CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM A
LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ VUA– Lm. Carolo Hồ Bạc Xái 16
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ VUA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 29
PHÁN XÉT CUỐI CÙNG- Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.. 44
ÔNG VUA LÀ NGƯỜI NGHÈO- Gioan Nguyễn Cao Luật 54
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt 64
VUA TÌNH YÊU- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 67
YÊU MẾN VÀ PHỤNG SỰ CHÚA NƠI THA NHÂN– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 72
CHA TA CHÚC PHÚC- Lm Vũ Đình Tường. 76
CHÚA KITÔ VUA– Radio Veritas Asia. 80
VUA GIÊSU, VỊ THẨM PHÁN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 86
ĐƯỜNG VỀ VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng 94
ĐỨC KI TÔ, VUA TÌNH YÊU- Trích Logos A.. 103
GIÊSU VUA TÌNH YÊU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 109
HÃY ĐẾN HỠI NHỮNG KẺ CHA TA CHÚC PHÚC- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 113
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến 119
MỘT TƯỚC HIỆU DỄ BỊ NGỘ NHẬN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 126
VUA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 130
NHÂN QUẢ- Lm. Jos. Trần Việt Hùng. 135
CUỘC XÉT XỬ TÌNH YÊU- Lm. Hồng Phúc. 142
YÊU THƯƠNG QUA VIỆC GIÚP ĐỠ NHAU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý 145
VUA TÌNH YÊU – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
ƯỚC CỦA ĐỨC GIÊSU Ở CHỐN NÀO? – Tu sĩ Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A-LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: ED 34, 11-12. 15-17
“Phần các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với chiên”.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: “Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán, và trong ngày mây mù đen tối.
“Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính.
“Còn các ngươi, hỡi chiên của Ta, Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Này Ta sẽ phân xử giữa con này với con khác, giữa cừu đực với dê đực”.
ÐÁP CA: Tv 22, 1-2a. 2b-3. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. – Ðáp.
2) Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. – Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa. – Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. – Ðáp.
BÀI ÐỌC II: 1 Cr 15, 20-26. 28
“Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực.
Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Ðấng đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến. – Alleluia.
“Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
“Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.
“Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
NHỮNG GÌ TA LÀM CHO ANH CHỊ EM LÀ LÀM CHO CHÍNH CHÚA (*)– Chú giải của Noel Quession
Khi con người đến trong vinh quang của người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của người.
Trong bài giảng lớn cuối cùng này của đức giêsu, người thợ mộc hèn mọn nadarét sau cùng biểu lộ ý thức phi thường mà người có về vai trò của mình. Ơ đây, chúng ta có sự khẳng định mạnh mẽ nhất về thiên tính của đức giêsu theo nghĩa chặt chẽ. Trong vài ngày nữa, người sẽ bước vào cuộc khổ nạn (mt 26,1-5) và trở thành “ông vua” bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một người nô lệ tầm thường. Nhưng người biết mình là ai. Một ngày kia người sẽ đến trong vinh quang để phán xét thế gian, là đặc quyền mà cựu ước dành cho giavê. Ở đây đức giêsu lấy lại tước hiệu con người mà người đã sử dụng nhiều lần trong bài giảng về thời thế mạt (cánh chung): mt 24,3.27.30.37.39.44. Kể từ ngôn sứ đanien (7,13), con người là nhân vật mầu nhiệm, có nguồn gốc từ trời, mà sách khải huyền do thái (đặc biệt là sách hê-nóc) mô tả như vị thẩm phán của thời thế mạt.
Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt người, và người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải người, còn dê ở bên trái.
Thỉnh thoảng chúng ta nên nghĩ đến “ngày” này. Tôi sẽ được đưa về với ngày đó rất nhanh. Lúc đó mọi sự vật trần gian sẽ có một tỉ lệ mới: lạy chúa, xin chúa ngay từ bây giờ giúp con phán đoán mọi sự việc theo quan điểm vĩnh cửu, để phân biệt cái gì là không đáng kể với cái gì là quan trọng. “các dân thiên hạ..”. Tôi cũng thế, tôi sẽ có mặt ở đó. Một đám đông to lớn chờ phán xét. Cũng có mặt ở đó tất cả những người mà tôi yêu thích, tất cả những người mà tôi biết, tất cả những người mà tôi có trách nhiệm.
Nhưng cũng có mặt mọi người khác: do thái và không do thái, kitô hữu và không phải kitô hữu, tín hữu và không tín hữu, hồi giáo, ấn giáo, người theo thuyết vật linh… những nhà thần bí suốt đời sống trong sự cầu nguyện, và những người vô thẩm mà cả đời không bao giờ cầu nguyện… Tất cả đều đứng trước mặt đức giêsu! Người là vị vua mục tử, tước hiệu mà văn chương của các ngôn sứ cũng đã dùng để nói về gia-vê (ed 34,11-22).
Bấy giờ đức vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:”nào những kẻ cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho cắc ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Trong vài ngày nữa, đức vua này, con thiên chúa sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên người ý thức được “ý định của thiên chúa từ thuở tạo thiên, lập địa!”. Người nói thiên chúa đã tạo ra con người… để một ngày ban cho con người nước của người làm gia nghiệp. Nhưng sự phán xét dựa trên tiêu chuẩn nào? Trên quy tắc nào sự sàng lọc được thực hiện?
Vì xưa ta đói, các ngươi đã cho ăn ta khát, các ngươi đã cho uống, ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, ta đau yếu, các người đã thăm nom, ta ngồi tù, các người đã đến thăm.
Vậy chúng ta được phán xét dựa trên và chỉ dựa trên tình yêu. Và dựa trên một tình yêu rất đơn giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà đức giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người.
Con tôi khóc ban đêm, và tôi thức dậy để dỗ dành âu yếm nó. Bà mẹ già của tôi không thể ngồi dậy, và tôi đã đỡ bà ra khỏi giường để cho bà ngồi vào ghế bành. Những người láng giềng của chúng tôi thiếu thốn tình bạn họ cần và chúng tôi đem tình bạn đến với họ. Trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy giáo lý và tôi đã chấp nhận trách nhiệm này và nó chiếm khá nhiều thời gian của tôi. Các đồng nghiệp của tôi cần được bảo vệ và tôi đã lãnh trách nhiệm về cộng đoàn và chính sách.
Thế giới thứ ba yêu cầu chúng ta giúp đỡ để phát triển, và tôi đã tham dự vào chiến dịch thế giới chống nghèo đói…người phối ngẫu, con cái tôi, bạn bè tôi… Đang cần những cử chỉ yêu thương của tôi… Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng:
“lạy chúa, có bao giờ chúng con đã thấy chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đã thấy chúa là khách lạ mà tiếp đón hoặc trân truồng là cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?”
Sự ngạc nhiên của những người “được cứu” là một trong những yếu tố gây kinh ngạc trong cảnh này. Theo đức giêsu không một ai trong số những người được chúa cha chúc phúc có vẻ nhận biết đích xác điều gì đã được diễn ra trong đời sống hàng ngày của họ: ý nghĩa sau cùng của các hành động họ làm chỉ được tiết lộ vào giờ sau hết.
Như thế, cuộc phán xét sau cùng này mà chúng ta tưởng tượng trong tương lai, còn rất xa trong thời gian, thực ra lại là một biến cố thường xuyên: chính hôm nay là ngày phán xét? Thiên chúa sẽ không cần phán xét con người, mà con người ta phán xét mình trong suốt cuộc đời.
Thiên chúa chỉ cần tiết lộ điều đã được “che giấu” trong mỗi ngày mà họ đã sống. Đời sống vĩnh cửu đã được bắt đầu. Vậy điều gì đã được “che giấu” và không được nhận thức?
Để đáp lại đức vua sẽ bảo họ rằng: “ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy.”
Điều được “tiết lộ vì thế chính là sự hiển diện khó tin được của đức giêsu! Khi toàn bộ lịch sử nhân loại sẽ hoàn tất, và để tóm thu toàn bộ lịch sử ấy, đức giêsu chỉ có thể nói về người, như thể trong vô số người đàn ông và đàn bà, chỉ mình người đã hiện hữu, bằng sự hiện diện vô số và ẩn giấu. ‘Ta đói …ta khát… ta ngồi tù… ta là khách lạ.. Ta đau ốm…”. Như thế, cuộc quang lâm sau cùng, sáng chói trong vinh quang của đức giêsu từ trên các đám mây sẽ là bằng chứng cho một “sự đến” khác, bí mật và ẩn giấu nhưng thường xuyên, và xảy ra qua những hành động yêu thương. Một cách rõ ràng và hiển nhiên sự hiện diện huy hoàng của đức giêsu trong ngày thế mạt sẽ nói rằng người không ngừng đến và không ngừng hiện diện trong mỗi người anh em đang cần đến chúng ta.
Lạy chúa, xin giữ cho chúng con luôn canh thức cho đến giờ chúa sẽ hiện ra.
Rồi đức vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”.
Lạy Đức Giêsu, Đấng mạc khải tình yêu của chúa cha, chính chúa đã tuyên bố những lời đáng sợ như thế. Con lắng nghe và không thể trốn tránh trách nhiệm đã gạt bỏ những gì gây phiền nhiễu cho con trong tin mừng. Thật vậy tin mừng không phải là một thuyết duy tâm mơ hồ và nặng tình cảm, đó là lời kêu gọi của một yêu sách cực độ. Từ chối yêu thương… Không giống như yêu thương? Không – tình yêu không thể có chỗ của nó bên cạnh thiên chúa là tình yêu. Chúng ta nhận thấy có một khía cạnh có tầm quan trọng tột bậc: chúa cha đã chuẩn bị thiên đàng cho người từ thuở tạo thiên lập địa… Còn hỏa ngục không được chuẩn bị cho con người nhưng cho sa tan và các sứ thần của nó. Ơ đây chúng ta gặp lại nhân vật hắc ám mà ngay từ lúc đầu đã được giới thiệu như kẻ thù của đức giêsu (mt 4,1), kẻ đã gieo cỏ lùng vào cánh đồng lúa mì (mt 13,39), kẻ mà đức giêsu đã nhiều lần đi đầu để tiêu diệt (mt 9,34; 12,24; 8,31; 15,22; 17,18). Tín điều về hỏa ngục không do giáo hội bày đặt ra. Chúng ta nghe từ chính miệng đức giêsu: “quân bị nguyền rủa, đi đi cho khuất mắt ta…”
Tín điều về hỏa ngục có nghĩa như sau: thiên chúa có đủ tình yêu cao cả để cho tạo vặt được tự do với sự tự do chân thật, kể cả tự do nói “không” với thiên chúa. Dĩ nhiên thiên chúa không muốn có hỏa ngục. Và sự hiện diện dù của chỉ một người bị sa hỏa ngục đối với chúng ta cũng là một cớ vấp ngã, đối với thiên chúa thì còn hơn thế nữa. Giữa hỏa ngục “có thể” và hỏa ngục thực, thiên chúa can thiệp với tất cả năng lực của tình yêu của người: chính ở chỗ đó, thập giá của đức giêsu được dựng lên thiên chúa đã làm tất cả để không một ai phải vào chỗ đó nội các tạo vật dứt khoát nói “không” với thiên chúa. “thiên chúa sai con của người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ con của người mà được cứu độ”. “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người’ tội lỗi” (mt 9,13). “đức kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (rm 5,9). “thiên chúa muốn mọi người được cứu (1tm 2,4). Hỏa ngục vì là sự khước từ tuyệt đối tình yêu nên lúc nào cũng chỉ hiện hữu từ một phía… Phía của người đã tạo ra hỏa ngục cho chính mình. Nhưng chính thiên chúa không thể có bất cứ sự cộng tác nào trong sự lệch lạc ấy. Chừng nào còn có dù chỉ một con người ở trong sự khước từ ấy thì có thể nói thiên chúa còn thấy mình bị đóng dấu sắt nung đỏ bởii sự từ chối ấy xúc phạm đến tình yêu vô hạn của người và người ta đoán rằng dấu ấn này đã mang hình thể của thập giá?
Vì xưa ta đói, các ngươi đã không cho ăn; ta khát, các ngươi đã không cho uống; ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “lạy chúa, có bao giờ chúng con đã thấy chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ đâu?”: bấy giờ người sẽ đáp lại họ rằng: ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các người không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy”. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.
Cả hai cảnh phán xét hoàn toàn giống nhau và đối nhau: điều mà những người này đã làm, những người khác bỏ không làm. Mọi con người dù là kitô hữu hay không, dù biết hay không biết đức giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn: không phải số lời cầu nguyện đã đọc, những hành động thờ phụng đã hoàn tất …những tình yêu cụ thể mà người ấy sẽ biểu lộ cho các anh em mình. Không làm điều xấu chưa đủ. Còn phải làm điều tốt. Mỗi con người ngay từ hôm nay được phán xét bằng điều tốt lành mà người ấy làm cho những người cần đến người ấy. Vậy ngày hôm nay, ai đang chờ đợi tôi một điều gì?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A– LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ VUA– Lm. Carolo Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ: Chủ đề hôm nay rất rõ và được khai triển trong tất cả 3 bài đọc cùng với bài đáp ca : Đức Giêsu là Vua
– Bài đọc I: Thiên Chúa là Vua-Mục tử ân cần chăm sóc từng con chiên mình.
– Đáp ca : Chúa là mục tử
– Tin Mừng : Đức Giêsu là Vua-Thẩm phán. Nhưng Ngài xét xử theo tình thương yêu.
– Bài đọc II : Đức Giêsu là Vua vũ trụ, nắm toàn quyền trên mọi sự và mọi loài.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Đức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
– Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
– Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Êd 34,11-12.15-17)
Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc cho Israel là đoàn chiên của Chúa. Những người ấy là các vị vua, các tư tế và các luật sĩ. Nhưng họ chỉ biết lợi dụng chức vị để lo cho bản thân, bỏ mặc đoàn chiên bị bơ vơ, đói khát, bị trộm cướp và thú dữ bắt giết.
Vì thế, qua miệng ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa cho biết rằng Ngài sẽ lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy, và Ngài sẽ đích thân làm mục tử chăm sóc cho đoàn chiên mình.
Đáp ca (Tv 22)
Thiên Chúa là một mục tử tốt : Ngài lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi.
Được làm con chiên do Chúa dẫn dắt, người tín hữu không sợ thiếu thốn gì cả ; dù đang bước đi trong thung lũng tối tăm, con chiên cũng không sợ vì biết rằng sau đó sẽ tới chỗ an toàn ; dù đang đối diện với quân thù, con chiên cũng an tâm vì biết có mục tử hùng mạnh bênh vực che chở mình.
Tin Mừng (Mt 25,31-46)
Dụ ngôn này mô tả ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu xuất hiện như một vị Vua-Thẩm phán. Tất cả mọi người đều tập họp trước nhan Ngài để chịu xét xử. Tiêu chuẩn mà vị Vua-Thẩm phán ấy dựa vào để xét xử là cách sống yêu thương. Ngài cho rằng ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lai, ai không yêu thương những người khốn khổ bé mọn cũng có nghĩa là không yêu thương Chúa nên bị trừng trị.
Bài đọc II (1 Cr 15,20-26a.28)
Thánh Phaolô cũng nói tới ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu sẽ làm Vua, chiến thắng tất cả mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật. Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
GỢI Ý GIẢNG
Một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng
Dựa vào các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể mô tả một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng :
– Vị Vua ấy không chễm chệ ngự trị trong cung điện và trên ngai vàng, nhưng hoà mình với dân như một người mục tử sống với chiên, lo cho chiên và đồng hành với chiên.
– Vị vua ấy không bắt dân phải cung phụng và phục dịch mình, nhưng xả thân chăm sóc đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho dân.
– Luật trong Nước của Vua ấy không rườm rà và khắt khe, nhưng là Luật Yêu Thương, rất đơn giản và ngọt ngào.
– Dân trong Nước ấy không hoan hô bằng miệng, không báo cáo bằng giấy, nhưng thực hiện Luật yêu thương một cách cụ thể bằng những việc giúp đỡ những người khốn khổ bé mọn.
– Mọi người trong Nước ấy đối xử với nhau một cách vừa tôn trọng vừa thương mến như đối xử với chính Chúa vậy.
Hình ảnh lý tưởng ấy không phải là hoàn toàn ảo tưởng : Vị vua lý tưởng ấy chúng ta đã có rồi, đó là Chúa Giêsu ; Luật lý tưởng ấy chúng ta cũng đã có rồi, đó là Luật yêu thương ; chỉ còn thiếu một điều là chúng ta phải cố gắng làm những công dân lý tưởng như Chúa đã dạy.
“Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “lưới trời lồng lộng không ai thoát khỏi” và “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất).
Dù là dân đen hay là vua chúa, dù nghèo hay giàu, dù trẻ hay già… cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người. Ngài xét xử dựa trên Luật yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luân.
Mở mang Nước Chúa
Nước Thiên Chúa, đó là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu nói tới nhiều nhất, nhưng có lẽ đó cũng là một trong những điều chúng ta hiểu cách mù mờ nhất.
– Ngày xưa người do thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước do thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.
– Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nễ phục. Hiểu như vậy có đúng không ? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.
Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu thêm về Nước Thiên Chúa.
-Lần kia các môn đệ hỏi Chúa Giêsu : “Thưa Thầy bao giờ Nước Thiên Chúa đến ?” Chúa Giêsu đáp : “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được, Người ta không thể nói Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, vì nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em” (Lc 17,20-21). Chúng ta hãy nghe cho kỹ Lời Chúa Giêsu nói : “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”, nghĩa là sao ? Nghĩa là đừng coi Nước Thiên Chúa như một tổ chức, dù là tổ chức quy mô đông đảo bao nhiêu đi nữa. “Nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em” nghĩa là sao ? Có thể có 2 nghĩa : 1 là ở ngay trong lòng mỗi người ; 2 là ở một người nào đó đang âm thầm sống và làm việc giữa một tập thể đông người. Như thế Nước Thiên Chúa không phải là một tổ chức mà là một sức sống ; sức sống ấy không thể hiện nơi những hoạt động mà thể hiện nơi sức tác động (lặp lại).
Bởi thế trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không so sánh Nước Thiên Chúa với hình ảnh những đạo quân hùng hậu hay với những đám người đông đảo. Trái lại Ngài so sánh Nước Thiên Chúa với hạt cải và với nắm men, những hình ảnh nói lên sự nhỏ bé và âm thầm. Tuy nhiên nhỏ mà lớn, âm thầm mà rất mạnh. Hạt cải sẽ trở thành cây to, nắm men sẽ khơi dậy cả thúng bột.
Những suy nghĩ trên gợi lên ba ý nhỏ về việc xây dựng Nước Thiên Chúa :
-Bởi vì “Nước Thiên Chúa không đến như điều gì có thể quan sát được”, cho nên chúng ta đừng quá chú trọng đến bề ngoài. Hãy xây dựng Nước Thiên Chúa ngay bên trong.
-Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong lòng mình : Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”. “Ở giữa” theo nghĩa thứ nhất là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho dù chúng ta có làm hết việc này tới việc nọ, làm hết chỗ này tới chỗ khác, nhưng ngay trong lòng ta không có Nước Thiên Chúa thì tất cả cũng chỉ là công dã tràng thôi : “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Hãy tự vấn xem trong lòng mình đã có Nước Thiên Chúa chưa. Nếu chưa thì hãy xây dựng. Xây dựng bằng cách sống theo Luật Nước Chúa, tức là Luật yêu thương.
-Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cộng đoàn của mình bằng cách góp phần làm cho cộng đoàn mình đang sống dần dần thành một cộng đoàn yêu thương.
Mảnh suy tư
Mẹ Têrêsa nói: ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
Chuyện minh họa
Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau :
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
– Tại sao ông khóc ? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà !
– Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không ?
– Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
– Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?
– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
“Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói đâu… ?”
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói : “Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi”
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vua toàn thể vũ trụ, nhưng là một vị vua của tình thương và hòa bình. Với tâm tình yêu mến vị vua nhân ái, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / đặc biệt là các vị mục tử / luôn luôn là những tấm gương yêu thương sống động.
2- Hoà bình và phát triển là hai mơ ước tha thiết của hết thảy mọi người đang sống trên hành tinh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ước mơ trên của con người / sớm trở thành hiện thực trong đời sống thường ngày.
3- Trong quan hệ giữa con người với nhau / nếu thiếu tình người thì không thể có những mối liên hệ tốt đẹp được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng đem tinh thần bác ái yêu thương vào trong đời sống xã hội / để mọi người yêu thương / tôn trọng và tin tưởng nhau.
4- Thánh Phaolô nói / “Sống yêu thương là chu toàn cả lề luật Chúa” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bái ái yêu thương đối với tất cả mọi người.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chinh phục nhân loại bằng tình thương hy sinh của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Chúa, lấy lòng bác ái mà đối xử với nhau, và cách riêng đối với những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhờ đó chúng con có thể giới thiệu Chúa cho những người thành tâm thiện chí. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ VUA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Hôm nay là ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội hướng lòng chúng ta về ngày chung thẩm, ngày mà mọi người sẽ qua đi và vũ trụ sẽ ra tro. Ngày đó không ai biết được nhưng chỉ biết một điều là ngày ấy Chúa Giêsu sẽ xuất hiện lần thứ hai với dáng vẻ uy nghi của một vị Vua Thẩm phán, có các thiên thần hầu cận, để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính.
Ngài sẽ phán xét thế nào ? Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn Ngài đã đề ra trong bài Tin mừng hôm nay : Tình yêu đối với tha nhân. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân trong nhiều dụ ngôn. Những ai thể hiện tình yêu ấy đối với Ngài qua tha nhân thì sẽ được thưởng, còn ai không yêu thương Ngài qua tha nhân thì sẽ bị phạt, đúng như quan niệm của dân gian :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : việc lành việc dữ sau cùng đều có thưởng phạt.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Ez 34,11-12.15-17.
Lịch sử đen tối của dân Israel đã cho thấy Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc Israel là đoàn chiên của Chúa. Nhưng những người này chểnh mảng với nhiệm vụ chăn dắt mà chỉ lo tìm lợi riêng, do đó, họ đã dẫn chiên đến một tai họa lớn : dân Israel bị bắt cầm tù rải rác khắp đế quốc Babylon. Họ đã bị xa cách nhau, phải tiếp xúc với dân ngoại đạo, họ đã thấy cô đơn và bị bỏ rơi.
Vì thế, qua miệng tiên tri Ezéchiel, Thiên Chúa cho họ biết rằng chính Thiên Chúa sẽ đi tìm họ, tập họp họ lại và lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy và chính Ngài sẽ chăm sóc họ như mục tử chăm sóc đoàn chiên mình.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 15,20.26a-28.
Thánh Phaolô đưa ra cho tín hữu một so sánh : Adong cũ đã làm hỏng con người và làm cho con người phải chết. Chúa Kitô là Adong mới đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, giải thoát con người và ban cho con người sự sống mới. Do đó, Chúa Giêsu trở nên thủ lãnh nhân loại để đưa con người vào Nước Trời.
Và đến ngày cách chung, Chúa Giêsu Kitô Vua đã chiến thắng mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật, sẽ trao lại cho Thiên Chúa Cha tất cả vương quyền và Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
+ Bài Tin mừng : Mt 25,31-46.
Dụ ngôn mà thánh Matthêu mô tả bằng hình ảnh có tính cách khải huyền về ngày phán xét sẽ diễn ra trong ngày sau cùng. Khi đó, Đức Giêsu sẽ xuất hiện như một vị Vua thẩm phán đầy uy quyền, có các thiên thần hầu cận. Ngài sẽ tách biệt người lành kẻ dữ ra hai bên như người mục tử tách chiên ra khỏi dê để xét xử công minh.
Tiêu chuẩn của cuộc xét xử là luật yêu thương. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân : những ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lại, những ai không thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân tức là không yêu thương Ngài thì sẽ bị trừng phạt.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đức Kitô Vua Thẩm phán
BỐI CẢNH NGÀY LỄ.
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.
MỘT NƯỚC CẦN CÓ VUA.
Người ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể có cảnh “cá mè một lứa” được, nhất là trong một nước. Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.
Bên phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
Kinh thư viết :”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” : Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết :”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phuơng” : Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương.
Bên Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel :”Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19). Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael :”Hãy đi nói với Đavít :Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192).
Truyện : nữ hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.
ĐỨC GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA.
Nơi Đức Giêsu xưng vương.
Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua theo kiểu thế gian. Ngài chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua : “Ông nói phải, Tôi là Vua”. Chính Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái.
Ngoài ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ I.N.R.I.
(Jesus Nazareth Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công nhận Đức Giêsu là Vua. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là :”Xin tha cho họ” và cao điểm là :”Mọi sự đã hoàn tất”.
Vương quốc của Ngài.
Vương quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập ra không có lãnh thổ hay tài nguyên vì vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu, nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung. :”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính).
ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ.
Đức Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng mình là Vua Mục tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố :”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm :”Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”.
Ờ Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc hằng sống.” Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe danh thánh Giêsu” (Pl 2,6).
Nếu Đức Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ :”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làmcho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương.
ĐỨC GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN.
Ngài đã khẳng định vậy.
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng :”Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Lòng tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa :”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái”(Mt 25,31).
Ngai uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt 19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Ngài phán xét như thế nào ?
-Dựa trên tình thương.
Sự phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ mà chúng ta đã làm cho người khác. Cha Mark Link nói :”Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”.
Những điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù… Đó là những việc mà ai cũng có thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến mà chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này.
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được. Và còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất.
Dù là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già… cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luâm. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564)
-Giúp đỡ không tính toán.
Tất cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật. Trái lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra :”Nếu chúng tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”. Cũng có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ. Giúp đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.
Truyện : thánh Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có : ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài :”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời :”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
-Cho đi thì sẽ được.
Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
Truyện: cho đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn mày” : chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố :”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139)
Nghe xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo đức : đó là yêu thương giúp đỡõ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi lại với chúng ta.
Nếu Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài.
Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết :”Ta bảo thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người. (Laudetur Christus Rex in saecula saeculorum.)
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
PHÁN XÉT CUỐI CÙNG- Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM
Ngữ cảnh
Có những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên, nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có cc. 32b-33, được coi như một dụ ngôn ngắn. Phần lớn của bản văn được tạo nên bởi hai mẩu “đối thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây là một bức họa về phán xét. Đây không phải là một bản văn khải huyền, vì không có thị kiến, cũng không phải là một bài huấn giáo về phán xét, vì không có một lần nào bản văn ngỏ lời trực tiếp với các độc giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp được niềm hy vọng của Hội Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv 2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng hoặc hình phạt.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
-Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33);
-Xét xử những người bên phải (25,34-40);
-Xét xử những người bên trái (25,41-45);
-Kết luận (25,46).
Vài điểm chú giải
– muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47; 6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
– tập hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge 4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn Dân ngoại vào một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
– tách biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
– Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
– những anh em bé nhỏ nhất (40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6; 26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
Ý nghĩa của bản văn
Bản văn của chúng ta là bản văn cuối cùng trước khi truyện Thương Khó bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính, những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan Người làm chứng về sự hiện diện của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền của Người, từ đó Người điều khiển cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32). Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân tộc” (ta ethnê) dường như là một từ ngữ chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Tác giả Mt viết cho một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu gốc Do Thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30; x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi người, dân Do Thái cũng như người ngoại, đều được triệu tập đến trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có thể coi như không có Người. Mỗi người sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy định và Người xác định số phận đời đời cho từng người. Bất kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính, giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra những việc đã không làm cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con người, chứ không phải là trong tư cách là người Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em” Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách vị thẩm phán, Người lại nói đến “những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích tự đồng hóa với những người bé nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm nhường”, là nhân đức căn bản của Người (x. 11,28-36) và những người yếu đuối là đối tượng Người ưu ái chăm sóc. Tất cả mọi người đều là “anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những người túng quẫn hơn và xấu số mới là “anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng, những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt của Đức Giêsu và tình yêu của Người rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhận sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
+ Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
Gợi ý suy niệm
-Tất cả những gì chúng ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa chúng ta đến hình phạt đời đời.
-Những người nghèo khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu, mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số phận của mình.
-Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá khả năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoặc tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
-Bài học của đoạn Tin Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
-Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- Năm A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
ÔNG VUA LÀ NGƯỜI NGHÈO- Gioan Nguyễn Cao Luật
Vua, chính là người nghèo
Có một bức tranh diễn tả về cuộc phán xét cuối cùng, trong đó, bên cạnh hình một tên quỹ là hình Đức Kitô oai phong. Bức tranh đó rất lớn, nói lên Con Người đã trở lại, Người được gọi là “Vua” và tất cả mọi nước đều tụ tập trước nhan Người. Xưa kia, tại chân tháp Ba-ben, tội lỗi đã làm tan vỡ các dân tộc, trở thành những mảnh nhỏ. Giờ đây, các mảnh nhỏ ấy lại vỡ tan, nhưng để nảy sinh một nhân loại mới phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, một dân tộc thánh thiện, bao trùm cả vũ trụ.
Bản văn phụng vụ trong lễ Đức Kitô Vua thật lạ lùng. Thánh Mát-thêu sắp xếp trình thuật này vào giai đoạn mà số phận của con người dường như đã được định đoạt: Người bị kết án và chịu hành hình như một nô lệ. Trước đây, khi dân chúng tỏ ra quý chuộng Người, thì Người lại nói về đau khổ và sự chết; còn ở đây, khi trần gian sắp sửa sụp đỗ dưới chân Người, thì Người lại lên tiếng nói về vinh quang và vương quyền. Người tự giới thiệu về chính mình như vị Vua xét xử cả nhân loại.
Phải chăng đây là một ước mơ muốn báo thù, hay là khoa trương ước vọng? Phải chăng là Đức Giêsu muốn khước từ việc xoá mình đi và theo đuỗi quyền lực? Điều lạ lùng nữa là Đức Giêsu tự nhận Người có quyền xét xử vốn dành riêng cho Thiên Chúa, như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “”Đức Chúa là Chúa Thượng phán: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê”” (Ed 34,17). Đặc biệt hơn, Người còn tự đổng hoá với những người bé nhỏ, hèn kém: “”Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy… Mỗi lần các ngươi không làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.””
Vị vua này thật khác xa với lời mô tả của ngôn sứ Sa-mu-en khi ông cảnh giác đám đông dân chúng Ít-ra-en đang muốn chọn một ông vua để cai trị họ: “Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em… Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em.”” (1 Sm 8,11.17-18)
Đúng hơn, Thiên Chúa đáp lời con người đang bị áp bức bằng cách gửi đến cho họ một vị vua trong thân phận một nô lệ. Vương quyền của vị vua này không đặt trên quyền lực và cũng không có ý định chiếm chỗ của Thiên Chúa. Vương quyền này đặt sức mạnh của mình trên tình yêu, tình yêu của một vị Thiên Chúa đã đến trong chỗ của một con người. Trong Đức Giêsu, Vương quyền đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa: thay vì thống trị sẽ là tình yêu.
Một ông vua với những ý nghĩa khác thường
Tin Mừng cho thấy có những lúc Đức Giêsu từ chối là vua, có lúc Người lại nhận. Thật ra, Đức Giêsu không bao giờ chấp nhận một vương quyền theo nghĩa chính trị, quân sự và hống hách. Người không hề muốn chấp nhận vai trò của một ông vua theo cách hiểu thông thường của nhân loại.
Tuy nhiên, Người chấp nhận là Vua Lãnh Đạo như ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo. Vị vua này là người chăm sóc các con chiên đã được trao phó cho mình. Vương quyền của vị vua này là phục vụ.
Đức Giêsu cũng chấp nhận là Vua Chiến Thắng vào thời gian cuối cùng như thánh Phao-lô trình bày. Vị vua này là Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết. Chiến thắng bởi vì Người hiến dâng mạng sống của chính mình; chiến thắng bởi vì Người chấp nhận tự huỷ và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha.
Đức Giêsu còn chấp nhận là Vua Xét Xử như dụ ngôn của thánh Mát-thêu. Thế nhưng vị vua này lại tự đổng hoá với những người nghèo, với những người bị bách hại và với tất cả những người khốn khổ.
Nói tóm, Vương quyền của Đức Giêsu chỉ được diễn tả cách trọn vẹn và trung thực qua việc dành ưu tiên để phục vụ người nghèo, và dành mọi nỗ lực để phát triển đức ái.
Lúc này, Đức Giêsu là vị vua đang trên đường tiến gần đến cái chết, một vị vua sắp bị đóng đinh. Tuy vậy, Người hiểu rõ chương trình từ ngàn đời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện: Thiên Chúa đã tạo thành thế gian, để rổi một ngày kia, thế gian sẽ được thừa hưởng vương quyền của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Vua để phục vụ, để đem lại sự sống, đổng thời Người cũng là Vua để xét xử, để thưởng phạt. Tuy nhiên, đây là một cuộc xét xử kỳ lạ, bởi vì trong đó, con người được phân loại và có quyền tự bào chữa. Một số người cảm thấy hân hoan, còn số khác lại càu nhàu. Một số người ngạc nhiên vì mình được xếp vào loại người lành, một số khác lấy làm lạ vì mình bị liệt vào số người dữ. Dụ ngôn quả là gây ngạc nhiên, bởi vì cuộc xét xử đem lại ơn cứu độ cho những người nghĩ rằng mình chẳng có điều gì tốt lành, và kết ánh những người cho rằng mình công chính.
Nói thế, bởi vì tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu. Mà tình yêu đó rất đơn giản, đơn giản đến nỗi ngay những người trong cuộc cũng không nhận ra: cho ăn, cho uống, cho mặc, đón tiếp, thăm viến, săn sóc. Cuộc xét xử của Đức Giêsu không dựa trên những công trạng, nhưng dựa trên những cử chỉ khiêm tốn để phục vụ anh em đổng loại. Vì vậy, mỗi hoạt động nhằm giúp đỡ người khác, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng đều có giá trị vĩnh cửu, giá trị đời đời.
Đàng khác, cuộc xét xử của Đức Giêsu không là gì khác hơn việc mặc khải ra những điều còn giấu kín. Có thể mỗi người không hiểu hết giá trị của các công việc, nhưng trước mặt vị Thẩm Phán công minh, các công việc đó đều có ý nghĩa và có ảnh hưởng đến cuộc sống vĩnh cửu. Lời phân xử của vị Thẩm Phán trong dụ ngôn được đặt trong bối cảnh của ngày cuối cùng, nhưng cũng là một cảnh giác cho cuộc sống hiện tại. Tình yêu sẽ là tiêu chuẩn để mỗi người tự xét xử, bắt đầu ngay từ cuộc đời này. Như thế, cuộc sống vĩnh cửu đã được khởi đầu ngay tại trần gian. Vương quyền của Đức Giêsu đã được thể hiện khi mỗi người biết phục vụ anh em mình.
Cử hành lễ Đức Kitô Vua, đó chính là dấn thân thực thi việc phục vụ anh em, chứ không phải là hoạt động cho chiến thắng của Đức Kitô như người ta dấn mình vào chính trị.
Chưa phải là kết thúc
Với dụ ngôn này, cũng có thể hiểu rằng, cuộc chơi chưa kết thúc. Không ai có quyền ngủ yên trên những vầng hào quang, và ngược lại, cũng không ai có quyền thất vọng. Bài Tin Mừng quả là một “cú sốc”, có tác dụng như một bản thí nghiệm. Có sáu hành động để bày tỏ lòng thương xót, mỗi người sẽ dựa trên đó để tự đánh giá về mình, đánh giá cách chân thành, không dối trá.
Nếu ai nhận thấy mình đã thi hành trọn đủ sáu công việc – hoan hô người đó – thì họ vẫn phải tiếp tục, bởi vì sau khi đã phục vụ người khác cách anh dũng, theo như lời thánh Phao-lô, họ vẫn có thể bị loại (1 Cr 9,27). Họ cần phải nhớ rằng bản liệt kê đó chưa phải là tất cả. Sáu hoạt động này mới chỉ là những ví dụ điển hình và thông thường. Tuỳ theo sáng kiến và hoàn cảnh của mỗi người, bản liệt kê còn có thể kéo dài, kéo dài đến vô tận, bởi vì tình yêu làm gì có giới hạn.
Nếu ai đó nhận thấy mình ở tình trạng số không, thì đừng lo sợ và kết án chính mình. Tất cả còn có thể thay đổi và còn có thể bắt đầu. Và cho dù tâm hổn mỗi người có kết án chính mình, thì cũng hãy luôn nhớ rằng “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta” (1 Ga 3,20).
Như thế, trình thuật về cuộc xét xử cuối cùng không làm chúng ta sợ hãi, trái lại, nó khuyến khích chúng ta đón nhận ơn cứu độ, an ủi chúng ta vì cho biết rằng chưa tới thời xét xử và tất cả đều có thể. Nó cũng làm chúng ta an tâm khi nhắc nhở cho ta: không ai có quyền xét xử, trừ một mình Thiên Chúa. Điều đó thật đáng mừng.
Hình ảnh về sự phân cách còn cho thấy:
* Có ơn cứu độ, có thiên đàng. Ở dưới đất này, tất cả chưa được quyết định rõ ràng, nhưng cũng không có gì là vô ích. Có một nền công lý dành cho những người bị thất bại, những người bé mọn, những người bị gạt ra bên lề, những người vô tội. Vào ngày chung cuộc, những người bị sát hại sẽ được con cháu mình đón tiếp, và những thế lực sự dữ sẽ phải trả lại vinh quang.
* Và cũng có sự kết án, có hoả ngục. Đó là đạo lý của Hội Thánh. Nếu không, con người chỉ là một thứ đổ chơi, một thứ máy móc chẳng có tự do, cũng chẳng có tình yêu. Có hoả ngục, nhưng Hội Thánh vẫn hy vọng và cầu nguyện để con người đừng điên rổ mà gieo mình xuống đó, khi quyết liệt từ chối đôi tay rộng mở của vị vua đã đón nhận vòng gai.
Kết thúc năm Phụng vụ
Tuần lễ cuối năm Phụng vụ, trong niềm tiếc nuối một năm đã qua, trong niềm vui mừng một năm thành đạt, trong nỗi ê chề một năm thua bại, trong tất cả vũ trụ đang chuyển mình, trong tất cả mọi người đang tranh sống, trong tất cả công to việc nhỏ của con người, Hội Thánh muốn chúng ta nghe lại những bài Tin Mừng về ngày cánh chung và cử hành lễ Đức Giêsu Kitô Vua như ngọn đèn soi sáng cho cuộc sống nhân linh.
Làm sao không cảm thấy bâng khuâng
trước bầu khí se lạnh của mùa đông đang đến.
Làm sao không xao xuyến
khi nhìn lại quãng hành trình một năm vừa đi qua.
Làm sao không náo nức
trước cánh cửa năm mới đang mở ra,
chào đón và thách thức, kêu mời và đe doạ.
Làm sao không cảm thấy lâng lâng
khi đối diện với cuộc đời,
cuộc đời kỳ lạ của anh, của chị, của em,
và cuộc đời huyền nhiệm của chính mình.
Cuộc đời thật lạ kỳ,
vừa quyến rũ, vừa đáng sợ, vừa tươi đẹp, vừa hiểm ác,
vừa thúc bách phải bắt tay xây dựng một thế giới mới đang đến,
vừa cảnh giác đừng bám chặt lấy một thế giới chóng qua.
Phải chăng đó là một cuộc giao tranh thực sự?
Phải chăng đó chính là mầu nhiệm Đức Giêsu Vua
đang chuyển mình ngay trong chính giữa cuộc đời, ngay trong chính lòng mình?
Và phải chăng chính tôi,
tôi cũng đang ẩn núp,
đang lăng xăng một góc nào đó trong cuộc chiến đấu này?
* * *
Lạy Chúa Kitô,
Lời chúng con ca hát reo mừng Chúa là Vua,
thật ra cũng là lời hô hào kêu mời chúng con xông vào cuộc đời.
Việc chúng con cử hành thánh lễ Chúa là Vua
cũng chính là từng bước chân
chúng con tiến vào mầu nhiệm cứu độ trong cuộc đời.
Và lạy Chúa,
Ngọn cờ vương quyền của Chúa
chính là niềm trông cậy vô bờ cho chúng con trong cuộc đời này.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A– LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.
Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.
Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?
4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
VUA TÌNH YÊU- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Nhìn vào bất cứ cây thánh giá nào, chúng ta cũng thấy phía trên đầu có một tấm bảng ghi những chữ mà đọc theo tiếng Việt là IN-RI, thực ra đó là bốn vần đầu viết tắt của bốn chữ La Tinh: Jesus Nazarenus Rex Judaeorum), nghĩa là Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái. Có lẽ tổng trấn Philatô khi ra lệnh treo tấm bảng đó lên đầu thập giá Chúa, ông không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể sự phản đối của người Do Thái. Nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng đối với đức tin của người Công giáo, bởi vì tấm bảng đó là một lời tuyên xưng không thể xóa nhòa: Chúa Giêsu Kitô thực sự là Vua.
Vậy chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là vua nghĩa là thế nào? Ngài là vua gì? Trước hết, chúng ta phải gạt ra ngoài những ý nghĩa về một ông vua mà người đời thường hiểu, tức là một ông vua theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu không bao giờ làm vua theo nghĩa này. Vì thế, khi dân chúng được hưởng phép lạ Chúa làm, họ hồ hởi phấn khởi tung hô Chúa là vua, Ngài đã từ chối. Ngài từ chối vì họ muốn Ngài là một nhà lãnh đạo quốc gia hay một người lãnh đạo quần chúng để đánh đuổi thực dân đế quốc, giành lại chủ quyền cho đất nước và đem lại phồn vinh cho dân tộc.
Tuy nhiên trong ngày Ngài khải hoàn vào thành Giêrusalem, tức là ngày lễ Lá, Ngài đã im lặng, không cải chính, để cho người ta hái lá, lấy áo trải trên đường cho Ngài đi, và chấp nhận để cho họ tung hô Ngài là con vua Đa-vít, vua dân Do Thái. Cũng thế, trước tòa án Philatô, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là vua, nhưng Ngài cũng nói rõ ngay: Nước Ngài không thuộc trần gian này. Ngài là vua không lãnh thổ, không biên giới, Ngài không là vua của riêng một dân tộc hay một đất nước nào mà là vua tâm hồn mọi người. Hiến pháp của Ngài là Kinh Thánh, sức mạnh của Ngài không phải là binh lực vũ khí mà là tình yêu. Mục đích của Ngài đến trần gian là thực hiện kế hoạch và chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi: Chúa Giêsu là vua gì? Ngài là vua Tình Yêu. Tình yêu đã đưa Ngài đến trần gian để phục vụ mọi người và xây dựng nước tình yêu, để tất cả những ai ở trong nước của Ngài đều là công dân tình yêu. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua vũ trụ, vua cả nhân loại, Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương con người đến nỗi chết cho con người. Đó là cái chết vì tình yêu và cho người mình yêu, nên bất cứ ai đón nhận tình yêu cứu độ của Ngài và sống tình yêu cứu độ ấy, họ sẽ được nhận vào nước Chúa. Do đó, nếu chúng ta nói Thiên Chúa là Tình Yêu, thì chúng ta cũng phải nói Chúa Giêsu là Tình Yêu. “Giêsu, Vua Tình Yêu ”, đó là tựa đề một cuốn sách viết về Chúa đã được xuất bản lâu rồi, và mới đây lại có một cuốn sách khác, có tựa đề là “Một tình yêu có tên là Giêsu”. Cả hai cách gọi đó cũng là những điều chúng ta tuyên xưng Chúa hôm nay: Chúa Kitô là Vua, Chúa Kitô là Tình Yêu, Chúa Kitô là Vua Tình Yêu.
Chúa Kitô là vua của chúng ta, vua tình yêu, vậy chúng ta phải sống thế nào để đúng là thần dân của Ngài? Bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi đó, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, và qua đó Chúa bảo chúng ta hãy đối xử tốt đẹp, hãy thể hiện tình yêu thương với nhau. Đúng vậy, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, tức là ngày Ngài trở lại phán xét mọi người. Chúa nói đến vấn đề phán xét không phải là để hù dọa hay làm cho con người phải lo sợ, nhưng Ngài muốn nhắc bảo cho mọi người biết: có ngày phán xét để sống cuộc sống hiện tại cho tốt hơn, Ngài không muốn nhấn mạnh về tương lai, nhưng nhấn mạnh đến hiện tại.
Đây là một cách tế nhị để bảo cho chúng ta biết: chúng ta đã sống thế nào trong đời sống hiện tại, thì chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt trong đời sống mai sau như vậy. Chúng ta là chiên hay chúng ta là dê? Vì lý do gì chúng ta trở thành chiên hay dê? Hay vì lý do gì chúng ta trở thành người được chúc phúc hay bị nguyền rủa? Được vào cõi sống hạnh phúc muôn đời hay phải vào chốn cực hình ngàn thu? tất cả đều căn cứ vào cuộc sống của chúng ta hôm nay. Như vậy, cuộc sống hiện tại tuy ngắn ngủi và tạm bợ nhưng lại là tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ căn cứ vào đó mà thưởng hay phạt chúng ta.
Chúng ta trở thành chiên hay dê là tại chúng ta có biết hay không biết phụng sự Chúa, mà phụng sự Chúa như Chúa cho biết là phục vụ những người anh em đồng loại, nhất là những người đau khổ và bất hạnh về thể xác cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Chúa, và Chúa căn cứ vào đó mà thưởng phạt chúng ta. Thực vậy, chắc chắn có ngày chúng ta sẽ chết, chết rồi chúng ta sẽ đến tòa Chúa phán xét, Chúa sẽ thưởng hay phạt chúng ta. Thưởng hay phạt đều căn cứ vào cuộc sống hôm nay mà chúng ta đang sống, và tiêu chuẩn được Chúa đặc biệt căn cứ vào đó để phán xét là lòng yêu thương người.
Yêu thương là đặc điểm, là dấu hiệu đích thực của người con cai Chúa như Chúa đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”.
Yêu thương là điều dễ làm tăng uy tín cho người môn đệ Chúa hơn mọi giá trị khác. Nó có thể thay thế được rất nhiều đức tính, nhưng không đức tính nào thay thế được nó.
Yêu thương là phương tiện hữu hiệu nhất để truyền giáo. Nhờ yêu thương, người ta dễ có cảm tình với chúng ta, và nhờ đó sẽ có cảm tình với đạo.
Yêu thương là tiêu chuẩn chính yếu mà Chúa sẽ căn cứ vào đó để định đoạt ai được vào thiên đàng, bởi vì chỉ có yêu thương, con nguời mới có thể được vào thiên đàng, chỉ có tình yêu thương, con người mới có thể xây dựng thiên đàng ngay trên trần gian này, bởi vì thiên đàng cũng đồng nghĩa với yêu thương.
Hôm nay chúng ta suy tôn Chúa Kitô là vua, chúng ta hãy nhìn lại đời sống của chúng ta có đang sống đúng cung cách là những thần dân của vua Kitô không? Tức là nhìn lại xem chúng ta đang sống, đang thể hiện tình yêu thương như thế nào từ trong gia đình, trong cộng đoàn, trong tập thể và với mọi người. Xin Chúa cho chúng ta cảm nếm được ngay trong cuộc sống ở trần gian này thiên đàng mà Chúa đã hứa, thiên đàng mà chúng ta chỉ có thể có được bằng cuộc sống yêu thương mà thôi.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
YÊU MẾN VÀ PHỤNG SỰ CHÚA NƠI THA NHÂN– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.
Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”
Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.
Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.
Sở dĩ như thế cũng chỉ vì người ta không nhận ra những người đang sống chung quanh mình là hiện thân của Chúa Giêsu. Mà hiện thân của Chúa Giêsu thì đáng trọng hơn những bức tượng thánh bằng thạch cao, bằng gỗ đá… là biểu tượng của các thánh, do con người tạo nên.
Nói như thế không phải là xem thường ảnh tượng thánh nhưng để nhấn mạnh rằng nếu chúng ta dành cho các tượng ảnh thánh trên bàn thờ một tâm tình tôn kính đặc biệt và không bao giờ dám xúc phạm ảnh đến ảnh tượng thánh, thì chúng ta cũng phải đối xử y như thế đối với anh chị em chung quanh.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng mọi người chung quanh chúng ta, dù bần cùng cơ cực, dù đau yếu bệnh tật, dù bị tù đày hay bị ruồng bỏ… cũng đều đáng được tôn trọng, đáng được yêu thương và phục vụ vì họ là hiện thân của Chúa Cứu Thế, là chi thể của Chúa Giêsu.
Những ai cho người đói khát một bát cơm thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài ăn, vì người đói khát đó cũng chính là Chúa; những ai cho người rách rưới một tấm áo thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài mặc, vì người rách rưới đó cũng chính là Chúa… Như thế, Ngài dạy rằng mọi người chung quanh chúng ta là hiện thân của Ngài, làm gì cho họ là làm cho chính Chúa.
Nếu hôm nay chúng ta chửi mắng, chà đạp, gây buồn phiền đau khổ cho những người chung quanh thì đến ngày ra trước toà phán xét, Chúa Giêsu sẽ phán với chúng ta rằng: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình dành sẵn cho ma quỷ và các thần ác, vì xưa kia ngươi đã đánh đập, chửi mắng, xỉ nhục Ta…”
Hôm xưa, đang khi ông Sao-lê (tức là thánh Phao-lô khi chưa trở thành tông đồ của Chúa) hăm hở tìm bắt những người tin theo Chúa Giêsu tại thành Đa-mát, bỗng nhiên ông bị ngã xuống và có tiếng Chúa Giêsu (đã phục sinh) vang lên giữa thinh không: “Sao-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phao-lô hết sức kinh hoàng, đáp lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22, 6-9).
Sự kiện nầy chứng tỏ bắt bớ các ki-tô hữu là bắt bớ Chúa Giêsu vì họ là hiện thân của Chúa Giêsu.
Thánh Ca-mi-lô Len-li là đấng sáng lập “Hội Dòng Tôi Tớ các bệnh nhân”. Ngài luôn nhìn thấy Chúa Giêsu nơi các bệnh nhân, đến nỗi nhiều lần mang thức ăn cho họ, ngài nghĩ họ là Đức Ki-tô nên nài xin họ ban ơn và tha thứ tội lỗi cho mình. Ngài đứng trước mặt họ với với thái độ cung kính như thể đang ở trước nhan Chúa vậy.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta bí quyết để được hạnh phúc đời đời, đó là biết nhận ra Chúa nơi mỗi anh chị em đang sống chung quanh và hết lòng yêu thương phục vụ Chúa nơi những người đó.
Bài học nầy là cốt tuỷ của giáo lý công giáo, là kim chỉ nam cho đời sống đạo, là chìa khoá mở cho ta vào cửa thiên đàng.
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Lời Chúa soi sáng, chúng con biết rằng yêu thương phục vụ tha nhân là con đường đưa tới hạnh phúc thiên đàng và vô cảm thờ ơ trước những đau thương của tha nhân là đường dẫn xuống hoả ngục.
Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ lối sống ích kỷ và sẵn sàng yêu thương phục vụ mọi người, nhờ đó, mai đây chúng con được Chúa đón vào quê trời muôn đời vinh hiển. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
CHA TA CHÚC PHÚC- Lm Vũ Đình Tường
Ngày nay nói đến vua chúa ai cũng cho là chuyện của thời đã qua. Xưa kia hình ảnh vua chúa, quan quyền cao trọng bao nhiêu ngày nay bị lơ là bấy nhiêu. Quốc gia nào còn giữ được truyền thống hình ảnh hoàng gia sống động cũng chỉ là giữ hình thức truyền thống xưa. Gọi là hình thức vì người trong hoàng tộc không hưởng đặc ân như xưa. Nếu thực tài họ cũng làm việc như những công dân khác và cùng trách nhiệm pháp lí như mọi người. Thiếu tài không thực sự lãnh đạo, cũng chẳng quyền thế. Đại đa số hình ảnh vàng son thời vua chúa ngày nay đóng khung, lộng kiến trong lâu đài bảo tàng viện.
Câu hỏi đặt ra cho các Kitô hữu ngày lễ kính Chúa Kitô vua vì thế có lỗi thời chăng? Với Kitô hữu có danh, không thực hành đời sống đạo thì đại lễ, lễ kính, lễ nhớ. Tất cả đều lỗi thời vì đối với họ tôn giáo là lỗi thời. Với Kitô hữu chân chính, sống thực hành niềm tin thì ngày lễ kính Chúa Kitô vua là một ngày hết sức đặc biệt. Đặc biệt vì nhiều lý do. Lý do quan trọng hơn cả vì Ngài là vua tình yêu. Tình yêu ban sự sống. Sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đấng chiến thắng sự chết mới ban sự sống vĩnh cửu. Mừng lễ Chúa Kitô vua chính là mừng lễ Ngài chiến thắng tử thần. Chiến thắng này không phải riêng cho Ngài mà cho chính chúng ta. Mừng vua chúng ta chiến thắng khải hoàn. Người hưởng thành quả của chiến thắng là chính chúng ta. Lễ mừng kính Ngài là lễ tạ ơn Ngài thắng trận thay cho chúng ta.
Lý do thứ hai để mừng kính do tiên tri Êdekia đưa ra. Đó là tạ ơn một chủ chiên hiền từ, nhân lành, đầy lòng xót thương. Lòng nhân từ của chủ chiên tỏa lan đến toàn đàn chiên, bao gồm cả chiên mạnh khoẻ đến chiên đau bệnh, chiên trong ràn và chiên ngoài ràn.
Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính (Ed 34,15)
Lý do thứ ba để mừng vì hãnh diện, Đức Kitô chiến thắng điều mà toàn thể nhân loại thua, sợ, cố tránh nhưng không tránh được. Điều nhân loại mong tránh thì Thiên Chúa của sự sống đè bẹp dưới chân. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh xưa kia Đức Trinh Nữ đạp đầu kẻ thù của nhân loại là con rắn, hình ảnh của satan. Người Con duy nhất của Mẹ là Đức Kitô đặt kẻ thù dưới chân. Kẻ thù đây là tử thần. Chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm chủ nữa, chúng không còn tác oai, tác quái nhưng đã bị đặt vào đúng vị trí, đúng chỗ của nó.
Lý do thứ tư mừng phần thưởng tương lai của mỗi chúng ta. Phúc âm đưa ra hình thời sinh tiền sống bác ái, yêu thương; khi chết cũng sẽ được yêu thương bồi đắp. Bác ái, yêu thương diễn tả qua hành động cụ thể trong cuộc sống và được chính Chúa Cha chúc phúc.
Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.
Hình ảnh của những con chiên đau khổ, thương tật trong sách tiên tri Êdekia giờ trở thành hình ảnh của những con người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, gây nên bởi cô đơn, buồn thảm. Hình ảnh con người ốm o, gầy còm, ho sặc sụa, khát khô họng được nhắc đến như hình ảnh chiên lạc. Bàn tay nâng đỡ vỗ về của chủ chiên được trao sang bàn tay của mọi người. Những bàn tay làm công việc của bàn tay chủ chiên. Chính vì làm công việc của chủ chiên mà chủ chiên chúc phúc, đón nhận và ban thưởng. Chủ chiên chia phần gia nghiệp nước trời của mình cho những ai cùng cộng tác, lao tác, chia sẻ công việc của chủ chiên vì thợ thì đáng hưởng công. Phần thưởng thứ hai dành cho những bàn tay nâng đỡ, vỗ về chiên đau bệnh, chiên lạc đến từ Thiên Chúa Cha. Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc đến lãnh thưởng. Ân phúc Thiên Chúa ban thưởng đến từ Thiên Chúa Cha. Đây là nguyên nhân nữa để mừng kính ngày lễ Đức Kitô vua.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
CHÚA KITÔ VUA– Radio Veritas Asia
Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.
Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.
Bài đọc hai trích từ 1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.
Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.
Rồi những ngày này, biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v…, chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm manh áo.
Với tất cả những suy nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.
Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A– LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
VUA GIÊSU, VỊ THẨM PHÁN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu.
Ngọn núi Corcovado và núi Tao Phùng
Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua dang tay đứng trên đỉnh núi cao.
Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi.Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.
Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang là đến chân tượng Chúa.
Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tương màu trắng thiên nhiên hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.
Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do Kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh nên việc thi hành kéo dài suốt 10 năm. Sau khi Tổng giáo phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.
Bức tượng Chúa Giêsu cao 30 mét, chân đế cao 8 mét, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu dang ra rộng 28 mét. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.
Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đứng nơi ngọn núi Corcovado, tôi nhớ đến Tượng Kitô Vua (Tao Phùng) ở Vũng tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32 mét, chiều dài hai cánh tay là 18,4 mét; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc. So với tượng Kitô Vua ở Rio de Janeiro ở Brazil thì tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2 mét.Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704 mét so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170 mét của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8 mét, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4 mét.
Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi.Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của người Mục Tử.
Chúa Giêsu là Vua Mục Tử Nhân Lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Ngài tuyên bố : “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10); “Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Vua Mục Tử thiết lập Vương Quốc Tình Thương. Vị Vua ấy đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ : “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. Vua Giêsu làm Thẩm phán xét xử mỗi người theo tiêu chuẩn của tình thương.
Vua Giêsu, vị Thẩm phán
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân
Thánh Matthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được xét xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.
Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ.Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…”. Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?”. Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức.Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.
Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa trong nhà thờ và Chúa ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Đức Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Ngôi Lời Thiên Chúa đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị chỉ trích lại trừ, bị hành hạ và chết treo trên Thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà… Điều vĩ đại trong Phúc Âm về ngày Phán xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa.Tình yêu là “thẻ căn cước”của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.
Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
Lạy Chúa Giêsu, nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều mà Chúa đề cao: mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác…đó là chúng con làm cho chính Chúa, xin cho chúng con luôn biết thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
ĐƯỜNG VỀ VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu – Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân – Chúa Giêsu luôn luôn nhắc nhở về Giới Luật Yêu Thương trong xuyên suốt cuộc hành trình loan báo Tin Mừng của Ngài. Đường về Vương Quốc Tình Yêu không có con đường nào khác ngoài “Con đường Tình Yêu Giêsu”.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt.34-40)
Yêu mến Thiên Chúa
Chúa Giêsu đã lặp lại một giới răn quan trọng trong Đệ Nhị Luật về điều luật yêu thương đối với Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Đnl. 6,5).
Ta sống trong cuộc đời, mọi suy nghĩ và hành động đều phải nhắm đến mục đích tôn vinh Danh Thánh Chúa. Chính nhờ thế, mà mọi suy nghĩ và hành động được thánh hóa và định hướng theo ý ngay lành vì Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thánh ý Thiên Chúa luôn là Chân Thiện Mỹ và mọi việc làm của con người theo thánh ý Ngài là để tôn thờ Ngài và làm ý định của Ngài thành hiện thực trong Vương Quốc Tình Yêu của Ngài từ ngay ở cuộc đời này và cho đến đời đời. Như Chúa Giêsu đã dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”.
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết thao thức và tìm về nguồn vĩnh cửu. Chúng ta biết tự hỏi và luôn nhìn lại từng bước đi của đời mình, như chàng thanh niên đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc. 10,17).
Chính khi ta yêu mến Thiên Chúa, ta mới biết đâu là chân giá trị của cuộc đời, để chúng ta biết chọn lựa, để chúng ta đừng “rời bỏ” hướng đi đúng đắn của đời ta chỉ vì những lợi lộc phù du. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc,17-22).
Chính khi chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết nương tựa nơi Ngài, trông đợi nơi Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, chứ không trông đợi vào sức mạnh ở trần gian. “Chúng ta chẳng phải là một thế hệ chỉ biết trong ngóng nơi trần thế sự tiến bộ nhất thời sao?” (Gioan Phaolô II. Thư gởi giới trẻ, số 5).
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, ta mới thủy chung với Thiên Chúa. Hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Yêu người thân cận
Chính từ lòng mến yêu Thiên Chúa giúp ta biết yêu mến tha nhân và chia sẻ chân tình những buồn vui trong cuộc sống.
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt. 25,34-36).
Nói như cách nói của ĐGH Bênêđictô XVI, thế giới hôm là “một thế giới tan nát vì chia rẽ và hận thù”. Có biết bao người đói khát, lạc lỏng, trần trụi, bệnh hoạn, tù tội… trước những ánh mắt lạnh lùng của nhiều người sống phung phí, xa hoa, quyền lực, đàn áp, tàn bạo, tom góp…
Không chỉ là cơn đói thân xác mà còn là cơn đói tâm linh. Không chỉ là tù tội thân xác, mà còn là tù tội tâm hồn. Có biết bao người bị giam cầm trong thứ ngục tù ý thức hệ chính trị, tôn giáo, triết học, y học… xem nhẹ đạo lý, phi nhân, trong muôn hình vạn trạng phương cách hủy hoại những điều cao quý thiêng liêng của con người, như phá thai, khủng bố, buôn người, mafia…
Thay vì làm cho thế giới tốt đẹp hơn, nhiều người vì những lợi nhuận trước mắt, vì những quyền lợi riêng lẻ, đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm được để đạt được mục đích lợi lộc ích kỷ của mình, gây ra biết bao điều bất hạnh cho người khác.
Rõ ràng, một thế giới tan nát vì thiếu tình thương.
Thánh Augustinô đã khuyên: “Ta hãy cùng nhau ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời, chúng ta cảm thấy mình là lữ khách nơi trần thế này” (Chú giải Phúc Âm thánh Gio-an, bài giảng 35,9).
“Ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời” bằng chính việc xây dựng một thế giới yêu thương ngay tại trần thế để ta chuẩn bị vào Vương Quốc Tình Yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa”. Về Vương Quốc Tình Yêu, phải đi con đường Tình Yêu như Thầy Giêsu đã yêu thương nhân loại đến hiến tế mạng sống mình vì nhân loại trên Thập Giá.
Mỗi người cho nhau điểm tựa yêu thương, ta hướng tâm hồn lên cao là “đường về Vương Quốc Tình Yêu”duy nhất, không thể là đà trong những con đường dục vọng thấp hèn không có lối thoát ở trần gian.
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.”
Để đạt được điều đó, Chúa đã cho ta thấy bức tranh ngày phán xét, trong đó, không có gì khác ngoài tình yêu mà con người dành cho nhau.
Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:
Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.
Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó bằng tất cả trái tim mình.
Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.
Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều không hiểu được.
Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?”.
Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua điện thoại.
Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.
Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung thư.
Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em biết?”.
“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”
Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.
Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.
Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.
Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm”. Cả hai chị em cùng cười.
Tôi lên tiếng: “Chào em”.
Con bé trả lời: “Chào chị”.
Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.
“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé nói.
“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.
Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này”.Dawn Braulick.
Đường về Vương Quốc Tình Yêu
“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc!”.
Nếu ta có tên trong “những kẻ Cha Ta chúc phúc” thì hạnh phúc biết bao! Được Chúa gọi như vậy, là ta đã trải qua một cuộc đời thật ý nghĩa!
Giêsu Kitô, Vua Tình Yêu, Vua Hòa Bình, chỉ có con đường Giêsu mới dẫn chúng ta đến Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Trong thế giới nhiều biến động và không ngừng hận thù tranh chấp, giữ được trái tim yêu thương để đến với nhau bằng tình yêu chia sẻ, nâng đỡ, cảm thông, tha thứ… như Tình Yêu Giêsu thật không dễ dàng gì! Nhân loại cần có nhau, nhưng chính nhân loại lại gây cho nhau những thương đau! Nhưng, Chúa sẽ ban cho sức mạnh để không ngừng phấn đấu vươn lên.
Trong Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 25, ngài kể lại:
Mắt hướng nhìn về sự sống vĩnh cửu, chân phước Pier Giorgio Flassati, qua đời năm 1925, lúc mới 24 tuổi, đã nói: “Tôi muốn sống thực chứ không muốn sống lây lất!”, và trên tấm hình chụp một cuộc leo núi, gửi cho một người bạn, chân phước viết: “Hướng lên cao”, ám chỉ sự trọn lành Kitô giáo, cũng là sự sống đời đời.
Tội lỗi là sự nghèo đói tâm linh, là sự thiếu thốn tâm hồn, là kiếp tù đầy của bóng tối, là khách lạ lạc lỏng trong cuộc hành trình, là vết thương vô hình gặm nhấm hồn xác… cần lắm tình thương của đồng loại.
Hãy là những “điểm tựa yêu thương” cho nhau trong cuộc đời này, để mai này chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Lạy Chúa,
Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa, trong mọi người. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
ĐỨC KITÔ, VUA TÌNH YÊU- Trích Logos A
Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang đi trên một chiếc xe buýt tại nước Thụy Điển. Anh ta khoe với người đàn ông ngồi bên cạnh : “Nước Mỹ là quốc gia dân chủ nhất thế giới. Những công dân bình thường có thể đi tới Toà Bạch Ốc để gặp Tổng Thống và thảo luận công việc”. Người đàn ông ngồi bên cạnh trả lời : “Điều đó có gì đáng nói ? Ở Thụy Điển, nhà vua đi xe buýt chung với dân nữa kìa !”.
Khi xe buýt dừng, người đàn ông bước xuống xe. Hành khách trên xe nói cho người lính Mỹ biết : người đàn ông kia chính là Gustav Adolf VI, vua nước Thụy Điển (Linh mục Giuse Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa trong Tin Yêu, năm A, tr. 366).
Một vị vua đi xe buýt chung với dân. Quả là ông vua đặc biệt, một ông vua thật bình dân. Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô còn là vị vua độc đáo hơn thế nhiều : là một Thiên Chúa cao cả, Ngài đã xuống thế làm người, đã tự nguyện chung một số phận, một định mệnh với con người thấp hèn. Ngài chính là Vua Tình Yêu. Lễ Kitô Vua được thiết lập cũng vì một mục đích hướng về tình yêu. Lịch sử kể lại rằng : hai cuộc Thế Chiến đã cướp đi sinh mạng của hằng mấy chục triệu con người. Chiến tranh luôn đồng nghĩa với hận thù và ghen ghét, với bạo lực và chết chóc ! Trong bối cảnh đó, ngày 11/12/1925, đức giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, để nhắc nhở mọi người hãy từ bỏ chiến tranh và xây dựng hoà bình, hãy chân nhận Đức Kitô là Vua Vũ Trụ. Ngài không cai quản địa cầu bằng vũ khí bạo tàn, không bằng quyền uy hay sức mạnh, cũng không bằng sự giàu sang phú quí, nhưng bằng tình yêu của một vị vua nhân từ khả ái.
Đức Kitô là vua tình yêu cũng còn vì Ngài là Mục Tử Nhân Lành, dám thí mạng vì đàn chiên và là vị thẩm phán công minh, sẽ đến để xét xử mọi người về tình yêu.
Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành
Bài đọc I, trích sách tiên tri Êdêkiel, đã thuật lại : Thiên Chúa đặt một số người làm mục tử để chăm sóc Israel là đoàn chiên của Chúa. Những người ấy là những vị vua, các tư tế và các luật sĩ. Nhưng họ chỉ biết lợi dụng chức vị để lo cho bản thân, bỏ mặc đàn chiên bơ vơ đói khát, bị trộm cướp và thú dữ bắt bớ và giết chết. Vì thế, Thiên Chúa sẽ lấy lại đàn chiên từ những mục tử xấu xa ấy và Ngài sẽ đích thân làm mục tử chăm sóc đàn chiên của mình.
Chúa Giêsu Kitô chính là vị Mục Tử Tốt Lành ấy. Ngài dẫn chiên đến cánh đồng cỏ xanh, đến dòng suối mát trong, đến bóng mát an lành, để đàn chiên được nghỉ ngơi ( Đáp ca : Tv 22 ).
Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử Tốt Lành khi đem đến cho đàn chiên sự sống dồi dào, nhất là đã hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10, 10 -11).
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành khi biết lắng nghe, cảm thông và tha thứ cho đàn chiên. Ngài sẵn sàng bỏ 99 con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc (Lc 15, 4 – 7).
Hôm nay, Chúa Giêsu Kitô tiếp tục làm vua trong mỗi cõi lòng, mỗi con tim chúng ta. Ngài tiếp tục nuôi dưỡng ta với tấm lòng yêu thương của người Mục Tử Nhân Lành. Mãi mãi, Ngài là Vua Tình Yêu.
Đức Giêsu Kitô, vị thẩm phán tối cao
Tại nhà nguyện Sistina ở Roma, có một bức họa khổng lồ mang tên “Ngày Phán Xét” của danh họa Michael Angelo. Sau khi đức giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, nơi đây đã qui tụ hồng y đoàn họp mật nghị bầu tân giáo hoàng. Trong thời gian đó, giới báo chí đã mô tả chính bức tranh “Ngày Phán Xét” đã góp phần làm tăng vẻ uy nghi “đáng sợ” của những ngày họp mật viện. Gương mặt của Chúa Giêsu trong bức họa là dung mạo của một vị thẩm phán tối cao, uy nghiêm ngự đến trong một quang cảnh hoành tráng : phía sau là các thiên sứ, trước mặt là toàn dân thiên hạ. Mọi người được chia thành hai loại tốt xấu, đứng hai bên. Chúa Giêsu như vị thẩm phán công minh, ngồi trên ngai toà của một vị vua cao cả, chung quanh ngập tràn ánh vinh quang chói loà. Tất cả mọi người phải trình diện trước mặt Ngài để chịu xét xử. Người tốt được lãnh phần thưởng, kẻ xấu bị trừng phạt đời đời. Đó cũng chính là bức họa của ngày tận cùng thế giới mà ta phải đối diện.
Tuy nhiên, dù là vị vua cao cả chí tôn trong ngày chung thẩm, dung mạo của Đức Kitô vẫn ánh lên nét nhân hậu của vị Mục Tử Tốt Lành : “Ngài phân chia họ như mục tử tách chiên ra khỏi dê”. Cho đến lúc Ngài phải dùng đến uy quyền tối cao để phán xử trong công bình chính trực, Ngài vẫn tỏ lộ tình yêu.
Hơn nữa, vì là vua tình yêu, trong ngày phán xét cuối cùng, Ngài sẽ xét xử về tình yêu. Nghĩa là chúng ta sẽ bị phán xử về cách chúng ta yêu mến và phục vụ Chúa như thế nào nơi những người anh chị em nghèo khó và bé nhỏ nhất của chúng ta.
Vì là vua tình yêu, Chúa sẽ xét xử về giới răn yêu thương, về luật tình yêu mà Ngài đã ban bố. Ngài đòi hỏi chúng ta phải yêu thương người khác như chính mình, phải tha thứ để được thứ tha, phải yêu thương như chính Chúa đã yêu thương. Và tình yêu thương phải được cụ thể hoá bằng những việc làm phục vụ, chia sẻ cơm ăn áo mặc, viếng thăm an ủi những người nghèo khó bất hạnh.
Vì là vua tình yêu, Chúa không ngồi trên ngai vàng của một đế vương, không thống trị toàn dân bằng uy quyền và sức mạnh, không cai quản thần dân bằng vương trượng đầy quyền lực. Nhưng Ngài tự đồng hoá mình với những người nghèo nàn bé mọn. Ngài che dấu dung mạo thần linh của Thiên Chúa trong bộ mặt nhân loại : một khuôn mặt hốc hác vì đói ăn, một khuôn mặt đau buồn trong thống khổ, một khuôn mặt âu lo trước tương lai đen tối …
Hôm nay, trong bài đọc II, trích thư thứ I gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô trình bày vương quyền phổ quát của Chúa Kitô. Ngài là Ađam Mới đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài trở nên thủ lãnh của nhân loại, dẫn đưa mọi người vào Thiên Quốc.
Thiên Quốc là gì nếu không phải là Vương Quốc Tình Yêu ? Ai sống trong tình yêu và thực thi giới luật yêu thương, thì thuộc về Đức Kitô và là công dân Nước Trời. Ai biết phục vụ và chia sẻ tình thương cho tha nhân, người đó là thần dân của Đức Kitô, vua tình yêu.
Trong lịch sử các vua chúa Việt Nam, không có cuộc hôn nhân nào nhiều sóng gió bằng cuộc hôn nhân giữa vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương.
Năm 1932, sau khi vua Bảo Đại về nước, trong triều đình bàn tán xôn xao về việc vua sẽ cưới vợ. Thái Hậu cũng như các thượng quan, mỗi người đều chuẩn bị tiến dẫn một ái nữ mà họ cho là xứng đáng.
Tuy nhiên, vua Bảo Đại vốn là một người cấp tiến, đã bỏ tục lệ đa thê, nay lại làm cho mọi người ngạc nhiên và cả cố đô Huế phải xôn xao. Vua tuyên bố hoàng hậu tương lai là cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, một bạn học cũ ở Pháp và là một người Công Giáo. Lời tuyên bố như tiếng sét đánh ngang tai bà thái hậu Từ Cung và khiến mọi người bàn tán sôi nổi. Nếu vua lấy vợ Công Giáo, con cái sinh ra sẽ được rửa tội. Vậy sau này thái tử lên ngôi sẽ ra sao ? Trước sức mạnh tình yêu, vua Bảo Đại đã vượt qua tất cả những chống đối, phản bác.
Ngày 20/3/1934, hôn lễ đã được tổ chức rất long trọng. Vua Bảo Đại đã giữ đúng lời cam kết : cho hoàng hậu tự do hành đạo. Hai hoàng tử và ba công chúa được theo đạo Công Giáo.
Phải chăng vị vua cuối cùng ở Việt Nam đã muốn bù đắp lại những gì mà các vị tiên đế đã gây ra cho đạo Công Giáo qua các cuộc bách hại đau thương ?
Vì tình yêu, một ông vua đã vượt qua tất cả những rào cản và thử thách để đạt tới mục đích cuối cùng là được sống hạnh phúc bên cạnh người mình yêu dấu. Đức Giêsu Kitô cũng vì tình yêu, đã vượt qua cả một khoảng cách biệt lớn lao giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người, đến trần gian thể hiện một tình yêu vừa cao vời, vừa lạ lùng. Ngài chính là Vua Tình Yêu ở giữa chúng ta và đồng hành với chúng ta.
Mỗi ngày, chúng ta hãy suy tôn Đức Giêsu Kitô là vua trên các vua, nghĩa là chọn Ngài làm Chúa của cuộc đời ta, làm vua của cõi lòng ta. Đồng thời, chúng ta cũng hãy từ bỏ những thần tượng khác của thế gian : tiền tài, danh vọng, lạc thú, để trung thành với tình yêu của Ngài mãi mãi.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- Năm A- LỄ CHÚA GIÊSU KI TÔ VUA TÌNH YÊU
GIÊSU VUA TÌNH YÊU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua Tình Yêu và là Chúa chúng ta. Vua của Vương Quốc Yêu Thương và An Bình. Hôm nay, Vị Vua ấy nói với chúng ta về cuộc phán xét tình yêu. Khi sử dụng ẩn dụ chiên – dê, Người cho chúng ta thấy rằng đây sẽ là cuộc phán xét về tình yêu.
Chỉ có tình yêu là điều đáng kể, nên thánh Ignatiô Loyola chiêm niệm để đạt được tình yêu, và ngài khuyên chúng ta cần phải đặt tình yêu vào trong lời nói và việc làm của mỗi người. Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa: ” Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với” (Mt 25,34-36). Hơn nữa, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga18,37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong (máng cỏ!) và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.
Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng : “Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19,19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: “Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu”.
Câu hỏi được đặt ra : Vua Tình Yêu phán xét thế nào ? Khi Chúa Giêsu giáng lâm, tất cả mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt để Người xét xử. Tiêu chuẩn là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chính người tuyên án: “Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta” (Mt 25, 40.45). Vì thế, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm cho người khác trở nên khách lạ.
Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình.
Ai trong chúng ta cũng muốn vào Vương Quốc ấy. Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: “cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng”.
Để được vào, chúng ta phải phấn đấu. Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dân cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.
Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: tình yêu, chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.
Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng : “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34).
Chắc một điều là Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Người sẽ là Ðấng Cứu độ và là vinh quang. Còn khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa trong ngày sau hết.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, là Vua trên hết các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn với cả tình yêu, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, xin dâng Chúa quyền lực, vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
HÃY ĐẾN HỠI NHỮNG KẺ CHA TA CHÚC PHÚC- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
“Khi Con người đến trong vinh quang cùng với các thiên thần hầu cận”. Vào lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta lại nghe nhắc đến khung cảnh phán xét theo Phúc âm Matthêu chương 25. Và chúng ta thường hình dung những mô tả này như là Đức Giêsu Kitô đến phán xét vào cuối thời gian khi người sẽ thực thi vương quyền. Thế nhưng chúng ta thường nghĩ điều này như một điều gì đó còn xa xôi trong tương lai, điều mà chúng ta không cần phải lo sợ hay phải quan tâm lúc này. Tuy nhiên, lắng nghe câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu hẳn phải làm chúng ta ngạc nhiên với mạc khải này: “Khi con người đến trong vinh quang để phán xét mọi dân nước” thì những phán quyết của Vua Giêsu sẽ căn cứ vào những công việc chúng ta làm lúc này, dù dưới hình thức hay điều kiện nào: đơn sơ chân thành giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu hay không màng chi đến những tiếng kêu cầu của những người nghèo khổ mà chúng ta gặp hằng ngày. Đây chính là lúc khẩn trương : chúng ta đáp lại như thế nào trước những hoàn cảnh của những người nghèo khổ sẽ có những hệ quả đời đời. Chúng ta sống như thế nào lúc này đã là sự phán xét đối với chính mình và đã đưa chúng ta theo chiều hướng nghe lời phán quyết của Đức Giêsu Kitô Vua :hãy đến, hỡi những người được chúc phúc, hay người sẽ nói với chúng ta: hãy đi xa khỏi ta hỡi phường bị chúc dữ.
Bài Tin mừng và ngày lễ long trọng này nhắc nhở chúng ta là trong Đức Kitô, mỗi người anh em gần với chúng ta mà chúng ta gặp trong cuộc đời thực là quí giá. Mỗi khi chúng ta làm điều gì tốt cho người khác là chúng ta làm cho chính Chúa Kitô và như thế chúng ta làm cho chiến thắng cuối cùng mau đến khi mà mọi sự sẽ được thu họp lại và tôn vinh Cha trên trời. Mỗi khi chúng ta làm điều gì tốt cho người khác, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, tiếp người khách lạ, thăm viếng người bị yếu đau tù tội là chúng ta làm cho chính Chúa Kitô. Và ngược lại khi chúng ta không làm những điều này là chúng ta đã không làm cho chính Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đồng hóa hoàn toàn với người anh em bé mọn nghèo hèn nhất mà chúng ta đã muốn quay lưng bỏ rơi. Quang cảnh của việc thực thi vương quyền của Đức Giêsu không giống như vương quyền của những vị vua trần thế bởi vì khi đó mọi bậc vua chúa trần gian, mọi quan quyền, mọi người có thế lực địa vị không trừ một ai đều phải tập họp trước tòa phán quyết của người. Hơn nữa, khác với những vua chúa trần gian đòi hỏi các thần dân của mình những việc phục vụ thuế má, còn Vua Giêsu chỉ đòi hỏi mọi người quan tâm chăm sóc cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Căn bản cho phán quyết của người là chúng ta có chăm sóc cho người hèn mọn nhất giữa các anh em chúng ta không. Cách cư xử của chúng ta trong cuộc đời hiện tại đã là chọn lựa những lời ban thưởng hay là những lời kết án nặng nề mà chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói với chúng ta trong ngày phán xét chung. Chọn lựa của chúng ta bây giờ đã là chọn lựa cho đời vĩnh cửu. Đức Kitô thi hành vương quyền của người để phán xét. Thực là ngạc nhiên về sự phán xét này là cả người tốt lẫn người xấu không ai ngờ rằng những gì họ đã làm hay không làm cho những người hèn mọn túng thiếu đói khát tù tội lại là làm cho chính Chúa Giêsu. Cũng thực là ngạc nhiên về sự phán xét này là Chúa Giêsu không căn cứ vào những việc đạo đức mà lại nói đến những việc chia sẻ cụ thể đối với những người túng thiếu. Cũng thực là ngạc nhiên hơn nữa là Chúa Giêsu không căn cứ vào chức quyền địa vị. Phán xét của người làm cho những người được chúc phúc cũng như những người bị chúc dữ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, vượt mọi dự đoán thế nhưng lại hết sức giản đơn. Chúa Kitô không phải là nhà vua hay vị thẩm phán trả thù hay khắt khe đòi hỏi điều gì đó xa vời, chúng ta bị xét xử dựa trên những chọn lựa và hành động của mình. Hơn nữa vẻ đẹp của Đức Kitô, Con người đến trong vinh quang của người cùng với các thiên thần, không phải là vẻ đẹp kiểu cách với những sức mạnh phô trương, và sự long trọng cao cả của vương quyền của người không chỉ là chiến thắng hay vinh quang của người mà còn là sự chiến thắng và vinh quang của những ai biết ngay từ cuộc đời trần thế này tham dự vào sự chiến thắng và vinh quang này khi cố gắng giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu để đẩy lùi sự thống trị của tội lỗi và sự chết cùng với Chúa Kitô.
Tiên tri Êzêkien đã tiên cảm tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người nghèo khổ túng thiếu khi trình bày Thiên Chúa như người mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình. Sự chăm sóc này không chỉ như những người mục tử khác làm cho xong việc mà là sự chăm sóc cẩn thận đầy tình yêu cho từng con chiên với mục đích làm cho con chiên được lớn lên mạnh mẽ. Thiên Chúa lo lắng và để ý từng điều kiện của con chiên như lo lắng tìm kiếm con chiên lạc, băng bó con chiên bị thương tích, và chữa con chiên đau ốm . Sự chăm sóc này muốn nói đến sự chăm sóc trực tiếp ân cần của Thiên Chúa và cảnh giác mạnh mẽ những người cậy dựa quyền thế trong xã hội để chà đạp ức hiếp những người khác, những người đó sẽ bị Thiên Chúa xét xử vì đã chà đạp quyền lợi những người mà Thiên Chúa yêu thương chăm sóc.
Vào cuối năm phụng vụ cũng là lúc chúng ta bắt đầu đối diện với mầu nhiệm phán xét khi chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Đấng chiến thắng mọi quyền lực ác thần. Chúng ta đối diện với sự phán xét này không phải với tâm tình hốt hoảng mà với sự sáng suốt tĩnh táo và sẵn sàng lắng nghe lời cảnh giác của người từ bây giờ. Nhiều khi chúng ta dễ dàng quên đi những công việc bình thường của đòi hỏi của vị Vua phán xét này để rồi bị lạc lỏng vào những cám dỗ chạy theo những tìm kiếm hay dự định nào khác không phù hợp với tiêu chuẩn phán xét của Thiên Chúa. Điều này làm chúng ta nhớ lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi của người luật sĩ: yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức và yêu thương người khác như chính mình. Đòi hỏi của Chúa Giêsu vẫn luôn thống nhất, không hề có điều gì là xa lạ, chẳng qua là khai triển cụ thể thôi. Đây cũng là đòi hỏi hợp lý và cũng là điều chúng ta có thể thi hành nếu chúng ta tập trung vào tình yêu Thiên Chúa. Trong cái nhìn tổng thể để hiểu tầm quan trọng của đòi hỏi Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta có thể thấy rằng trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà mọi người chúng ta đều được chôn vùi trong sự chết của Đức Kitô và trong mầu nhiệm phục sinh của người trong phép rửa. Lúc này khi chúng ta đón nhận sự sống của Thiên Chúa, chúng ta được đón nhận làm nghĩa tử và trở nên thân mình của Chúa Kitô. Mỗi người đều được cùng chia sẻ trong đời sống Thiên Chúa bằng chia sẻ vào cùng một thân mình của Chúa Giêsu. Chúng ta đều được tác sinh trong Đức Kitô. Nếu chúng ta nhìn người khác như cùng chia sẻ một căn tính và phẩm giá, nếu chúng ta nhìn người khác như là chính Chúa Kitô, là điều mà Tin mừng nhắc nhở , chúng ta sẽ dể dàng để hy sinh giúp đỡ cho người khác. Đây chính là động lực giúp chúng ta nhìn những người túng thiếu nghèo hèn như là Chúa Kitô và yêu thương giúp đỡ họ. Đây là cách thế chúng ta đi đến niềm vui cánh chung. Đây là cách thế chúng ta chia sẻ “niềm vui nước trời được dọn sẵn cho chúng ta từ khi tạo thành vũ trụ”. Hãy nghĩ tới điều này: đó là từ khi tạo dựng, Thiên Chúa đã dự định cho chúng ta được chia sẽ sự sống và niềm vui vĩnh cửu. Những gì chúng ta cần làm là đến với những người nghèo khó túng thiếu tù tội và đối xử với họ xứng phẩm giá . Đây là cố gắng nhỏ cần làm trong đời sống hằng ngày, khi chúng ta nhìn những gì mà Thiên Chúa đã ân cần ban cho mình, đó là được chia sẽ vào vinh quang vĩnh cửu của vương quyền Chúa Kitô vua vũ trụ.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VŨ VŨ TRỤ
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn sẵn sàng (24,36-25,46). Đây cũng là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn 25,31-46, có thể phân chia như sau: – Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25,31-33); – Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: – Giữa thẩm phán với người bên phải (25,43-40) và – với những người bên trái (25,41-45); – Kết luận về số phận đối nghịch của hai nhóm (25,46).
Hai cuộc đối thoại có cấu trúc tương tự nhau, gồm: – Tuyên bố của vị vua về ân thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43); – Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); – Kết luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc. 34.37.41.44.45).
Mỗi cuộc đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi nhóm lập lại gần như từng chữ lời tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/ chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies – D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997) III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút ngắn lại.
Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)
Trong ba câu dẫn nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây (10,23; 13,41.49-50; 16,27-28; 19,28; 24,30-34; x. Đan 7,13-14). Đặc điểm của phần dẫn nhập nầy là các động từ ở thì tương lai. Chỉ những sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24,36), mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người đến. Quang cảnh nầy nhấn mạnh vinh quang của Con Người. Người “ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các thiên thần bao quanh Người”. Người thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của Người” (19,28) hay “trong vinh quang của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha Người” (x. 16,27). Tính từ sở hữu autou, “của Người”, được dùng để nhấn mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của một vị vua, và từ “ngai vinh quang của Người” Người thực hiện việc phán xét các dân tộc.
Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là “người-không Do thái”, rồi sau nầy “người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai chi tộc Israel (19,28) và một cho muôn dân (25,31-32). Con Người chỉ đến một lần và trong lần ấy Người phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnè (c. 33) chỉ cách chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là mỗi người, hekatos, như trong một lời tiên báo khác về việc ngự đến và phán xét của Con Người (16,27). Điều nầy có lẽ phù hợp hơn cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói đến việc đối xử bác ái với “từng người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc dữ.
Đối thoại trong ngày phán xét (cc. 34-45)
Con Người đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn trước đã nói đến vai trò phán xét của Con Người (x. 13,41-43; 16,27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người với tước hiệu là “Vua” (2,2; 21,5; 22,11; 27,11.29.37 và 42), và cũng nói về vương quốc của Người (13,41; 16,28; 20,21). Deute, “Hãy đến”, nhắc nhớ lời mời của một vị vua sai các đầy tớ đi nói với những người đã được mời đến dự tiệc cưới đã sẵn sàng (22,4). Và giữa những “người được chúc phúc, eulogèmenos, của Chúa Cha”, Chúa Giêsu là người đầu tiên được gọi bằng tên nầy (x. 21,9; 23,39). Người được hưởng vinh quang Nước của Cha Người trước tiên. Động từ khèronomeò, “thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô (5,5; 19,29; 25,34), và đều có Nước Trời hay sự sống đời đời làm đối tượng. Về việc thừa hưởng Nước Trời xem 5,19-20; 7,21; 8,11… Nước Trời nầy hoặc chỗ trong Nước Trời đã được do chính Chúa Cha chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20,23), “từ lúc tạo thành vũ trụ” (25,34; thành ngữ tương tự trong 13,35). Như thế, trong việc ân thưởng cho những người được chúc phúc, mục đích cứu độ của Thiên Chúa được viên thành.
Tiếp theo là cuộc đối thoại với những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định (aorist) chỉ các hành động tốt họ đã được thực hiện rồi trong đời của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu đồng hoá với những người có thiếu thốn nầy; bởi đó những ai làm những việc nầy được kể là “những người được chúc phúc”. Các việc bác ái nầy được nói nhiều đến trong Cựu Ước (Is 58,7; Ezk 18,7.16; Gióp 22,6-7; 31,17.19.21.31-32; Tob 1,16-17; 4,16; Sir 7,34-35). Những điều được nêu ra là những nhu cầu căn bản của sự sống.
Những người đứng bên hữu được gọi bằng một tên khác nữa là “những người công chính”(c. 37.46). Họ đã không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp đỡ những người thiếu thốn. Do đó họ đã đặt ra một lần ba câu hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39). Những câu hỏi nầy cũng sẽ được lập lại, ngắn gọn hơn, nơi những người đã không giúp đỡ những người thiếu thốn (c. 44). Cả hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu tố thiết yếu và không thể thiếu để được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt đầu bằng công thức trang trọng “Quả thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c. 40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi” chỉ các môn đệ của Người (12,48-49; 28,10). Đàng khác, những người “hèn mọn”, oi mikroi, thường chỉ các môn đệ (18,6.10.14). Và chính câu 10,42 xác nhận “những người bé mọn nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người quả quyết một chén nước cho các môn đệ của Người sẽ không mất phần thưởng sau nầy. Hơn nữa trong mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn vẹn giữa Người và các môn đệ của Người (10,40tt).
Đối thoại với những người bên tả (cc. 41-45). Ý tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và dưới dạng phủ định (7 mệnh đề). Đồng thời, có những từ ngữ và cụm từ đối nghĩa so với đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ bị chúc dữ, katèramenoi, (“những người được chúc phúc” trong c. 34). Trong câu 41 có những bất đối xứng so với câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc dữ” (so sánh “những người được Cha Ta chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên lập địa” (so sánh “Nước Trời đã được chuẩn bị từ tạo thiên lập địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con người để hủy diệt nó.
Danh sách các việc tốt như trong các câu 35-36 được nhắc lại, nhưng được rút ngắn lại. Những người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho Chúa Giêsu đúng những điều mà những người công chính đã làm. Lần nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm cụ thể tương quan mật thiết giữa Người với những người thiếu thốn. Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho Chúa Giêsu trong động từ diakoneò, “phục vụ”. Họ đã không phục vụ, nghĩa là đã không giống như Người (20,28), và không được chúc phúc như Người và nhóm người bên hữu.
Lời của vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc thưởng/phạt nầy mang tính cách đời đời, aiònios, “cực hình đời đời”, “sự sống đời đời”. Vậy trong ngày phán xét, người công chính và người bị chúc dữ sẽ được tách ra cách dứt khoát và đời đời.
Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ
MỘT TƯỚC HIỆU DỄ BỊ NGỘ NHẬN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tin Mừng thánh Matthêu chương XXV mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, dễ bị ngộ nhận như là gai chướng. Sự gai chướng dễ bị ngộ nhận này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn “cuộc phán xét chung”.
Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quả là hiếm hoi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có cái nhìn không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.
Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể của chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào rằng Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.
Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó “dân vi quý, dân vạn đại”. Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng “luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.
Khi các ngươi làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay đã không làm cho chính Ta x.Mt 25,31-46). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.
“Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải “công chính hơn” này là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử hay trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không làm thì ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, vì ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: “Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội…”
Không ai có thể lên trời “một mình”. Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh vị quân vương trần thế của quá khứ lịch sử, thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc ấy mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta trước đến độ hiến dâng cả mạng sống vì chúng ta. Lịch sử cho thấy đã từng có biết bao người xưa lẫn nay can đảm đón nhận sự gai chướng ít nhiểu bị ngộ nhận khi thần phục Đấng là Vua Vũ Trụ nhưng rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là “êm ái và nhẹ nhàng” (x.Mt 11,28-30).
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
VUA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Vua Vũ Trụ đã từng mong được xót thương…
Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo, có đạo hay không; cũng vậy khi phán ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ cũng đâu chỉ dành cho những người đã rửa tội, năng chịu các phép bí tích. Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản, và có phần nào quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả các không Kitô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được: sống bác ái, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu đã như thế thì làm Kitô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực sự sẽ mang lại cho tôi ích lợi gì trong cuộc xét xử ngày Đức Vua quang lâm?
Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan. Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật khách quan được ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Ngài thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giêsu muốn cho thấy chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để mình được mọi người xót thương và gia ân. Như vậy được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ và chờ đợi được thương xót lại.
Chập hai điều này lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra một nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Kitô hữu mà mình được diễm phúc tiếp nhận. Nhiều người không phải là Kitô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘Đấng dấu mặt’ hằng chờ đợi được xót thương “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” để mà cho ăn, cho uống, đón tiếp, cho mặc, thăm viếng hỏi han… Đức Giêsu cho thấy rõ, thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và chỉ đòi hỏi có tình yêu. “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa vì thật may cho anh chị em! Thế nhưng, nếu chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, huống hồ chi nếu giữ được cả hai vế (làm và biết). Kitô hữu là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có cả hai vế để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được xót thương. Nhờ đức tin mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội họ đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; trong suốt quá trình sống đời Kitô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích giải tội, họ đã có không biết bao nhiêu dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời Chúa hằng thôi thúc họ diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của họ không còn phải là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã là một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái Đức Giêsu gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một Kitô hữu nào sẽ còn dám nói “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” Rồi họ còn có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương họ, cũng như họ thừa biết rằng Đức Vua họ tôn thời khao khát được họ yêu mến và xót thương lại biết là dường nào, đặc biết qua các hành động nhân hậu đối với người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Kitô hữu sẽ phải là những người “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28) vì họ đã biết chắc rằng mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.
Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót và Người cũng khao khát được con xót thương lại. Chớ gì chương trình sống Kitô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Kitô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
NHÂN QUẢ- Lm. Jos. Trần Việt Hùng
Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái Mt 25,33).
“Nhân” là nguyên nhân, “Quả” là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt do mầm ấy phát sinh. Trong nhân có qủa và trong qủa có nhân. Chính trong Nhân hiện tại có hàm chứa cái Qủa tương lai. Nhân thế nào thì Qủa thế ấy. Thưởng phạt ngày sau đều tùy thuộc vào những hành động tốt hoặc xấu của chúng ta thực hiện ngày hôm nay. Nói chung, ai trong chúng ta cũng muốn được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Chúng ta biết con đường lên thiên đàng là thiên đàng mà. Nếu chúng ta muốn được hưởng an lạc ngày sau, chúng ta phải sống vui tươi và an bình ngày nay. Biết rằng cuộc đời ai cũng có những sự chen lẫn giữa vui sướng và khổ sầu. Sự khổ đau trong cuộc sống không phải luôn luôn là sự tiêu cực. Vì sự đau khổ cần thiết như là những thử thách để giúp ta tinh luyện cho cuộc đời sáng thêm. Ví như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy.
Kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa. Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ. Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài. Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em như chính mình. Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau. Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.
Chúa Giêsu dẫn bước chúng ta vào cuộc sống thật ngày sau qua dụ ngôn phân định Chiên và Dê. Chiên và dê chỉ là hình ảnh tượng trưng gởi theo một sứ điệp nói về sống bác ái vị tha. Chiên dê, phải trái, bên này bên kia hay thiên đàng hỏa ngục là ranh giới để phân biệt tốt xấu, lành dữ và thưởng phạt. Phúc thay những ai được xếp vào hàng bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ (Mt 25, 34). Không phải tự nhiên hùa theo đám đông mà được ơn cứu độ. Mỗi người phải phấn đấu từng ngày để nên trọn lành. Chúng ta có thể quan sát hình ảnh một thửa ruộng trong đó có lúa và cỏ dại. Khi chủ ruộng vun xới chăm sóc cả hai lúa và cỏ đều được hưởng phân bón và tưới gội đồng đều. Lúa và cỏ cùng chung hưởng nắng ban mai, sương sớm và mưa nguồn. Phát triển tốt nhưng kết qủa thì khác nhau, lúa trổ sinh bông hạt và được thu hoặch cho vào kho lẫm. Còn cỏ dại bị người ta chà đạp và thu gọn đem thiêu đốt.
Theo giáo lý Nhà Phật, nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả và nếu không có Quả thì không có Nhân. Cũng chính trong cái Quả hiện tại, đã có hình bóng của Nhân quá khứ. Vì thế, mỗi vật đều có thể gọi là nhân hay quả: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau và đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền. Nhân qủa đi đôi và ảnh hưởng tới nhau như gieo gió thì gặt bão. Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi. Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng tại sao những người làm ác mà họ vẫn sống phây phây lại giầu có sung sướng, trong khi những người hiền lành, đạo đức lại rơi vào cảnh túng quẫn và khổ đau. Câu trả lời là đời sống tạm này chưa kết thúc, chúng ta chưa thể kết luận thế nào là hạnh phúc thật.
Một Nhân không thể sinh ra Quả, mà phải nhờ vào môi trường vạn vật chung quanh. Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một Nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác. Sự liên đới trùng trùng điệp điệp giữa muôn loài làm thành bước tiến của thiên nhiên vạn vật. Không có thụ tạo nào đứng riêng biệt một mình trong vũ trụ. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất nước và nhân công. Có biết bao nhiêu yêu tố để hình thành một chuỗi Nhân Quả. Trong bất cứ một loài thụ tạo nào cũng có mỗi liên hệ chằng chịt với thế giới hiện hữu chung quanh.
Về phương diện tinh thần, những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tính tình tốt hay xấu trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là Nhân, tính tình và nếp sống trong hiện tại là Quả. Tính tình và nếp sống hiện tại là Nhân, để tiếp tục tạo ra hành động trong tương lai là Quả. Nhân Qủa tiếp nối không ngừng qua những hành vi chúng ta thực hiện hằng ngày. Chúng ta có thể thay đổi và sửa sai những lầm lỡ trong qúa khứ để tạo thành Nhân tốt. Không bao giờ trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Mỗi ngày chúng ta có thể tạo nhân tốt, hậu qủa sẽ tốt. Sống trong xã hội, con người phải tương trợ và có ảnh hưởng lẫn nhau. Tục ngữ nói: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Một người làm phúc, muôn người đều được hưởng nhờ. Một cây trổ hoa, cả vườn cây thơm hương.
Sống bác ái vị tha là một bổn phận cao quý của con người. Chúng ta thường gặp thấy các Tăng Ni Phật Giáo đi khất thực. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Khất thực là xin vật thực của người đời để nuôi thân mà cũng còn có bổn phận nhắc nhở chúng sinh làm việc phúc đức. Trong Đạo Công Giáo, Kinh Bổn có dạy thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Đây là những mối phúc quan trọng giúp đỡ tha nhân về vật chất và tinh thần. Thật ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về ngày phán xét. Ngài phán xét về thực hành đức yêu thương hơn là về những sa ngã phạm tội khác. Được thưởng hay bị phạt đều tùy thuộc vào việc thực hành mười bốn mối này.
Con người không thể nên tốt một mình, nhưng phải tương trợ lẫn nhau mà sống. Người ta thường nói: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba yếu tố kết thành sự thành công. Chúng ta cần có tha nhân để cùng chia sẻ nâng đỡ, cần có cuộc sống xã hội để cộng tác xây dựng và cần có người đồng hành để chung vai sát cánh gánh vác công việc. Ngày phán xét sau cùng, thẩm phán sự sống sẽ hỏi chúng ta về sự liên đới Nhân Qủa giữa người với người. Với những người tạo Nhân tốt qua việc bác ái, sẽ được nghe những lời an ủi: Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước (Mt 25, 35).
Bất cứ vị thánh nào cũng có trái tim yêu thương rộng mở. Các Ngài biết chia sẻ và dâng hiến. Hiến dâng cuộc đời cho Chúa và phục vụ tha nhân. Không có sự liên đới với tha nhân, chúng ta khó có thể nên trọn lành. Tha nhân tốt hoặc xấu vẫn có thể sẽ giúp chúng ta nên tốt lành. Chúng ta có thể tìm tựa nương đức ái nơi những người khốn cùng, nghèo đói, cô đơn, bệnh hoạn, tù đầy và thất vọng. Họ chính là hình ảnh của Đấng đã dám thí mạng vì yêu. Giúp đỡ những kẻ bé mọn và cùng khốn nhất là chúng ta đang làm cho chính Chúa, Chúa Giêsu đã phán: Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta’ (Mt 25, 36).
Thật đáng phải run rẩy và sợ hãi khi chúng ta phải đối diện với sự phán xét sau cùng. Thiên Chúa nhân từ nhưng công bằng vô cùng. Giờ phán xét sẽ không có một ai khác chống lưng cho chúng ta. Chúng ta cũng không còn điểm tựa nào khác để biện hộ. Sự thật phơi bầy trước tôn nhan chói lòa của Tạo Hóa. Chúng ta gieo Nhân nào thì sẽ được gặt Qủa đó. Trong cuộc lữ hành trần thế, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau khổ, đói khát và cùng quẫn của anh chị em, giờ đây chúng ta phải đối diện: Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: ‘Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng (Mt 25,41).
Ngày phán xét, Chúa sẽ không chất vấn chúng ta về bao nhiêu việc vĩ đại đã thực hiện. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời (Lc 10,20). Thiên Chúa không đếm bao nhiêu giờ chúng ta đã đọc kinh, cầu nguyện, lần hạt, tụ họp sinh hoạt… Chúa sẽ nhìn xem trái tim của chúng ta đã mở rộng yêu thương đến mức nào. Chúng ta đã chia sẻ gì cho những kẻ bé mọn nhất của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta qua ý muốn của Chúa, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa lại dành quyền cho chúng ta lựa chọn. Hạnh phúc thay những ai được Chúa cho đứng về phía bên phải: Còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu” (Mt 25,46).
Lạy Chúa, đã rất nhiều lần chúng con đã thưa rằng: Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu? (Mt 25,44). Chúa trả lời: Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta’. (Mt 25,40). Xin Chúa khơi dậy lòng yêu thương bác ái nơi tâm hồn, để chúng con biết cùng chia sẻ. Chúng con cảm tạ danh Chúa muôn ngàn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
CUỘC XÉT XỬ TÌNH YÊU- Lm. Hồng Phúc
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Caligula, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu sau đây:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày hôm nay, Giáo hội cũng đọc lại ba câu khắc trên đá tạc vào lòng đó, để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, nhân ngày bế mạc năm Phụng vụ.
Từ trên chóp đỉnh năm Phụng tự, Giáo hội cho chúng ta thấy vị trí cao sang của Con Thiên Chúa là vua toàn thể vũ trụ.
Trong Cựu ước, các vua được gọi là mục tử dân Chúa, vì các vị lãnh đạo đầu tiên như Abraham, Moisê, Davit là những người chăn chiên. Trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Ezechiel mô tả Thiên Chúa là một vì Vua chăn dắt đoàn chiên. Ngài tập họp đoàn chiên tan tác vì tội lỗi của chính mình cũng như của các nhà lãnh đạo. Ngài giải cứu chúng khỏi miệng sói dữ. Ngài tân tình phục vụ đoàn chiên cách riêng những thành phần đau yếu bé mọn. Ngài đối xử với đoàn chiên như bà mẹ săn sóc con cái: “Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau… Ta sẽ chăm sóc và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính”. Thật là hình ảnh cảm động của Thiên Chúa, một nhà Vua Mục Tử.
Thánh Phaolô trong Thánh Thư gởi giáo đoàn Corintô, đề cập đến Vương quyền cao cả và vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô Phục sinh là Alpha và Omêga, nghĩa là khởi điểm và cùng tận. Nhờ Ngài, mọi sự đã phát sinh thì nhờ Ngài vạn vật sẽ trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài đã Phục sinh, đã toàn thắng sự chết thì con người cũng không phải hoảng sợ trước sự chết. Chúa Kitô chính là Thầy, là Vua. Ai tin ở Ngài sẽ không phải chết: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống”. Ngài thật là Vua, là Chúa, có quyền trên sự sống và sự chết.
Bạn đã có dịp đến Vatican kính viếng Thánh điện Sixtine và chiêm ngưỡng bức danh họa vĩ đại của Michel-Ange về Ngày Thẩm phán theo Phúc Âm Matthêô? Thật là lớn lao vĩ đại. Họa sĩ để ra một năm, nằm trên sàn vẽ, vừa vẽ vừa suy niệm về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu, Đấng Thẩm phán, đến trong vinh quang để xét xử công tội của mỗi người. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy nói đến cuộc giáng lâm của Chúa, nhưng trước tiên là nói đến số phận của mỗi người: “Ngài sẽ đến ngự trên ngai uy linh, có hết thảy mọi Thiên thần hầu cận và Ngài sẽ phân chia họ ra”.
Trước mặt Ngài chỉ có những người đã sống trong Tình yêu và những người đã chối bỏ Tình yêu. Con người lộ diện trần trụi, giờ sự thật đã điểm.
“Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta”.
Cuộc thẩm phán là một cuộc xét xử về Tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, vì Thiên Chúa là Vua, Vua Tình yêu vậy.
Ngày mồng 01 tháng 10 năm 1989, Giáo hội đã long trọng phong Chân phước cho Nicéphore Diez (1893-1936) và 25 Bạn Tử đạo thuộc Dòng Thương khó, tử đạo trong cuộc nội chiến 1936 ở Tây Ban Nha. Phần đông các vị đã đồng thanh kêu lớn tiếng: “Vạn tuế Chúa Kitô là Vua”, trước khi ngã gục trước họng súng.
Chúng ta cùng với Giáo hội lớn tiếng hôm nay tuyên xưng Christus vincit- Christus regnat- Christus imperat.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
YÊU THƯƠNG QUA VIỆC GIÚP ĐỠ NHAU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn cho các ngươi”(Mt 25,33)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một trong những câu chuyện sống động nhất của Chúa Giêsu và bài học Chúa dạy cũng hết sức rõ ràng. Bài học đó là Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo những việc chúng ta làm cho nhau trong cuộc sống hằng ngày. Sự phán xét này không tùy thuộc vào kiến thức chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm chúng ta đã đạt được, nhưng tùy vào sự giúp đỡ chúng ta làm cho nhau.
– Ta phải giúp đỡ nhau từ những nhu cầu thật đơn giản trong cuộc sống của mọi người như kẻ đói cần được cho ăn, kể khát cần được cho uống, những người khách lạ cần được tiếp đón, những kẽ bị cầm tù cần phải được viếng thăm.
Ngày nay Mẹ thánh Têrêsa còn cho biết thêm: có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc….
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.Đó là những việc chúng ta có thể gặp hàng ngày. Tất cả cần phải được quan tâm.
-Phải giúp đỡ nhưng giúp đỡ với tinh thần nào? Thưa là tinh thần không tính toán.Tất cả những người đã giúp đỡ người khác trong câu chuyện hôm nay đều không ai nghĩ
rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương chân thật.
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince (Ông Hoàng Hạnh Phúc). Câu chuyện như sau:
Một ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc.Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của ông hoàng. Ông đang khóc.
– Tại sao ông khóc? Ông là ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!.
– Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
– Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
– Thôi được! Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ cạy viên ngọc ra và bay đến trao cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau ông hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của ông hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình ông hoàng không còn gì quý giá nữa. Và lúc đó mùa đông đã tới, trời đổ lạnh rất nhiều. Sáng hôm đó, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng ông hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
Vâng có ai ngờ những việc tốt chúng ta làm cho nhau lại là làm cho chính Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy” (Mt 25,40).
Ngược lại như Lời Chúa quả quyết những gì chúng ta từ chối không giúp đỡ người khác cũng có nghĩa là chúng ta không giúp Chúa.
Khi đã không muốn giúp đỡ những người khác thì người ta có thể nại ra đủ mọi thứ lý do để từ chối.
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, – Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để ngài ở trên cái gác xép ấy, trại lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho ngài rồi.
Quả thật chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
-Và cuối cùng Chúa cổ võ tình yêu thương qua việc chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau để làm gì? Câu trả lời cũng không khó lắm. Thưa để thiết lập Nước Trời của Chúa ngay trên trần gian này.Nước Thiên Chúa, đó là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu nói tới nhiều nhất, nhưng có lẽ đó cũng là một trong những điều chúng ta hiểu cách mù mờ nhất.
– Ngày xưa người Do Thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước Do Thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.
– Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nể phục. Hiểu như vậy có đúng không? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.
Bởi thế trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không so sánh Nước Thiên Chúa với hình ảnh những đạo quân hùng hậu hay với những đám người đông đảo. Trái lại Ngài so sánh Nước Thiên Chúa với hạt cải và với nắm men, những hình ảnh nói lên sự nhỏ bé và âm thầm. Tuy nhiên nhỏ mà lớn, âm thầm mà rất mạnh. Hạt cải sẽ trở thành cây to, nắm men sẽ khơi dậy cả thúng bột.
Một hiệp sĩ Samurai hung bạo. Ông tìm đến với một thiền sư và hỏi:
– Yêu cầu ông cho tôi biết Thiên Đàng hỏa ngục là gì ?
Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói:
– Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hoả ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi .
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại và nói:
– Hỏa ngục là thế đó!
Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hoả ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y và bảo :
– Thiên đàng là thế đó.
Vâng! Chỉ có Thiên đàng khi con người biết sống yêu thương hài hòa với nhau. Chỉ có Thiên Đàng khi con người biết cảm thông, tha thứ, phục vụ, hy sinh quên mình vì người khác như Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta biết sống, biết thực hành những Lời Chúa dạy chúng ta để chúng ta thấy được Thiên Đàng ngay trong cuộc sống của chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
VUA TÌNH YÊU – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Ez 34, 11-12. 15-17; 1 Cr 15, 20-26a. 28; Mt 25, 31-46
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta họp nhau nơi đây để mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Với cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả mọi quyền lực của sự dữ, kể cả quyền lực mạnh nhất là sự chết như lời thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Người đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực… Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết”. Với chiến thắng này, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha suy tôn làm vua trên toàn thể vũ trụ. Chúa Giêsu đã chinh phục và chiến thắng không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng chính tình yêu bao la của mình, một tình yêu sẵn sàng hiến mạng sống của mình cho người mình yêu.
1. Thiên Chúa là tình yêu:
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta vừa bao la, mênh mông hơn biển cả, vừa cao hơn núi, sâu hơn vực thẳm, nhưng cũng không vì thế mà Ngài xa cách chúng ta. Thiên Chúa vẫn chú ý đến từng người chúng ta chăm sóc cho chúng ta từng nhu cầu nhỏ nhặt nhất, như cảm nghiệm của vua Đavít trong bài đáp ca: “Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng… Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”. Thiên Chúa chính là người mục tử nhân lành quan tâm đến từng con chiên nhỏ nhất trong đàn, như lời ngôn sứ Ézékiel trong bài đọc một: “Nầy chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng… Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán… Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau”. Tình yêu của Thiên Chúa đã lên đến tuyệt đỉnh khi Người trao ban cho chúng ta chính Người Con Một yêu dấu của Ngài, Đức Giêsu Kitô.
Phần Đức Giêsu Kitô, mặc dù là Chúa của các chúa, Vua trên các vua, nhưng khi đến trong thế gian, Ngài đã không dùng sức mạnh vũ lực để thống trị. Ngài cũng không huỷ diệt và cũng không loại trừ con người, dù con người ngụp lặn trong tội lỗi, dù con người phản bội lại tình yêu của Ngài. Thật vậy, Vua Kitô đã sống yêu thương và đã thể hiện tình yêu thương ấy cho đến tột cùng với cái chết trên thập giá, để đem lại cho mỗi người chúng ta một sự sống mới, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc… Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy”. Nhận được tình yêu của Vua Giêsu, mỗi người chúng ta hôm nay cũng đang được mời gọi để đáp trả lại tình yêu đó. Mà tình yêu chỉ có thể được đáp trả bằng tình yêu. Do đó, Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thể hiện tình yêu Chúa một cách cụ thể nơi những người anh em sống bên cạnh mình, những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống mỗi ngày, nhất là những người nghèo khổ, bé mọn, bị bỏ rơi.
2. Lời mời gọi sống yêu thương:
Trong cuộc sống thường ngày, có lẽ chúng ta sẽ thật dễ dàng trong việc cư xử tử tế với những nhân vật quan trọng, hay những người mà chúng ta biết rằng họ có hoặc sẽ có một hình thức đáp trả lại nào đó cho chúng ta. Trái lại, chúng ta thấy có vấn đề, khi phải cư xử tử tế với những người mà chúng ta không thể trông mong được đáp trả lại, nhất là việc đối xử tốt với một người mà chúng ta biết chắc là ngay cả một lời cám ơn cũng không có thì càng khó khăn hơn nữa.
Hàng ngày trong cuộc sống chung quanh chúng ta vẫn còn đó rất nhiều người nghèo: Nghèo cơm áo, nghèo sức khỏe, nghèo tình thương, nghèo hiểu biết, nghèo niềm tin, nghèo đạo đức… Có biết bao cảnh đời thê lương đang bày ra trước mắt chúng ta hàng ngày. Bao nhiêu người chết vì đói ăn. Bao nhiêu người quằn quại trên giường bệnh. Bao nhiêu người dù sống trên nhung lụa nhưng luôn khắc khoải, luôn cảm thấy chơi vơi và thất vọng vì thiếu một niềm tin và hy vọng để bám víu. Bao nhiêu người đang phải khóc thầm ngày đêm vì cô đơn, vì thiếu tình yêu, dù họ đang sống giữa một thế giới đầy người…
Những mảnh đời đau thương ấy có thể là người nhà của chúng ta, là người trong cùng xóm ngõ với chúng ta, là người trong cộng đoàn của chúng ta… và biết đâu người đang ngồi bên chúng ta trong nhà thờ lúc này cũng đang phải chiến đấu kịch liệt với những nghiệt ngã ấy?
Tất cả những con người đau khổ ấy đang van xin chúng ta một ánh mắt thân thiện và cảm thông. Họ cầu cứu chúng ta một sự chia sẻ và giúp đỡ chân thành. Trái tim con người bình thường đã không cho phép chúng ta đóng cửa lòng và nắm chặt bàn tay mình lại trước những mảnh đời đau thương ấy. Trái tim của một người con Chúa, một công dân của Nước trời lại càng không cho phép chúng ta nhắm mắt làm ngơ, bởi lẽ những con người ấy không chỉ là anh em của chúng ta, mà còn là hiện thân của Chúa chúng ta: “Mỗi lần anh em làm hay không làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Tôi đây là anh em đã làm hay không làm cho chính Tôi”. Chúng ta đã và đang làm gì để xoa dịu đi nỗi đau khổ trong tâm hồn và thể xác của những người đang sống chúng ta quanh chúng ta? Hàng ngày, chúng ta vẫn ăn chơi phung phí, nhậu nhẹt say sưa trong khi đó bên cạnh chúng ta vẫn còn đó những mảnh đời phải kiếm sống từng bữa.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, suy gẫm về lời dạy của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay là một cơ hội để chúng ta nhìn lại tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Tình yêu tha nhân sẽ là thước đo để xác định tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Đó cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất mà Vua Kitô sẽ dùng để xét xử chúng ta.
Ước mong nhờ sự soi sáng của Lời Chúa hôm nay, ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta hãy có một lời cầu nguyện cho người ngồi ngay bên cạnh chúng ta. Và khi trở về nhà, chúng ta hãy tiếp tục chia sẻ tình yêu của Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận từ nơi bí tích Thánh Thể cho anh chị em của mình, để cộng đoàn của chúng ta thực sự chan hoà tình yêu. Nhờ đó, vào ngày Vua Kitô, vị vua của tình yêu trở lại, tất cả chúng ta sẽ hân hoan cùng nắm tay nhau bước vào cõi sống ngàn thu. Amen.
CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
ƯỚC CỦA ĐỨC GIÊSU Ở CHỐN NÀO? – Tu sĩ Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP.
(Ed 34,l1- 12.15- 17; 1 Cr 15,20- 26a.28; Mt 25,31- 46)
Ngày nay, trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Ấy vậy mà đạo Công Giáo hằng năm lại mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ! Tại sao vậy? Và, Đức Giêsu làm Vua như thế nào? Chúng ta có thuộc về dân trong đất nước của Ngài không?
1. Vị Vua Lạ Lùng
Mỗi khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu như là điểm quy chiếu, như cái tâm trong vòng tròn; như cùng đích của con người. Bởi vì Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Ngài là khởi đầu và cùng đích, là Anpha và Ômêga. Là Chủ Vũ Trụ; là Vua các vua, Chúa các chúa. Ngài làm Vua trong sự toàn thiện, hoàn mỹ.
Tuy nhiên, khi nói đến Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là một vị Vua không như các vua chúa trần gian! Ngài là Vua, nhưng là một vị lạ lùng!
Lạ lùng lúc sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Rong ruổi bôn ba khắp ngả đường. Đến nỗi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Không thành quách, cung điện ngọc ngà.
Khi tổ chức vương triều thì lại không binh lính, cũng chẳng có kẻ hầu người hạ, lại càng không dùng vũ khí, sử dụng quyền lực, binh đao.
Ngược lại, cung điện được đặt trong lòng mỗi con dân. Thành quách là sự liên đới. Lãnh đạo bằng tình yêu và tha thứ. Luôn phục vụ người khác thay vì được người khác phục vụ mình.
Nhưng có lẽ điều làm cho người ta chú ý nhất đến Vị Vua hi hữu có một không hai này chính là: khi được mọi người tôn vinh làm vua thì không muốn, nên tìm cách trốn tránh. Đến khi mọi người thù ghét, bôi nhọ, bêu dếu, chẳng ai bênh vực, đỡ nâng và không ai muốn trao Vương Quốc cho mình thì lại khẳng khái tuyên bố mình là Vua và đến thế gian này chỉ vì một mục đích là làm chứng cho sự thật (x. Ga 18, 36).
Ngược đời hơn nữa chính là: Nước của Vị Vua ấy lại “không bao giờ cùng” “vô biên cương”, “không ranh giới” và “không thuộc thế gian này”.
Trong nước ấy, chỉ có sự thật, công lý, bình an và tình yêu ngự trị. Thần dân là tất cả những ai thuộc về đặc tính trên (x. Ga 18, 36).
Tất cả những điều lạ lùng đó, Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta biết: Ngài là Vua sự thật; đồng thời, Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía sự thật để được gia nhập đoàn dân của những người yêu mến công lý.
2. Vua Sự Thật
Sự thật mà Đức Giêsu mang đến và mời gọi là gì? Thưa, đó là: mặc khải cho nhân loại biết sự thật, một sự thật được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, Ngài đã chấp nhận đánh đổi ngay cả mạng sống của mình để biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thật vậy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Khi Ngài đến, Ngài đã yêu thương họ đến cùng và chấp nhận đánh đổi chính cái chết trên thập giá để làm chứng cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi, nghèo khó, bị áp bức, bóc lột…. Vì tình yêu không giới hạn và vô biên, nên Đức Giêsu đã gọi những người đó là bạn hữu và chấp nhận chết cho bạn hữu của mình được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,7-10; 15, 9-15). Quả thật: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13)
Sự thật ấy nhằm diễn tả đặc tính của tình yêu trong một Vương Quốc khác chứ không phải nơi trần gian.
Điều này đã được Đức Giêsu nói trước quan toàn quyền Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18, 36).
Vì thế, vinh hoa, phú quý, sung túc, sang giàu, quyền lực và ngay cả sự sống trần gian này chẳng đáng gì đối với sự sống vĩnh cửu trong Nước của Chúa.
Và, như một sự tất yếu, muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong thời đại hôm nay, việc sống chứng nhân cho sự thật không phải là chuyện dễ! Lại càng khó hơn nữa khi trong một xã hội tình yêu luôn bị đánh cắp, nghi ngờ và bị lợi dụng!
Bởi vì: người ngay thẳng, trung thực thì thường thua thiệt và bị coi là ngu dốt, còn kẻ gian dối lại được coi là khôn ngoan…. Sống man trá mà thành công thì được tưởng thưởng, còn vì sự thật mà bị thất bại thì bị khiển trách!
Đứng trước một xã hội như thế, hẳn sống đời chứng nhân cho Chúa quả là khó! Tuy nhiên, dù khó, chúng ta vẫn phải thi hành vì đây là hành vi mang tính quyết định thuộc về hay khước từ…. Khi sống vì chân lý, ấy là lúc chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho sự thật và tình yêu của Thiên Chúa trong bối cảnh hiện nay.
Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trở thành thần dân của Đức Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đồng thời được mời gọi sống đặc tính của Nước ấy trong cuộc sống đời thường của mình. Vì thế, hẳn chúng ta phải mặc lấy Ngài và những tâm tình của Ngài như: từ bi, nhân hậu, hiền lành, nhẫn nại, bao dung, chết đi cho tính xác thịt, ý riêng và ra khỏi chính mình, từ bỏ tính kiêu ngạo, hóng hách để cúi xuống rửa chân cho cả kẻ thù. Sẵn sàng yêu thương, làm phúc cho kẻ đói ăn, khát uống. Nâng đỡ những người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mềm, nhân phẩm bị trà đạp….
Quyết tâm đứng lên để bảo vệ những người không có tiếng nói…. Chấp nhận vì sự thật mà bị bách hại, vu khống đủ điều xấu xa.
Nếu thế gian chống đối lại sự thật, vì sự thật làm cho họ thua thiệt, thì chúng ta, không bao giờ được thỏa hiệp với bất công dù dưới bất kỳ hình thức hay nhãn giới nào.
Khi làm chứng cho Đức Giêsu trong sự thật như thế, hẳn chúng ta sẽ không thể thoát được số phận phải chết như Thầy của mình, tuy nhiên: “… can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Thật thế, chỉ trong sự thật, chúng ta mới được vào Nước Trời và được Đức Giêsu tuyên bố nhận chúng ta trước mặt Chúa Cha và Triều Thần Thiên Quốc: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta” (Mt 25, 34-37).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua Vũ Trụ, xin cho con được yêu mến và ham thích đường lối sự thật và tình yêu của Chúa, đồng thời biết chia cơm sẻ bánh cho người nghèo khổ.
Ước gì khi làm những điều đó trong lòng mến, chúng con sẽ được vào Vương Quốc của Vua tình yêu và sự thật để được sống đời đời. Amen.