CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ CHÚA– Chú giải của Noel Quession. 6
SỨ ĐIỆP VỀ ĐỨC MARIA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 15
THIÊN CHÚA NHỚ LẠI LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm Luigi Gonzaga Đặng Quang Tuấn 31
TRỞ NÊN DỤNG CỤ CỦA CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 34
CHUẨN BỊ GẦN CHO VIỆC CHÚA ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 46
KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 58
MẸ MARIA ĐƯỢC VINH DỰ ĐÓN CHÚA- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 62
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B.. 70
CUỘC HÒA ĐÀM LÝ TƯỞNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 70
NHẬP THỂ, MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU CỨU ĐỘ – Lm. Phêrô Lê Văn Chính 76
HÃY LÀ NHỊP CẦU ĐƯA CHÚA ĐẾN VỚI ANH EM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 82
LỜI XIN VÂNG CỨU ĐỘ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 85
SỰ THUẬN PHỤC TRỌN VẸN- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 89
TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 95
THIÊN CHÚA TÌM CHO MÌNH MỘT NGÔI NHÀ- Lm. Gioan Nguyễn Cao Luật 99
EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Trích Logos B.. 105
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16
“Nước Ðavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa”.
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: “Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?” Nathan trả lời với vua rằng: “Ðiều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”. Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: “Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?”
“Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
ÐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. – Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con”. Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. – Ðáp.
“Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày”.
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen.
Alleluia, alleluia! – Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. – Alleluia.
“Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ CHÚA– Chú giải của Noel Quession
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã tiếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra” (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết “báo cáo” của mình rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ” Kinh thánh. Khi nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem… trong đền thờ…với một tư tế… ông này – không tin điều đó.
Trường hợp sau: Đó là Nagiarét… trong một ngôi nhà riêng… với một thiếu nữ… cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?” (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: “Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: “Xin Chúa thêm cho”. Còn tên “Miryam” có nghĩa là: “Bà sang trọng”. Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên “Miryam” tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: “Miryam”… “Yosephel”?
Sứ thần vào nhà cô và nói: “Kính chào bà, bà đầy ân sủng!”.
Có lẽ chúng ta đã chờ đợi một lời chào như: “Kính mừng Maria!”. Thế mà, thay vì Maria, sứ thần lại dùng “Đầy ân sủng” như một tên gọi. Cũng như trong nhiều trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành “Đầy ân sủng” mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái”. Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến “kẻ yêu dấu”, “người được sủng ái” trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là “Kairé”, thực sự mang ý nghĩa “Hãy vui lên”. Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 – 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu “thiếu nữ Sion” hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: “Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui lên”. Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: “Hãy vui lên!”.
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). “Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! “. Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: “Chúa ở cùng anh chị em!”. Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi” cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong tình trạng kín mật… Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh…
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai… và đặt tên là Giêsu.
Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel”. Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp “parthénos” (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái “almah” (người nữ không lấy chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng “lời tiên báo của Na than” (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý định của Luca thật là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp… Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất… như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như’ sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ gì với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về “shekinah”, hay “mây”; “bóng mát”, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària “mây” phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời” mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, thì “mây xuống đầy nhà Chúa” (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
“Thần khí…”, “Quyền năng…”, “Đấng thánh…”, “Đấng tối cao…”. Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin – thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: “Ngôi lời đã nhập thể” (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán được đó là “trong đức tin”. Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
SỨ ĐIỆP VỀ ĐỨC MARIA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng nhấn mạnh sự đối đáp tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16
Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây dựng một Đền Thờ ở thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây cho vua một “nhà”.
Rm 16: 25-27
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh hay còn gọi là Quan Án. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh đòi buộc, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là vua duy nhất của dân tộc họ.
Vua Đa-vít muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nhà:
Sau khi trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Thực tế, vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, lãnh thổ được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây thành một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây ông đóng vai trò của một người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng Thiên Chúa đảo lộn vai trò: chính không phải vua Đa-vít xây nhà cho Đức Chúa; nhưng hoàn toàn ngược lại, chính Đức Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ với hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà vị cố vấn của vua Đa-vít thực hiện chức năng của một vị ngôn sứ. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Chúa phán với ông, cho dù Lời ấy đi ngược lại với thành tâm thiện chí của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
Tầm quan trọng của sấm ngôn.
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo mầu nhiệm về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa…cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10). Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”.
Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi tử hệ Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, dung mạo Đấng Mê-si-a sẽ mang lấy những sắc thái khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng quy chiếu đến khi tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết bức thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị điệu đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
Mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời:
Đoạn trích nầy là một bài thánh thi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm tự ngàn xưa vốn được giữ kín, nhưng nay đã được bộc lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” ở nơi văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như sách Khôn Ngoan. Trái lại, các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ sử dụng thuật ngữ nầy một lần duy nhất, trong khi Tin Mừng Gioan thì không bao giờ.
Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Thiên Chúa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân mọi nước.
Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:
Bài thánh thi bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nghĩa là, Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất của chúng ta. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài thánh thi hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cung cách kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hé lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).
Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ thể thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ka-ri-a ở thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tẩy giả và Đức Giê-su.
Khung cảnh truyền tin.
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” làm nhịp cầu nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc miền Giu-đê, được xem là thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đã đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ka-ri-a nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
Lời chào của sứ thần:
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng là lời mời gọi ngân vang niềm vui của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9) hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời cho Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời đại Mê-si-a và chuẩn bị lòng Mẹ trong tư thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; “ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa; “ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông e ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
Sứ điệp về Đức Giê-su.
Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô):
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải tiếp theo sau.
Con Thiên Chúa.
Một vấn đề Đức Ma-ri-a đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?” Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để Đức Ma-ri-a có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bổng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Ma-ri-a.
Sứ điệp về Đức Ma-ri-a.
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sa-ra, có thể sinh cho ông một cậu con trai : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Đây là một trong những chủ đề chạy xuyên suốt sách Tin Mừng và sách Công Vụ, cả hai đều là tác phẩm của thánh Lu-ca. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà cụ Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Ma-ri-a, Mẹ của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà” nhắc lại Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài, Đức Ma-ri-a được vinh quang rạng ngời của Ngài bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
THIÊN CHÚA NHỚ LẠI LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm Luigi Gonzaga Đặng Quang Tuấn
Đọc Lc 1,26-38 trong văn mạch của 1,5–2,52: Những biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu và Gioan. Thiên Chúa trung tín lại có kế hoạch cứu độ con người. Người muốn tìm kiếm một người làm mẹ, vì kế hoạch ấy bắt đầu từ một hài nhi. Để thực hiện, Thiên Chúa sai sứ thần đến cùng Maria (c.26-27), để kêu gọi Maria cộng tác (c.28), Thiên Chúa trình bày kế hoạch (30-33): phần Maria sẽ làm (c.30-31) và phần của Thiên Chúa (c.32-33), Thiên Chúa trình bày cách thực hiện (35-37). Những phản ứng của Maria: không hiểu (c.29), thắc mắc (c.34) và ưng thuận (38). Hai phần c.30-33 và 35-37 là những lời giải đáp cho thắc mắc của Maria (c.29 và 34).
Đây là kế hoạch cứu độ cuối cùng của Thiên Chúa (x. Lc 20,9-19). Vì Thiên Chúa nhớ lại lời hứa với Abram (1,55.73), nên Người sẽ gởi đến Đấng cứu độ, cũng là con của Người (c.32-33.35), để con cháu Abram được hưởng ơn cứu độ: trước tiên là Maria (1,47), rồi đến những người khác (13,16.28; 16,22; 19:9) và đến muôn đời cho những ai kính sợ Người (1,50). Nên đằng sau lời của thiên sứ, Thiên Chúa là chủ của tất cả mọi hành động trong kế hoạch đó. Ngoài những lần Thiên Chúa được gọi cách rõ ràng dưới nhiều tên khác nhau như: “Thiên Chúa” (c.26.30.32.36.37), “Chúa” (c.28.32.38), “Đấng Tối Cao” (c.32.35), Người cũng là chủ ngữ của những động từ ở thể thụ động (c.26. 28. 32. 35. 38).
Vương quyền của người Con sắp được sinh ra và được đặt trên ngôi Đavít, sẽ trải rộng cách vô tận, trên cả không gian lẫn thời gian (c.31-33.35). Chính Thánh Thần sẽ khởi đầu cho vương quyền của người Con ấy (c.35), và sau nầy, cũng chính Người sẽ tiếp tục làm cho giáo hội của người Con ấy (Tđcv 1,8), bất chấp những điều không thể đối với con người (c.37).
Maria, người Nadaret miền Galilê, được chọn làm người sinh ra Con của Thiên Chúa (c.31). Cả con người lẫn xứ sở đều nhỏ bé và vô ý nghĩa trước mặt con người (c. 27-28). Tuy nhiên, khi Thiên Chúa đã chọn vào sứ mạng cao cả, thì Người cũng đổ đầy ơn. Bởi đó, thiên sứ đã chào Maria bằng tên: “Người được đấy ơn sủng” (c.28) và người “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” (c.30). “Được đầy ân sủng” nói cách đơn giản là người được Thiên Chúa ban đầy ơn. Còn “đã tìm được ân sủng nơi Thiên Chúa” thì nhấn mạnh về phía Maria, là người đã tìm kiếm Thiên Chúa và đã tìm thấy (x. Lc 11,10). Nhưng cuối cùng, chính Thiên Chúa là đấng ban mọi ơn, và ơn cao trọng hơn hết là Con Thiên Chúa vào trong đời mình (1,31.43; x.19,5).
Phần Maria, tự nhận là “tớ nữ của Chúa” (1,38.48), là người kính sợ Thiên Chúa (1,50) và để cho Thiên Chúa toàn năng thực hiện điều Người muốn trong đời mình. Khi Maria lên tiếng chấp nhận, thì Thiên Chúa đã qua được một bước ở ngưỡng cửa của kế hoạch cứu độ tương lai.
TRỞ NÊN DỤNG CỤ CỦA CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào Ngài muốn , theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Nhưng trong công cuộc cứu độ này Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt và tự nguyện của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa Xin Vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng Trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria để trở nên dụng cụ cho Thiên Chúa. Ngày xưa Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, ngày nay Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, vì vậy chúng ta phải trở nên dụng cụ ngoan ngoãn để Chúa nhập thể nơi ta, để ban ân sủng cho ta và ta sẽ đem ban phát cho nhiều người khác.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2 Sm 7,1.8b-11-16.
Sau khi chiến thắng được mọi quân thù, chiếm lĩnh được thành Giêrusalem, yên vị trong hoàng cung rồi, vua Đavít nhờ tiên tri Nathan thỉnh ý Chúa về việc xây cho Chúa một ngôi nhà để làm nơi cho Khám Giao ước trú ngụ.
Thiên Chúa đã nhờ Nathan thông báo cho Đavít biết là Ngài không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa. Đáp lại tấm lòng thơm thảo của vua, Thiên Chúa muốn xây cho ông một ngôi nhà nghĩa là sẽ làm cho triều đại ông bền vững và vinh quang muôn đời.
+ Bài đọc 2 : Rm 16,25-27.
Đây là đoạn thư cuối cùng gửi cho tín hữu Roma, trong đó thánh Phaolô dâng lời ca tụng Thiên Chúa về ơn cứu độ và nhất là đã mạc khải mầu nhiệm này, đã được giấu kín từ đời đời mà nay đã nhờ Đức Giêsu mà tỏ bầy cho muôn dân.
Thánh Phaolô còn ca tụng Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí đã sắp đặt để muôn dân được hưởng ơn cứu độ :”Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Kitô”.
+ Bài Tin mừng : Lc 1,26-38.
Thiên Chúa có thể hành động bằng mọi cách để đạt tới mục đích. Trong việc Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã muốn cho con người cộng tác : Ngài đã chọn Đức Maria để đầu thai Con Một Thiên Chúa. Tuy Thiên Chúa là Đấng vô cùng thượng trí, có thể làm mọi sự theo ý của mình, nhưng thay vì đặt Đức Maria trước một quyết định độc đoán, Chúa đã gợi cho Mẹ biết trước điều Ngài đang chờ đợi nơi Mẹ.
Qua cuộc đối thoại diễn ra giữa Đức Maria và sứ thần thiên quốc, chúng ta được biết Đức Maria đã hoàn toàn hiến thân để thi hành thánh ý Chúa. Mặc dù đã trông thấy trước những khó khăn trong việc thực hiện này, nhưng Đức Maria đã dấn thân và tự nguyện chấp nhận đề nghị này trong tiếng “Xin Vâng”. Qua tiếng Xin Vâng này, Ngôi thai đã nhập thể trong lòng Đức Maria và chờ ngày giáng sinh.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xin vâng theo thánh ý Chúa.
ĐỨC MARIA ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHỌN.
Con người Đức Maria.
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và vĩ đại, nhiều khi đã dùng những phương tiện nhỏ bé, yếu đuối, hèn mọn mà làm những việc vĩ đại. Công cuộc cứu chuộc loài người là một công cuộc hết sức lớn lao mà Thiên Chúa đã dùng một phương tiện nhỏ bé thấp hèn để thực hiện, đó là Trinh Nữ Maria.
Đây là một Trinh nữ khiêm tốn, bình dân, sống trong một làng nghèo nàn xứ Gallilêa gọi là Nazareth với khoảng 20 nóc nhà và 150 nhân danh. Xét theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét theo tài năng, thông minh, học vấn, sắc đẹp, địa vị xã hội… chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria nhiều. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, Maria là người “đầy ơn phúc”, được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế để cộng tác với Ngài trong công cuộc lớn lao vô tiền khoáng hậu này.
Thiên Chúa chọn Maria không vì lý do nào khác ngoài ý muốn riêng và theo sự tự do của Ngài (x.Rm 9,12) và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, trong khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Saul (x. 1Sm 9,17 ; 13, 13,40), hay tông đồ Giuđa (Mt 26,47-50)
Đức Maria được hỏi ý kiến.
Thánh Augustinô viết :”Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta”. Thiên Chúa chủ động về phía Ngài, nhưng khi cứu độ, Ngài cần đến sự cộng tác của ta. Trong công cuộc cứu độ này, Thiên Chúa muốn Maria cộng tác. Đó là lời mời gọi mà sứ thần đã trao gửi nơi Maria theo chương trình của Thiên Chúa, Mẹ phải tạo điều kiện cho Ngài làm người trong thân phận của Con Ngài.
Ngài không áp đặt điều gì : Ngài chỉ đề nghị. Chính vì thế, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Maria về việc làm Mẹ Chúa Cứu thế mà vẫn còn đồng trinh : “Maria sẽ thụ thai một con trai và đặt tên là Giêsu”. Đứa con đó “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu vua Đavít, tôi tớ Người. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”. Maria thấy mình tầm thường mà được Thiên Chúa ban cho vinh dự ấy, làm Mẹ Con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh. Làm Mẹ mà vẫn còn đồng trinh ! Điều ấy làm cho Maria thắc mắc. Nhưng sứ thần đã trấn an Maria :”Không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được”. Tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, Maria đã khiêm tốn thưa với sứ thần :”Này tôi là tôi tá Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền”. Maria đã đáp trả bằng lời mời gọi của Thiên Chúa một cách quyết đáp và khiêm tốn. Sau tiếng “Xin Vâng” này, Maria đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế.
TIẾNG XIN VÂNG CỦA CHÚNG TA.
Xin Vâng nơi Mẹ và nơi ta.
Từ khi thưa “Xin Vâng” Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Nơi Đức Maria cũng như nơi chúng ta, một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Chúa, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Thiên Chúa. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo gương Đức Maria, khi được Thiên Chúa chọn, ta hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài. Nếu Thiên Chúa chọn ta là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo thánh ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là công cụ của Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người xử dụng. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người xử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có khi gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của mình.
Người được chọn thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria – là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi – phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ.
Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn :”Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi ; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính ; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang”(Rm 8,30).. Cách thức “làm cho nên công chính “ của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn”(Dt 2,10) , “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ”(1Tm 3,10) ,“Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội”(1Pr 1,7).
Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao :”Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”(Rm 8,18).
Chúa mời gọi ta cộng tác với Ngài.
Thiên Chúa không chỉ thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài nơi chúng ta và cho chúng ta, màø còn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài, tham gia vào việc thực hiện kế hoạch yêu thương và cứu độ của Ngài, nơi chúng ta và nơi những người có liên hệ với chúng ta nữa. Đó chính là niềm vinh hạnh và cũng là trách nhiệm nặng nề nơi chúng ta. Vậy mỗi lần chúng ta làm bất cứ việc gì đó để kế hoạch yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn và cuộc sống của mình là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Cũng thế, mỗi lần chúng ta làm một việc gì đó giúp người khác hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa hoặc giúp người khác yêu thương phục vụ tha nhân là chúng ta cộng tác với Ngài trong việc thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài. Công việc ấy thật bề bộn và cấp bách ; vì một đàng chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa đón nhận Tin Mừng, chưa đón nhận bí tích Thánh tẩy ; đàng khác, nơi những người đã biết và đón nhận Chúa cũng còn rất nhiều người chưa hiểu biết cho sâu sắc, chưa biết sống gắn bó mật thiết với Chúa. Đó là cánh đồng truyền giáo mênh mông đang chờ đợi chúng ta.
Ngày nay Chúa vẫn còn muốn đầu thai trong lòng Đức Maria và chúng ta. Dĩ nhiên Ngài không còn đầu thai nữa như xưa ở trong lòng trinh nữ Maria, nhưng Ngài vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua Bí tích Thánh Thể đã làm cho chúng ta trở nên cao qúi trong việc cộng tác với Ngài.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp, Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho nước Ngài được lan rộng ; và như vậy, Thiên Chúa lại nhập thể ở giữa chúng ta.
Hãy trở nên dụng cụ của Chúa.
Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ , thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.
Chúng ta là dụng cụ của Chúa, một thứ dụng cụ bất toàn hoặc vô dụng, cũng như người đầy tớ nghèo hèn (x. Lc 17,7-10) không thể tự mình làm được việc gì như Chúa phán :”Sine me nihil potestis facere”, nhưng sẽ trở nên hữu dụng dưới bàn tay khôn khéo của Chúa.
Chúng ta cũng có thể tìm được hình ảnh này ngay trong văn chương bình dân của nước ta, trong ca dao tục ngữ, một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân quê :
Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.(Ca dao)
Ở miền quê, ai mà không biết ăn dưa cải chua ? Đây là món ăn quen thuộc trong bữa ăn của người bình dân, một món ăn hợp với khẩu vị, nhất là khi ăn với thịt mỡ. Món dưa cải chua ngon là phải có màu vàng, dòn và thơm. Nhưng một khi dưa bị “khú” thì không ăn được nữa. Dưa khú có màu đen xám, không chua và nhạt , đôi khi có hương vị ung ủng. Người ta không ăn dưa khú, chỉ còn cách bỏ đi. Tuy thế, người dân quê lại biết biến “dưa khú” đó thành một món ăn khác, ăn vào vẫn ngon miệng, đó là nấu với cá trê. Vì thế, người ta mới mách bảo kinh nghiệm cho người khác trong việc nấu ăn :”dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ”.
Chúng ta hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn của Chúa để lúc nào cũng chỉ biết “Xin Vâng”. Theo gương Mẹ Maria, trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt mà Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải mình làm chủ tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối gập ghềnh, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Truyện : thánh Gioan Vianney.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn :
– Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì ?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời :
– Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao ?(Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 42)
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Thiên Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương trình của Ngài. Ngài chọn chúng ta không vì tài năng, đức độ của chúng ta , Ngài quyền năng đến độ có thể biến đổi những con người hèn mọn thành những bậc siêu phàm. Điều quan trọng là chính sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của Ngài. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Ngài, ngay cả bằng với sự dốt nát, ngu dại của mình.
Ngày xưa Thiên Chúa đã nhập thể nơi cung lòng Trinh nữ Maria, ngày nay Thiên Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn cho Chúa nhập thể. Ngài dùng Lời Thánh kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người sống như Chúa : và như vậy, Ngài đang muốn nhập thể để tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xẩy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn.
Điều cần hơn hết là chúng ta phải tin vững vàng rằng : Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thế với Ngài. Ta hãy sẵn sàng đem tinh thần Phúc âm vào thế giới để đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa, này con đây, với tất cả những yếu hèn, khiếm khuyết của con, nhưng con tin rằng trong bàn tay nhào nặn của Chúa, tất cả đều có giá trị. Xin cho con luôn biết cởi mở đón nhận ơn Chúa, và phó thác cho chương trình của Chúa, như Mẹ Maria đã thưa lời “Xin Vâng”, đáp trả lại tình yêu của Chúa và phó thác hoàn toàn cho chương trình của Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
CHUẨN BỊ GẦN CHO VIỆC CHÚA ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ
– Bài đọc I (2 Sm 7,1-5.8b-11.16) : Ngôn sứ Natan báo cho vua Đavít biết Thiên Chúa sẽ cho Đấng Messia xuất hiện trong dòng dõi của ông.
– Đáp ca (Tv 88) : Lặp lại lời Thiên Chúa hứa với Đavít qua miệng Ngôn sứ Natan.
– Tin Mừng (Lc 1,26-38) : Thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Maria hay Người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
– Bài đọc II (Rm 16,25-27) : “Tin Mừng mặc khải mầu nhiệm từ ngàn xưa vốn được giấu kín, nhưng nay được biểu lộ”
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” càng thêm ý nghĩa. Đây chính là lời ngôn sứ Natan nói với vua Đavít trong bài đọc I hôm nay, và cũng là lời thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ trong bài Tin Mừng. Chúng ta hãy dọn tâm hồn cho xứng đáng để Chúa thực sự ở cùng chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà không lo chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng.
– Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo cho bản thân và gia đình mình mà không quan tâm đến những người khác.
– Đã bao dịp lễ Giáng sinh người công giáo chỉ biết mừng lễ với nhau mà không chia xẻ niềm vui cho anh em lương dân.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : 2 Sm 7,1-5.8b-11.16
Sau khi vua Đavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Đavít :
– Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa.
– Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây “nhà” cho Đavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.
Đáp ca : Tv 88
Tv này ca ngợi Thiên Chúa đã trung thành giữ lời Ngài đã hứa với Đavít là sẽ cho “nhà” (triều đại) của ông bền vững muôn đời.
Tin Mừng : Lc 1,26-38
Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Đavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Đavít nữa.
Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người : Đức Giêsu là dòng dõi Đavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Đavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Đức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Đức Mẹ biết về tương lai của hài nhi : “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài… và triều đại Ngài sẽ vô tận”.
Bài đọc II : Rm 16,25-27
Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ : đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Đức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân.
Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Đavít và thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ : triều đại của Đức Giêsu mở rộng đến vô biên.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Loài người muốn xây nhà cho Chúa
Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Đavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Đức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Đức Mẹ phải sinh Đức Giêsu trong hang đá.
Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta !
Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Đavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Đức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa.
Để chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng “cất nhà” cho Chúa. Đó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống ; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại ; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v.v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.
* 2. Thiên Chúa xây nhà cho loài người
Vua Đavít có kế hoạch xây một Đền thờ huy hoàng cho Chúa bằng tất cả những vật liệu quý giá nhất mà ông có thể có được. Đức Maria cũng có một hướng sống mà Người cho là đẹp lòng Chúa nhất : “Tôi không biết đến người nam”.
Thiên Chúa không từ chối ý tốt đó : Ngài nói với Đavít “Điều gì ngươi nghĩ trong lòng thì cứ thực hiện”. Nhưng Ngài giúp vua Đavít và Đức Maria thực hiện theo một cách thức vượt ngoài dự tưởng của các ngài : Natan nói với Đavít “Thiên Chúa ở cùng bệ hạ” ; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria “Thiên Chúa ở cùng cô”. Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.
Nhưng do đâu mà tâm hồn vua Đavít được Chúa chọn làm nhà ? Do lòng sám hối sâu xa về tội đã phạm. Và do đâu mà tâm hồn Đức Maria trở thành nhà của Chúa ? Do lòng khiêm tốn và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa : “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên sứ truyền”.
* 3. Đón nhận Chúa
Hai gương mặt nổi bật hôm nay là Vua Đavít và Đức Maria. Cả hai giống nhau ở điểm là muốn làm cho Chúa những gì tốt đẹp nhất, nhưng cuối cùng điều tốt đẹp ấy không phải là do hai vị làm cho Chúa mà là đón nhận việc Chúa làm cho mình.
Chuyện của hai vị gợi cho chúng ta một số ý tưởng :
– Thiên Chúa quý chuộng thiện chí của con người. Vì thiện chí nên vua Đavít và Đức Maria được Thiên Chúa chọn.
– Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Chương trình này vượt quá dự tính của con người.
– Nhờ vâng lời, con người được tham dự vào chương trình của Thiên Chúa và thiện chí của con người được Thiên Chúa nâng lên đến tầm mức kết quả không ngờ.
Chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Chúa bằng cách :
– Trình bày cho Chúa những thiện chí của mình.
– Khiêm tốn thưa với Ngài “Này con là tôi tớ của Chúa”
– Xin vâng theo kế hoạch của Ngài, cho dù có bất ngờ hay vượt quá dự tưởng của mình.
* 4. Chiếc đũa thần và Cô bé Lọ lem
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng “đã là”, “đang là” và “sẽ là” của Maria :
– Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường : một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, mang một cái tên khá phổ biến là Maria (nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế). Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là “thuộc dòng dõi Đavít”.
– Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn : Maria “sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Đứa con đó “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”. Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ.
Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa : “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat. Trong Kinh Truyền tin, chúng ta vẫn đọc “Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”. Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem, sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú “Vừng ơi mở ra” vậy !
Nhưng Fiat là gì ? Fiat không hẳn là “Xin vâng”, vì “xin vâng” hàm ý là Maria sẽ đi làm theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người. Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu. Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người. Đúng hơn, Fiat là “Xin Chúa cứ làm cho tôi”, chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm “Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả” (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, chỉ ở yên để Chúa làm, vậy thôi. Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào : Người muốn một tương lai êm ả, nhưng Chúa làm cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn. Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới. Để Chúa làm có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Ngài định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài. Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp : “Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi ? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat : “Xin Chúa cứ làm cho con”
* 5. Xin vâng
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau :
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích. Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quảng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
*
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ : “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc.1,28). Vâng, mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành, tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần : “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc.1,3). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm : “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc.1,35). Như vậy, việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu : “Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc.1,38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác, liền thưa : “Xin Vâng” (Lc.1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay tất cả, nhưng là tiếng “xin vâng” liên lỉ trọn kiếp người. Từ tiếng “xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
*
Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm mầu của Chúa. Nhất là xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 6. “Xin Chúa cứ làm nơi con”
“Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Câu này chẳng gây thắc mắc gì đối với những việc Thiên Chúa đã làm trong vũ trụ và trong lịch sử : Thiên Chúa đã làm ra trời đất muôn vật bao la vô vàn vô số ; Thiên Chúa đã làm bao phép lạ từ xưa tới nay v.v.
Nhưng tôi có thể áp dụng câu này vào chính bản thân tôi không ? Nói cách khác, Thiên Chúa có thể làm được bất cứ điều gì nơi bản thân tôi không ?
– Rất nhiều khuynh hướng xấu đã đâm rễ rất sâu trong con người tôi. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng tôi đã không bứng rễ chúng được. Thiên Chúa có bứng được không ?
– Tôi là một kẻ tội lỗi. Thiên Chúa có thể làm cho tôi thành một vị thánh không ?
– Tôi là một người rất ít khả năng. Thiên Chúa có thể dùng tôi để thực hiện những dự định lớn lao của Ngài không ?
Dù còn bối rối và chưa hiểu như Đức Maria ngày xưa, nhưng thôi, tôi hãy bắt chước Mẹ mà thưa lại “Xin Chúa cứ làm nơi con”.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, lễ Giáng Sinh đã gần kề, hôm nay Hội thánh nêu bật Đức Maria là mẫu gương cho những người tiếp đón Đức Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây :
- Đức Maria đã rộng lòng đón tiếp Đức Giêsu xuống thế cứu độ loài người / Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi thành phần trong Hội thánh biết noi gương Đức Maria / đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của mình.
- Đức Maria đã tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa rồi sẵn sàng vâng theo / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia biết tìm hiểu chương trình cứu độ của Đức Giêsu / để dẹp bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ đói với đạo Chúa.
- Đức Maria đã tin rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người là nạn nhân của chia rẽ, bất công, hận thù, nghèo đói không rơi vào thất vọng / nhưng tìm được hy vọng nơi Chúa là Đấng có thể làm được tất cả.
- Đức Maria đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu nhập thể cứu độ / Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn họ đạo chúng ta / biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu luôn được chúng ta tiếp đón trong cuộc đời.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến với mỗi người chúng con, giúp chúng con biết đón nhận Đức Giêsu, để đem Đức Giêsu đến cho mọi người chung quanh chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
MẸ MARIA ĐƯỢC VINH DỰ ĐÓN CHÚA- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Là niềm vui cho những ai biết mở lòng đón nhận Ngài. Là hạnh phúc cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm. Một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không đánh mất cơ hội có thể nói ngàn năm có một. Lời thưa xin vâng lúc này là lời thưa đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa này đã vẽ lên một trang sử mới trong cuộc đời cô và lịch sử của nhân lọai cũng bước sang một trang sử mới. Thời đại công nguyên đã bắt đầu. Thời đại hồng ân mà Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng đáng tiếc là ngày Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất nhiều người đã đánh mất cơ hội triều bái người. Nơi máng cỏ Belem năm xưa chỉ có Thánh Giuse, Đức Maria và các mục đồng. Những người trí thức và các thầy Lê-vi vẫn loay hoay với mớ kiến thức giáo lý của mình. Vẫn cố gắng dùng trí khôn con người để hiểu chương trình Thiên Chúa. Nhưng đường lối của Thiên Chúa vượt xa trí hiểu con người nên họ đã không thể nhận ra Con Thiên Chúa lại sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời tới từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Ngài. Hãy quảng đại để chấp nhận Ngài. Hãy dấn thân và phục vụ Ngài nơi những anh em bất hạnh lầm than.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà còn ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giê-su là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
NGÔI ĐỀN VÀNG CỦA ĐẤNG TỐI CAO– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.
Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.
Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.
Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.
Đền thờ sống động cho Thiên Chúa
Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.
Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.
Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
CUỘC HÒA ĐÀM LÝ TƯỞNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại. Ngài đã muốn người Con ấy là con người giữa nhân loại. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Paléttin.
Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong lòng mẹ. Ngài tuôn đổ trên Cô tràn trề ân sủng: “Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô” (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh.Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị cho Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không đặt Cô trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận.
Thiên Chúa sai Sứ thần đến nhà Maria. Câu chuyện Lời Chúa hôm nay là Truyền tin, một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật, đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là Sứ Thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng. Nơi đó, trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn thuộc vùng sâu thôn dã vô danh Nadarét. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
Maria dù là nữ tỳ nhưng Sứ Thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, Sứ Thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào : “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Thật khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói : Chào cô, chào em.
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria : vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì ? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu và thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt : “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ : Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải : “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng Tối Cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa ..”
Nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa : “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt :
-Thứ nhất, hai bên thật khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau.
-Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công.
-Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ vì ích chung, thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo :
-Vì đã giải quyết được những nỗi khó khăn phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề : vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa.
-Vì đã giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyễn tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là ” Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ”. Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao”, là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần “Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.”. Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi, Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều; Ngài là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Từ đó Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ. Từ đó vai trò Trung Gian của Mẹ đã khởi đầu. Từ đó, Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày.Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
NHẬP THỂ, MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU CỨU ĐỘ – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúng ta càng lúc càng tiến gần mầu nhiệm Giáng sinh. Chúa nhật tuần này chúng ta bắt đầu nghe tường thuật theo tin mừng Luca về việc truyền tin cho trinh nữ Maria ở Nazarét. Người trinh nữ này được xác định rõ là đã đính hôn với Giuse thuộc chi họ Đavít, và tên của bà là Maria. Từ hiệu quả của Hồng ân Phục sinh với sức mạnh của Thánh Thần trên cộng đoàn Giáo hội, thánh Luca đã nhìn lại mầu nhiệm Giáng sinh của Ngôi Lời nhập thể. Đức Giêsu quả thật là Thiên Chúa, người là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người sau bao nhiêu cố gắng và chờ đợi lâu dài của con người. Một sự tạo dựng mới đầy tràn sức mạnh Thánh Thần được ghép vào trong thế giới con người chúng ta để đổi mới thế giới và con người từ bên trong. Một sự sinh hạ do bởi tác động của Thánh Thần trên trinh nữ Maria.
Trong tường thuật của Luca, ngay từ lời chào của sứ thần dành cho trinh nữ Maria không phải chỉ là một lời chào thông thường mà là một cách nói rất đặc biệt nói lên tình trạng rất lạ lùng mà Thiên Chúa dành cho Maria : “Kính chào bà đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà”. Đây là một tên mới dành cho Maria. Maria là người trinh nữ được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn đặc biệt và gìn giữ toàn vẹn. Thiên Chúa dành cho Maria một sự chăm sóc đặc biệt bằng mọi ơn sủng để Maria không hề ở dưới bóng dáng của tội lỗi mà ngược lại luôn ở trong sự kết hợp ân sủng mật thiết với Thiên Chúa để có thể cộng tác hiệu quả vào việc đón nhận con Thiên Chúa nhập thể làm người. Đồng thời thiên sứ cũng giải thích lý do của việc thăm viếng bằng cách báo cho Maria biết bà sẽ thụ thai và sẽ sinh con trai và con của bà sẽ được gọi là con Đấng Tối cao, và sẽ thừa hưởng ngai vàng Đavít tổ tiên người.
Đứng trước một ơn trọng đại như thế, được phúc làm mẹ của người con sẽ được thừa hưởng ngai vàng Đavít, lẽ ra Maria phải rất vui mừng. Nhưng Maria đã rất khiêm tốn và chân thành hỏi làm sao điều này có thể xảy ra. Sứ thần đã giải thích rằng Maria mang thai do quyền năng Thánh Thần, và người con bà sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Sau cùng Maria đã hết lòng ưng thuận với tâm tình khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa. Mầu nhiệm giáng sinh muốn nói chân lý này: đây không phải là sự sinh hạ bình thường do bởi sự kết hợp vợ chồng, nhưng đây là việc Thiên Chúa đến với con người, nhập thể làm người và trở nên bé nhỏ để ở trong lòng một trinh nữ, đón nhận một sự sinh hạ bình thường như mọi trẻ thơ. Chỉ có điều là hài nhi này được cưu mang bởi một trinh nữ và do tác động quyền năng của Thánh Thần làm cho chúng ta hình dung một sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại. Người con này đã được Thiên Chúa âu yếm ban tặng cho con người. Cách trình bày làm vang vọng lại câu chuyện được tường thuật trong sách 2 Samuel chương 7. Lúc bấy giờ vua Đavít đã được yên bề khỏi mọi quân thù, ông ở trong đền vua làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Thiên Chúa thì vẫn ở trong lều tạm nên băn khoăn chia sẻ những ưu tư của mình cho tiên tri Nathan. Và ngay trong đêm đó, tiên tri Nathan đã được một thị kiến của Chúa sai ông đến nói với Đavít rằng không phải là Đavít sẽ xây cho Chúa một căn nhà nhưng chính Chúa sẽ tạo lập cho Đavít một ngôi nhà. Điều này ám chỉ Chúa sẽ cho triều đại của Đavít được trường tồn qua mọi thế hệ đến muôn đời. Lời hứa của Thiên Chúa cho nhà Đavít được vững bền muôn đời được những người do thái ghi nhớ mãi, nhưng họ không biết Thiên Chúa sẽ thực hiện thế nào và khi nào, thì giờ đây, bài tường thuật truyền tin của Luca muốn nhấn mạnh Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa với nhà Đavít. Người con này là người con Thiên Chúa âm yếm ban tặng không phải từ một cung điện hoàng tộc mà nơi một trinh nữ Nazarét, nhưng được đính hôn với Giuse là một người thuộc dòng dõi Đavít. Câu chuyện đã cẩn thận ghi lại câu hỏi của trinh nữ Maria và lời đáp của sứ thần để nhấn mạnh đến thần tính của người con được ban tặng này: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ, và uy quyền Đấng tối cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ được gọi là thánh và được gọi là con Thiên Chúa… vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Đứng trước mầu nhiệm giáng sinh của con Thiên Chúa, có lẽ chúng ta cũng thử đặt vài câu hỏi khi chúng ta lần hồi tiếp cận mầu nhiệm cao trọng này. Có thể nào Thiên Chúa cứu độ chúng ta mà không phải nhập thể làm người không? Có thể nào Thiên Chúa cứu độ chúng ta mà không cần sự cộng tác của một người trinh nữ không?
Đứng trước mầu nhiệm nhập thể cũng là đứng trước mầu nhiệm của tình yêu. Chúng ta không thể tách rời mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Và trong tình yêu cần phải nói đến tự do. Tình yêu thì phải tự do, nếu không thì không phải là tình yêu. Chúng ta không thể lý luận trừu tượng để nói Thiên Chúa có thể làm cách này hay cách khác, có thể làm người hay không làm người mà điều quan trọng là chúng ta hãy nhìn những gì Thiên Chúa làm cũng như chúng ta hãy nhìn ngắm chung quanh chúng ta biết bao nhiêu dấu chỉ sự sống khác đang mời gọi chúng ta. Tình yêu là như thế. Điều Thiên Chúa đã làm đó là chọn một người mẹ trong nhân loại để con Thiên Chúa nhập thể làm người. Người con này vốn đã hiện hữu từ vĩnh cửu nơi Thiên Chúa, giờ đây đã trở nên bé nhỏ để hiện diện với loài người. Từ đây Thiên Chúa không còn xa cách với con người. Toàn thể hiện hữu của người con này nhằm để thực hiện công việc cứu độ loài người. Ngay cả tên gọi của người là Giêsu cũng có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Ngay cả tên gọi Nazarét gắn liền với Giêsu cũng mang ý nghĩa, gần với nazir, tức là người được thánh hiến cho Thiên Chúa, cũng như neser là chồi lộc. Đó là một Thiên Chúa đến chia sẻ thân phận con người với mọi người dù cho có những yếu đuối, tội lỗi và bất toàn từ phía con người để đưa loài người chúng ta vào trong tình yêu và tự do của Thiên Chúa. Đó là một Thiên Chúa đến chia sẻ kiếp người trọn vẹn với chúng ta không từ nan điều gì, cho đến tận cùng của kiếp người là những khinh bỉ, roi đòn sỉ nhục, đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá. Đó là một Thiên Chúa trở nên như chúng ta mọi đàng để trao tặng cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa. Thực sự, Thiên Chúa không thể cứu độ chúng ta từ xa, từ bên ngoài, bằng một lời tuyên bố độc đoán. Thiên Chúa đến làm người bé nhỏ, để gặp gỡ mỗi người trong chúng ta một cách khiêm tốn nhất, gần gủi nhất, thâm sâu nhất, không ngại ngùng, không sợ hãi phải hòa mình ở với chúng ta, lẫn lộn với chúng ta. Thiên Chúa đến tìm kiếm chúng ta khi chúng ta lạc loài, phiêu dạt và chờ đợi chúng ta khi chúng ta còn mãi lang thang ngông cuồng theo những dự định riêng của mình. Từ đây hiện hữu của con người chúng ta mặc một ý nghĩa mới. Chúng ta thực sự được cứu độ bởi vì Thiên Chúa thực sự trao ban chính mình cho chúng ta. Đời sống của chúng ta tham dự vào chính Thiên Chúa.
Về vai trò của Trinh nữ Maria, chúng ta có thể nhìn ngắm đây là công trình của ân sủng Thiên Chúa. Maria là người đi trước chúng ta trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của ân sủng. Từ khi nguyên tổ phạm tội, trái đất dường như khép kín lại trong tội lỗi và sự ích kỷ của mình, không muốn đón nhận mọi hoạt động của ân sủng Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn nhẫn nại khơi lại nơi trái đất những con người sẵn lòng để đón tiếp Thiên Chúa. Maria, một người trinh nữ nhỏ bé trong nhân loại, đã đi trước mọi người chúng ta trong tiếng thưa vâng thực là tinh khiết đến độ chúng ta có thể reo vui để nói rằng sự sống đã chiến thắng những bóng tối tội lỗi và kiêu căng. Sự khiêm nhường vâng phục của một người nữ là Maria đã chiến thắng sự kiêu căng bất vâng phục của Evà xưa để cho Thiên Chúa có thể nhập thể trong lòng trinh khiết của Maria.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- NĂM B
HÃY LÀ NHỊP CẦU ĐƯA CHÚA ĐẾN VỚI ANH EM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để giao lưu, gặp gỡ nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhân loại hôm nay có thể sử dụng những công nghệ tiên tiến để xây dựng nhiều loại cầu vượt qua nhiều ngăn cách khác nhau trên mặt đất, nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng ấm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như những chiếc lá lìa cành.
Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người để mang lại hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu cho muôn người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mọi người và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giê-su mang đến.
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác, nhỏ bé hơn, để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Chúa truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con học theo gương Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn của Chúa và không bao giờ làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Lạy Mẹ Maria,
Xin dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và sẵn sàng thưa với Chúa rằng: “Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.”
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- Năm B
LỜI XIN VÂNG CỨU ĐỘ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, trước lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, tác giả Tin Mừng Luca đưa chúng ta về với biến cố truyền tin diễn ra nơi khung cảnh miền quê Nagiarét. Khởi đầu câu chuyện vĩ đại đã tồn tại trong lịch sử loài người bằng câu : “Khi ấy …”. “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1 , 26-27 ). Đây không phải là câu chuyện do con người tạo ra trong trí tưởng tượng, nhưng là câu chuyện được thêu dệt bởi chính Thiên Chúa và sự cộng tác của con người xảy ra trong không gian và thời gian, đã hoàn tất cách đây 2017 năm. Bằng cung kể bình dân, dễ tiếp cận, Luca giới thiệu cho chúng ta một số nhân vật theo thời gian, không gian và chủ đề, dẫn chúng ta đến đỉnh cao của câu chuyện là điểm : “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33). Với lời loan báo trên cho chúng ta biết Noel đã gần kề.
Đức Maria, người thôn nữ khiêm hạ miền Nagiarét nghe những lời trên của Sứ Thần Gabriel đã không khỏi kinh ngạc. Maria còn đồng trinh mà nay Thiên Chúa lại muốn Maria làm mẹ, nên hỏi : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam!” (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ, Maria không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu ý định của Chúa hơn, hầu sống trọn ý Chúa. Băn khoăn của Maria được Sứ Thần giải thích, việc giữ mình khiết trinh với việc mang thai Đấng Cứu Thế không có gì là mâu thuẫn, lý do : “Không có việc gì mà Chúa không làm được”. Hiểu được ý Chúa, Maria đã mở lòng mình ra, sẵn sàng cộng tác vào công trình của Thiên Chúa và cất tiếng “xin vâng”. Lập tức “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thiên Chúa trông chờ tiếng “xin vâng” từ nơi Đức Maria để thực hiện công trình của Chúa. Tiếng “xin vâng” bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Câu chuyện bình dân ấy thực tế nhất đối với Thiên Chúa và nhân loại chúng ta. Chân phước Phao lô VI viết năm 1974 rằng : “Đức Maria là câu trả lời mà Thiên Chúa ban trong mầu nhiệm nhập thể làm người; đó cũng là câu hỏi mà con người tự đặt ra về Thiên Chúa và về chính mình”.
Khi thưa “xin vâng”, lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên : “Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ “đầy ân sủng”, khi Mẹ thưa : “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền !” (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28). Lời “xin vâng” của Mẹ là lời cứu độ.
Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4). Thật là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của “một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít” (Lc 1,27). Nhờ và qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavít”.
Thánh Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Nhờ lời “xin vâng ” của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại.
Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thưa “xin vâng ” với Chúa như Mẹ để chúng ta được cứu. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- Năm B
SỰ THUẬN PHỤC TRỌN VẸN- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.(Lc 1,38)
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bài Tin mừng đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Luca đã tế nhị giới thiệu cho chúng ta một nhân vật hết sức quan trọng trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra làm con người: Nhân vật ấy chính là Đức Maria, mẹ của chúng ta.
Dưới con mắt của Luca thì Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” chính là âm hưởng lời nói với thiếu nữ Sion từ ngàn xưa)
Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi : Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ. (Dcr 9,9)
Như vậy ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa) thì hôm nay Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Mẹ.
Đức Mẹ đã đón nhận Lời hứa ấy như thế nào?
Chúng ta hãy dừng lại một chút để so sánh việc Đức Maria và ông Dacaria khi đứng trước một một tin vui xem hai người đã phản ứng như thế nào.
* Khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi. Việc hoài nghi không tin này này đã được chính thiên sứ xác nhận “Bởi vì ông không tin” (câu 20)
Còn câu hỏi của Đức Maria là câu hỏi để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào được bời vì tôi không biết đến người nam?”),
* Kết quả, ông Dacaria vì không tin nên bị phạt. Còn Đức Maria đã tin và mau mắn vâng lời cho nên kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện ngay.
Như vậy chúng ta có thể nói: Nếu Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước đã được bắt đầu với hành vi đức tin của Abraham thì Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng được bắt đầu với hành vi đức tin của Đức Mẹ. Nếu Abraham đã được gọi là “cha của những kẻ tin” thì Đức Maria cũng phải được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Và như thế chúng ta có thể suy ra: Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của chính người đó.
“Sứ thần nói với cô Maria : Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần : “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38). Một sự đáp trả quá đẹp. Đức Maria đã xin vâng và nhờ tiếng xin vâng đó mà Thiên Chúa đã thực hiện được kế hoạch Cứu độ của Người.
Chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại phải hạ mình đến như vậy? Chẳng lẽ Người phải đợi sự ưng thuận của một tạo vật rồi mới thực hiện chương trình của mình?
Câu trả lời không khó lắm. Đọc lại toàn bộ Kinh thánh chúng ta thấy mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự cộng tác của con người. Để thành lập một dân, Chúa đã gọi Abraham để ông cộng tác với Người. Để cứu dân mình khỏi ách thống trị AiCập, Chúa đã gọi Moise và chúng ta thấy Moise đã làm cho Chúa những gì, và để Đấng Cứu Thế được nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria cộng tác. Và Đức Maria đã cộng tác bằng cách ngoan ngoãn để cho Chúa hành động trong mình và qua mình :
“Xin cứ làm cho tôi…”.
Phải nói đây là một sự thuận phục trọn vẹn.
Đức Maria đã trả lời bằng hai tiếng thật vắn gọn “xin vâng”: Trả lời như thế có nghĩa là: Chúa bảo gì tôi cũng làm theo cả. Chúng ta tự hỏi việc trả lời như thế có liều lĩnh lắm không. Ai trong chúng ta cũng biết việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không phải là việc dễ dàng. Hãy nhìn vào hoàn cảnh của Đức Maria chúng ta sẽ thấy điều đó.
Chúng ta xưng tụng Đức Maria là người có phúc. Điều đó đúng.
Đức Maria được báo cho biết rằng nàng sẽ sinh một con trai do hành động siêu phàm của Chúa Thánh Thần. Việc đó chỉ có một mình Maria biết. Bà con lối xóm, bạn bè quen thuộc chẳng ai biết được sự việc đó. Cắt nghĩa làm sao? Mà dù có cắt nghĩa đi nữa thì ai tin. Xưa nay đã có bao giờ có như vậy đâu? Maria cũng chỉ là một người bình thường như những người khác, thậm chí còn nghèo khổ hơn những người khác…đâu có đặc biệt gì mà Thiên Chúa lại quá ưu ái như vậy! Vâng làm sao cắt nghĩa được đây? Vì thế, đối với những người bà con quen biết chắc chắn họ sẽ cho rằng Maria đã phạm tội. Đó là một vết nhơ ô nhục trên suốt cuộc đời của một người con gái chưa về nhà chồng mà đã có con.
Rồi còn một khó khăn nữa cũng không kém phần nhức nhối đó là làm sao cắt nghĩa cho Giuse hiểu đây! Giuse, hôn phu của nàng, làm sao chịu đựng nổi sự hổ nhục này?
Giuse đã tính bỏ trốn. Đó là con đường dễ chịu nhất. Rất may là Thiên Chúa đã can thiệp.
Giả như Đức Maria là một thiếu nữ chỉ muốn an phận thì khi được sứ thần ngỏ ý có lẽ Mẹ đã thưa: “Tôi không muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế, tôi chỉ muốn được sống cuộc đời bình thường với sự tôn trọng của người xung quanh và tình thương yêu mà người tôi định gá nghĩa. Tôi chỉ muốn sống như các phụ nữ khác. Xin Chúa hãy đem vinh hạnh ấy cho một thiếu nữ Ítraen khác.” Nhưng thay vì câu nói ấy, chúng ta lại được đọc thấy trong Tin mừng một lời hết sức cảm động đầy tinh thần vâng phục và hi sinh: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Vâng đó là những gì đẹp nhất mà chúng ta được nghe.
Nói tới đây tôi chợt nhớ tới câu chuyện của Trương Lương trong Tam Quốc Chí. Ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Làm sao mà Trương Lương được mến mộ như vậy. Thưa vì ngay từ thưở nhỏ Trương Lương đã có những đức tính rất dễ thương. Hôm đó, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông chợt thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say quá nên làm rơi một chiếc dép xuống sông. Tỉnh dậy thấy cậu bé Trương Lương ở đó, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”.
Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép rồi kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ già cầm lấy, không một lời cám ơn. Rồi cụ loay hoay xỏ mãi mà không vào. Chiếc dép lại một lần nữa rớt xuống bờ sông. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Hoàn cảnh thời Đức Mẹ sống cũng tương tự như thế. Thời đó, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Kính thưa anh chị em. Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Làm sao ơn Chúa có thể đến với chúng ta. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- Năm B
TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh? Nếu đúng là như thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?
“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa – Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa – Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người. Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại. Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.” (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).
Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin! Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn]”. Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được ‘đầy ân sủng’ sao? Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi. Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi. Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20). Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu. Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhị giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa”. Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ…hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55). Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha”. Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.” Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ chấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.” Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”
Giáng sinh đã gần lắm rồi! Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu. Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!
Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng. Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót. Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này. Amen!
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- Năm B
THIÊN CHÚA TÌM CHO MÌNH MỘT NGÔI NHÀ- Lm. Gioan Nguyễn Cao Luật
Tin Mừng cho người biết khiêm tốn
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân… Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi vì trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ tình yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn: trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ý ngay lành, Mẹ lo lắng vì “làm sao có chuyện ấy được”; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi vì Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hãnh diện khi biết rằng mình là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả.
Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. Còn gì cao quý và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật hình thành từ chính máu thịt của mình. Nhưng cũng có gì đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lý, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự mình sống đời của mình. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được tình trạng đau thương này.
Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đã chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của mình. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ mình, để cho chính người con mình đã sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi vì Mẹ biết rằng, người con Mẹ đã cưu mang trong cung lòng trinh khiết của mình là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai trò làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Ngôi nhà chính là một thái độ
Điều đáng lưu ý trong trình thuật truyền tin, đó là Đức Maria đã không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ nhận được một hồng ân lớn lao; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đã ưng thuận.
Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đã không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi vì Thiên Chúa đã đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho mình chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá.
Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đã đến trong cung lòng Đức Maria. Về phần mình, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng bằng nỗ lực của mình.
Như thế, một bên, chương trình của vua Đa-vít vẫn còn nằm trong ý tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích: mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của mình, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không tìm cách chiếm hữu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu: Người đã đến xây dựng ngôi nhà cho mình.
Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đã được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ý muốn duy trì nếp sống này mãi mãi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu: “Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa”. Đức Maria đã từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn; đã từ bỏ ý định cao cả của mình để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời.
Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế; nhưng bởi vì là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương trình của Thiên Chúa, và Mẹ đã đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn đang tìm một ngôi nhà
Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt mình vào vai trò của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm.
Một em bé gái đã đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria: Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi? Người kể chuyện đã đặt câu hỏi khác với em: Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác?
Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không? Có thể được, bởi vì chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, thì đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta.
Bởi vì, như Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh.
Theo nhãn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này.
Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đã bối rối. Còn chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy.
Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói “Làm sao…”. Còn chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi “tại sao?”
Và khi Đức Maria thưa “Xin vâng”, thì chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa.
Lời thưa “Xin vâng” của Đức Maria hoàn toàn chìm sâu trong tình yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ! Còn chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria thì cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đã đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đã không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- Năm B
EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Trích Logos B
Hằng năm, khi gần đến ngày lễ Giáng Sinh, tâm hồn mọi người đều dâng trào một cảm xúc nôn nao khó diễn tả. Có nhiều điều đã góp phần làm nên cảm xúc đó : trời se lạnh, những tấm thiệp chúc mừng giáng sinh, những bài thánh ca, những hang đá xinh xinh. Nhất là người ta nghe nhắc nhiều đến những từ ngữ quen thuộc : lễ Giáng Sinh, lễ Noel, người tín hữu thì gọi là lễ Giáng Sinh, những người khác, kể cả những người ngoại giáo thì gọi là ngày Noel. Thật ra, chữ Noel không được phụng vụ mùa vọng và giáng sinh xử dụng, nhưng là từ ngữ gần với tên Chúa nhất. Noel xuất phát từ chữ Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mà phụng vụ Chúa Nhật thứ 4 mùa vọng hôm nay nhắc đến.
Emmanuel diễn tả một Thiên Chúa thật cao cả, nhưng cũng thật gần gũi với con người. Một Thiên Chúa thật lớn và cũng thật nhỏ.
Ông Collins là một học giả vô thần chống lại đạo Chúa. Một hôm, ông gặp một bác nông dân với dáng vẻ quê mùa đang trên đường đến nhà thờ. Ông hỏi bác nông dân :
– Này bác, bác đi đâu thế ?
Bác nông dân trả lời :
– Tôi đi nhà thờ.
– Đi nhà thờ làm gì ?
Bác nông dân trả lời một cách đơn giản :
– Để thờ phượng Thiên Chúa.
Ông Collins hỏi một cách mỉa mai :
– Vậy, Thiên Chúa của bác lớn hay nhỏ ?
– Thưa ông, Ngài rất lớn, lớn đến nỗi các tầng trời không thể chứa đựng được. Nhưng Ngài cũng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi Ngài có thể ở trong trái tim tôi.
Sau này, ông Collins thú nhận : câu trả lời đơn sơ nhưng sâu sắc của bác nông dân đã ảnh hưởng đến tâm trí của ông hơn tất cả các bộ sách thần học cao siêu. Chính câu trả lời ấy cũng diễn tả đầy đủ tên gọi Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài là Thiên Chúa cao cả nhưng đã trở thành nhỏ bé để ở cùng chúng ta.
Emmanuel, quà tặng cho con người
Ngày xưa, khi vương quốc Giuđa đang bị đế quốc Assyria đe dọa, tiên tri Isaia khuyên vua Achaz vững tin vào Thiên Chúa. Nhưng vua Achaz hoài nghi và sợ hãi. Để củng cố niềm tin của Achaz, Isaia cho nhà vua một dấu chỉ : “Này đây một “trinh nữ ” sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Lời tiên tri này trước tiên đã thành hiện thực trong hoàn cảnh vua Achaz : Quả thực, sau đó hoàng hậu vợ vua Achaz đã thụ thai và sinh cho nhà vua một thái tử. Việc sinh hạ thái tử là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa sẵn sàng phù hộ cho vua Achaz, nếu ông thực tâm trông cậy vào Ngài (Bài đọc I).
Về sau, người ta hiểu rộng hơn và coi đây là lời tiên tri về Đấng Messia sẽ đến. Người ta còn tin rằng Đấng Messia ấy sẽ do một trinh nữ sinh ra. Vì thế, trong bản văn Hy Lạp, người ta mới dùng chữ “trinh nữ ” để dịch chữ “thiếu nữ” trong tiếng Do Thái chỉ hoàng hậu vợ vua Achaz.
Đấng Emmanuel không những là dấu chỉ tình yêu dành cho nhân loại đang sa lầy trong tội lỗi, nhưng còn là quà tặng được trao ban cho loài người giữa lúc tuyệt vọng. Không có quà tặng nào quý giá bằng quà tặng là chính bản thân được trao hiến.
Vì thế, trong mùa vọng, chúng ta mong chờ Chúa Giêsu đến. Ngài mang đến cho chúng ta một điều cao quý không thể ngờ được : Ngài mang đến cho chúng ta chính bản thân Ngài. Ngài trở thành một món quà được “tặng không” cho chúng ta.
Món quà ấy không phải là một vật kỷ niệm vô tri vô giác, nhưng là một thực thể sống động. Món quà ấy thật cao vời, nhưng lại vừa tầm tay con người. Món quà ấy chính là “Thiên Chúa làm người”, là Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Emmanuel, Tin Mừng cho nhân loại
Tin Mừng luôn đi đôi với hoài bão, ước mong. Chỉ là Tin Mừng khi tin ấy đem lại điều mà người ta ước mơ và trông đợi.
Tin Mừng luôn được mọi người mong đợi. Người tù mong tin mừng được giải thoát. Kẻ nô lệ mong tin mừng được tự do. Người lính chiến mong tin mừng hòa bình.
Thánh Phaolô nói với tín hữu Roma rằng ngài đem đến cho họ một Tin Mừng. Đó là Tin Mừng được Thiên Chúa hứa trước qua lời các tiên tri trong Kinh Thánh. Tin Mừng ấy là Thiên Chúa ban Con của Người cho loài người. Dân thành Roma đã hân hoan đón nhận Tin Mừng ấy vì đó là điều họ đang mong đợi (Bài đọc II).
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay trình bày cuộc hành trình đức tin đầy thử thách của thánh Giuse. Khi thấy Mẹ Maria thụ thai trước khi chung sống với nhau, thánh Giuse đã hoang mang định lìa bỏ Mẹ một cách âm thầm. Giữa lúc tuyệt vọng định buông xuôi, thánh Giuse đã được sứ thần Thiên Chúa báo tin trong giấc mơ : Mẹ Maria thụ thai là bởi phép Chúa Thánh Thần và con trẻ sinh ra là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Giuse đã được giải thoát khỏi bóng tối của sự hoài nghi và thất vọng.
Cuộc hành trình đức tin của thánh Giuse gợi lên cuộc hành trình đức tin của dân Do Thái, họ bước đi trong bóng tối của nghi nan và thất vọng. Ánh sáng Tin Mừng đã bừng lên khi Đấng Emmanuel xuất hiện. Ngài luôn luôn ở cùng họ và đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Cuộc hành trình đức tin của thánh Giuse cũng là cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay. Trong bóng tối đầy thử thách của cuộc sống, Chúa là Đấng Emmanuel đã trở thành Tin Mừng cho chúng ta, Ngài đồng hành và ở cùng chúng ta trong mọi trạng huống cuộc đời.
Ngài trở thành tin mừng hòa bình cho một thế giới đang ngập chìm trong chiến tranh, bạo lực và khủng bố.
Ngài trở thành tin mừng giải thoát cho những tâm hồn đang bị giam cầm trong nghi nan và thất vọng.
Ngài là chính Tin Mừng cứu độ cho chúng ta, những kẻ đang lần bước đi trong cuộc lữ hành trần thế.
Chiều ngày 28/10/1958, sau khi lãnh phép lành đầu tiên của Đức Tân Giáo Hoàng Gioan XXIII, nhiều người thất vọng kêu lên : “Đức Giáo Hoàng mới già quá, 78 tuổi rồi còn làm được gì nữa !”. Nhưng, ai có ngờ đâu, trong khoảng thời gian không đầy 5 năm, biết bao cuộc canh tân đã được thực hiện trong lòng cuộc sống Vatican, cũng như trên toàn thể Giáo Hội và thế giới.
Một ngày kia, cả Vatican náo động vì nghe tin : Đức Giáo Hoàng mất tích ! Tin này được thông báo cho chính phủ Ý. Lập tức, cảnh sát được huy động tối đa đi tìm Đức Giáo Hoàng. Nhưng họ cố gắng tìm kiếm suốt ngày cũng không tìm ra bóng dáng vị Giáo Hoàng lạ lùng ấy.
Chiều tối, xe hơi chở Đức Giáo Hoàng về nhà. Ngài tươi cười chống gậy bước lên bậc cấp. Thì ra, ngài âm thầm gọi xe đi thăm một linh mục thân thiết già cả đang lâm bệnh nặng ở xa thủ đô Roma hàng trăm cây số.
Ngài đã làm một việc mà từ trước đến nay chưa có vị Giáo Hoàng nào làm : đi ra khỏi Vatican như một người bình dị để đến với mọi người và hòa mình vào cuộc sống xã hội. Ngài họa lại hình ảnh của Đấng Emmanuel để ở cùng mọi người và đồng hành với mọi người.
Giáo Hội hôm nay cũng phải là một Emmanuel. Mỗi người tín hữu cũng phải là một Emmanuel : ở giữa mọi người, để trở thành Tin Mừng cho mọi người.