu chốt để thánh Giuse có thể gặp thánh ý Thiên Chúa là lời hứa hôn. Lời hứa hôn là một lời cam kết long trọng trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người. Lời hứa hôn là điểm neo để thánh Giuse đón nhận Maria về nhà. Thiên Chúa là Đấng trung tín và người trung tín là người được Thiên Chúa chúc phúc.
Phần Đức Maria, người tin tưởng phó thác vào thánh ý Thiên Chúa, và tin tưởng chu toàn công việc mà Thiên Chúa trao phó như lời người đã nói : « này tôi là tôi tớ Chúa tôi xin vâng như lời sứ thần truyền ». Maria cùng đi với Giuse trong hành trình từ Nazarét tới Bêlem, rồi từ Bêlem sang Ai cập tị nạn vì Hêrôđê tìm cách giết con trẻ và từ Ai cập về trở lại Nazarét để sống những ngày cho hài nhi Giêsu lớn lên ở đây. Lập gia đình, Maria thuộc về gia đình của Giuse, là vợ của Giuse và đón nhận mọi hoàn cảnh khó khăn của gia đình với một người chồng thợ mộc và thuộc dòng dõi Đavít. Ngày sinh con, Maria đã phải cùng chồng đi về Giêrusalem xứ Giuđêa vì Giuse thuộc dòng dõi Đavít. Đó cũng là một hành trình vất vả cho người mẹ mang thai đến gần ngày sinh con. Đức Maria không nói một lời phàn nàn. Rồi khi sinh con ở thành phố Giêrusalem đông người, Maria không có một nơi xứng đáng để cho hài nhi chào đời vì đang lúc phải xa quê hương xứ sở, Maria phó thác mọi sự cho chồng là Giuse để rồi hài nhi giáng sinh nơi Bêlem là quê hương của tổ tiên Đavít. Thánh ý Thiên Chúa thực nhiệm mầu : qua mọi khó khăn trở ngại khôn lường, Thiên Chúa lại thực hiện những dự định đã hứa từ ngàn xưa và hoàn tất mọi sự.
Khi cha mẹ bồng con đến đền thờ để chu toàn nghi lễ thanh tẩy theo luật dạy, các ngài đã gặp cụ già Simêôn. Hình ảnh Giuse và Maria bồng hai nhi đến đền thờ thật là tuyệt đẹp. Ước nguyện chu toàn thánh ý Thiên Chúa hướng dẫn từng bước hành trình đời sống của các ngài. Thánh ý Chúa quan phòng cho cụ già Simêon lên đền thờ để gặp hai ông bà, và đã bồng con trẻ và nói : « giờ đây, xin Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân ». Đồng thời cũng nói tiên tri về Đức Maria : phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Tin mừng Luca nói rằng Đức Giêsu càng ngày càng lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và đầy ân sủng của Thiên Chúa. Thực vậy, để cho người con được lớn lên khoẻ mạnh và đầy khôn ngoan, phải cần có biết bao nhiêu công sức của cha mẹ. Những thành công của Chúa Giêsu có nhiều những hy sinh của cha mẹ vì ý nghĩa của đời sống của cha mẹ lại là hy sinh cho con cái của mình. Đức Maria và thánh Giuse đã sống ý nghĩa hôn nhân vì đã nuôi dưỡng cho Chúa Giêsu được lớn lên và đầy khôn ngoan ơn nghĩa của Thiên Chúa. Hai ngài đã giúp đỡ lẫn nhau để chu toàn thánh ý Thiên Chúa và Thiên Chúa đã chúc phúc và hướng dẫn các ngài.
Đời sống gia đình quả là trường dạy yêu thương và biết sống theo thánh ý Thiên Chúa. Hành trình của mỗi người là những bước đi để thực hiện thánh ý Thiên Chúa mời gọi. Thánh gia thất đã nêu gương cho chúng ta những con người biết sống theo thánh ý Thiên Chúa trong đời sống gia đình để cho chúng ta hiểu rằng, càng sống trong đời sống gia đình, người ta càng trở nên người sống thánh ý Thiên Chúa một cách tốt đẹp nhất. Bài đọc sách Huấn ca cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa suy tôn người cha nơi con cái, và quyền lợi người mẹ nơi đoàn con. Mọi vẻ đẹp và nhân đức của cha mẹ sẽ được diễn tả nơi những người con của mình, và vì thế mời gọi các cha mẹ hãy can đảm tôn trọng sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho các cha mẹ và cộng tác với Thiên Chúa để giúp đỡ nhau và giáo dục các con cái. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ hãy biết yêu thương và quảng đại tha thứ cho nhau. Đời sống gia đình là trường dạy yêu thương và tha thứ : « trên hết mọi sự, anh em hãy biết yêu thương nhau, đó là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện ».
Thánh gia thất là mẫu gương luôn mới mẻ cho các gia đình, tổ ấm được Thiên Chúa chúc phúc. Lạ lùng thay, thánh Giuse và Mẹ Maria đã trở nên gương sáng cho các bậc cha mẹ trong đời sống gia đình. Các ngài đã sống đời vợ chồng, đã nêu gương cho mọi người hình ảnh bình dị và dễ mến nhất là hình ảnh người chồng và vợ thánh thiện một cách gần gũi nhất qua việc chăm sóc cho hài nhi Giêsu, và mời gọi các vợ chồng khác hãy bước đi trên con đường chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong bậc sống gia đình của mình.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM B
NHÌN NGẮM GIA ĐÌNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn, có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối, thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình nầy là Mẹ Maria.
Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
GIA ĐÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau Lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Vì mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống. Hôm nay, nhìn vào cảnh tượng giáng sinh, chúng ta chú ý đặc biệt đến Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, bên cạnh Người có Đức Maria và thánh Giuse. Chúng ta khám phá ra rằng, Con Chúa Cha hằng có đời đời, đã rời bỏ gia đình Ba Ngôi vĩnh cửu bước vào trần gian sinh ra trong gia đình trần thế bởi Đức Maria và có thánh Giuse. Trước mặt Thiên Chúa gia đình thật quan trọng, Thiên Chúa đã tạo lập gia đình ngay từ thủa ban đầu, Con Thiên Chúa cũng chọn gia đình để sinh ra và cưu ngụ.
Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa
Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng và thiết lập. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình.
Gia đình đẹp về các mai mối : Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới : Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ : Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận : Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24),. Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán : “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ
Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.
Thiên Chúa Cứu Gia Đình
Để cứu các gia đình, Đấng Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập để làm mới lại tình con người với Thiên Chúa, cụ thể là tình gia đình.
Vì thế, Thiên Chúa đã đến thế gian trong một gia đình, để chỉ cho thấy rằng gia đình là một tổ chức an toàn để gặp gỡ và hiểu biết, và Ngài mời gọi chúng ta không ngừng kiến tạo sự hiệp nhất trong tình yêu. Gia đình được thiết lập dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Gia đình hết sức quan trọng cho hiện tại và tương lai của nhân loại. Vì gia đình là trường học tốt nhất để học cách sống các giá trị nhân phẩm con người và làm cho con người trở nên vĩ đại. Trong đó, mọi thành viên trong gia đình chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn, tất cả chúng ta đều cảm thấy được sự bảo vệ bởi tình cảm tồn tại trong gia đình.
Gia đình sống Lời Chúa
Trong Tâm Thư Gởi Các Gia Đình năm 1994, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết : “Mầu nhiệm Ngôi lời Nhập Thể của Thiên Chúa liên kết mật thiết với gia đình nhân loại: không những với một gia đình, một gia đình ở Nagiarét, nhưng một cách nào đó, với hết mọi gia đình […]. Giáo Hội coi việc phục vụ gia đình là một trong những bổn phận thiết yếu của Giáo Hội. Trong ý nghĩa này, cả con người và gia đình kết cấu thành con đường của Giáo Hội”. (số1.2).
Trong Tông Thư về Kinh Mân Côi, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã đề cao tầm quan trọng của gia đình, gia đình là tế bào căn bản của xã hội loài người và Giáo hội, là xã hội thu nhỏ, là Hội Thánh tại gia. Ngài mời gọi chúng ta đọc Kinh Mân Côi cầu cho các gia đình. Vì gia đình có tốt thì Giáo hội mới tốt được.
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chính nơi gia đình mà Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan (Lc 2, 40). Chúa Giêsu cảm thấy ấm áp khi sống trong gia đình, các thành viên xây dựng quan hệ tương quan tình yêu với nhau. Cũng thế, thật tốt đẹp biết bao, nếu chúng ta cùng nhau xây dựng gia đình mình thành một gia đình đầy ắp yêu thương, mọi người tôn trọng nhau, hiểu biết và tha thứ cho nhau, hy sinh và cầu nguyện cho nhau trong tình liên đới.
Ai trong chúng ta cũng đã từng sinh ra và sống trong gia đình hiển nhiên là có trải nghiệm, như gia đình Nagiarét xưa, sự hài hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người ! Ngày nay, việc gầy dựng gia đình là một trong những việc làm cấp bách. Như Công đồng Vaticanô II nhắc nhớ, cha mẹ giữ một vai trò khong thể thay thế được : “Đối với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương, Người đã hiến mạng vì Hiền thê” (x.Vat II, LG. V). Chính trong gai đình mà chúng ta học được bài học quan trọng nhất là : làm người. Con Thiên Chúa làm người để chúng ta được làm người hơn.
Lạy Ba Ngôi Cực Thánh ở trần gian, xin giúp chúng con biết noi gương các thành viên trong Thánh Gia Thất, để gia đình chúng con trở nên cái nôi của tình thương, sống mãnh liệt Đạo Tình Thương ngõ hầu mỗi thành viên trong gia đình Công Giáo trở nên chứng nhân sống động của Hài Nhi Cứu Thế giáng sinh. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
SỐNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Hằng năm, sau Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dành một ngày đặc biệt để kính nhớ gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, một gia đình thánh thiện tuyệt vời để mọi gia đình khác noi theo. Lễ Thánh Gia là ngày lễ bổn mạng của các Gia đình Công giáo.
Các Bài Đọc đều hướng về gia đình. Bài Đọc I trích trong sách Huấn Ca (3,3-7;14-17) (Cũng có thể chọn Bài đọc trong sách Khởi Nguyên (15, 1-6; 21, 1-3) đề cao tình hiếu thảo của con cái đối với các bậc sinh thành, ông bà, cha mẹ. Bài Đọc II trích trong Thơ gởi tín hữu Côlôsê (3, 12-21) (Cũng có thể chọn Bài đọc trích trong Thơ Do Thái (11, 8; 11-12; 17-19): Thánh Phaolô kêu gọi mọi người trong gia đình hãy thương yêu, chịu đựng và tha thứ cho nhau; hãy lo chu toàn bổn phận giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (2, 22-40) tường thuật về những sự việc xảy ra khi Đức Mẹ và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi vào Đền Thánh theo luật thời đó.
Ngày nay, người ta thường nói đến các khủng hoảng của gia đình. Nhiều gia đình bị tan vỡ vì tình trạng ly dị. Ở nhiều nơi, tỷ lệ các gia đình li dị có thể lên tới một nửa hay quá một nửa! Nhiều gia đình chỉ có mẹ, nhiều gia đình chỉ có cha, và các em lớn lên cảm thấy như bị ‘mồ côi’ cha hoặc mẹ. Ngoài ra, có những em phải sống trong những gia đình ‘thiếu tình thương’, cha mẹ luôn sống bất hòa, và các em mới lớn lên, tâm hồn còn đang đơn sơ thanh thản, nhưng lại luôn phải chứng kiến những xáo trộn trong gia đình, làm ảnh hưởng sâu đậm đến cả cuộc đời các em.
Vì tình trạng ly dị như vậy, nên có những đôi bạn trẻ sống chung mà không làm hôn phối, đưa đến phong trào tự do luyến ái ngoài hôn phối. Chưa kể đến phong trào kết hôn đồng tính, nam lấy nam, nữ lấy nữ. Tất cả đều tác hại vào hạnh phúc gia đình, và phương hại đến nền tảng xã hội, vì ‘gia đình là nền tảng của xã hội’.
Trước thảm trạng đó, chúng ta cần phải theo những hướng dẫn cụ thể mà Giáo Hội đã đề ra để giúp chúng ta ‘Sống Hạnh Phúc Gia Đình’ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, tránh được những đổ vỡ đáng tiếc. Dù trong thực tế, gia đình nào cũng phải trải qua những ‘khủng hoảng’; tuy nhiên, biết được các phương thế để đề phòng, chúng ta sẽ dễ vượt qua các khủng hoảng đó. Sau mỗi khủng hoảng, tình yêu vợ chồng sẽ gia tăng. Chính những ‘khủng hoảng’ tôi luyện tình yêu vợ chồng và giúp vợ chồng biết sống vị tha và yêu thương nhau chân thành hơn.
Theo hướng dẫn của Giáo Hội, trước khi kết hôn, các bạn trẻ cần dành thì giờ tìm hiểu và chia sẻ những dự định về tương lai lâu dài. Khi đã quyết định tiến tới hôn nhân, cần tham dự các khóa Dự bị Hôn Nhân để học hỏi những hướng dẫn của Giáo Hội và những kinh nghiệm của các bậc vợ chồng đã đi trước truyền lại. Ngoài ra, để chuẩn bị ngày rất quan trọng là ngày lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối, đôi bạn trẻ nên đi dự một cuối tuần tĩnh tâm (Engagement Encounter) để cùng nhau cầu nguyện chung. Hơn nữa, cũng để chuẩn bị bước vào một giai đoạn rất quan trọng của đời sống hôn phối.
Mặc dù trong xã hội ngày nay, cuộc sống rất bận rộn, nhưng vợ chồng vẫn cần dành thời giờ để thương yêu và chia sẻ tình yêu với nhau, với con cái. Có những đôi vợ chồng quá lo ‘làm ăn’ mà thiếu thời giờ chia sẻ tình yêu với nhau, đến khi giầu có về của cải, thì tình yêu lại nghèo đi, và đi đến chỗ đổ vỡ đáng tiếc.
Con cái là hồng ân Chúa ban. Chúng ta hãy luôn cảm tạ Chúa, và cố gắng dành thời giờ để tìm hiểu và nâng đỡ các em, nhất là khi các em đến tuổi ‘dậy thì’. Khi các em đã khôn lớn, nên khuyến khích và giúp đỡ các em gia nhập các hội đoàn như: Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, các Ca Đoàn… Một điều rất tốt là chính cha mẹ cũng hăng hái tích cực tham dự các sinh hoạt phụng vụ hoặc truyền giáo của giáo xứ. Rất may, là hiện nay Giáo Xứ nào, Cộng Đoàn Công Giáo nào cũng có những sinh hoạt đoàn thể khác nhau và có nhiều người tham gia.
Có nhiều khó khăn trong đời sống gia đình, vì thế chúng ta cần cầu nguyện nhiều với Chúa qua những buổi cầu nguyện chung trong gia đình, các giờ cùng đi dâng Thánh lễ cuối tuần hay những ngày lễ quan trọng theo lịch Phụng vụ của Giáo Hội, hoặc những kỷ niệm đặc biệt của gia đình.
Hằng năm, các gia đình nên tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm do Giáo Xứ hay Cộng Đoàn tổ chức, thường là vào Mùa Chay và Mùa Vọng. Ngoài ra cũng có những buổi Tĩnh Tâm, Hội Thảo dành riêng cho các bậc vợ chồng (Marriage Encounter) được tổ chức tại các Trung Tâm Tĩnh Tâm của các Giáo Phận. Đây là những dịp rất tốt để ‘Canh Tân’ đời sống bản thân và gia đình, đem lại một sức sống mới hạnh phúc hơn cho vợ chồng và gia đình chúng ta.
Mỗi gia đình cần có Bàn Thờ gia đình ở nơi trang trọng trong nhà, là nơi gia đình cùng cầu nguyện chung. Chúng ta cũng cần dành một ngân khỏan hàng năm để mua sách và báo chí đạo, các băng nhạc đạo, các ‘video’ đạo để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của gia đình. Tất nhiên, gia đình nào cũng cần có Sách Kinh Thánh. Cha mẹ và con cái cần tìm hiểu và cầu nguyện bằng Kinh Thánh, vì Kinh Thánh là nền tảng của Đạo Thánh Chúa, nhờ đó chúng ta mới có một Đức Tin vững chắc. Điều rất mừng là ngày nay có nhiều những khóa học hỏi về Kinh Thánh do các Hội Đoàn hoặc Giáo Xứ tổ chức, và có nhiều người tham dự.
Trong ngày Lễ Thánh Gia, bổn mạng của gia đình, ngoài việc cùng nhau đi dâng Thánh Lễ, chúng ta nên dành nhiều giờ cầu nguyện hơn trong gia đình. Nếu có thể, nên có bữa ăn chung đặc biệt, và buổi cầu nguyện chung vào buổi tối. Xin Chúa thánh hóa gia đình chúng ta. Xin cho người chồng biết noi gương can đảm của Thánh Giuse, luôn sống đời sống đạo đức, làm gương cho vợ con, can đảm chấp nhận Thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin cho người vợ biết noi gương Mẹ Maria: luôn biết hy sinh cho chồng, cho con, chung thủy trong tình yêu, chung tay xây dựng gia đình và giáo dục con cái. Xin cho các bạn trẻ đang lớn lên, biết noi gương Chúa Giêsu ở Nagiaret, chăm chỉ làm việc, học hành, khéo léo cư xử với cha mẹ và lắng nghe những hướng dẫn của cha mẹ là những người cả cuộc đời hy sinh cho con cái, và luôn muốn giáo dục con cái nên những người con ngoan, những người con tốt cho gia đình và xã hội.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi gia đình chúng ta, để mỗi gia đình Công Giáo luôn là những gia đình được sống hạnh phúc trong tình yêu Chúa, thành thực yêu thương phục vụ nhau, cùng nhau xây dựng những gia đình hạnh phúc, những gia đình gương mẫu, và góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ gia đình nhân loại đang gặp nhiều khủng hoảng hiện nay.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
LỄ CỦA MỌI GIA ĐÌNH- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư ; Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua. Khổng Tử kể: Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu khóc với Trời: “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai: “Vu điền” – ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá! Ông phải tận lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba: “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói: Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm pháp. Trái lại: ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn: “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng. “Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng”: Đại hiếu thứ nhất tôn kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Đạo làm con, đạo làm cha mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống. Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được: Ca dao nói: “Mạng sống hơn đống vàng”. Phúc Âm cũng dạy: “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của cha mẹ: “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên. Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ: “Con nuôi mẹ, con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến: Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế, sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo, mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình các Ngài! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài! Xin dạy gia đình chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ, người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm hồn chan hòa ơn thánh. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
TỔ ẤM- Lm. Đỗ Vân Lực, OP
“Gia đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn hóa Á Châu” (Giáo hội tại Á châu:1999). Nét đặc sắc của văn hóa dân tộc cũng phát xuất từ gia đình. Thành công hay thất bại cá nhân thường tùy thuộc vào gia đình. Do đó không thể không xét đến vai trò gia đình trong những liên hệ tới cá nhân, xã hội và Giáo hội.
Nhưng làm sao có thể thấy được tất cả mọi ngõ ngách cuộc sống gia đình, nếu không nêu lên được một lý tưởng gia đình ? Còn lý tưởng nào cao đẹp hơn Thánh Gia, nơi chính Con Thiên Chúa đã được dưỡng nuôi, giáo dục và trưởng thành ? Chính Người đã thánh hóa đời sống gia đình và biến Thánh gia thành nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ cho toàn thể gia đình nhân loại.
THEO BƯỚC THÁNH GIA
Một cảnh thật đầm ấm, Thánh gia quây quần trong đền thờ. “Cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người”(Lc 2:27). Tinh thần vâng phục lề luật được thể hiện rõ ràng, vì cha mẹ Người đã nhìn thấy thánh ý Thiên Chúa trong tập tục thánh đó.
Khi tiến vào đền thánh để thi hành lề luật, Thánh gia đã đem cả hai giao ước tới điểm cánh chung. Chính trong việc vâng lời lề luật của Thánh gia, Cựu ước đã đạt tới mức viên mãn. Đồng thời một chế độ Tân ước đã mở ra với những nét khai phóng. Nét mới lạ ở đây tập trung quanh những nhân vật chính là Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Tất cả Thánh gia đã được cụ già Simêon đón tiếp vào trong đền thờ Thiên Chúa như những thượng khách, hơn nữa như những nhân vật chính sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Từ nay đền thờ sẽ mang một khuôn mặt mới, vì chính Đấng thánh hóa đền thờ đã ngự đến.
Tất cả những lời cụ già Simêon đều liên quan tới sứ mạng hai Mẹ Con sẽ thực hiện cho toàn thể nhân loại. Simêon vui sướng vì đã được thấy tất cả chiều kích lớn lao của ơn cứu độ : “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, Là vinh quang của Israel Dân Ngài.” (Lc 2:30-32) Vinh quang đó chính là “ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1:10 -11) Đó chính là bi kịch Simêon tiên báo với cha mẹ Đức Giêsu : “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2:34) Thánh giá đã giãi bóng vào đền thờ. Nếu không có Thánh giá, ơn cứu độ cũng chẳng đến với muôn dân. Thánh gia cùng chia sẻ Thánh giá khi lời tiên tri hướng thẳng về Mẹ : “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.”(c.35)
Chính nhờ sự cộng tác chặt chẽ với Đức Giêsu, Thánh gia đã góp phần lớn lao vào công cuộc cứu độ muôn dân. Khó khăn lớn nhất trong công cuộc lớn lao đó chính là dưỡng dục Hài nhi Giêsu để làm sao “ngày càng lớn lên thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.”(c.40) Cha mẹ đã vâng phục “như Luật Chúa truyền,”(c.39) và đã uốn nắn Hài Nhi theo đúng tinh thần con cái Chúa. Nhờ vậy, suốt đời Đức Giêsu mới luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đó chính là hoa trái tốt đẹp nhất của gia đình. Nhìn thấy Đức Giêsu ngày càng trưởng thành trong ân sủng như thế, cha mẹ Người chắc chắn phải hài lòng và thầm cảm tạ Thiên Chúa. Cha mẹ Người đã tìm thấy được tất cả ý nghĩa cuộc đời trong thành quả lớn lao đó. Mồ hôi, nước mắt đổ ra không uổng công. Chắc hẵn nhiều lần, cũng như bà tiên tri Anna, cha mẹ Người cũng “nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.”(c.38)
GIÁO HỘI TẠI GIA
Dõi vết chân Thánh gia, “các gia đình Kitô hữu ngày nay được kêu gọi làm chứng cho Tin Mừng.” (Giáo hội tại Á châu:1999) Nhưng muốn thi hành được sứ mạng cao cả đó, trước hết gia đình phải được thánh hóa trong sự thật. Nghĩa là “gia đình Kitô hữu, cũng như Giáo hội nói chung, phải là một nơi mà chân lý Tin Mừng là luật sống và là ân huệ mà các phần tử gia đình mang đến cho cộng đồng rộng lớn hơn.”(GHTAC:1999) Tin Mừng chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy gia đình dấn thân, khi mọi người đều được Phúc Aâm hóa. Thánh Phaolô khuyên : “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.”(Cl 3:12-14) Đây không phải chỉ là những đức tính nhân bản. Vì chính nhờ Thánh gia, những đức tính ấy đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho muôn người.
Một đức tính nổi bật nhất trong khung cảnh gia đình, đó là lòng hiếu thảo. Đức Giêsu đã là một đứa con ngoan khi vâng lời cha mẹ giữ tất cả những điều luật lệ và cha mẹ truyền. Nếu không, chắc chắn Người đã không thể trưởng thành như vậy. Người ý thức rất rõ “luân lý Do thái đề cao việc thảo kính cha mẹ. Mệnh lệnh này trổi bật trong mười điều răn, tiếp ngay sau giới răn mến Chúa và trước các liên hệ với tha nhân.”(Ex 20:12; Đnl 5:16) (Faley:1994) Luân lý đó rất phù hợp với thiên nhiên và phong tục của các dân tộc Á châu, trong đó có Việt Nam. Thật vậy, “các giá trị gia đình như lòng hiếu thảo, tình yêu và sự chăm sóc kẻ già và bệnh hoạn, tình yêu trẻ con và sự hài hòa, đều được quý trọng nhiều trong tất cả các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Á châu.”(GHTAC:1999)
Cha mẹ chiếm một chỗ đứng thật quan trọng trong cuộc sống, con tim và truyền thống Việt Nam. Chữ hiếu không bao giờ lỗi thời, vì không bao giờ có thể quên : “Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Chính khi thi hành đạo hiếu, chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa và “sống ơn gọi Kitô hữu cách khiêm tốn và trong tình yêu.”(GHTAC: 99) Cha mẹ trở thành điểm gặp gỡ giữa đất trời, điểm qui tụ “Giáo hội tại gia”(LG 11) Thực vậy cha mẹ có thể “cử hành những nghi lễ xứng hợp do cha mẹ chủ sự” và “tạo dịp thuận tiện để cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh.” (GHTAC:1999) Đó là những lúc giáo dục tốt nhất vì “điều đó sẽ giúp gia đình Kitô hữu trở nên tổ ấm Tin Mừng hóa, nơi mỗi phần tử kinh nghiệm tình yêu Thiên Chúa và truyền sang cho người khác.”(GHTAC: 99) Sức mạnh gia đình càng tăng triển khi liên kết với sinh hoạt giáo xứ, “chia sẻ các bí tích, nhất là bí tích Thánh thể và Sám hối, và dấn thân phục vụ người khác.” (GHTAC:99)
Giáo hội đang quan tâm rất nhiều tới gia đình, vì “gia đình là một trong những thành viên hữu hiệu nhất trong việc rao giảng Tin Mừng”, và vì “tương lai thế giới và Giáo Hội thông qua gia đình.”(GHTAC:99) Nhờ gia đình, ngay cả trẻ em cũng có thể trở thành những tông đồ tí hon xây dựng Nươc Chúa. Thực vậy, “các trẻ em có vai trò trong việc rao giảng Tin Mừng, vừa ở gia đình của chúng vừa ở trong cộng đồng rộng lớn hơn.”(GHTAC:99) Biết bao cha mẹ đã trở lại vì con cái…
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
GIA ĐÌNH, TỔ ẤM YÊU THƯƠNG- Trích Logos B
Năm 1915, tòa án đại hình Paris, nước Pháp đã kết án tử hình một cậu thiếu niên 15 tuổi phạm tội cướp của giết người. Trước khi lên đoạn đầu đài, cậu xin một đặc ân : Được ôm hôn vĩnh biệt người cha già.
Nhân viên của đội hành quyết đã chấp nhận lời cầu xin đó. Họ cho mời cha cậu tới. Với dáng điệu bơ phờ, nước mắt ràn rụa, người cha tiến đến bên người con trai. Cậu con trai với khuôn mặt hung bạo, đôi mắt đỏ ngầu, cúi sát vào mặt cha. Cậu muốn nói lời vĩnh biệt chăng ? Không, thay vì hôn người cha để từ biệt, thì cậu đã nghiến chặt hàm răng cắn đứt vành tai của ông. Rồi ngọn lửa căm hờn như hỏa diệm sơn bùng lên trong lòng cậu, cậu gào lên :
– Tôi tha thứ cho xã hội, tha thứ cho quan tòa, tha thứ cho mọi người, nhưng có một người tôi không thể tha thứ được. Đó là cha tôi, con người này đây. Ông đã giáo dục tôi trong sự nuông chiều nhu nhược. Ông đã dạy dỗ tôi bằng cuộc sống ăn chơi trác táng, để hôm nay, thảm kịch đau thương đã đổ xuống trên đầu tôi.
Câu chuyện trên chính là vở bi kịch đã xảy ra trong một gia đình, trong đó, người cha người mẹ đã thiếu quan tâm giáo dục con cái, thậm chí đã trở thành tấm gương xấu cho con cái trong gia đình. Hôm nay, ngày lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào mẫu gương sáng của Gia Đình Thánh, trong đó Mẹ Maria và thánh Giuse xứng đáng là bậc cha mẹ lý tưởng cho các bậc cha mẹ noi theo.
Mẫu gương vâng phục.
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay thuật lại 2 biến cố quan trọng đã xảy ra trong Thánh Gia Thất. Đó là cuộc chạy trốn sang Ai Cập và hồi hương về Nazareth. Trong cả hai biến cố, thánh Giuse và Mẹ Maria đã biểu lộ sự vâng phục trước thánh ý Thiên Chúa với sự mau mắn đầy tin tưởng, phó thác.
Khi được thiên thần Chúa báo mộng hãy đưa Mẹ Maria và Hài Nhi trốn sang Ai Cập và sau đó, khi vua Hêrôđê băng hà lại đưa 2 mẹ con về Nazareth, thánh Giuse lập tức “chỗi dậy” thi hành ý Chúa, dù là giữa đêm khuya.
Thánh Giuse là gia trưởng trong gia đình. Vì thế, khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình, đều nói qua thánh Giuse. Dù Mẹ Maria và Chúa Giêsu cao trọng hơn thánh Giuse, nhưng các Ngài luôn vâng lời thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Chính việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa đã làm nên sự thánh thiện tuyệt vời ở nơi thánh Giuse và Mẹ Maria. Cũng vì vậy, các Ngài đã xây dựng được một gia đình thánh.
Mẫu gương can đảm.
Để cứu Hài Nhi Giêsu thoát khỏi bàn tay khát máu của vua Hêrôđê, thánh Giuse và Mẹ Maria đã phải trải qua một cuộc hành trình gian khổ dài gần 500 cây số. Trên cuộc hành trình đó, các Ngài phải vượt qua sa mạc El – Arish dài 200 cây số toàn cát trắng, không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giếng nước. Người và lạc đà phải mang đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng trời đi trong sa mạc cháy bỏng.
Qua những gian nan, thử thách, thánh Giuse và Mẹ Maria đã chứng tỏ mình là bậc gia trưởng và hiền mẫu đầy dũng cảm, đã hy sinh tận tuỵ trong việc chăm sóc và bảo vệ Chúa Giêsu. Lòng can đảm và nghị lực ấy được các Ngài kín múc từ Thiên Chúa là nguồn sức mạnh vô biên mà các Ngài hằng cậy trông.
Xây dựng một tổ ấm tình thương.
Hôm nay, ngoài mẫu gương sống động của thánh Giuse, Mẹ Maria là bậc gia trưởng và hiền mẫu lý tưởng, phụng vụ Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy qua đoạn sách Huấn Ca. Đoạn sách này chính là lời giáo huấn quý giá về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.
Nền tảng của việc thảo kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa : “Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, quyền lợi người mẹ, Ngài củng cố trên đàn con”. Ngoài ra, việc thảo kính cha mẹ đem lại rất nhiều ơn ích : Đó là đền bù tội lỗi của mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Hơn nữa, lòng thảo hiếu sẽ khiến cho con cái thu tích được một kho tàng quý giá. Kho tàng ấy là lòng hiếu nghĩa sẽ giúp cho người con được trưởng thành trong đạo lý làm người. Lòng hiếu thảo còn làm cho cha mẹ được an vui và nhờ vậy, được sống lâu giữa đoàn con cái xum vầy. Sau cùng, con cái thảo hiếu với cha mẹ, thì mai sau cũng được đáp trả bằng sự hiếu kính ở nơi con cái mình.
Đạo làm con còn giúp cho người ta trở nên tốt hơn trong đạo làm người, như câu chuyện sau đây :
Ông Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ nổi tiếng của Ấn Độ, luôn tự hào là người không bao giờ nói dối. Ông có được đức tính ấy là nhờ mẹ ông.
Một hôm, Gandhi ở trường về, ông sợ mẹ trách mắng nên đã nói dối mẹ một việc nhỏ. Nhưng mẹ ông biết chuyện ấy. Vì thế, ngày hôm đó bà buồn rầu không ăn uống gì. Gandhi hết lời van nài, nhưng bà mẹ vẫn nhất định không chịu ăn. Cuối cùng, mẹ ông giải thích :
– Thà mẹ thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì nói dối chính là biểu lộ một tâm hồn khiếp nhược. Có người con như thế là một mối nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa. Nghe thế, Gandhi liền đứng dậy đi thẳng vào nhà bếp, lấy một cục than hồng đặt trên bàn tay và nói với mẹ :
– Con thề với mẹ, suốt đời con sẽ không bao giờ nói dối nữa !
Từ đó, Gandhi không bao giờ thất hứa với mẹ. Ông thường kể lại : “Vết sẹo trên bàn tay tôi là hình bóng của mẹ tôi, không bao giờ rời bỏ tôi. Đó là vị thần phù hộ tôi luôn sống ngay thẳng và trọng danh dự”.
Trong bài đọc II (Thư Colossê), thánh Phaolô kể ra những đức tính quý báu trong cuộc sống gia đình : Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau : “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”.
Gia đình giống như “ngôi nhà lý tưởng” được xây dựng trên một nền móng vững chắc. Nền tảng vững chắc đó không gì khác hơn là chính Thiên Chúa. Gia đình nằm ngoài nền móng ấy, sẽ lung lay và sụp đổ.
“Ngôi nhà” ấy sẽ có người cha, người mẹ dũng cảm và thánh thiện như mái nhà che chở đàn con. “Ngôi nhà” ấy cũng phải được xây dựng bằng những viên gạch yêu thương của mọi thành viên trong gia đình. “Ngôi nhà” ấy có nóc là người cha, có cột đỡ nâng là người mẹ, làm nên tổ ấm yêu thương. “Ngôi nhà” ấy có những cánh cửa luôn mở ra để đón tiếp mọi người trong tinh thần tương thân tương ái. “Ngôi nhà” ấy luôn hướng mặt về Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Ngài và thi hành trong cuộc sống. “Ngôi nhà” ấy luôn có bếp lửa hồng tỏa hơi ấm tình thương, xua tan giá băng lạnh lẽo. “Ngôi nhà” ấy luôn có Chúa ở cùng, có phúc lộc tràn đầy. Gia đình luôn phải là một tổ ấm đầy tình yêu thương.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- Năm B
TRÁCH NHIỆM-TÌNH YÊU- Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
Người ta thường nói: “Chúng ta có nhiều chốn để đi, nhưng chỉ có một nơi để về, đó là gia đình”. Tuy nhiên, thực tế ngày nay lại khác, bởi nhiều người đã không còn coi gia đình là mái ấm, lý do: nơi ấy thiếu tình yêu thương, trách nhiệm và cũng chẳng còn hấp dẫn nếu không muốn nói là đang ngày càng bị đe dọa!
Hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu đến chúng ta một Gia Đình Thánh, đó là gia đình Thánh Gia. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình noi gương bắt chước Mẹ Maria, thánh Giuse và Đức Giêsu trong việc xây dựng gia đình trên nền tảng tình yêu và trách nhiệm.
Thực trạng gia đình hiện nay
Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thật vậy, nhìn vào thực tế nhiều gia đình hiện nay, chúng ta không thể không lo ngại và thất vọng, bởi vì:
Có những điều mà ngày xưa người ta coi đó là quái gở, nhưng hôm nay lại là chuyện bình thường được diễn ra như cơm bữa hằng ngày!
Chẳng hạn như chuyện nạo phá thai. Đi ra ngoài đường, chúng ta thấy những trung tâm, phòng khám, nhan nhản mọc lên với những tấm biển nhìn mà thấy ớn lạnh như: “Phá thai an toàn, không đau”; “Siêu âm, hút thai bằng thuốc”.
Chính sự dễ dàng và công khai, cộng thêm chuyện yêu đương bừa bãi hoặc những người cha người mẹ không có tình yêu, thiếu trách nhiệm, nên họ sẵn sàng đang tâm giết chính đứa con vô tội của mình một cách bình thường mà không hề áy náy!
Mặt khác, cảnh ly dị đang dần trở thành thông lệ. Không chỉ những người đã xây dựng gia đình muốn ly dị, mà ngay cả những bạn trẻ chưa lấy vợ lấy chồng mà đã đi tìm “đường thoát hiểm”, cho ngày chia tay trong tương lai! Đây là một nỗi buồn tê tái, bởi vì những cặp vợ chồng ly dị, hậu quả khôn lường, bi đát sẽ đổ dồn lên đầu những đứa con thơ ngây, vô tội.
Hơn nữa, lại có nhiều gia đình ngày nay không dám sinh nhiều con, họ biện minh là không có điều kiện, thời gian…, nên chỉ sinh 1 hoặc 2 con.
Đây là một lựa chọn không thực tế do thói ích kỷ của các bậc làm cha mẹ, nên đã dẫn đến tình trạng bi đát nơi các gia đình.
Thật vậy, khi sinh ít con, bố mẹ thường hay chiều chuộng thái quá. Vì thế, xảy ra tình trạng như: chúng luôn nghĩ mình là thành phần quan trọng nhất trong gia đình, nên nó có quyền đòi buộc mọi người phải phục vụ và đáp ứng mọi nhu cầu. Nếu không, chúng có thể quậy phá, chửi bới, đánh đập…. Đã có biết bao nhiêu bậc cha mẹ bị con cái đánh, chửi, và ngay cả giết chết chỉ vì không đáp ứng đúng như yêu sách của chúng.
Cũng có khá nhiều bậc cha mẹ ít quan tâm đến con cái, mà chỉ lo kiếm tiền hay quá tập trung đến công việc…, mà quên đi tình yêu thương, bổn phận, trách nhiệm của mình với con cái. Vì thế, sau này, đứa trẻ lớn lên nó sẽ vô cảm và dửng dưng với chính bậc sinh thành!
Nguyên nhân dẫn đến chuyện bi đát ấy là: người ta ít coi trọng chữ tín và trách nhiệm với nhau. Từ đó, họ đâu còn để ý hay nâng niu tình yêu và chung thủy trong đời sống gia đình.
Bên cạnh đó, việc hội nhập những nền văn hóa ngoại lai cách vội vàng và thiếu lành mạnh, đã khiến cho chúng ta bị chới với và buông theo khi chưa phân định đúng đắn trong việc chọn lựa.
Trên đây chính là nguyên nhân dẫn đến chuyện bạo lực, ly hôn, ly dị và thiếu trách nhiệm nơi gia đình.
Đây cũng là nguyện nhân làm đảo lộn giá trị đạo đức tốt đẹp của các gia đình hiện nay.
Mẫu gương cho các gia đình
Trong khi xã hội và con người ngày nay ít chú tâm đến trách nhiệm cũng như sự chung thủy nơi các gia đình, thì phụng vụ Giáo Hội làm toát lên gương mẫu của gia đình Thánh Gia để cho các bậc cha mẹ và con cái noi theo.
Trước tiên, nơi Đức Mẹ và thánh Giuse, các ngài đã để lại cho các bậc cha mẹ mẫu gương tuyệt vời về hai chữ “trách nhiệm”.
Các ngài có trách nhiệm với Thiên Chúa, với nhau và với con cái. Vì thế, hai ông bà đã bồng ẵm Hài Nhi Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa, cũng như thanh tẩy cho Mẹ của Hài Nhi theo luật định.
Đây chính là quy định trong Luật của Môsê, và hai ông bà đã sẵn sàng chu toàn với đầy trách nhiệm trong lòng mến.
Trách nhiệm của Đức Mẹ và thánh Giuse còn được rõ nét khi hai ông bà đang đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập, rồi một thời gian sau lại từ Aicập trở về. Hơn nữa, năm Đức Giêsu lên 12 tuổi, khi lạc mất con trong đền thờ, hai ông bà đã lặn lội ngược xuôi để tìm cho kỳ được.
Đây là mẫu gương tuyệt vời của Đức Mẹ và thánh Giuse.
Còn với Đức Giêsu, ngài là một người con hiếu thảo, ngoan ngoãn, vâng lời. Vì thế, Kinh Thánh đã diễn tả như sau:
“Hài Nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã hiện diện và sống trong một gia đình coi trọng trách nhiệm và sự thủy chung, vì thế, Ngài cũng là một người con đầy trách nhiệm. Trách nhiệm trước tiên với Thiên Chúa, sau là với cha mẹ của mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, Ngài được tràn đầy ân sủng. Trước mặt Đức Mẹ và thánh Giuse thì Ngài hằng vâng phục các ngài.
Mẫu gương thứ hai cho các gia đình là mẫu gương về sự “chung thủy”.
Mặc dù nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu, cả ba đều là thánh và sống đẹp lòng Thiên Chúa trọn vẹn. Nhưng nơi gia đình này, Thiên Chúa cũng không miễn trừ những khó khăn.
Tuy nhiên, những thử thách dồn dập xảy đến, nhưng nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu vẫn bình an, hạnh phúc và chung thủy.
Có được điều này là bởi vì các ngài luôn yêu thương nhau bằng tình yêu tự hiến, luôn biết đón nhận những thử thách trong niềm tin và lòng mến, đồng thời biết thánh hóa những đau khổ ấy và biến nó thành niềm vui cứu độ.
Sứ điệp ngày lễ
Sứ điệp Lời Chúa và ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương Gia Đình Thánh Gia để sống có trách nhiệm với nhau nhằm xây dựng tổ ấm gia đình trong tình yêu và sự chung thủy.
Cần biết lượng giá những thứ tự ưu tiên trong việc vun đắp hạnh phúc gia đình.
Trước tiên, đó là phải cùng nhau xây dựng tình yêu. Gia đình chỉ có hạnh phúc thực sự khi mọi thành phần của gia đình biết quan tâm, chăm sóc nhau trong tinh thần trách nhiệm và yêu mến. Không có tình yêu, gia đình không có tiếng cười và sẽ biến thành hỏa ngục chốn trần gian!
Thứ hai, các bậc cha mẹ đừng quá quan trọng vấn đề cơm áo gạo tiền. Nhiều bậc cha mẹ đêm ngày lao mình vào cuộc chiến kiếm tiền, nên đã không còn coi trọng đến hai chữ tình yêu cũng như trách nhiệm với nhau và con cái. Vì thế, tình yêu phai nhạt, thất trung leo thang và cuối cùng là bị ngã gục trong sự ích kỷ, đổ vỡ….
Thứ ba, cần tôn trọng bạn đời của mình như một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho mình. Mặt khác, cha mẹ biết yêu thương con cái như là kết quả của tình yêu dâng hiến mà hai người trao cho nhau.
Cuối cùng, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc thực sự, các bậc cha mẹ và con cái hãy yêu mến những việc đạo đức, nhất là siêng năng tham dự thánh lễ cũng như các Bí tích và trung thành với giờ kinh tối gia đình.
Làm được những việc đó trong lòng mến và trách nhiệm, chúng ta mới mong có được một gia đình hạnh phúc, ấm êm, để cho mọi thành viên cảm thấy an vui mỗi khi ở trong gia đình, và mong muốn được trở về mỗi lúc đi xa.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, xin cho chúng con biết noi gương các Ngài để sống đẹp lòng Chúa, biết yêu thương nhau trong tinh thần trách nhiệm và thủy chung, để xây dựng một gia đình yên vui, hạnh phúc trong tình yêu và trách nhiệm theo khuôn mẫu của gia đình Thánh Gia. Amen.