CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MƯỜI CÔ TRINH NỮ– Chú giải của Noel Quession. 6
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI- Chú giải của Fiches Dominicales 13
TỈNH THỨC (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 22
KHÔN NGOAN VÀ KHỜ DẠI- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long,OFM 35
HÃY CHỜ ĐỢI VÀ TỈNH THỨC- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 46
HÃY LUÔN TỈNH THỨC SẴN SÀNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 60
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 67
SẴN SÀNG- Lm. Giacôbê Nguyễn Văn Phượng, OP.. 71
TÍCH LŨY NHIỀU DẦU CHO ĐÈN CHÁY SÁNG– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 76
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A.. 79
KHÔN NGOAN VÀ KHỜ DẠI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 79
CÁCH THỨC CHỜ ĐỢI – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 88
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG- Trích Logos A.. 91
CẨN THẬN, SẴN SÀNG- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 97
KÌA CHÀNG RỂ ĐẾN- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 101
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Kn 6, 13-17 (Hl 12-16)
“Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó”.
Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước.
Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình, vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết sức ân cần đón tiếp họ.
ÐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.- Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. – Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. – Ðáp.
4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. – Ðáp.
BÀI ÐỌC II: 1 Tx 4, 13-14 {hoặc 13-18}
“Nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.
{Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi. Vì thế, anh em hãy dùng những lời đó mà an ủi nhau.}
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
“Kia chàng rể đến, hãy ra đón người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
“Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: “Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả”. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn”. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: “Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi”. Nhưng Người đáp lại: “Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi”.
“Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
MƯỜI CÔ TRINH NỮ– Chú giải của Noel Quession
Trong tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc. Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)… kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của Con Người (Mt 24,26-44)… ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về, Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 – 25,30)… Cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46)…
Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể…
Ngay từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là “parthènoi”. Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.
Khi Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể… và Giáo Hội, mọi người chúng ta là người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.
Trong mười cô đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.
Chúng ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày, một cái chết tàn bạo.
Người vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)… Giờ đây “vụ án” của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23, 34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô “lơ đễnh”, dại dột, những người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn đề người điên dại “môrai” và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên” không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch đạo”, kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm chi có Chúa ‘Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để chỉ “người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực hành”: (Mt 7,24) – “những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17). Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc trống rỗng hoặc lơ đễnh.
Đây là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa được đặt ra… một sự “được thua” được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?
Vì chú rể đến chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.
Nếu câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong “bài giảng thời cánh chung”, những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn “người đầy tớ chờ chủ”, người đầy tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).
Hãy chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.
Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
“Nửa đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20; Mc 13,35-36). “Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). “Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ mà người ta không ngờ” (Mt 24,44), “lóe sáng như tia chớp” (Mt 24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây phút của Thiên Chúa… giây phút của cuộc gặp gỡ… giây phút mà, đối với mỗi người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một tiếng kêu thảng thốt.
Không một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…
Trong lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi giật mình không?
Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Trong câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại… Tất cả đều thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con. Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?
Chỉ cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn thê trong Diễm Ca (5,2). “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức”. Vâng, lạy Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.
Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”.Đúng lúc các cô đi mua, thì chú rể tới…”
Vào đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.
Rõ ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi… anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu… anh em hãy giữ lại cho mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói khá nhiều điều ngược lại.
Nhưng Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu! Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta hãy nghe phần cuối của câu chuyện.
Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”
Các cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc, nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn giờ.
Rõ ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên Chúa: “Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!”. Thế đấy không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21-23).
Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Câu nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người. Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ. Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi có canh thức không?
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:
Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, “diễn từ về thời cánh chung”. Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: “khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.
Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): “Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.
Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Và kết luận: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!
Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:
Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.
Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
Hồi l: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ “được mời dự tiệc cưới”. Cầm đèn “ra đi đón chú rể”. Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô “thiếp đi rồi ngủ cả”.
Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình “nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi”. Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi nào là “biết phòng xa”, “thận trọng”, “khôn”. Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là “khôn” những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này “vừa mang đèn, vừa mang dầu theo”. Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là “dại”. Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là “dại” kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ?
Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: “Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi’ với!, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: “Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa… Bấy giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).
Màn kết: với lời khuyên: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”. Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus l’histoire vraie”, Centurion, trang 383).
Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước “giờ” chú rể đến, “ngày” Chúa trở lại. Cl Tassin nhận xét: “Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa”. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ “nhận ra” thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là “người khôn”, theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp: “Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày” (“L’evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).
BÀI ĐỌC THÊM
“Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché, Desclée de Brouwer, trang 335- 336).
“Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo… Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”. Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: “Kìa chú rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì… “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào…” Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (25,40).
“Con ve và con kiến” (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự “khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa… và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi”.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TỈNH THỨC (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm A xoay quanh một chủ đề nồng cốt: “con người mong ước được gặp gỡ Thiên Chúa”.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I phác họa chân dung của Đức Khôn Ngoan bằng những đường nét nêu bật những phẩm tính của Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người mong ước được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô xác tín rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, đã được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả là một người Do thái mộ đạo sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Thành phố này đã trở thành thủ đô của nền văn hóa Hy-lạp, nhưng cũng là một trong những cái nôi sinh hoạt của kiều bào Do thái.
Lý do mà tác giả, một người Do thái rất gắn bó với đức tin của cha ông, viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn minh Hy-lạp rực rỡ đồng hóa, một nền văn minh sản sinh nhiều trường phái triết học, được thăng tiến bởi những tiến bộ khoa học, được tiếp xúc bởi những lập luận lý trí và những trào lưu thần bí. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Nhờ hiểu biết triết học Hy-lạp, biết vận dụng ngôn ngữ Hy-lạp tinh tế, thuận lợi cho sự trừu tượng hóa hơn ngôn ngữ Híp-ri, tác giả diễn tả tốt hơn những thực tại siêu hình. Sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm, ca ngợi Đức Khôn Ngoan (ch. 6-10), được viết bằng văn xuôi có vần điệu. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống của các sách thuộc truyền thống Minh Triết, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rắc.
Trong đoạn trích hôm nay, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị với bốn đường nét nêu bật những phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
Đức Khôn Ngoan hiện thân của Thiên Chúa:
Đức Khôn Ngoan tham dự vào ánh sáng đời đời: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn, thánh Gioan phác họa Ngôi Lời Thiên Chúa theo cùng một cách thức như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9)
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho người ấy được chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Chúng ta rất gần với sự đồng nhất của Đức Khôn Ngoan với Thiên Chúa, như vế tiếp theo cho thấy:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Ngôn sứ I-sai-a cũng diễn tả Đức Chúa theo cách thức như vậy:
“Hãy tìm kiếm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55: 6).
Đức Khôn Ngoan đi bước trước:
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đi bước trước:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai miệt mài tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, ngồi ngay trước cửa nhà. Một hình ảnh gợi lên mầu nhiệm của những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả.Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi này trước cửa nhà” (6: 14).
Chính cũng trong Tin Mừng Gioan mà mầu nhiệm về việc Thiên Chúa đi bước trước được gợi lên rõ ràng nhất, đặc biệt ở nơi dung mạo của người Mục Tử nhân lành (Ga 10: 1-6). Chúng ta cũng gặp thấy lời tuyên bố của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6: 65).
Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện tri thức:
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo.Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Chúng ta cũng đọc thấy lời mời gọi của Đức Khôn Ngoan như vậy trong sách Châm Ngôn:
“Ai nghe ta sẽ sống an toàn, được yên ổn, chẳng sợ chi tai họa” (Cn 1: 33).
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng cất tiếng mời gọi như vậy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 28-20).
Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai mến mộ mình:
Đức Khôn Ngoan rảo khắp nơi tìm kiếm những ai xứng đáng với mình. Vai trò của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm các hiền nhân để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan, thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Chân dung của Đức Khôn Ngoan được phác họa bằng những đường nét như trên gợi ra dung mạo của Thiên Chúa, Ngài khuyến khích con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài và tỏ mình ra để con người nhận biết Ngài. Trong bản văn của sách Khôn Ngoan này, Đức Khôn Ngoan là tiền thân của Ngôi Lời nhập thể.
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca này nhắc lại niềm hy vọng lớn lao của mỗi người ki-tô hữu vào cuộc phục sinh, cuộc sống mai hậu và hiệp nhất với Thiên Chúa muôn đời.
Những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã lo lắng hỏi thánh Phao-lô về những người giữa họ đã qua đời, những người này không có thể được dự phần vào ngày quang lâm của Chúa Giê-su, vì thế không được dẫn vào Nước Trời cùng với Ngài sao? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Tất cả các ki-tô hữu tiên khởi đều tin rằng cuộc quang lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào vài lời nói của Đức Giê-su. Khi loan báo vài dấu hiệu báo trước cuộc Quang Lâm của Ngài, Đức Giê-su quả quyết: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34), cho dù vào dịp này Ngài đã khẳng định: “Còn về giờ và ngày đó thì không ai biết được… chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24: 36). Mặt khác, đừng quên rằng vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái đã chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nao chờ đợi này. Chúng ta đo lường tâm trạng đầy xao xuyến của những người nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời.
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc họ nhớ nền tảng đức tin của họ: cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu được đặt trên niềm xác tín là hiệp nhất với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng chung một vận mệnh với Ngài.
Không ai được mất niềm hy vọng:
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”. Chắc hẳn nhiều lương dân nuôi dưỡng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như những biện luận của người Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín chưa? Họ dự kiến cuộc phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”. Chắc chắn đây không cốt là một lời chính xác (không thấy thánh Phao-lô ám chỉ lời nào của Chúa), nhưng nhìn chung là giáo huấn Tin Mừng. Thánh Phao-lô chỉ công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
Một niềm xác tín không lay chuyển:
Kiểu nói “chúng ta, những người đang sống” có thể được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” mang lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống sẽ không hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Đừng quá chú ý cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch với những hành động ngắn và nhanh, những thay đổi bất ngờ. Dụ ngôn này gồm có năm phần trong đó ba cảnh được sắp xếp theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
-Dẫn nhập (25: 1-4)
Cảnh 1: sự chậm trễ và giấc ngủ (25: 5).
Cành 2: Lời loan báo và kịch tính (25: 6-9).
Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
-Kết luận (25: 13)
-Dẫn Nhập (25: 1-4):
Dẫn Nhập được dùng để giới thiệu các nhân vật: các cô phù dâu sẽ tháp tùng chàng rể trong cuộc rước dâu. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Ở đây hẳn là Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của riêng mình. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô rồi cả hai được đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở đây tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn rước gồm mười cô phù dâu. Trong câu chuyện này, tác giả có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mang đèn mà thôi, vì thế cô dâu không được đề cập đến.
Ngay trong phần “Dẫn Nhập” này, tác giả cung cấp cho người đọc chìa khóa để hiểu câu chuyện. Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là khờ dại vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là khôn ngoan vì biết tiên liệu: đã mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
-Cảnh 1: Sự chậm trể và giấc ngủ (25: 5):
Bức màn sân khấu kéo lên cho thấy các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Việc họ mệt lã ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đã đến trễ hơn dự kiến. Hầu như không có một hành động nào. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là chu toàn nhiệm vụ: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền nghỉ ngơi.
-Cảnh 2: Lời loan báo và kịch tính (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vỡ diễn. Bất chợt mọi sự đều chuyển động. Một lời loan báo vang lên trong đêm đã đánh thức sự chuyển động của vỡ kịch. Tiếng la bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu chuyện đầy kịch tính. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, tiếng la đột ngột kéo bật các cô ra khỏi giấc ngủ. Những hành động xảy đến cách dồn dập. Mười cô trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Chàng rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới với chàng.
Một chi tiết thật lạ là khi năm cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã nài xin năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình; ấy vậy, năm cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu thế mà lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Để nuôi dưỡng ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến luôn cháy sáng, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Không ai có thể bắt người khác tin, cậy và mến được. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Khi trả lời “không”, các cô khôn ngoan chỉ nêu bật hậu quả của hoàn cảnh do thái độ thiếu tiên liệu, bây giờ mọi sự đã quá muộn. Bởi vậy, mỗi người tự gánh trách nhiệm về cuộc đời mình.
– Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng mới được đi vào dự tiệc cưới với chàng rể. Ba hành động nối tiếp nhau: chàng rể đến, các cô khôn ngoan được tháp tùng chàng rể và cửa đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến và xin được đi vào trong phòng tiệc. Cuộc đối thoại ngắn giữa lời cầu xin của các cô khờ dại: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, và câu trả lời của chàng rể: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”, cho thấy sự thiếu xót lúc đầu tưởng rằng chỉ một lỗi sơ xuất nhỏ vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể.
Trong dụ ngôn “Tiệc cưới” trước đó, một người trong số những người được mời vẫn không tránh khỏi bị trục xuất ra khỏi tiệc cưới vì không “mặc áo cưới” (22: 12-13); ở đây cũng thế, những người được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được dự phần vào tiệc cưới khi không chuẩn bị dầu để giữ cho đèn được cháy sáng. Do sự chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, không còn thuộc đoàn rước của chàng rể nữa. Đến đây, dụ ngôn đã trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” tượng trưng cho Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” tượng trưng cho việc chờ đợi cuộc Quang Lâm được trì hoản lâu dài, dù các ki-tô hữu đã tưởng là gần kề; đi vào phòng cưới là đi vào Nước Thiên Chúa; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su trong phần cuối của Diễn Từ Trên Núi: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7: 22-23).
-Kết luận (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra có vẻ không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây chủ yếu hệ tại ở nơi quyết định của các môn đệ là trung tín chu toàn những gì họ đã được giao phó.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- Năm A
KHÔN NGOAN VÀ KHỜ DẠI- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long,OFM
Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong ngữ cảnh là các chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này được liên kết với hai dụ ngôn trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x. 24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng” ([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu truyện có đề tài là một cuộc rước dâu, nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói về người tôi tớ trung thành và người tôi tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ, khoảng thời gian này được nêu bật do sự chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của người đóng vai trò đó.
Đọc từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu ở ngay giữa thời gian Israel đã từ khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ khước các sứ giả của Người (23,34) và thời gian chờ đợi Con Người ngự đến (24,4b-14).
Bố cục
Khi đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ đến một vở kịch với hành động ngắn và nhanh, với những thay đổi thường xuyên và với một điểm mở nút xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ. Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
-Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ);
-Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và giấc ngủ;
-Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung đột;
-Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô được vào và những cô không được vào;
-Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ chối;
* Kết luận (25,13).
Trạng từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về “khung bên ngoài”.
Vài điểm chú giải
– Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có nghĩa là Nước Trời giống như các trinh nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận của loài người cũng giống như số phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người” (25,31).
– trinh nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa lập gia đình, là bạn của cô dâu.
– dại … khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt 7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên đá”; ở 24,45, người khôn là người biết sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
– đèn … dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho thêm phần trang trọng.
– vì chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể đến chậm do phải điều đình vào phút chót về những điều khoản của khế ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha mẹ cô dâu.
Ý nghĩa của bản văn
* Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của Người. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này, vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà thôi.
Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều xảy ra như nhau cho cả mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ, và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo tích cực và tiêu cực để họ có thể ướm cho mình.
* Cảnh 2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và giấc ngủ
Vì chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như không có một hành động nào, hành động bị “treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh 3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung đột
Đến đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt mọi sự chuyển động. Một lời loan báo, một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có thể nghe được từ đàng xa. Đàng này, tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh khắc của sự thật đã đến. Chú rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số dầu dự trữ không đủ cho cả mười chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng mới được theo đoàn rước và dự tiệc cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”. Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột, nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột. Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ, thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô diễn tả một tình trạng bất khả kháng thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm tay.
* Cảnh 4: Điểm mở nút (10): những cô được vào và những cô không được vào
Các biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó, động cơ của bài tường thuật được thực hiện: chàng rể đến và đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới được đi theo chú rể. Cửa được đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả. Cửa đưa vào tiệc cưới không được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có thể đi vào được.
* Cảnh 5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô nại tới sự quen biết đã từng có với chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi cửa có nét bi thương; dường như các cô nại tới lòng từ bi thương xót của chú rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước; chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt 7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện được mời vẫn không tránh cho người kia khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới (22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành người gác cửa cứng rắn, khẳng định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây, dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể (nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi với chú rể cũng như lời chú rể trả lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung. Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế, được vào/không được vào tiệc cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết luận (13)
Câu kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ, câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu truyện không trực tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa đến. Thật ra, sự canh thức ở đây chủ yếu hệ tại quyết định của các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù được chờ đợi, Đức Kitô sẽ đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc 13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ sở cả.
Thuộc về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không đương nhiên là đồng đều với mỗi người. Để được như thế, mỗi người cần phải sống phù hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết đối với mỗi người. Người ta có thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự khờ dại.
Nếu trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là một lễ cưới. Để cho các hình ảnh được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm thường. Đời sống trên trời là một cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng trinh khiết (x. 19,12).
Gợi ý suy niệm
–Một nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô hữu là người ta đã có được mọi phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình đang sống và có một ý chí cương quyết hành động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
–Kết thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi, hẳn là người ta chẳng để ý là đèn của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì. Hẳn là người ta cũng không từ chối mở cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ, hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
–Phán quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta, nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống này mà thôi.
–Chúng ta không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ thiếu trong đèn của chúng ta.
–Mục tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo huấn cho Hội Thánh. Độc giả được biết rằng không phải tất cả những người được gọi đến với lễ cưới của chú rể sẽ thật sự được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các tín hữu để tách những người được chọn với những người được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là được gọi nhưng là được thử thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc làm.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- Năm A
HÃY CHỜ ĐỢI VÀ TỈNH THỨC- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Con người ai cũng phải nghĩ tới tương lai. một tương lai đầy hy vọng và tốt đẹp. Người khôn ngoan thật là người phải biết chuẩn bị cho tương lai tươi sáng đang đón chờ tức là phải nhắm đến cái cùng đích của mình. Cùng đích của mình là phải chiếm hữu được Nước Trời. Cuộc sống ở trần gian này là một thời ước mong và chờ đợi.
Những bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nói về sự chờ đợi đó và sống trong sự chờ đợi này ngõ hầu không phải vỡ mộng vô phương cứu chữa sau khi chờ đợi. Nhưng nhiều người đã vỡ mộng thật ! Nếu vào ngày chúng ta chết, vì thiếu khôn ngoan và lo xa, chúng ta lại nghe Chúa phán :”Ta không biết các ngươi”.
Cuộc sống trần gian chỉ là cuộc hành trình về Quê Trời. Đã nói đến hành trình thì phải nói đến hành trang, mà hành trang của Kitô hữu là chiếc đèn đầy dầu, tức là một cuộc sống lành thánh và đầy công phúc. Cuộc sống ở đời này rất bấp bênh, kết thúc lúc nào không ai biết vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ” !
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Một khi đã chuẩn bị sẵn sàng thì chúng ta sẽ được bình yên, không còn lo sợ trước cái chết vì “Cẩn tắc vô ưu” mà !
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Kn 6,13-17.
Trong bài đọc một này Thánh Kinh thôi thúc chúng ta tìm sự khôn ngoan, vì Khôn ngoan là món quà cao qúi mà Thiên Chúa ban cho con người. Hãy tìm kiếm khôn ngoan và Khôn ngoan sẽ đáp ứng, Khôn ngoan sẽ đến gặp chúng ta như một người bạn. Nhờ có khôn ngoan mà con người biết sống thế nào cho phải, tìm ra cái gì phải tìm. Nhờ có đức tính này mà con người có thể định hướng được cuộc đời của mình mà không sợ lạc hướng.
Đối với người Kitô hữu, sự khôn ngoan ấy được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói :”Ta là đường, là sự thật và sự sống”. Ai theo Ngài sẽ tiến tới con đường cứu độ.
Bài đọc 2 : 1Tx 4,13-18.
Thánh Phaolô vui mừng vì thấy tín hữu Thessalonica đón nhận Tin mừng do Ngài rao giảng và sống đức tin vững vàng. Nhưng họ có một tâm trạng lo âu : họ đang mong chờ đến ngày tận thế để được gặp Chúa Giêsu, nếu họ chết trước thì họ sẽ không được gặp Ngài.
Nhưng thánh Phaolô làm cho người Thessalonica yên tâm bằng cách cho họ tin chắc rằng : khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi. Vì thế, họ hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến trong tinh thần tin tưởng.
Bài Tin mừng : Mt 25,1-13.
Dụ ngôn 10 cô trinh nữ nói lên sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa là biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa quang lâm. Chúa sẽ đến nhưng chúng ta không biết ngày nào giờ nào. Việc chúng ta phải làm là hãy dự trữ đầy đủ dầu đèn tức là phải tỉnh thức. “Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Chắc chúng ta thắc mắc về một chi tiết : 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại vay mượn dầu. Phải chăng chi tiết này nói lên tính ích kỷ của các cô khôn ngoan ? Chắc không phải thế ! Chúa Giêsu muốn dùng chi tiết này để nói rằng trước số phận đời đời không ai có thể giúp ai được , mỗi người phải tự lo lấy . Vậy mỗi người phải tự lo bằng cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tỉnh thức và sẵn sàng.
BỐI CẢNH CỦA DỤ NGÔN.
Phong tục cưới hỏi người Do thái.
Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do thái.
Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ Palestine. Ông viết :”Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy ? Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp: “Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành”.
Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng : một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Theo ý của công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng :”Kìa, chàng rể đang đến”. Việc đó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra.
Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
Ý nghĩa dụ ngôn.
Dụ ngôn này nhằm cảnh cáo những thính giả gần là người Do thái và những thỉnh giả xa là chúng ta ngày hôm nay là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
* Dụ ngôn nhằm trực tiếp vào người Do thái. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, cả lịch sử của họ đúng ra là một cuộc sửa soạn cho cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa, lẽ ra họ phải chuẩn bị cho Ngài tới. Nhưng họ đã không chuẩn bị đóp tiếp Ngài, vì thế họ đã bị loại ra như 5 cô trinh nữ khờ dại.
* Dụ ngôn còn gián tiếp cảnh cáo chúng ta khi chúng ta không chuẩn bị đón tiếp Chúa đến trong ngày tận thế và nhất là trong ngày sau hết của đời mình. Chúng ta quá mải mê với đời sống ở trần gian, chỉ biết tìm hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi hạnh phúc thật đời sau. Chúng ta rất dễ lần nữa trễ nải đến nỗi không còn thời giờ chuẩn bị mình đến gặp Chúa vì Chúa đến rất bất ngờ.
* Dụ ngôn này nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ. Cl Tassin viết :” Dụ ngôn về lụt đại hồng thủy trình bầy cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo truớc mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục, Chuá phải là linh hồn của thời gian chờ đợi. Hội thánh sống với lòng mong đợi ngày cánh chung ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày”.(Tassin, l’Évangile de Matthieu, Centurion, tr 260).
BÀI HỌC ĐƯỢC RÚT RA.
Ngày xưa, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do thái không chịu chuẩn bị cho Ngài đến trong việc cứu chuộc loài người, nên họ đã bị loại ra ngoài và dành cho các dân tộc khác. Ngày nay, với dụ ngôn này, Chúa cũng cảnh cáo chúng ta đừng quá mê man sự thế gian mà quên đi giờ chết của mình. Chúa sẽ đến gọi chúng ta ra khỏi đời này một cách bất ngờ và ngày giờ nào chúng ta không biết. Chỉ có một điều chúng ta phải làm là tỉnh thức và sẵn sàng.
Mọi người đều phải chết.
Kinh nghiệm người đời cho hay : không ai có thể sống mãi. Từ xưa đến này, người ta đã nỗ lực đi kiếm tìm thuốc trường sinh, nhưng đã thất bại. Bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu vĩ nhân lừng danh thế giới đã qua đi, chỉ còn lưu lại trên sử sách. Vì thế người ta mới đặt một dấu hỏi và tự trả lời :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết ? Theo Kinh thánh, ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi, tất cả đều đã chết. Vì thế người ta mới nói :
Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
Biết là mọi người sẽ phải chết đấy, nhưng mấy ai nghĩ đến sự chết để dọn mình ?
Nhà nhiếp ảnh Mạnh Đan có chụp một bức hình thần tình. Bức hình trình bầy hai nhân vật : một cụ già đang quay lưng đi, một thiếu niên đang quay mặt lại. Và tác giả đã đặt cho bức hình ấy một tên không thể khéo đẹp hơn : QÚA KHỨ VÀ TƯƠNG LAI.
Thật vậy, quá khứ và tương lai, hay là lớp người già và lớp người trẻ, là hai hạng người ngồi châu lưng lại cho nhau. Lớp người trẻ nhìn về phía trước mặt. Lớp người già nhìn về phía sau lưng. Vì thế Thánh Kinh nói :”Trẻ thì mộng tới tương lai, già thì chiêm bao về quá khứ” (Joel 3,1).
Tâm lý trẻ già khác nhau đấy : người thì nhìn về quá khứ, người thì nhìn về tương lai. Nhưng cả hai ít khi nghĩ đến sự chết kể cả người già, vì chết là một cái gì bi quan làm mất đi niềm vui của cuộc sống. Do đó, người ta tạm quên đi để hưởng trọn cuộc đời đầy bấp bênh này.
Tuy niên, cũng có những người khôn ngoan biết lo xa để chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn của mình. Vua Ferdinand II của Pháp, ở trong phòng giấy và nơi ngủ, ngài dạy phải viết câu này :”Annos aetrenos in mente habui” (Tôi hằng nhớ những năm vô tận).
Giờ chết đến bất ngờ.
Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng lời khuyên :”Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Lời khuyên dụ tỉnh thức ở đây giống như câu đầu của dụ ngôn chủ nhà (Mt 24,42) vì không biết ngày nào giờ nào ông chủ về, nên người đầy tớ phải tỉnh thức luôn. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng này giữ con người ở tình trạng thường xuyên sống trong ơn nghĩa Chúa và gia tăng việc lành phúc đức mỗi ngày một hơn.
Truyện: Núi lửa Vésuve.
Cách đây hơn 1900 năm, núi lửa Vésuve đã phun lên ở Italia. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompéi đã bị chôn dưới lớp phún thạch tới 18 bộ (gần 6 mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần đây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên.
Mọi người cũng phải ngạc nhiên về những điều khám phá được… Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Bằng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân.
Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang cuốn chặt đứa con trong tay mình, hoặc một lính gác Rôma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới lúc cuối cùng… Nhưng cũng có người chết đang lúc nhậu nhẹt, có người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. (Cf M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 322-323)
Phải chuẩn bị sẵn sàng.
Hai bài đọc hôm nay nhắc cho chúng ta phải sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. Khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như 5 trinh như khôn ngoan kia không hay lại chẳng chuẩn bị gì như 5 trinh nữ khờ dại ?
Phải sống khôn ngoan.
Người ta thường nói :”Khôn ba năm dại một giờ”(Tục ngữ). Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải cố gắng suốt cả đời vì “chỉ có ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, chỉ thiếu khôn ngoan một chút là trở thành dại, đem đến sự tai hại khôn lường. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta đâu là sự khôn ngoan đích thực và phải hành động ra sao để có sự khôn ngoan đó.
Như chúng ta đã biết có nhiều loại khôn ngoan : khôn ngoan chủ quan hay khách quan, khôn ngoan do kinh nghiệm hay do học hỏi, khôn ngoan xưa hay ngày nay. Và mọi sự khôn ngoan không luôn có tầm quan trọng như nhau vì có những thứ khôn ngoan chỉ hữu dụng tạm thời hay tùy cơ ứng biến, lại có những thứ khôn ngoan có giá trị bất biến mà ai cũng phải công nhận. Một trong những thứ khôn ngoan quan trọng đó mà dụ ngôn đề cập tới :”Mọi người sống ở trần gian sẽ qua đi , chỉ cần một việc quan trọng là chiếm hữu cho được Nước Trời”. Đây là sự khôn ngoan mà Chúa muốn truyền dạy chúng ta như một chân lý căn bản hướng dẫn một cuộc đời và chi phối tận gốc rễ mọi sinh hoạt của con người mong đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban.
Truyện : Diogène bán sự khôn ngon.
Triết gia ngoại đạo Diogène dọn một chỗ ỡ giữa thành Athènes. Ở đó, ông treo một tấm bảng có đề chữ :”Đây có bán sự khôn ngoan”. Một người kia thấy câu đó, liền sai đầy tớ đem tiền đến mua. Diogène bỏ tiền vào túi rồi trả lời :
– Hãy về thưa lại với chủ câu này :”Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích”.
Người chủ cho đó là một câu đầy giá trị. Ông truyền khắc câu đó bằng chữ vàng và treo trước cửa nhà. Như vậy, ông muốn nhắc nhở kẻ khác năng nhớ đến mục đích của con người sống trên mặt đất này, vì đó là điều quan trọng nhất.
Sẵn sàng đón Chúa đến.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân liên quan đến mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự tỉnh thức và sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải trong một thời gian nào thôi vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa sọan có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và nhân đức nữa Đúng như người ta nói :“Đèn không dầu như cầu không nhịp”.
Đèn không dầu thì đốt không cháy, cũng như cầu không nhịp thì người đi bộ cũng như người đi xe có ngày sẽ bị té xuống sông. Con người khôn ngoan phải biết lo cho tương lai. Khôn ngoan của con người là phải cùng đích của mình, mà muốn tới cái cùng đích ấy thì phải chuẩn bị cách tỉnh thức và sẵn sàng vì “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
Phận ai người ấy lo.
Có một điều làm cho chúng ta suy nghĩ : việc 5 cô trinh nữ khôn ngoan từ chối không cho 5 cô trinh nữ khờ dại vay mượn dầu. Chi tiết này xem ra có vẻ nói về cái tính ích kỷ của 5 cô khôn ngoan, nhưng dầu sao nó cũng có ý nghĩa. Có thể đây là một chi tiết nói lên sự cô độc của con người khi chết. Mỗi người phải tự lo lấy cho mình, không ai giúp ai được. Con người sẽ một mình ra trước mặt Thiên Chúa, cùng với tất cả những gì mình có.
Đây là tư tưởng làm cho triết gia và nhà thần học Đan mạch Kierkegaard (1813-1855) ông tổ của trào lưu tư tưởng triết học hiện sinh, suy nghĩ và gợi hứng cho ông viết cuốn “Le concept d’angoisse” và suy tư một hệ thống triết học bi quan về thân phận con người.
Tuy nhiên đối với những người công giáo, chúng ta nhận định chân lý trên mà không sợ hãi lo lắng, bi quan. Trái lại, từ chân lý đó ta sẽ cố gắng để sống, định liệu lấy chính đời sống đời đời của ta bằng đời sống hiện tại vì biết rằng một mình ta sẽ ra trước toà Chúa.
Lúc đó, mỗi người sẽ lãnh nhận lấy hậu quả của mọi hành vi mình trong cuộc sống, hoặc được thưởng hoặc bị phạt. Việc thưởng phạt này do chính lương tâm của ta tự quyết định vì gieo thứ nào thì gặt thứ ấy như thánh Phaolô đã dạy :
Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.
Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.(Ngạn ngữ)
Qua tư tưởng các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể rút ra được bài học thực hành : một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt. Giờ chết, giờ gặp Chúa của mỗi người chắc chắn sẽ xẩy ra, nhưng có một điều không chắc là không biết nó sẽ xẩy ra khi nào . Chúa không muốn ta biết giờ chết vì muốn để ta tập luyện tinh thần phó thác : tin vào Chúa quan phòng và tình thương của Chúa. Đồng thời chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, phải lo cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách sống tốt lành, sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa. Chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời như người ta nói :”Sống lành chết thiêng”.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HÃY LUÔN TỈNH THỨC SẴN SÀNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ: Ý tưởng “tỉnh thức” được khai triển trong cả 3 bài đọc hôm nay :
– Bài đọc I : Tỉnh thức để gặp được sự khôn ngoan.
– Đáp ca : “Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, tôi thao thức chạy kiếm Ngài”.
– Tin Mừng : Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể, kết thúc bằng lời khuyên : “Vậy hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”.
– Bài đọc II : Tỉnh thức để đón Chúa quang Lâm.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Nhịp sống đều đều dễ ru ngủ chúng ta trong thói quen, thụ động và an phận… quên mất nhiều vấn đề quan trọng thiết yếu. Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và xin Ngài giúp chúng ta sống theo Lời dạy của Ngài.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta mải mê làm ăn sinh sống, đến nỗi không nghĩ đến cuộc sống mai sau.
– Chúng ta mải mê lo cho bản thân mình, đến nỗi không nghĩ gì đến tha nhân.
– Chúng ta miệt mài tìm hưởng thụ sung sướng mà không nghĩ đến vấn đề tội phúc.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Kn 6,13-17)
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi.
Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm.
Đáp ca (Tv 62)
Tv này bày tỏ tâm tình của một người đang sống kiếp lưu đày, tâm tình thao thức kiếm tìm Chúa.
Sự thao thức kiếm tìm được mô tả như người khát mong gặp được nước, người đói mong được của ăn, như người nằm trên giường mà không ngủ được vì mãi nhớ kẻ mình thương.
Tin Mừng (Mt 25,1-13)
Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể nói đến sự tỉnh thức để đón Chúa khi Ngài quang lâm.
“Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Dụ ngôn này cũng có một chi tiết rất ý nghĩa : 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại mượn dầu. Đây không phải là thái độ ích kỷ không giúp nhau. Chi tiết này muốn nói rằng trước số phận đời đời, không ai có thể giúp ai được. Vậy mỗi người phải tự lo bằng một cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
Bài đọc II (1 Tx 4,12-17)
Tín hữu Thêxalônikê rất mong tới ngày tận thế, vì khi đó họ sẽ được gặp lại Chúa. Nhưng mong mãi mà chưa tới tận thế, họ sợ rằng mình sẽ chết trước ngày đó và không gặp được Chúa.
Thánh Phaolô trấn an họ : Khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi.
Tâm trạng này của tín hữu Thêxalônikê rất lạ đối với chúng ta. Nhưng nó cho thấy điều này là : Chỉ khi nào người ta luôn tỉnh thức sẵn sàng thì người ta mới có thể không sợ mà còn nôn nóng chờ ngày tận thế (hay ngày chết của mình).
GỢI Ý GIẢNG
Chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn
Đối với những việc còn mơ hồ, nghĩa là không chắc sẽ đến hay không, thì không chuẩn bị là việc có thể thông cảm được. Nhưng đối với những việc mình biết chắc chắn sẽ đến, thì chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn.
Trong tương lai, bạn sẽ lên chức giám đốc, sẽ lãnh đạo một công ty lớn chăng ? Chưa biết. Vì thế, chưa cần phải nghĩ ngợi lo lắng nhiều. Tới chừng đó sẽ tính.
Hai tháng nữa là đám cưới của con trai bạn. Nếu bạn cẩn thận và khôn ngoan thì chắc hẳn bạn sẽ lo ngay từ hôm nay.
Trong tương lai, có thể xa mà cũng có thể gần, bạn sẽ chết chăng ? Chắc chắn rồi. Vậy sao bạn không lo trước ? Đành rằng không ai biết ngày chết của mình, như Đức Giêsu đã nói rõ “Các con không biết ngày nào, giờ nào”, nhưng chuẩn bị sẵn sàng trước luôn là điều tốt hơn. Vả lại biến cố này vô cùng hệ trọng, hệ trọng hơn cả việc chuẩn bị cho một tiệc cưới.
Không nghĩ tới không phải là cách trốn tránh được
Chết là một chuyện rất buồn và rất đáng sợ. Vì thế nhiều người không muốn nghĩ tới nó. Họ giống như con đà điểu sợ người thợ săn nên dấu đầu trong cát.
Nhưng việc con đà điểu chúi đầu vào cát không hề ngăn cản được bước chân người thợ săn càng lúc càng tiến gần tới nó. Cũng thế, việc không nghĩ tới cái chết không giúp người ta trốn được tử thần.
Tốt hơn cả là hãy tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng, như gương các tín hữu Thêxalônikê. Càng chuẩn bị thì ta càng bình an khi cái chết đến. Chuẩn bị hoàn toàn chu đáo thì ta còn có thể vui mừng nôn nóng mong cho ngày chết mau đến nữa.
Chờ đợi trong tình yêu
Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình ; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Mảnh suy tư
– Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các ngài đâu làm gì lạ ! Họ chỉ chu toàn bổn phận (ĐHV 25)
– Bổn phận là giấy vào Nước Trời : “Ai thực hiện ý Cha Ta trên trời, sẽ vào Nước Trời” (ĐHV 27)
– Nếu ai cũng nên thánh trong bổn phận, thì tâm hồn mới, gia đình mới, thế giới mới (ĐHV 20)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Chúa có thể đến vào lúc chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Do đó tỉnh thức là việc mỗi kitô hữu cần phải làm thường xuyên cả cuộc đời mình. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các kitô hữu / cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / biết cố gắng sống thánh thiện / để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này.
2- Đứng trước cái chết / mọi người đều sợ hãi / nhất là đối với những ai chưa chuẩn bị để gặp gỡ Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi kitô hữu hiểu rằng / phải làm thật nhiều việc lành phúc đức / để khi Chúa gọi ra trình diện trước tòa Chúa / sẽ không bị Chúa khiển trách bất cứ điều gì / trái lại còn được vui hưởng hạnh phúc trên trời.
3- Tỉnh thức trong bổn phận đối với Chúa và tha nhân / là những điều căn bản trong đời sống đức tin của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / luôn tỉnh thức như Chúa đã dạy.
4- Dầu cần cho đèn thiêng liêng chính là lời cầu nguyện / đồng thời cũng là những việc bác ái yêu thương / như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cầu nguyện không ngừng / và quảng đại giúp đỡ anh chị em nghèo đói đang sống chung quanh mình.
CT : Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày có quá nhiều thử thách gian nan, khiến chúng con dễ sao lãng bổn phận tỉnh thức. Vậy xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con luôn tỉnh thức giữa biết bao phiền toái của cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin nhờ…
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SẴN SÀNG- Lm. Giacôbê Nguyễn Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu “Sau sáu…”nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TÍCH LŨY NHIỀU DẦU CHO ĐÈN CHÁY SÁNG– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Được mời làm phù dâu là một vinh dự lớn đối với các cô gái đương xuân. Đây là một cơ hội tốt để giao lưu, để gặp gỡ, để làm quen với nhiều người bạn khác cùng trang lứa… Và biết đâu, nhân dịp nầy, các cô có thể tìm thấy bạn trai ý hợp tâm đầu rồi sau đó kết ước chuyện trăm năm thì còn gì hạnh phúc bằng!
Vì thế, ngay khi được mời làm phù dâu, các cô nô nức sửa soạn cho ngày quan trọng nầy rất chu đáo. Phải trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân!
Thế rồi, thời điểm chờ đợi lâu nay đã đến. Các cô tung tăng hớn hở cùng nhau tiến về nhà cô dâu để chuẩn bị nghênh đón chàng rể và để gặp gỡ những người bạn trong mơ.
Thế nhưng, điều đáng tiếc là vì mải lo sửa soạn áo xống, lo trang điểm bên ngoài thật tươm tất chu đáo thì năm trong số mười cô phù dâu xinh đẹp lại quên mất điều quan trọng nhất là chêm thêm dầu vào chiếc đèn của mình.
Và bởi quên đi điều quan trọng nầy nên khi chàng rể đến bất thần giữa đêm đen, các cô chỗi dậy sửa soạn đèn đóm, không ngờ đèn đã cạn dầu từ lúc nào không hay. Các cô năn nỉ, nài xin các bạn có mang dầu đầy bình giúp cho chút ít, nhưng chẳng ai cho.
Thế là vì không có đèn sáng trên tay, các cô không được vào phòng tiệc cưới, không được chung vui cùng cô dâu chú rể, không được hàn huyên trò chuyện với các bạn bè, không được ăn uống tiệc tùng gì cả… và rồi phải thui thủi ra về trong buồn tủi giữa đêm đen!
Có lẽ lúc bấy giờ các cô rất hận mình, vò đầu bức tóc và tự dằn vặt tại sao mình lại ngu khờ đến thế! Uổng công trang điểm má hồng môi son, uổng công mua những thỏi son hạng nhất, mua những lọ nước hoa đắt tiền, phí tiền may sắm quần áo lụa là xa xỉ, uổng công trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân và trải qua bao ngày nôn nao chờ đợi… Nhọc công làm tất cả những điều ấy mà không biết mang theo đủ dầu cho đèn cháy sáng nên mới ra nông nổi nầy. Đau buồn biết bao!
Nói người rồi nghĩ đến ta. Chúng ta cũng là những phù dâu, phù rể đang chờ đợi chàng Rể khác là Chúa Giê-su sắp đến. Mong sao chúng ta đừng bước theo vết chân năm cô phù dâu dại dột nầy.
Cũng như các cô phù dâu khờ dại chỉ mải lo sửa soạn áo xống và đồ trang sức hết sức chu đáo mà không quan tâm tích lũy đủ dầu cho đèn của mình được cháy sáng, chúng ta cũng mải mê sắm sửa cho mình đủ mọi thứ vật dụng cần thiết cho đời sống phần xác mà lãng quên tích lũy những gì cần thiết cho đời sống thiêng liêng. Vì thế, khi Chúa đến, chúng ta không được đón nhận vào phòng tiệc Nước Trời, thì thật vô cùng tai hại. Khi đó dù có than thân trách phận thì cũng đã quá muộn màng.
Chàng Rể Giê-su sẽ đến vào giờ không hẹn trước. Vậy chúng ta đừng mải mê đầu tư tất cả cho thân xác mà không mảy may đầu tư cho đời sống mai sau. Cần phải có dầu đầy bình ngay hôm nay đi, kẻo rồi khỏi phải hối tiếc như những cô phù dâu khờ dại trên kia.
Tích lũy đầy dầu là gia tăng làm việc thiện, là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trong thôn xóm, là phục vụ, là hiến thân giúp đỡ những anh chị em đang gặp khó khăn đau khổ quanh mình.
Xin giúp chúng con đừng quá bận rộn với cuộc sống vật chất đời nầy mà quên sửa soạn đèn dầu cho ngày mai.
Xin cho chúng con hôm nay biết siêng năng làm việc thiện, quan tâm xây dựng công ích, ra sức phục vụ xóm giềng … Chính những điều nầy làm cho đời chúng con trở nên đèn sáng. Và như thế, bất cứ lúc nào Chúa đến, chúng con cũng được mời vào dự tiệc vui muôn đời.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
KHÔN NGOAN VÀ KHỜ DẠI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời. Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đám cưới để nói về Cánh Chung. Đây là dịp của niềm vui chứ không phải là nỗi buồn, hạnh phúc chứ không đau khổ.
Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói đến lễ cưới và các trinh nữ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan với thái độ sẵn sàng và năm cô trinh nữ khờ dại với việc chểnh mảng ngu ngơ là những biểu tượng của những cách sống của con người (GLCG # 1950). Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào thích hợp đối với cuộc sống trần gian? (Lumen Gentium, 48, 50, 68; GLCG # 972).
Khôn ngoan hay khờ dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng và chuẩn bị hay không.
Khôn và dại theo Thánh kinh
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích.
Tự nhiên: khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập” (1V 5, 9-14).
Siêu nhiên: khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết” (Dn 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói : “Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv 6, 3).
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan : “Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan” (Hc 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1, 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói : “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,31).
Người khôn ngoan là người nghe và sống lời Chúa. Người dại khờ là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành. Chúa Giêsu dạy: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Chúa Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21)
Thái độ khôn ngoan.
Khôn ngoan là một ân ban Thiên Chúa trao tặng cho con người để họ biết cách sống theo đường lối của Ngài. Người khôn ngoan là biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao (GLCG # 2500).
Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang theo bình dầu, họ có chuẩn bị cho trường hợp chàng rể đến muộn. Họ luôn sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh Chúa Giêsu đến trần gian. Người đến nhiều lần với chúng ta trong cuộc đời và đến trong ngày sau hết của từng người. (x. 2 Tim 4,6 ; 2 Pr 1,14).
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm. Bài đọc I mời gọi chúng ta hãy khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu. (Kn 6, 12-16).
Cuộc đời kitô hữu khác nào như một cuộc nghinh đón chàng rể và chàng rể đây chính là Đức Kitô, vị thẩm phán. Tin Mừng nói chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là đến vào lúc người ta không ngờ. Rồi khi chàng rể đến, chàng sẽ “đóng cửa lại”. Ý nghĩa thiêng liêng của câu nói là : người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị, như năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Ngày xưa, dân Chúa chuẩn bị vượt qua Biển Đỏ cũng có thái độ như thế. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Văn sĩ E. Hemingway có viết một quyển tiểu thuyết, nhan đề “ngư ông và biển cả”, kể lại cuộc vật lộn uổng công của lão ngư phủ người Cuba tên là Xăngtiagô với biển khơi. Ông câu được một con cá kình, nhưng vì cá quá to, ông đành phải cột cá bên mạn thuyền để kéo vào bờ. Buồn thay, trên đường về, lũ cá mập đã đánh ra hơi và xúm vào rỉa thịt. Khi về tới bến, con cá to chỉ còn là bộ xương mà thôi.
Không thể nào trình diện Chúa với hai bàn tay trắng.
Thái độ khờ khạo.
Lễ cưới theo nghi thức Tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều hướng mắt về cô dâu lộng lẫy trong trang phục lễ cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên cung thánh đón tiếp cô dâu.
Trong nghi thức đám cưới Do thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về quà cáp, của hồi môn…vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Các cô dại không hề chuẩn bị gì cho trường hợp đó. Theo tập tục cưới hỏi của người Do Thái, chú rể sẽ đến nhà cha cô dâu để đón cô về nhà mình. Những cô trinh nữ phù dâu có nhiệm vụ cầm đèn cùng với cô dâu đón chú rể, làm thành một đám rước cô dâu về nhà chú rể, và ở đó, một tiệc cưới linh đình sẽ được tổ chức. Một khi đã nhận nhiệm vụ, các cô trinh nữ đó có nhiệm vụ phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó của mình.
Năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến họ hết dầu. Các cô trinh nữ khờ dại, vì sự thiếu chuẩn bị đúng đắn của mình, đã bị loại khỏi niềm vui của tiệc cưới và không thể làm gì để thay đổi thực tế bi đát đó được nữa.
Giống như các cô trinh nữ khôn ngoan, các cô trinh nữ khờ dại cũng được mời gọi đi đón chàng rể rồi vào dự tiệc cưới. Các cô biết chàng rể chắc chắn sẽ đến. Các cô cũng tha thiết mong chờ chàng rể đến. Điều các cô thiếu là một sự chuẩn bị sãn sàng và đầy đủ những thực tại cần thiết để có thể thực hiện được lời mời gọi và nhiệm vụ dành cho các cô và nhờ đó được thỏa lòng mong ước của mình. Các cô mang đèn nhưng không mang dầu theo. Sai lầm của các cô không phải ở chỗ các cô không hướng lòng về biến cố chàng rể đến, mà là ở chỗ các cô đã không có sự chuẩn bị phù hợp cho biến cố đó. Được mời gọi làm thành viên của đoàn đón chàng rể thôi, chưa đủ. Biết rằng chàng rể sẽ đến vào một lúc nào đó thôi, chưa đủ. Còn phải có sự chuẩn bị thích hợp nữa.
Hãy luôn chuẩn bị sẵn sàng.
Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có khi cũng phôi pha. Cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CÁCH THỨC CHỜ ĐỢI – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Chờ đợi là hai từ mà chúng ta vẫn nói trên môi. Chờ đợi một ai đó. Chờ đợi một chuyến đi. Chờ đợi một sự kiện. Một ngày có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi. Nếu một chiều đứng lặng và quan sát nơi đường phố, chúng ta sẽ thấy những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua, những chiếc taxi xếp hàng dài chờ đón khách, những người đi lại chờ đèn để băng đường, những người ăn xin chờ đợi một tấm lòng, …
Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta chờ đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ai đó từng nói rằng chờ đợi là hạnh phúc, nhưng cũng có người bảo rằng chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Song, không ai có thể trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi và đôi khi chúng ta cứ phải chờ, chờ rất nhiều, rất lâu đơn giản vì không thể nào làm khác được.
Có bài hát viết rằng: “Em vẫn từng đợi anh, như hoa từng đợi nắng, như gió tìm rặng phi lao, như trời cao mong mấy trắng.”. Sự chờ đợi đích thực không phải là không làm gì, là án binh bất động mà là tìm kiếm, là hành động để không bỏ lỡ cơ hội gặp lại người mình yêu.
Như vậy, chờ đợi để đón nhận một niềm vui, chờ đợi là để tiếp tục một công việc. Chờ đợi là nhịp cầu để chúng ta hoàn thành một công việc, hoàn thiện một ước mơ. Chờ đợi là một điểm nhấn cần có trong cuộc sống để chúng ta nắm bắt những cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.
Chúa Giê-su nói rằng cuộc sống chúng ta cũng có một bến đợi. Nơi bến đợi đòi hỏi chúng ta phải làm việc. Bến đợi cuộc đời đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để luôn chu toàn bổn phận. Tỉnh thức để luôn chuẩn bị đủ dầu thắp sáng giữa đêm tối đầy những cạm bãy rình chờ. Đừng như những trinh nữ khờ dại vì lười biếng mà bỏ lỡ cơ hội dự tiệc vui Nước Trời. Hãy sẵn sàng như các cô trinh nữ khôn ngoan luôn tỉnh thức để được cùng tân lang vào trong phòng tiệc.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá! “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”.
Đáng tiếc cho các cô khờ dại là có đèn, nhưng đèn lại không đủ sáng khi Chúa đến, vì Chúa đến quá bất ngờ khiến dầu đã cạn, ánh sáng đã không còn.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG- Trích Logos A
Vào năm 1991, một tin buồn đến với nhân dân Lạng Sơn và toàn thể nhân dân Việt Nam, nhất là những ai thiết tha với những di tích văn hoá của dân tộc. Hòn Vọng Phu mang hình dáng nàng Tô Thị ở Đồng Đăng đã vĩnh viễn ra đi, không còn đứng trên núi “chờ chồng” như đã có từ bao năm qua.
Hòn Vọng Phu là một tảng đá vôi có hình dáng một người phụ nữ bồng con đang hướng ra biển. Truyền thuyết kể lại : người phụ nữ đó chính là nàng Tô Thị, có chồng đi đánh giặc xa nhà. Ngày ngày, nàng bồng con đứng trông ra biển mong ngóng chồng về. Chồng mãi không về, nàng mỏi mòn trông mong nên hoá thành tảng đá vôi, gọi là Hòn Vọng Phu.
Thời gian qua, một số người vô trách nhiệm, coi trọng đồng tiền hơn giá trị văn hoá, đã khai thác đá ngay dưới chân núi, làm Hòn Vọng Phu sụp lở, đổ xuống và bể nát dưới chân núi.
Trước sự kiện này, linh mục Thiện Cẩm đã phác họa một hình ảnh rất ý nghĩa về Giáo Hội : nàng Tô Thị ở Đồng Đăng nay không còn nữa, nhưng vẫn còn một hòn vọng phu khác, cũng là một người vợ, một người mẹ, đó là Giáo Hội ôm ấp cả nhân loại trong lòng, đang tỉnh thức chờ đợi Chúa Giêsu là vi Hôn Phu của mình ngự đến ( Hoa Trong Kẽ Đá, trang 149 ).
Tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến là chủ đề chính của sứ điệp Lời Chúa hôm nay. Tỉnh thức và sẵn sàng luôn luôn phải là thái độ của những con người khôn ngoan ở trần thế. Hôm nay, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ ” để dạy các môn đệ biết khôn ngoan khi sống ở đời này : đó là luôn tỉnh thức chờ đợi Chúa đến, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn cháy sáng, chờ đón chàng rể đến. Chúa cũng dạy các môn đệ hãy tránh xa thái độ thiếu tỉnh thức và sẵn sàng của năm cô trinh nữ khờ dại : mang đèn mà không đem đủ dầu, nên đã bị loại khỏi phòng tiệc cưới.
Tỉnh thức và sẵn sàng, thái độ của người khôn ngoan
Có người cho rằng : dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ ” là một câu chuyện khó hiểu. Tại sao các cô phù dâu mang đèn lại phải mang theo cả dầu ? Lẽ ra người chủ hôn phải quán xuyến và lo lắng việc này chứ ! Tại sao không “đón dâu” mà lại “đón rể” ? Tại sao đám cưới không tổ chức ban ngày, mà lại tổ chức ban đêm ?
Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh, đám cưới của người Do Thái ở Palestina thời Chúa Giêsu được tổ chức khá đặc biệt. Đó là một lễ hội linh đình kéo dài suốt một tuần lễ. Ngưới ta ăn uống, đàn ca, khiêu vũ không những ban ngày mà cả ban đêm nữa. Thay vì “rước dâu”, người ta lại “đón chú rể ”. Chú rể sẽ đến nhà cô dâu thương lượng với gia đình để đưa cô dâu về nhà mới chung sống. Việc đón rước này được tổ chức ban đêm và những cô phù dâu sẽ cầm đèn đón rước chàng rể đến, rồi đưa đôi tân hôn đến nhà mới để bắt đầu tuần trăng mật. Sở dĩ những cô phù dâu phải mang đèn và chuẩn bị dầu đầy đủ, vì vào thời đó, ai ra đường ban đêm cũng phải mang theo đèn, nhất là các cô trinh nữ. Vì bóng đêm đầy rẫy sự nguy hiểm và gian tà. Như thế, các cô phù dâu phải chuẩn bị đèn và dầu ngay từ nhà để đi dự tiệc cưới ( Theo William Barclay ).
Vậy, những cô phù dâu “khôn ngoan” là những người biết phòng xa, mang theo nhiều dầu cùng với đèn. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô vẫn có đủ dầu để thắp đèn. Còn những cô phù dâu “khờ dại” không chuẩn bị kỹ lưỡng để mang dầu đầy đủ, nên đèn cạn dầu khi chàng rể đến. Các cô này còn “khờ dại” vì đã không tỉnh thức để kịp mua dầu thắp đèn đi đón chàng rể.
Cũng thế, người tín hữu phải khôn ngoan tỉnh thức và sẵn sàng, với cây đèn đức tin luôn cháy sáng trên tay, để đón Chàng Rể là Đức Kitô đến. Vì Chúa Kitô đến bất ngờ, không báo trước, nên người khôn ngoan là người luôn biết chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức để đón tiếp Ngài.
Tỉnh thức và sẵn sàng, tư thế của người tín hữu hôm nay
Chúa Kitô đến có thể hiểu theo nhiều cách :
Chúa Kitô đến trong ngày Quang Lâm. Nghĩa là Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang để phán xét toàn thể nhân loại. Không ai biết được ngày giờ Chúa lại đến trong ngày chung thẩm ấy. Không ai biết rõ được ngày tận thế. Vì thế, người tín hữu luôn phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày ấy. Trong tư thế sẵn sàng, chúng ta hân hoan “ngẩng cao đầu” trong ngày tận cùng của thế giới.
Chúa đến gọi ta về khi giờ chết đến. Giờ Chúa đến gọi ta về cũng có thể bất ngờ qua một cơn gió thoảng, một tai nạn, một cơn bạo bệnh. Nếu ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng, ta sẽ thanh thản và bình an ra đi theo lời mời gọi của Chúa. Điều quan trọng, là mỗi ngày, ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho giờ ra đi của mình.
Chúa đến viếng thăm chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Ngài có thể đến bất ngờ qua hình hài vóc dáng của những người sống chung quanh chúng ta, nhất là qua những người nghèo khó bất hạnh, những người cô đơn sầu khổ. Ngài cũng có thể đến với ta qua một biến cố đặc biệt, hay qua cảnh sống thường ngày. Ngài đến thật bất ngờ, nên nếu không tỉnh thức và sẵn sàng, ta không thể gặp được Ngài. Ngài sẽ bước ngang qua cuộc sống ta, mà ta chẳng hề hay biết.
Như vậy, tư thế phải có của người tín hữu chính là phải tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là :
Hãy để cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng, dù giữa những giông bão cuộc sống, hay trong đêm dài tăm tối cuộc đời. Ngọn đèn ấy phải được đổ đầy chất dầu của hy sinh và bác ái. Chất dầu ấy chính là tinh chất của đời sống đức tin. Chúng ta không thể “vay mượn” chất dầu ấy, vì làm sao có thể vay mượn số phận hay đời sống tinh thần của ai khác ? Chất dầu ấy phải được rút ra từ chính cuộc sống đức tin của mỗi người.
Hãy biết tận dụng thời gian qúi báu Chúa ban cách khôn ngoan để chuẩn bị cho ngày giờ Chúa đến. Những giây phút hiện tại thật qúi giá biết bao để ta sắp sẵn hành trang cho cuộc sống mai sau.
Hôm nay, bài đọc I, trích sách Khôn Ngoan dạy ta phải tỉnh thức để gặp được sự khôn ngoan. Vì thế, khôn ngoan chính là ân huệ Thiên Chúa ban cho những ai biết thao thức kiếm tìm.
Bài đọc II, trích thư thứ I gửi tín hữu Thessalônica, thánh Phaolô an ủi các tín hữu : khi Chúa đến, tất cả mọi người, dù sống hay chết, đều được gặp Ngài, để cùng Ngài hưởng hạnh phúc mãi mãi.
Đó cũng là niềm hy vọng và an ủi cho chúng ta là những kẻ đang bước đi trên cuộc lữ hành trần gian. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết là ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong cầu nguyện và hy sinh để đón chờ Chúa đến.
Ngày xưa, ông vua kia có một anh hề rất ngây ngô, chuyên giúp vui mỗi khi nhà vua buồn phiền. Một ngày nọ, nhà vua trao cho anh hề một cây gậy và nói : “Ngươi khờ dại nhưng lại có tài làm hề ! Khi nào ngươi tìm được người khờ dại hơn ngươi, ngươi hãy trao cây gậy này cho người ấy”.
Đến một ngày kia, nhà vua hấp hối trên giường bệnh, anh hề được triệu vào giúp vui. Vua buồn bã nói với anh hề : “Ta sắp đi xa rồi !”. Ý vua muốn nói vua sắp chết. Anh hề hỏi : “Thưa đức vua, thế ngài đã chuẩn bị hành lý chưa ?”. Nhà vua trả lời : “Ta chưa chuẩn bị hành lý gì cả !”. Anh hề phá lên cười, trao cho vua chiếc gậy và nói: “Thế thì nhà vua là người khờ dại nhất. Vì đi xa mà chẳng chuẩn bị hành lý gì cả. Xin ngài hãy cầm lấy cây gậy này”.
Dù ngây ngô, anh hề cũng dạy cho nhà vua một bài học : không chuẩn bị hành trang cho cuộc đi xa là một điều khờ dại. Chúng ta có luôn tỉnh thức và sẵn sàng để chuẩn bị cho “cuộc đi xa” của chúng ta chưa ? Chúng ta có hân hoan chờ đón ngày giờ Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài không ?
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- Năm A
CẨN THẬN, SẴN SÀNG- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh cụ thể thường ngày để giúp cho người ta dễ hiểu về mầu nhiệm Nưới Trời. Nước Trời như hạt cải, Nước Trời như chuyện mở tiệc cưới. Và hôm nay Đức Giêsu nói, Nước Trời giống như chuyện mười cô trinh nữ trong đám rước dâu. Vậy chúng ta tự hỏi : Bài dụ ngôn hôm nay muốn nói gì? Và qua dụ ngôn ấy, Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta?
Đọc dụ ngôn này chúng ta thấy có điều không ổn, bởi vì chàng rể đến chậm, nên các cô phù dâu ngủ cả. Một điều khác nữa chúng ta thấy là chàng rể trong dụ ngôn đã không cư xử như những chàng rể thông thường. Đây là một chàng rể đặc biệt và một tiệc cưới cũng đặc biệt, bởi trong tiệc cưới đó, mọi người phải tuân giữ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường. Và điều khiến người ta thắc mắc và để ý hơn cả đó là đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới, chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu. Chỉ có mười cô cùng nhóm với nhau thôi mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn, cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy.
Năm cô có đèn nhưng lại hết dầu xin năm cô còn đèn thắp sáng, lại còn dầu dự trữ nữa, thế mà không san sẻ cho bạn. Không những thế, lại còn nói : “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến. Lúc có dầu có đèn thì chàng rể đã đến và cửa đã đóng. Các cô gõ cửa, chú rể đích thân ra, nhưng trả lời một cách khắc nghiệt : “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, “không biết”. Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo.
Chúng ta nên nhớ đây chỉ là một dụ ngôn thôi, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta một bài học là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Chàng rể đặc biệt đó chính là Chúa Giê-su, mười trinh nữ phụ dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người dại người khôn. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không. Chúng ta thấy mười trinh nữ phù dâu, các cô khôn, cô dại đều ngủ cả, chứ đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau, là ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó. Nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất nên ai khôn thì sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta.
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh thức, sẵn sàng và phải có đèn. Đèn ở đây là chính tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho ngọn lửa đời sống đạo đức của chúng ta luôn cháy sáng như ngọn lửa hồng đầy sức sống. Với dầu cầu nguyện và việc lành, chúng ta sẽ giữ đèn của chúng ta luôn cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa.
Chúng ta không biết ngày hay giờ nào Thiên Chúa đến, nên phải chuẩn bị để khi Người đến chúng ta có thể vào được Nước của Người. Tất cả những gì Chúa Giêsu nói trong bài dụ ngôn này được coi như là một lời cảnh báo yêu thương Chúa dành cho chúng ta, thức tỉnh tâm hồn ta sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào. Vì thế, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là chúng ta phải luôn sống tốt lành. Amen.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- Năm A
KÌA CHÀNG RỂ ĐẾN- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Kính thưa anh chị em
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là một trong những dụ ngôn quen thuộc trong Tin Mừng. Nếu chỉ nhìn dụ ngôn dưới con mắt của người Việt thì chúng ta thấy câu truyện xem ra có vẻ bày đặt, thiếu tự nhiên. Tuy nhiên nếu chúng ta đặt nó vào hoàn cảnh đất nước Do thái thì chúng ta sẽ thấy khác. Ở bên nước Do thái thì câu truyện này là một câu chuyện có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hôm nay cũng vẫn còn như vậy.
Tại vùng quê ở xứ Palestine thì đám cưới là một cơ hội rất trọng đại. Cả làng đi đưa đôi tân hôn về ngôi nhà mới của họ. Thường thì đôi tân hôn thích đi bằng con đường dài – càng dài càng tốt để họ có thể nhận được những lời chúc mừng vui vẻ của nhiều người. Và càng nhiều người chúc mừng thì càng vui, càng “hên”.
Hầu như mọi người trong làng từ sáu đến mười sáu tuổi đều tham dự. Họ đi theo tiếng trống cưới. Các Rabi còn cho phép mọi người gác lại việc học hỏi và nghiên cứu luật pháp để họ có giờ chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn.
Đây là phong tục của người Do thái. Nó khác xa với phong tục của chúng ta.
Tiến sĩ Alexander Findlay có lần đi du lịch tại xứ Palestine về, đã kể lại những điều ông đã được chứng kiến ở xứ Palestina cho những người nghe ông như sau: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Gallilê…tôi thấy mười cô gái được hướng dẫn bởi một đoàn thanh niên rất đông, vừa đi vừa vỗ tay và đánh đàn rất vui vẻ. Họ nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ:
– Các bạn đang làm gì vậy?
Người hướng dẫn trả lời:
– Chúng tôi đang ra nhập bọn với cô dâu để chờ chàng rể đến.
Tôi hỏi người đó xem tôi có thể quan sát đám cưới này được không thì người đó lắc đầu và sau đó người đó cắt nghĩa:
– Không thể được vì đám cuới có thể là tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc khi nào thì đám cưới cử hành.
Sau đó anh còn cho chúng tôi biết: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới thuộc giới trung lưu ở miền Palestine này là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ. Chính vì vậy mà chàng rể thường đến bất ngờ. Đôi khi vào lúc nửa đêm.
Rồi cũng theo tục lệ ở đây thì trước khi đến chàng rể phải cho một người đi phía trước để la lên: “Kìa chàng rể đang đến!”. Việc này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào nên nhà gái phải luôn sẵn sàng để đón chàng rể khi anh đến.
Một chi tiết khác cũng khá quan trọng là không ai được phép ở ngoài đường lúc trời đã tối ngoại trừ khi họ có đèn cầm ở tay và khi chàng rể đã đến – cửa đã đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Xét như thế thì dụ ngôn Chúa kể cũng không có gì là khác với thực tế là bao.
Bây giờ chúng ta tự hỏi Chúa muốn dạy gì khi đưa ra dụ ngôn này?
Chúng ta có thể trả lời: Cũng giống như những dụ ngôn khác, dụ ngôn này cũng bao hàm nhiều ý nghĩa.
* Đối với người Do Thái lúc đó thì ý nghĩa đã quá rõ. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Cả lịch sử của họ lý ra phải là một cuộc chuẩn bị sửa soạn cho việc đón nhận Đấng Cứu thế khi Ngài tới. Đáng lý ra thì phải là như thế. Nhưng họ đã không làm như vậy. Chính vì họ không chuẩn bị để đón tiếp Ngài cho nên họ đã bị bỏ ra ngoài. Đây là tấn thảm kịch về sự mất mát lớn lao mà người Do thái phải chịu. Chúa đã khôn khéo tế nhị cho họ thấy điều đó thế nhưng rồi mọi sự đâu cũng vào đó. Thật là xót xa cho Chúa và cũng xót xa cho cả dân tộc được Chúa yêu thương một cách đặc biệt này.
* Tuy nhiên câu truyện không phải chỉ dừng lại ở đây. Nó còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa hơn.
-Trước hết là bài học về bổn phận hằng ngày của mỗi người. Bổn phận đó đòi hỏi chúng ta phải chu toàn qua từng giây từng phút của cuộc đời chứ không phải là dành mãi đến phút chót mới làm.
Một học sinh đến ngày thi mới chuẩn bị thì quá trễ.
Nếu một người không chuẩn bị sẵn sàng về khả năng và phẩm cách để làm một công việc nào đó sẽ được trao phó thì khi công tác cần đến, người đó sẽ không còn thời giờ để chuẩn bị nữa.
Đối với Chúa, cũng vậy, nếu không có sự chuẩn bị sẵn sàng để gặp Chúa thì khi Ngài đến chúng ta khó mà kịp trở tay và hậu quả lúc đó như thế nào thì ai cũng biết.
Người biết chuẩn bị là người khôn. Người không biết dự phòng là người dại. Hậu quả của hai thái độ đó như thế nào thì chắc là ai cũng hiểu
-Đàng khác dụ ngôn cũng còn dạy chúng ta một chân lý nữa: Có những điều chúng ta không thể vay mượn được. Những cô trinh nữ dại khi khám phá ra đèn của mình hết dầu rồi mới đi cầu cứu thì lúc đó mới thấy được cả một thực tế phũ phàng.
Người ta chẳng có thể nào mà đi mượn được mối giây liên hệ với Chúa nếu chính họ không tự làm ra mối giây liên hệ đó.
Chúng ta cũng không thể vay muợn được nhân cách. Mỗi người phải có nhân cách riêng của mình.
Chúng ta không thể cứ sống nhờ mãi vào người khác. Đến một lúc nào đó thì chúng ta phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Đến lúc đó thì chúng ta không còn có thể cậy dựa vào bất cứ một ai hay bất cứ một quyền lực nào. Không có tiếng chuông báo tử nào nặng ký bằng tiếng chuông rung lên hai chữ “Quá muộn”.
-Và cuối cùng là sự khôn ngoan của cuộc sống. Người sống khôn là người biết sống luôn sẵn sàng như cuộc sống chỉ là bây giờ, chỉ là hôm nay. “Các chị ra hàng mà mua thì hơn, e không đủ cho các em và các chị”
Ma quỉ rất sợ những con người như thế. Bởi vì phần thắng đã nằm ở trong tay họ.
Một ngày kia quỉ vương hỏi các quỉ cố vấn:
– Làm thế nào để những người trên trần thế sa đọa và thua mình?
Các cố vấn đề nghị là nên phỉnh gạt người ta là không có Thiên Chúa hoặc không có sự trừng phạt gì ở đời này và đời sau. Quỉ vương suy nghĩ và chê các ý kiến đó là không hữu hiệu. Sau đó một hồi lâu, một quỉ nhỏ lại lên tiếng đề nghị: “Xin Ngài hãy nói với họ là ngày giờ còn rộng, còn dài, hãy thư thả rồi sẽ tính”
Vua quỉ vội đứng dậy vỗ tay khen hay:
– Đúng, mày nói đúng, chỉ có cách này mới làm cho con người an tâm mà xa thần thánh và không sợ trừng phạt. Bấy giờ ta sẽ mặc sức xúi dục chúng sa đọa theo ý của ta.
Các tôn giáo đã cống hiến cho chúng ta câu châm ngôn: “Hãy sống ngày hôm nay như ngày cuối cùng của đời mình để chúng ta trở về cõi thực, canh tân nếp sống.
Mẹ Têrêxa có lần đã phát biểu:
“Tôi dâng lễ này như là lễ đầu tiên, như là lễ cuối cùng và như là lễ độc nhất cuộc đời của tôi”
Nói một cách khác biết sống từng giây phút của hiện tại của đời mình một cách đầy đủ ý nghĩa – đó là cách chuẩn bị tốt nhất cho mọi tình huống có thể bất chợt xẩy ra. Đó là cách giữ cho chiếc đèn đức tin của chúng ta lúc nào cũng có dầu và không bao giờ sợ bị tắt.Amen.