CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973. 1
CÁC KINH SƯ VÀ NGƯỜI PHARISIÊU GIẢ HÌNH- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long,OFM… 7
TƯ CÁCH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 14
KHUYẾN CÁO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM HƯỚNG DẪN NGƯỜI KHÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 21
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 27
TINH THẦN NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Gioan Trần Khả. 30
ĐỂ TRỞ NÊN NGƯỜI CAO CẢ– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 33
SỐNG CHÂN THÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 36
AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC NÂNG LÊN – Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 39
CON ĐƯỜNG PHỤC VỤ- Trích Logos A.. 42
HƯỚNG ĐẾN SỰ THẬT- Lm Gioan Nguyễn Cao Luật OP.. 46
BIỆT PHÁI GIẢ HÌNH- Radio Veritas Asia. 49
ĐỪNG SỐNG GIẢ DỐI KIỂU BIỆT PHÁI! – Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP. 51
NGÔN HÀNH NHƯ NHẤT – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 53
LỜI NÓI VÀ HÀNH ĐỘNG – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn. 56
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Ml 1, 14b – 2, 2b. 8-10
“Các ngươi đã đi sai đường lối, và làm cho nhiều người vấp phạm lề luật”.
Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. [Ta sẽ làm cho các ngươi phải túng thiếu.]
{Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi.}
Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Bởi thế, Ta để cho các ngươi bị khinh rẻ và đốn mạt trước mọi dân tộc, vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta, và vị nể trong khi thi hành lề luật. Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?
Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.
Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. – Ðáp.
2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. – Ðáp.
3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. – Ðáp.
“Chúng tôi muốn trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn mạng sống chúng tôi nữa”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi. Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.
Alleluia, alleluia! – Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. – Alleluia.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “Thầy”. Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
“Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
NÓI MÀ KHÔNG LÀM– Chú giải của Noel Quession
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ…
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức… và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên “thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy”. Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. ” Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ dãi: “Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những người khác… đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ “thực hành” quá nhiều nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”.
Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu” thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.
Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này… không làm điều kia…), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là “cha”! Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng “chỉ có” Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.
Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là “thầy”, bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị “Lãnh đạo” duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
CÁC KINH SƯ VÀ NGƯỜI PHARISIÊU GIẢ HÌNH- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long,OFM
Ngữ cảnh
Trước chương 23, tác giả Mt đã cho một cái nhìn chung trên hoạt động thiên sai của Đức Giêsu ở Giêrusalem, và chính xác hơn, trong Đền Thờ. Người chủ yếu thi hành sứ vụ Lời, nghĩa là giảng dạy (21,23) hoặc giáo huấn (22,33). Một khi đã làm chủ và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người lên tiếng ở đó với uy quyền. Cử tọa của Người chia thành ba khối: các môn đệ vây quanh Người và làm thành một cộng đoàn rất thống nhất; các đối thủ của Người, đang âm mưu chống lại Người; các đám đông, còn hăng hái (22,33), vẫn bảo vệ Người khỏi các đối thủ (21,46).
Đoạn văn của chúng ta thuộc về phần đầu của một khối chiếm trọn ch. 23, gồm các lời Đức Giêsu nói. Có những tác giả gọi chương này là “Diễn từ chống Pharisêu”. Phần hai là cốt lõi của chương, với giọng điệu trách móc của các ngôn sứ: Đức Giêsu tuyên bố 7 lời nguyền rủa mạnh mẽ chống các kinh sư và người Pharisêu (cc. 13-36), còn phần một, mang tính giảng dạy và khuyến thiện, được ngỏ với các đám đông và các môn đệ (cc. 2-12). Cuối cùng, trong phần ba, Đức Giêsu kiếu từ dân chúng với những lời lẽ than thở về số phận của Giêrusalem (cc. 37-39). Các lời này chuyển tiếp sang “Diễn từ cánh chung” (ch. 24-25). Nhưng toàn khối 23,1-25,46 là một bài diễn từ thống nhất, và là bài diễn từ cuối cùng (thứ năm) của Tin Mừng Mt.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần, với câu mở cho toàn chương 23:
– Mở cho toàn chương (23,1);
– Hai phần song đối (23,2-12):
- a) Nói về các kinh sư và người Pharisêu (cc. 2-7),
- b) Nói với các đám đông và môn đệ (cc. (7b) 8-12).
Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ (1): Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với người Pharisêu nhưng với đám đông và các môn đệ. Điều này có nghĩa là Người không tấn công trực tiếp giáo thuyết Pharisêu; đúng ra Người đứng giữa dân chúng và các thủ lãnh của truyền thống để giải thoát dân khỏi cái ách luật lệ mà các thủ lãnh đã đặt lên vai họ, mà họ gánh không nổi. Có lẽ việc phản kháng tổng quát này, chứ không phải phản kháng trên những điểm chi tiết nào đó của giáo thuyết, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chết. Bởi vì dưới mắt các thủ lãnh, Đức Giêsu không chỉ là một tên lạc giáo nguy hiểm hoặc một tay kết tạo phe đảng chỉ biết khinh bỉ các đám đông hay dân chúng, mà là một đối thủ trực tiếp đấu tranh cho toàn thể dân Thiên Chúa.
– tòa ông Môsê (2): “Tòa” là danh từ chỉ đồ vật (ghế của thầy dạy) được dùng theo kiểu hoán dụ để nói về một “chức năng giảng dạy”. Trong các hội đường, đây là chiếc ghế bằng cẩm thạch đặt bên cạnh bàn thờ Tôrah, một người có học thức sẽ ngồi đó mà giảng dạy dân chúng. Không có chỗ nào trong truyền thống gọi chiếc ghế này là “tòa ông Môsê” cả. Nếu có kiểu gọi đó, hẳn là vì truyền thống Do Thái coi Môsê là một vị Thầy (x. Ga 9,28) đã được Thiên Chúa đặt tòa trên núi Sinai; uy quyền này được ban xuống cho các kinh sư qua các vị kỳ mục và ngôn sứ. Như thế, “ngồi trên tòa ông Môsê” có nghĩa là tiếp nối chức năng làm thầy của Môsê: giải thích, áp dụng bằng cách triển khai Luật Môsê, nhưng cũng có nghĩa là các kinh sư chiếm cho mình quyền giảng dạy trong các hội đường.
– hành động (3): Đây là toàn thể lối sống và cư xử của người Pharisêu. Các kinh sư và Pharisêu lẽ ra phải là gương mẫu cho đoàn chiên của họ, nhưng lại không phải thế. Dĩ nhiên đây là một bản phác họa tập thể, chứ không có tính cá nhân, bởi vì trong lịch sử Do Thái giáo, có nhiều kinh sư rất đáng kính.
– những gánh nặng (4): “Gánh nặng” đây đối lại với “gánh nhẹ” của vị Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường (11,30). Đây là những bó buộc về lương tâm mà các kinh sư áp đặt cho dân chúng do những giải thích Kinh Thánh của họ, rất có thể đây là “các truyền thống của tiền nhân” (15,2-11), hoặc “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật” mà họ bỏ qua (23,23). Thật ra, Tin Mừng không tấn công tính nghiêm khắc của kỷ luật, nhưng là tính giả hình của các vị thầy khiến họ xác định một mức độ dễ chịu cho họ và một mức độ đòi hỏi cho người khác. Đức Giêsu không tố giác sự bất lực hay sự yếu đuối của người Pharisêu, nhưng tố giác “ý muốn xấu” của họ (“họ không buồn [= muốn]”).
– lay (4): Động từ kineô có hai nghĩa: (1) cất đi, dời đi; (2) gánh vác. Theo nghĩa thứ nhất, các kinh sư và người Pharisêu không giúp dân chúng cất đi những gánh nặng mà họ đã đặt trên dân. Theo nghĩa thứ hai, họ đặt những gánh nặng trên những người khác, mà chính họ không muốn gánh vác. Nghĩa thứ hai phù hợp hơn.
– hộp kinh (phylaktêria, 5): Đây là những hộp vuông nhỏ bằng da bê đen chứa những giải giấy da bê trên đó có chép bốn bản văn Kinh Thánh: Đnl 11,13-22; 6,4-9; Xh 13,11-16; 13,2-10. Hộp kinh rất được tôn kính vì nói lên lý tưởng: thường xuyên ghi nhớ Lề Luật Thiên Chúa và cam kết thi hành. Khi được 13 tuổi, người nam Israel đeo một hộp ở trên đầu và một hộp trên cánh tay trái, buổi sáng những ngày thường (làm việc), vào giờ cầu nguyện, và đọc lời chúc tụng sau: “Chúc tụng Ngài, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã thánh hóa chúng con bằng các giới răn của Ngài và đã truyền chúng con đeo các hộp kinh”. Bản văn chúng ta nói đến một tập tục của những người Do Thái mộ đạo, họ đeo các hộp kinh và học tập Kinh Thánh suốt ngày, và nới rộng các giải vải để cho mọi người thấy. Đức Giêsu không trách họ đã đeo các hộp kinh, nhưng trách họ đã đeo để khoe khoang.
– tua áo (5): Về các tua áo (kraspeda) cũng vậy: đấy là những núm tua bằng len hoặc lụa mà luật dạy (x. Ds 15,37-39) đeo ở bốn góc áo choàng, như một lời thường xuyên nhắc nhớ đến các giới răn của Chúa phải thi hành. Người Pharisêu nối dài các tua này vì khoe khoang.
– ghế đầu trong hội đường (6): Các ghế này quay lưng lại với hòm bia Luật và đối diện với công chúng.
– ưa được chào hỏi (7): Quy luật truyền thống kinh sư buộc “một người phải chào người thông hiểu Luật hơn mình”. Do đó, “thích được chào hỏi” có nghĩa là thích được, hoặc thích được nhìn nhận là ở trên kẻ khác.
– ráp-bi (rabbi) (7): Vào thời Đức Giêsu, từ Híp-ri Rab (to lớn) có nghĩa là “chúa”, và rabbi là “chúa của tôi”. Nhưng dần dần rabbi chỉ còn nghĩa là “chúa, ngài”, rồi đến cuối tk I, chỉ một phận vụ (giống như “tiến sĩ, thầy”), và được dùng để gọi các vị thầy tôn giáo và các chuyên viên nổi tiếng nhất về Luật.
– Phần anh em (8): Có lẽ đây là các môn đệ (x. c. 1) và qua họ, là các vị điều hành các cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu dạy họ đừng ước ao làm thầy, đừng tự tôn là thầy, vì “anh em chỉ có một Thầy”. Dựa theo lối hành văn song đối với c. 10 và ngữ cảnh tổng quát của Tân Ước (x. Ga 13,13-14), vị Thầy duy nhất này chỉ có thể là Đức Kitô.
– đừng gọi ai dưới đất này là cha (9): Đức Giêsu dường như cũng không đồng ý để người ta dùng danh xưng Abba mà gọi một số vị lãnh đạo cộng đoàn, vẫn theo nghĩa danh dự và xã hội như danh xưng Rabbi. Chắc chắn Người không nhắm người cha gia đình theo nghĩa đen (x. Mt 15,4-6; 19,19). Người cũng chẳng đứng lên để chống lại truyền thống cổ xưa, theo đó giữa thầy và trò phải có một quan hệ tương tự quan hệ giữa cha và con, đến độ họ có thể gọi nhau là “cha” và “con” (x. 2 V 2,12; 1 Cr 4,14-17; 1 Pr 5,13). Đức Giêsu muốn nhấn mạnh không phải trên việc phủ nhận mọi quyền bính trong Giáo Hội cho bằng trên mối nguy hiểm là tạo ra những nhân vật vĩ đại tước đoạt mất danh dự phải dành cho Thiên Chúa và Đức Kitô. Một Kitô hữu chỉ có thể coi một con người là thầy, cha, thủ lãnh, mục tử, … trong mức độ người ấy là như thế nhờ thông dự vào tư cách của vị Thầy, Người Cha, vị Thủ lãnh, vị Mục tử đích thật.
– ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (12): Ý tưởng hạ mình đây phải được giải thích theo chiều hướng của việc phục vụ trong câu trước. Vậy đây không phải là một thị hiếu tự nhiên thiên về chỗ xóa mình đi hoặc tỏ ra anh hùng trong việc phủ nhận chính mình, hoặc tỏ ra khiêm nhường đến độ như tê liệt. Theo nghĩa của Tin Mừng, không ai năng nổ và hạnh phúc cho bằng người phục vụ. Các công thức của c. 12 ở thể bị động thay tên Thiên Chúa: Thiên Chúa sẽ hạ xuống hoặc nâng lên. Vạy đây không phải là một quy luật tâm lý hoặc xã hội theo đó số phận may rủi của con người sẽ thay đổi.
Ý nghĩa của bản văn
Là những người đã nghe Đức Giêsu lâu nay, bây giờ dân chúng và các môn đệ lại được kể ra như là những thính giả của Người. Các đám đông đã tỏ ra thân thiện với Đức Giêsu (21,46; 22,33) chính là dân Israel, lâu nay vẫn chưa rời xa Người. Các môn đệ và dân chính là những dung mạo mà độc giả Tin Mừng có thể coi như là chính mình. Rõ ràng người Pharisêu không được kể ra như là thính giả của Đức Giêsu cho dù họ có mặt ở 22,15.34.41 và ở 23,13-33, họ được Đức Giêsu ngỏ lời trực tiếp với.
* Nói về các kinh sư và người Pharisêu (2-7)
Qua c. 2, tác giả Mt giới thiệu các kinh sư và người Pharisêu như là một đơn vị những đối thủ của Đức Giêsu: Họ là những người “ngồi trên tòa ông Môsê”. Khi nói về “tòa ông Môsê”, Đức Giêsu nói lên quyền giảng dạy của người Pharisêu không hề có ý châm biếm, nhưng cũng là nhắc lại một trách nhiệm và sau đó trách tình trạng bất xứng. Đọc TM Mt, chúng ta thấy Đức Giêsu không hủy bỏ quyền làm thầy của họ, nhưng đồng thời cũng không công nhận toàn bộ giáo huấn của họ (x. Mt 12,1-13; 15,1-20). Đức Giêsu đánh giá cung cách của họ bằng hai phân đoạn, mỗi phân đoạn bắt đầu với từ ngữ panta, “tất cả” (cc. 3-4 và cc. 5-7).
Lời đầu tiên Đức Giêsu kết tội các đối thủ là sự bất nhất, nói mà không làm (cc. 3-4): giáo huấn của họ có giá trị, theo hai nghĩa: các kinh sư là những vị thầy được tuyển chọn chính thức cho dân chúng; đàng khác, những điều họ dạy không phải là sai. Đáng trách là họ không trung thành thực hiện. “Vậy (oun), tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ” (c. 3a). Chính câu này gây ngạc nhiên. Đức Giêsu của TM Mt đã lên tiếng chống lại giáo huấn của người Pharisêu dù họ dựa trên “truyền thống của tiền nhân” (15,1-9), Người đã loại bỏ cách họ giải thích luật về trong sạch, và đã gọi họ là mù dắt mù (15,10-14). Chính tác giả Mt cũng cảnh giác đối với giáo huấn của người Xađốc và Pharisêu (16,12). Trong những câu sắp tới (22,8-10), ngài sẽ nói về Đức Giêsu như là vị thầy duy nhất và lại gọi các kinh sư và người Pharisêu là những kẻ dẫn đường mù quáng vì họ dạy những chuyện phi lý (cc. 16-22). Thế thì tại sao ngài là ghi rằng Đức Giêsu truyền cho các thính giả phải làm tất cả những gì các kinh sư và người Pharisêu nói?
Khó mà có thể cho rằng tác giả lại kêu gọi giáo đoàn của ngài vâng theo tất cả các giáo huấn của các kinh sư và người Pharisêu. Ngài chỉ quan tâm đến phần thứ hai của câu nói của Đức Giêsu: “còn (nhưng = de) những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (c. 3b). Câu 3b này sẽ được khai triển trong cc. 4-7. Câu này tương ứng với một trong những quan niệm thần học căn bản của Mt: các hành vi, thay vì giáo lý, mới quan trọng (x. 7,21-23). Trong tương lai, Con Người sẽ chỉ xét xử trên các hành vi (x. 16,27; 25,31-46). Câu 3a chỉ là một chuẩn bị bằng tương phản mang tính tu từ cho “nhưng” ở c. 3b. Qua c. 3, Đức Giêsu muốn nói như sau: Thôi thì nói cho cùng (oun), anh em có thể làm tất cả những gì các kinh sư và người Pharisêu nói; chuyện đó không đến nỗi nào. Tuy nhiên (de), điều chính yếu là anh em không làm những gì họ làm.
Câu 4 minh họa tình trạng không nhất quán giữa giáo thuyết và hành vi. Ngược lại với Đức Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (11,29), các kinh sư và người Pharisêu “không muốn tra ngón tay lay thử (gánh nặng)”. Họ không muốn gánh vác những gánh nặng, cho dù họ yêu cầu những người khác làm. Như thế, hình ảnh có nghĩa là chính họ không muốn làm những gì họ nói.
Điểm thứ hai Đức Giêsu kết án là khuynh hướng quy ngã của họ (cc. 5-7): họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Điểm 5a này khiến độc giả nhớ đến 6,1-18. Tác giả trưng ra nhiều ví dụ cụ thể ở c. 5b để yểm trợ cho lời kết án tổng quát ở c. 5a. Ví dụ thứ nhất là họ “đeo những hộp kinh (phylaktêria) thật lớn”. Ví dụ thứ hai là “mang những tua áo (kraspeda) thật dài” để khoe khoang. Những ví dụ tiếp theo cũng theo hướng đó: ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi và được gọi là “rabbi”.
Tham vọng, tính ham thích những vinh dự, đó là những đặc điểm của một tâm trí thích thống trị, muốn có quyền bính tách khỏi nguồn là Thiên Chúa.
* Nói với các đám đông và môn đệ ([7b] 8-12)
Câu 7b dẫn sang phân đoạn thứ hai. Khi chỉ trích các tật xấu của giới lãnh đạo Do Thái giáo, Đức Giêsu cũng muốn lưu ý Giáo Hội coi chừng kẻo bị lây nhiễm: giữ đạo rất chính thống nhưng không có sức sống, vụ hình thức, giáo sĩ trị. Giáo Hội chỉ có thể thoát được các tật xấu đó nếu luôn nhớ rằng mình chỉ là “nữ tỳ của Đức Chúa” (Lc 1,38), luôn tùng phục vị Chúa tể duy nhất này, không chia sẻ (x. Mt 6,24). Nói có vẻ nghịch lý: quyền bính đích thực của Giáo Hội chỉ đến với Giáo Hội khi Giáo Hội biết hạ mình xuống theo gương Đức Kitô, là Đấng lớn nhất mà đã sẵn sàng làm người nhỏ nhất, là Đấng làm đầu mà đã sẵn sàng làm tôi tớ phục vụ mọi người (x. Mt 20,26-27).
Tác giả kết luận phân đoạn bằng một lời của Đức Giêsu, mà rõ ràng được biết nhiều: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 12). Câu này nhắc các độc giả nhớ đến moat điều rất quen thuộc trong Kinh Thánh: Thiên Chúa sẽ thực hiện sự đảo lộn hoàn toàn mọi uy quyền nhân loại và tương quan quyền bính khi đến ngày phán xét và khi Nước của Người ngự đến. Độc giả được hướng đến Mt 24–25.
+ Kết luận
Tác giả TM I đang đối chiếu hai hình ảnh Hội Thánh, một Hội Thánh kiểu Pharisêu, huênh hoang, chuộng bề ngoài mà rỗng tuếch, có các thủ lãnh là những người ham thích danh vọng và quyền lực, ràng buộc những người dưới quyền bằng những luật lệ chi li, phức tạp, không sao giữ nổi; bên kia là Hội Thánh Kitô giáo gồm những bằng hữu, những anh em bình quyền. Hội Thánh thứ hai này không phải là không có đầu hoặc kiểu vô chính phủ, bởi vì được Đức Kitô và Thiên Chúa trực tiếp hướng dẫn. Còn những ai có các nhiệm vụ thì được kêu gọi làm chứng bằng việc làm hơn là bằng lời nói (x. c. 3), về sự hiện diện vô hình của Cha chung chứ không thay thế Người, bởi vì Người không vắng mặt và không thể vắng mặt.
Gợi ý suy niệm
-Chúng ta cảm thấy thế nào khi nghe lời Đức Giêsu chỉ trích người Pharisêu? Chúng ta cảm thấy thoả mãn, vì nghĩ rằng các lời ấy được áp dụng cho những người Pharisêu hiện đại mà chúng ta biết rõ? Nhưng đấy lại không phải là một thái độ kẻ cả như muốn nói: nhờ ơn Chúa, tôi không ở trong nhóm ấy? Nếu khi ra khỏi nhà thờ, chúng ta thầm vui sướng vì không phải là người Pharisêu, thì đấy là một dấu chỉ rất xấu. Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu biết rõ lòng dạ của mình rất yếu đuối và thiên về tội lỗi, biết rằng mình mang trong lòng tất cả cội rễ của người Pharisêu. Do đó, bổn phận đầu tiên của người ấy là xét mình thay vì tự hỏi ai là những người Pharisêu trong xứ đạo.
-Danh thơm tiếng tốt là một điều tốt, nhưng quá lo lắng để có được tiếng tốt thì là một điều xấu. Cha mẹ đòi hỏi con cái vâng lời mình là điều tốt nếu đòi hỏi ấy đi đôi với tinh thần dịu dàng và bác ái, và sẽ là điều xấu nếu đấy chỉ là một cái cớ để khẳng định bản thân và chứng tỏ quyền thống trị của mình.
-Chúng ta sẽ cứ phải đấu tranh chống lại cám dỗ muốn thống trị, muốn đè bẹp kẻ khác, chống lại cám dỗ muốn tỏ ra là mình quan trọng. Khiêm nhường phục vụ không phải là loại bỏ các khả năng tự nhiên, cũng không phải là từ chối hành động cho có hiệu năng; đấy là một não trạng, một xác tín rằng mình chỉ là một dụng cụ cần ngoan ngoãn để Chúa Thánh Thần thổi đi.
-Có một tiêu chuẩn giúp chúng ta biết chúng ta có trung thành với các lời khuyên nhủ của Đức Giêsu là hãy sống khiêm nhường không. Đó là: “Hãy làm, hãy giữ những gì họ nói”; chúng ta có thể diễn ra là: “Hãy có lòng khao khát chân lý và công lý để biết nhận ra điều thiện dù nó xuất hiện từ nơi nào”. Người Kitô hữu khiêm nhường không từ khước những lời hay ý đẹp của một người viện cớ là người ấy không sống phù hợp với lời người ấy nói, là người ấy giả hình hoặc khoe khoang. Chúa có thể dùng người ấy để giúp chúng ta nên khá hơn.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
TƯ CÁCH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Người ta thường nói :”Tốt danh hơn lành áo”(Tục ngữ) hay “Hổ tử lưu bì”(Hổ chết để da), tất cả đều nói lên chân lý này : trên đời ai cũng muốn có danh thơm tiếng tốt, ngay cả sau khi chết. Danh thơm tiếng tốt phải phát xuất tự con người, cả trong lẫn ngoài, chứ không phải chỉ có cái mẽ bề ngoài, nhất là cái bề ngoài giả dối.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình : có thì nói có, không thì nói không. Đừng đưa cái giả dối bề ngoài mà loè mắt thiên hạ. Chúa dạy các môn đệ hãy nghe và thực hiện những lời dạy dỗ của luật sĩ và biệt phái dạy vì họ được trao ban quyền giáo huấn ; nhưng Chúa cảnh giác mọi người : đừng bắt chước việc họ làm vì những việc làm của họ chỉ có tính cách khoe khoang, muốn cho người ta biết tới để ca ngợi họ.
Còn chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình để lúc nào ngôn hành cũng đồng nhất, không cần sống kiểu cách như nhiều người chủ trương : “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại”(Tục ngữ). Tốt nhất trong mọi trường hợp hãy cố ở khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt người ta, vì Chúa đã phán :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Mt 23,12).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Ml 1,14 – 2,2.8-10.
Sau khi dân Do thái được vua Cyrô cho hồi hương, đền thờ được xây dựng lại, việc thờ phượng Chúa phát triển rầm rộ. Nhưng với thời gian, đà tiến của những ngày đầu tiên dừng lại . Từ đó, việc thờ phượng dần dần xuống cấp, các tệ nạn phát sinh như dung túng cho việc ly dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân ; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Tiên tri Malakia xuất hiện vào thế kỷ V trước công nguyên tuyên sấm lời Chúa. Tiên tri qui trách nhiệm về các nhà lãnh đạo tôn giáo về sự xuống cấp trầm trọng ấy, đặc biệt là các tư tế : họ làm nhiệm vụ một cách chểnh mảng, chỉ lo tìm lợi riêng. Thiên Chúa dùng tiên tri Malakia nhắc nhở về cung cách lãnh đạo : làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với Giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
+ Bài đọc 2 : 1Tx 2,7-9 . 13.
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Thessalonica vềø cách hành xử của Ngài đối với họ :Yêu thương săn sóc họ như người vú nuôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu cả mạng sống của Ngài. Khỏi làm phiền lòng họ trong việc nuôi ăn, Ngài đã muốn tự túc bằng một nghề lao động chân tay. Ngài vui mừng khi thấy họ đón nhận Tin mừng do Ngài giảng dạy như chính Lời Chúa.
+ Bài Tin mừng : Mt 23,1-12.
Các nhà lãnh đạo của dân Do thái, đặc biệt là luật sĩ và biệt phái là những “rabbi”, bậc thầy của dân, có nhiệm vụ dạy dỗ. Nhưng lời nói và việc làm của họ không am hợp nhau, chức vụ và cách sống của họ không tương xứng. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ cũng là cho chúng ta. :
- a) Phải tôn trọng chức vụ của họ vì họ ngồi “trên toà Maisen” mà giảng dạy. Hãy làm theo những gì họ dạy.
- b) Nhưng đừng bắt chước việc họ làm vì họ là người kiêu căng, cứng cỏi, hám danh, thích chỉ tay năm ngón.
- c) Ngược lại, Chúa đòi ở các môn đệ phải có thái độ khác : phải thành thực, thẳng thắn, khiêm nhường và phục vụ.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai tự nâng mình lên.
NHỮNG NGƯỜI LUẬT SĨ VÀ BIỆT PHÁI.
Bất kỳ ai cũng tỏ ra khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của một người nào đó. Chúa Giêsu cũng cảm thấy như vậy, đặc biệt đối với những luật sĩ và biệt phái. Chúng ta thử xem họ sống như thế nào mà trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta đừng theo gương họ.
Địa vị của họ trong xã hội.
Họ là những người được “ngồi tòa Maisen”, nghĩa là những người kế vị Maisen, có quyền chính thức giải thích luật Maisen. Chúa Giêsu công nhận các luật sĩ và biệt phái có quyền chính thức. Vì thế, dân chúng và các môn đệ phải lắng nghe và tuân giữ những lời họ nói vì đây là tiếng nói của Thiên Chúa. Mọi người phải tôn trọng họ vì họ là những bậc thầy, những người được chính thức giảng dạy.
Những nết xấu của họ.
Nết xấu triền miên của luật sĩ và biệt phái là giả hình giả bộ, giả nhân giả nghĩa. Trong lòng và bộ điệu bên ngoài khác hẳn nhau. Họ chỉ là những người diễn kịch, cách sống của họ chỉ có bề ngoài, chứ không có bề trong. Họ thuộc vào hạng người :
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.(Truyện Kiều)
Dựa vào Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể vạch ra một số nết xấu nổi bật của họ :
Hám danh cầu lợi.
Mọi công việc họ làm đều có tính cách cầu lợi, muốn cho mọi người chú ý đến mình, ca ngợi mình , cho nên họ mới :
Nới rộng thẻ kinh :
Thẻ kinh đây là tấm da mỏng, trên có viết 4 đoạn Kinh thánh quan trọng (Xh 13,1-10 ; 13,11-16 ; Đnl 6,4-9 ; 11,13-21) Thể kinh có mục đích rất tốt là nhắc nhở người ta luôn nhớ đến luật Chúa. Người Do thái thường đeo thẻ này mỗi khi đọc kinh cầu nguyện ; các luật sĩ và biệt phái đeo những thẻ này dài hơn, rộng hơn và nết chữ đậm mầu hơn để người ta chú ý và cho mình là đạo đức.
May dài tua áo :
Áo khoác ngoài của người Do thái giống như tấm khăn mỏng, 4 đầu dính tua bằng len làm giải buộc, có mầu tím tượng trưng trời, mục đich nhắc nhở người ta nhớ đến các giới răn (Ds 15,38-40 ; Đnl 22,12). Chính Chúa Giêsu cũng mang tua áo (Mt 14,36, Mc 6,56 ; Lc 8,44).
Các người Do thái đều mang tua áo, nhưng các luật sĩ và biệt phái thì tăng kích thước quá đáng để có ý khoe mình sốt sắng đạo đức hơn người.
Ưa được tôn trọng và ưu đãi.
Luật sĩ và biệt phái muốn được người ta tôn trọng và biệt đãi nơi công cộng, nhất là trong đám tiệc và nơi hội đường.
Nơi đám tiệc và hội đường :
Theo phong tục , người Do thái xếp chỗ theo tuổi tác và chức vụ hay tài trí, cũng giống như ở Việt nam chúng ta. Tuổi tác và chức vụ là cái dễ nhận ra, nhưng còn tài trí và khôn ngoan thì khó nhận ra. Các luật sĩ và biệt phái muốn tỏ ra là mình tài trí khôn ngoan, nên thường chọn những chỗ cao nhất.
* Nơi phố xá :
Người Do thái có thói quen chào người trên mình trước theo tuổi tác hay chức vụ của họ. Các luật sĩ và biệt phái ưa được bái chào nơi phố xá và còn thích được xưng hô là “Thầy” (x. Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng CN, A, tr 319-320).
Họ nói mà không làm.
Các luật sĩ và biệt phái phải dạy dỗ và đòi hỏi người ta giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc. Họ chất những gánh nặng của lề luật trên vai người dân mà họ không động tay đến. Họ nói mà không làm. Họ là những người ngôn hành bất nhất, họ thuộc hạng người :”Mồm miệng đỡ chân tay”.
Chúa Giêsu nhắc nhở.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận những người luật sĩ và biệt phái có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng. Do đó, khi họ thi hành nhiệm vụ nhân danh Chúa thì phải nghe và thi hành những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại bảo đừng bắt chước hay noi theo những việc họ làm ? Phải chăng họ đã làm những điều bất chính ? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng ra gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
TÂM LÝ CỦA NGƯỜI TỰ NÂNG MÌNH LÊN.
Những người tự nâng mình lên là những người kiêu ngạo. Họ ham danh vọng, ham tiếng khen, thích được tỏ vinh quang ra cho người ta thấy, nhưng đấy chỉ là vinh quang ảo, không có thật. Tất cả là do trí tưởng tượng của họ bầy ra và tự gán cho mình vinh dự ấy. Cái uy tín không phải mình tự tạo ra và gán cho mình nhưng phải do người khác tặng cho mình qua nhận xét của người ta.
Những luật sĩ và biệt phái muốn cho người ta chào mình với danh hiệu “Thầy”. Tước hiệu Thầy để gọi các luật sĩ và biệt phái kể ra thì mới lắm, bắt đầu từ ông Simon con ông Hittel, ông giáo huấn đời Hêrôđê cựu nhân.
Từ câu 8 -12 nói riêng với các tông đồ, Chúa Giêsu khuyên giữ đức khiêm nhường. Chúa không bài trừ khỏi Giáo hội tất cả những tước hiệu đáng kính. Trong một xã hột trật tự tất nhiên phải có. Song đòi hỏi cho được và giận hờn khi không được lại là một chuyện khác. Chính những luật sĩ và biệt phái đã muốn, đã ước ao được cái danh dự hão mình không đáng được ấy.
Truyện : Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.(Báo Cg và Dt, Giáng sinh 1995, tr 281)
BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
Nội thánh ngoại vương.
Suy nghĩ về bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải tự hỏi mình : đời sống chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không ? Ngôn hành của chúng ta đồng nhất hay bất nhất ? Chúng ta hãy nhớ : chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người nọ, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không ? Không. Có ngày mọi sự kín đáo sẽ bị phơi ra ánh sáng, lúc đó mới “cháy nhà ra mặt chuột”. Phải cố sống sao cho trung thực trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt mọi người.
Truyện : Hai người bộ hành.
Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng :”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ”.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên :
– Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên :
– Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Câu truyện trên đây cho chúng ta hiểu rằng bản chất của người Kitô không hệ tại những tô điểm bên ngoài. Chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Cây Thánh giá mang vào cổ cũng chẳng thể biến ngay một người trở thành Kitô hữu được.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay đòi hỏi chúng ta phải lo sao cho đời Kitô hữu của mình có được sự thống nhất trong ngoài… Nhất là giữa niềm tin và cuộc sống có sự ăn khớp với nhau. Bởi vì nếu không như thế chúng ta sẽ chẳng khác nào mồ quét vôi và thành trò hề cho thiên hạ mà thôi.
Ngày xưa, vua Thành Thang và vua Thương được người đời gọi là “thánh vương” vì các vị đó có một đời sống tốt lành gương mẫu, trong ngoài ăn khớp với nhau. Chính vì thế, người Á đông lấy câu nói của Vương dương Minh làm châm ngôn cho cuộc sống của mình hằng ngày :”Nội thánh ngoại vương” : bên trong là một vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
Hãy hạ mình xuống.
Người đời ai cũng có tham sân si, ai cũng muốn cho mình vượt trên các người khác, nhất là những người lãnh đạo. Có những người kiêu căng đã tự tôn mình lên làm chúa tể như bao nhiêu bạo chúa : Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên phương Đông. Nabuchodonosor, César, Néron bên phương Tây. luật sĩ , biệt phái và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ ; họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy xác chết thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên tòa Maisen…” Họ làm như thế cốt làm cho người ta thấy.
Chúa khuyên mọi người hãy biết tự hạ, nhất là các cấp lãnh đạo. Trong bài đọc I hôm nay Thiên Chúa đã dùng tiên tri Malakia mà khiển trách họ. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn đưa ra một mô hình người lãnh đạo gương mẫu theo Tin mừng : như Mt 20,24-28 ; Ga 13,1-20vv…
* Tấm lòng của người lãnh đạo : yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
* Phương châm của người lãnh đạo : tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ được mình hướng dẫn.
* Cung cách của người lãnh đạo : hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
Truyện : Đức Giáo hòang Gioan 23
Đức Gioan 23 đã kể lại kinh nghiệm của Ngài như sau :
“Khi tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo tôi :”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng”. Tôi đã áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng”.
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.(Thiên Phúc, Tất cả là hồng ân, tr 12)
“Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm nhường, vì người khiêm nhường nhận biết sự thật. Mà Chúa là sự thật, nên Chúa không chấp nhận sự lừa dối. Xin cho con luôn biết sự thật về con chính là lúc thụ tạo yếu hèn và bất toàn. Xin cho con luôn ý thức rằng tất cả những gì con có, từ tiền bạc của cải vật chất, cho đến những tài năng của trí tuệ, tất cả đều thuộc về Chúa. Và xin cho con luôn biết quảng đại để trao lại cho những ai cần đến con. Vì con biết rằng Chúa sẽ thương yêu con nhiều hơn”. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
KHUYẾN CÁO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM HƯỚNG DẪN NGƯỜI KHÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ : Hôm nay, cả bài đọc II cũng minh họa cho chủ đề chung của bài đọc I và Bài Tin Mừng : cung cách phải có của những người lãnh trách nhiệm hướng dẫn người khác.
– Bài đọc I : Ngôn sứ Malakhi trách các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái đã đi sai đường lối Chúa.
– Tin Mừng : Đức Giêsu dạy các môn đệ mình đừng rơi vào thói xấu của các luật sĩ và biệt phái.
– Bài đọc II : Thánh Phaolô bày tỏ tâm tình yêu thương tận tuỵ của mình đối với tín hữu Thêxalônikê.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay nói về trách nhiệm hướng dẫn người khác. Trong chúng ta, nhiều người có trách nhiệm hướng dẫn : kẻ thì hướng dẫn gia đình, người thì hướng dẫn một nhóm người trong họ đạo hoặc ngoài xã hội. Trách nhiệm hướng dẫn rất nặng nề và đòi hỏi rất nhiều, kẻo “mù dẫn mù, cả hai lăn cù xuống hố”.
Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa dạy cách hướng dẫn người khác. Đồng thời chúng ta cũng hãy nài xin Chúa trợ lực để chúng ta có thể chu toàn trách nhiệm của mình.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn người khác, nhưng chúng ta chưa có một đời sống gương mẫu để làm gương cho những người được chúng ta hướng dẫn.
– Nhiều khi chúng ta còn làm gương xấu.
– Chúng ta để ý nhiều đến vinh dự của mình, mà ít quan tâm phục vụ.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Ml 1,14—2,2.8-10)
Ngôn sứ Malakhi rao giảng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, khi ấy Đền thờ đã được xây dựng lại xong. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo tôn giáo do thái chỉ quan tâm tổ chức các lễ nghi bề ngoài, không quan tâm hướng dẫn tinh thần dân chúng.
Từ đó phát sinh nhiều tệ nạn : các lễ vật dâng tiến cho Chúa là những con vật đui mù què quặt, thậm chí là những con vật ăn cắp ; dung túng cho việc li dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân ; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Thiên Chúa bảo ngôn sứ Malakhi nhắc nhở về cung cách lãnh đạo : làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
Đáp ca (Tv 130)
Tv này là lời cầu nguyện của một tín hữu chân thành. Tác giả nguyện sống khiêm tốn “mắt chẳng liếc nhìn cao”, “không lo nghĩ những chuyện lớn lao” mà chỉ chuyên chăm “lo giữ linh hồn cho êm can và thanh thản”, luôn trông cậy vào Chúa “như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu”.
Tin Mừng (Mt 23,1-12)
Đức Giêsu nói về giới lãnh đạo tôn giáo do thái thời của Ngài, tức là các luật sĩ và các người biệt phái :
– Một mặt, Ngài bảo mọi người phải tôn trọng chức vụ của họ, vì họ “ngồi toà Môsê”, và hãy làm theo những gì họ dạy.
– Nhưng mặt khác đừng noi theo hành vi của họ, biểu hiện những thói xấu như : chỉ tay năm ngón, hám danh, kiêu căng.
Bài đọc II (1 Tx 2,7-9.13)
Cung cách lãnh đạo của Thánh Phaolô :
– “Chúng tôi đã trở thành những kẻ bé mọn giữa anh em”
– Đối xử với tín hữu “như người vú nuôi nâng niu con cái mình”
– Sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu, ngay cả mạng sống mình.
– Cố gắng tự lực cánh sinh để không trở thành gánh nặng cho giáo đoàn.
GỢI Ý GIẢNG
Vinh quang ở đâu ?
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngã mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng ra đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dạ dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn tây nhiều tai họa cho người khác nữa.
Theo lời dạy của Chúa Giêsu thì khác hẳn : “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ mọi người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chúa không chỉ dạy bằng lời. Ngài còn làm gương, Ngài đã dẫn chứng bằng cả cuộc đời hiến thân phục vụ trong khiêm tốn của mình. Thập giá của Ngài là một bằng chứng không thể phủ nhận được.
Quả thật, Chúa Giêsu đã ý thức rất rõ bản chất và danh vị của mình. Nhưng Ngài sẵn sàng chọn sự rốt hèn, hết mình phục vụ, không ngại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử của mình, và cuối cùng dám để cho người ta bóc lột cả đến danh dự và sự sống thân xác của Ngài nữa.
Tất cả là để làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa tình yêu và vì hạnh phúc của con người mà Ngài sẽ thu phục trong vương quốc Thiên Chúa.
Tưởng chứng Thập giá là một ngõ bí, một sự hạ nhục và huỷ diệt. Nhưng thực ra, nhờ Thập giá mà Chúa Giêsu đã mở ra con đường phục sinh vinh quang. Ngài đã trở thành bất tử và được nâng lên tột cùng, để rồi cũng lôi kéo mọi người lên theo.
Như thế, chúng ta hiểu rằng : vinh quang thật không khởi từ danh vị nhưng được xác định qua những nỗ lực và khiêm tốn phục vụ. Cái đáng tin, đáng phục không phải ở lời nói, quyền lực, mà là ở cuộc sống phản ảnh sự chân thực, ở khả năng cống hiến và mức độ dấn thân để sống yêu thương cách xứng đáng.
Chúng ta hãy nhìn lên “tòa thập giá” của Chúa Giêsu để tìm những lời dạy chí lý và khám phá ra những phương cách chia sẻ vinh quang đích thực và vững bền. (Lm Nguyễn thanh Tước, Tây Ninh. Trích trong báo CgvDt số đặc biệt giáng sinh ’95, trang 281-282)
Mô hình người lãnh đạo gương mẫu
Mô hình này dựa trên những lời Đức Giêsu dạy và chính gương của Ngài được ghi lại trong các sách Tin Mừng, như Mt 20,24-28 ; Mt 23,1-32 ; Ga 13,1-20 v.v.
– Tấm lòng của người lãnh đạo : yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
– Phương châm của người lãnh đạo : tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ mình hướng dẫn.
– Cung cách của người lãnh đạo : hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
Những thói xấu mà người lãnh đạo dễ mắc phải
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay vạch rõ những thói xấu mà những người lãnh đạo dễ mắc phải :
– Lo tìm vinh dự cho mình, mà quên tìm lợi ích cho thuộc cấp.
– Thái độ quan liêu, coi rẻ thuộc cấp.
– Sai khiến người khác làm, phần mình thỉ chỉ tay năm ngón.
– Quên phục vụ người khác, mà bắt người khác phục vụ mình.
Suy nghĩ về cái “làm” và cái “thấy”
Cái “làm” của chúng ta dễ bị ảnh hưởng tác động của cái “thấy”.
– Nếu “làm để cho người ta thấy”, thì : khi người ta thấy thì chúng ta cố gắng làm cho thật tốt để được người ta khen ; nhưng khi không ai thấy thì chúng ta hoặc không làm, hoặc làm cẩu thả.
– Nhưng cái “thấy” của người ta thế nào ? Người ta chỉ có hai con mắt và chỉ hiện diện ở một nơi, cho nên có cái người ta thấy và có cái người ta không thấy.
– Ngay cả khi người ta thấy đi nữa thì làm sao ? Có khi người ta thấy việc chúng ta làm và người ta khen hoặc chê ; nhưng nhiều khi người ta dù có thấy nhưng thờ ơ chẳng có ý kiến khen chê gì cả (thí dụ chúng ta đi một đoạn đường, chúng ta thấy rất nhiều việc, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng đâu có ý kiến gì) ; có khi mình làm việc tốt, người ta thấy nhưng lại hiểu sai và cho là việc xấu (thí dụ chuyện Quan Âm Thị Kính : Thị Kính thương chồng định lấy kéo cắt dùm một sợi râu của chồng, co người thấy thế tố cáo Thị Kính muốn dùng kéo giết chồng).
– Còn cái “thấy” của Chúa thế nào ? Có câu hát : “Con kiến đen, nằm trên hòn đá đen, mà trời tối đen Đức Chúa trời cũng thấy”. Nghĩa là Chúa thấy hết mọi sự, ở khắp mọi nơi. Không gì mà Ngài không thấy. Và khi thấy thì Chúa luôn đánh giá : nếu thấy ta làm điều tốt thì Chúa vui và thưởng ta, còn thấy ta làm điều xấu thì Chúa buồn và phạt ta.
Đức Giêsu dạy chúng ta đừng làm như người biệt phái “Họ làm mọi sự cốt cho người ta thấy”, nhưng hãy cố gắng luôn sống dưới cái nhìn của Chúa, làm gì dù có người thấy hay không, dù việc lớn hay việc nhỏ, việc chung hay việc riêng, hãy luôn làm vì muốn đẹp lòng Chúa.
Chuyện minh họa
Tiền giả
Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không ? Thưa có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu giả hình (W.E. Biederwolf).
Ông vua ở truồng
Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm : “Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng”. Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh “Áo ta có đẹp không ?”Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn : “Ông vua ở truồng ! Ông vua ở truồng !”. Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin.
1- Hội Thánh luôn dùng đời sống phục vụ mà xoa dịu đau khổ của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội Thánh / để qua đó Hội Thánh có thể giới thiệu Chúa cho mọi nước mọi dân.
2- Trên thế giới ngày nay / từ những khu nhà ổ chuột ở các thành phố / cho tới tận những miến xa xôi hẻo lánh / rừng thiêng nước độc / lúc nào cũng có những người thiện nguyện / đang hy sinh cả tuổi thanh xuân / hạnh phúc riêng tư / và cả mạng sống của mình nữa / để phục vụ những anh chị em bất hạnh nhất của xã hội / những Đức Kitô bị bỏ rơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / gìn giữ những anh chị em ấy luôn được an toàn / và cho họ tìm được niềm vui trong việc phục vụ tha nhân.
3- Ngày nay / bên cạnh rất nhiều người trẻ có tâm hồn quảng đại / âm thần phục vụ / thì cũng có một số người khác chỉ biết ăn chơi trác táng / hưởng thụ ích kỷ / không bao giờ biết quan tâm đến nỗi thống khổ / của những người nghèo chung quanh mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / biết sống cho một lý tưởng cao đẹp.
4- Sẵn sàng giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn / là một trong những cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vui với người vui / và khóc cùng người khóc như Thánh Phaolô đã dạy.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con : “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em ; còn ai muốn đứng đầu trong anh em, thì phải làm đầy tớ anh em”. Xin ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
-Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
-Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
-Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TINH THẦN NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Gioan Trần Khả
Một bà đến thưa với vị linh mục: “Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được.”
Cha hỏi: “Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?”
Bà trả lời, “Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: ‘Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!”
Nghe như thế, cha nói với bà: “Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, ‘Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'”
Chúng ta không ai có thiện cảm với những người nói mà không làm. Chúng ta càng ghét những người giả dối bề ngoài nói thánh nói tướng lên mặt đạo đức giảng cho người khác, nhưng đời sống riêng tư của họ lại bê bối không sống theo điều họ rao giảng. Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải tránh lối sống giả dối ngôn hành bất thuận như thế. Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Malakia để cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã hủy bỏ giao ước; sống vị nể, và đi sai đường lối làm cho nhiều người vấp phạm. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc phê bình những người Biệt phái và Pharisiêu là giả hình, vì họ đã sống quá xa lạ với những lời họ giảng dạy. Họ nói một đàng làm một nẻo.
Thái Độ Của Luật Sĩ và Biệt Phái
Luật Sĩ là những nhà chuyên môn về luật. Họ là những người được tuyển chọn làm tư tế, và làm thầy dạy thiên hạ. Pharisiêu là những người biệt phái; tuy họ không phải là những người được học có bằng cấp cao, không phải là tư tế, nhưng họ là những người được biệt phái làm đầu trong dân. Họ tận tình và tỉ mỉ giữ lề luật. Họ rất hãnh diện về địa vị lãnh đạo trong tôn giáo, về sự yêu mến tôn trọng lề luật và lòng sùng đạo của họ. Họ thích được nhìn nhận và được coi là gương mẫu cho thiên hạ. Họ muốn tài năng của họ phải được người khác nhận ra và được ngưỡng mộ cũng như được tưởng thưởng xứng đáng. Họ chuộng được người khác chú ý.
Chúa Giêsu nhìn thấu tỏ lòng dạ của các Luật Sĩ và Biệt phái. Ngài biết là họ không rao giảng Thiên Chúa mà là rao giảng chính họ và những kiến thức hiểu biết của họ. Hiện tượng dài dòng kinh kệ và mặc áo tua rua chỉ là sự trình diễn phô trương, bởi vì trong thực tế họ đã lơ là hay bỏ qua tinh thần đức tin, sự công bình và lòng nhân ái. Họ trống rỗng và nông cạn, không tốt lành và cũng chẳng thánh thiện. Lối sống của họ là lối sống tìm sự vinh hoa giả tạo cho bản thân, chú trọng đến bề ngoài và nặng tinh thần thế tục.
Nói cách khác, họ đã nói những bài nói đạo đức, nhưng đã không bước đi trên con đường đạo đức. Họ trình bày những nguyên tắc sống đạo, nhưng lại không sống đạo. Họ nói thánh nhưng không sống thánh. Họ thích đứng nơi công cộng để được chú ý và được kính trọng, nhưng lại không có những tư cách xứng đáng để được kính trọng. Họ thích được ngồi bàn trên và chỗ danh dự, thích được gọi là thầy, nhưng lại không có tư cách của một vị thầy. Kết quả là việc rao giảng của họ tạo ra nhiều khuấy động rối loạn và sai lạc; gây đau khổ và thiệt hại cho nhiều người. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự giả dối của ho, và Ngài đã không ngần ngại lên án lối sống giả tạo và giả hình như thế.
Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta chỉ phân tích và nhận định thái độ của những người Biệt phái và Pharisiêu. Trong một cách nào đó chúng ta cũng có những hình thức và lối sống kiêu ngạo, và giả hình của Pharisiêu.
Loại giả hình thứ nhất là nói mà không làm đúng theo lời mình nói. Rất ít người trong chúng ta dám nói rằng chúng ta đã thực hành tất cả những gì chúng ta nói hay những điều chúng ta tin. Chúng ta cũng dễ dàng mặc cho mình những cái tốt đẹp bề ngoài. Chúng ta tô điểm cho cái tôi xã hội, cái tôi công cộng một vẻ bề ngoài thật lịch sự, đạo đức, liêm sỉ hơn với con người thực sự của chúng ta. Hoặc nhiều khi lòng chúng ta không trong sáng đủ để sống với một chủ đích là tìm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta còn tìm mình và tìm hư danh cho mình.
Loại giả hình thứ hai xấu xa hơn một khi chúng ta không những không thực hành mà còn không tin cả những điều chúng ta rao giảng. Chúng ta công bố lớn tiếng nơi công cộng chỉ vì chúng ta muốn lấy lòng người nghe và chiêu mộ người ta để đạt tư lợi. Chúng ta nói hay, giảng hay, tô điểm bề ngoài với những cử chỉ đạo đức thanh liêm để che mặt thiên hạ, nhưng trong lòng không tin nhận. Rồi trong đời sống tư lại có một lối sống ngược lại với những gì chúng ta rao giảng. Chúng ta lên án người này người kia sống bê tha tội lỗi, trong khi chính mình cũng vụng trộm tình nghĩa lăng nhăng, hoặc kín đáo làm những điều vô luân bất nghĩa, bất chính. Hoặc với người ngoài và với khách hàng thì chúng ta lịch sự khiêm tốn để chiếm được cảm tình của người ta, nhưng khi trở về nhà thì chúng ta lại không đối xử lịch sự với những người thân trong gia đình; chúng ta đánh đập hành hung hay chửi bới con cái… Sống như thế có nghĩa là còn giả hình. Sống như thế là sống hai lòng, hai mặt. Sống như thế là vừa kiêu ngạo vừa lừa bịp. Và Chúa Giêsu không bị lừa bởi tất cả những lớp vỏ bề ngoài giả hình như thế.
Tinh Thần Người Môn Đệ Chúa Kitô
Chúa Kitô đòi các môn đệ của Ngài phải sống điều mình rao giảng. Không ai được muốn người khác gọi mình là thầy hay là cha. Tất cả là anh chị em với nhau. Hơn thế nữa những người môn đệ của Chúa Giêsu phải biết quý trọng và chú ý đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Lời của Chúa Giêsu là một thách đố cho tất cả mọi Kitô hữu về tinh thần sống đạo và làm chứng về niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, một người ở Port Arthur, TX biên thư thắc mắc về việc tại sao Giáo Hội lại bắt giáo dân gọi các linh mục là ‘cha’ trong khi Chúa Giêsu lại nói là đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha trên trời? Và tại sao các cha lại tránh né không chịu giải thích? Tôi cũng cảm thấy khó khăn để giải thích. Tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng khi xưng mình là ‘cha’ trong lúc nói chuyện với người khác.
Nhưng một lần có người gọi tôi là ‘ anh’ thay vì gọi là ‘cha’ thì tôi cũng như một số người khác đứng đó đã cảm thấy có cái gì ngường ngượng nghe không thuận tai. Tuy nhiên danh từ ‘cha’ dùng để gọi các linh mục cũng chỉ là một tước hiệu nói lên tình liên hệ thiêng liêng trong Giáo Hội giống như địa vị làm cha trong tình liên hệ của người cha đối với con cái trong gia đình. Tước hiệu đó đã được dùng từ lâu do lòng quý mến và kính trọng của người giáo dân dành cho các linh mục là những người đại diện Thiên Chúa và là hiện thân của Chúa Kitô trong chức vị tư tế. Nếu chúng ta chú trọng quá nghiêm khắc vào từ ngữ thì chúng ta không hiểu đúng ý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có ý nói là không ai được tự đặt mình vào địa vị làm Cha như Thiên Chúa, và cũng không được coi bất cứ ai dưới đất là Cha thay thế Thiên Chúa. Chỉ có một chức vị Cha chân thật là Thiên Chúa, và chỉ có một Thầy chân thật là Đức Kitô. Điểm Chúa Giêsu nhấn mạnh là “Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.” Do đó có lẽ chúng ta không nên quá quan tâm đặt vấn đề khi người giáo dân gọi các linh mục là ‘cha’, nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề nếu thấy các linh mục của mình không có tinh thần phục vụ như Chúa Giêsu mong muốn và đòi hỏi.
Trong tinh thần phục vụ Tin Mừng chân chính, Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã thẳng thắn tâm sự với giáo đoàn Thessalonica rằng, ” Anh em còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em” (1 Thes 2:9).
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, ” Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi.” Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ĐỂ TRỞ NÊN NGƯỜI CAO CẢ– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đã là người, ai cũng muốn tôn mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị của mình.
Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng đó để thôi thúc chúng ta vươn lên, “trở nên người trưởng thành, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13). Chính Chúa Giê-su cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao nhất: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Như thế, khát mong trở nên con người hoàn hảo là một khát vọng rất tự nhiên và chính đáng.
Nhưng làm sao để nâng cao giá trị của mình?
Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giê-su muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài, cốt để cho người ta thấy; họ “đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy” (Mt 23, 5-7).
Các môn đệ Chúa Giê-su cũng đôi lần tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47).
Rồi một bữa nọ, tưởng rằng mai đây Chúa Giê-su sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê đến nài xin Chúa Giê-su cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Ngài trong tương lai. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình với Gioan và Gia-cô-bê, có lẽ vì hai anh em nầy toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ đang ngấp nghé (Mc 10, 35-41).
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
Phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy…” là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nầy mang lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacobê lầm tưởng, nhưng giá trị con người tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của họ.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội khẳng định: “Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi những gì người ta có, mà tuỳ thuộc vào phẩm chất mỗi người”.
Biệt thự của ta, vàng bạc của ta, chức vụ lớn lao của ta… không làm cho ta có giá hơn những người khác. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Về vấn đề này, Chúa Giê-su dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ người khác như người tôi tớ. Ngài nói: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10, 43. Mt 23,11).
Lời Chúa dạy nghe thật ngược đời, rất khó chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời mẹ Tê-rê-xa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ đã hiến đời mình làm tôi tớ phục vụ những con người cùng khổ nhất trên thế gian này nên mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất thế giới.
Năm 1996, Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ phong tặng mẹ danh hiệu “Công dân danh dự” của nước này. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu này.
Ngày 10 tháng 2 năm 1979, mẹ được nhận giải Nobel hòa bình vì sự nghiệp dấn thân phục vụ những người cùng khốn.
Ngày 5-9-1997, mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, mẹ được Giáo hội nâng lên hàng chân phước chỉ 6 năm sau ngày qua đời!
Và ngày 4 tháng 9 năm 2016, mẹ được Đức thánh Cha Phan-xi-cô tuyên thánh để được các tín hữu kính nhớ muôn đời.
Như thế, cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giê-su là xác đáng.
Lay Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng tìm cách tôn mình lên bằng những đồ trang sức mắc tiền hay bằng tài sản quý giá, nhưng biết làm gia tăng giá trị đời mình bằng đời sống dấn thân phục vụ những người nghèo thiếu, đau khổ chung quanh như lời Chúa dạy. Nhờ đó, chúng con trở nên người có phẩm giá cao hơn và được đẹp lòng Chúa hơn.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SỐNG CHÂN THÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um. Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, thì họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng. Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, thì là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong.
Qua các thời đại, hai tiếng này dính lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.Tình thương giữa con người với nhau cần phải sinecera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào.
Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.Những kẻ giả hình nói thì nhiều mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần sự giả hình của các Kinh sư, Pharisiêu.
– Giả hình: vì họ nói mà không làm
– Thích thống trị: Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không buồn động động ngón tay vào.
– Thích khoe khoang: Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
– Thích hám danh: Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được thiên hạ gọi là Rápbi.
Những người Pharisiêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy trong lối sống đạo của họ có những biểu hiện lệch lạc, giả hình làm hoen ố đạo thật. Nhân đó, Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo:
Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm: Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ nhưng làm thì khó nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm ít hoặc chỉ nói suông mà không làm hoặc còn tệ hơn khi việc làm mâu thuẫn với lời nói như người Pharisiêu “ nói mà không làm”. Trong những trường hợp ấy, nói về Đạo trở thành phản chứng làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Người ta thích câu tục ngữ “Đừng nghe những gì người ta nói mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm”
– Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn.Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ hãy thực hành đạo trong kín đáo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm (Mt 6,3). Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo.(Mt 6,6)
Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giêsu giúp chúng ta sống chân thành và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họlàm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ phải chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái nhưng thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt thì niềm nở sau lưng thì phá ngầm, nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pharisêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Malakhi trách mắng nghiêm khắc những tư tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến mất. Nhiều tư tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu khiến cho nhiều người đi sai đường lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc lại với giáo đoàn Thessalonica tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phaolô sống chân thành với cộng đoàn, ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống chân thành với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm. Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị Thánh nhân, anh hùng thực hiện luôn được hậu thế ghi nhớ mãi.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC NÂNG LÊN – Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên (Mt 23,12-12).
Anh chị em thân mến,
Tuần trước chúng ta cùng nhau suy niệm về một vấn đề được coi là cốt lõi trong đạo của Chúa. Đó là vấn đề có liên quan đến giới luật yêu thương. Hôm nay Giáo hội muốn cho chúng ta suy gẫm tiếp về một trong những khía cạnh khác cũng có liên hệ đến vấn đề trên. Có thể nói đây là khía cạnh quan trọng nhất để giúp cho chúng ta dễ thực hiện giới luật yêu thương của Chúa. Đó là sự khiêm nhường, một nhân đức mà các nhà tu đức gọi là nhân đức nền tảng của đời sống thiêng liêng.
Như anh chị em đã biết khiêm nhường thì đối nghịch với kiêu ngạo. Mà Chúa thì không thích sự kiêu ngạo vì người kiêu ngạo thường không sống thực với lòng của mình.
– Người kiêu ngạo thường đánh giá mình theo cái mình có hơn là theo cái mà công đồng Vaticano II gọi là cái mình là.
– Trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa hay đả kích những người Biệt phái và luật sĩ cũng chỉ vì họ sống như thế.
* Họ tưởng họ có được một mớ hiểu biết về luật pháp là họ đương nhiên trở thành Thầy dạy mọi người.
* Họ tưởng họ có cái quyền nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo là tất nhiên họ trở thành nhà mô phạm đối với mọi người.
* Họ tưởng họ có được một chỗ nhất trong đám tiệc, một chỗ cao trong hội đường là tự nhiên họ phải được mọi người nể vì và kính phục.
– Rõ ràng Chúa không bằng lòng với kiểu tự đánh giá mình như thế. Chúa có một cái nhìn khác về cuộc sống chứ không theo cái nhìn tầm thường như vậy.
* Đối với Chúa thì cuộc sống của những người biệt phái và luật sĩ chỉ là cuộc sống hình thức mà không có nội dung – có cái mã ở bên ngoài mà không có thực chất ở bên trong.
* Đã có rất nhiều lần Chúa quở trách họ một cách rất nặng lời. Thậm chí Chúa ví họ như những mồ mả bên ngoài sơn phết rất đẹp nhưng bên trong thì toàn là mùi xú uế.
– Đối với Chúa thì có phải nói có, không thì phải nói không.Và Chúa nhấn mạnh thêm: thêm điều đặt truyện là do ma quỉ mà ra.
– Chúa thích cái gì là thật, là đúng.
Trong Tin Mừng Chúa đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em.” André Frossard thuộc viện hàn lâm Pháp là bạn thân của Đức thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã hỏi Ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, nếu phải chọn lấy một lời duy nhất của Tin Mừng để công bố thì Đức Thánh Cha sẽ chọn lời nào?” Không một chút trần trừ, không cần phải suy nghĩ, Đức Thánh Cha trả lời ngay: “Sự thật sẽ giải thoát anh em”. Sống theo sự thật là sống khiêm nhường. Thánh Têrêxa Avila đã quả quyết như thế.
Vậy thì sống khiêm nhường là sống như thế nào?
– Thay vì đưa ra một ý kiến riêng tôi xin mượn cách trả lời của văn hào Dostoievsky. Theo ngôn ngữ của Dostoievsky thì sống theo sự thật là biết sống thực với căn tính của mình và góp phần vào việc xây dựng một mối quan hệ hoàn toàn mới đối với những ngưỏi khác.
* Căn tính của tôi là gì ? – Chỉ là một thụ tạo không hơn không kém. Là một thụ tạo cho nên tôi phải lệ thuộc vào Thiên Chúa, phải đặt mình dưới uy quyền của Ngài. Trong Tin Mừng có lần Chúa kể một câu chuyện về hai người lên đền thờ để cầu nguyện: Một người biệt phái và một người thu thuế. Người biệt phái cầu nguyện trong tư thế đứng thẳng, đứng giữa cung thánh và cầu nguyện bằng cách phô trương công đức truớc Thiên Chúa. Thái độ như thế không phải là thái độ của người khiêm nhường. Ngược lại người thu thuế cảm tháy mình bất xứng trước Thiên Chúa cho nên anh ta đứng cúi đầu xuống đấm ngực ăn năn và cầu xin lòng thương xót của Chúa. Thái độ như thế là thái độ của một thụ tạo khi đối diện với Đấng tạo thành. Và đó là thái độc của kẻ khiêm nhường. Trong Tin Mừng chúng ta còn thấy một lần kia, sau khi được chứng kiến mẻ cá lạ, Phêrô một ngư phủ dầy dặn về nghề đánh bắt cá, đã quì sụy lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa với Người: “Lạy Ngài . xin tránh xa con vì con là một ngưòøi tội lỗi.” Thái độ đó là thái độ của một thụ tạo và đó cũng là thái độ của người khiêm nhường.
* Và từ thái độ của một thụ tạo trước Thiên Chúa mà tôi phải đi tới một thái độ khác đó là tôi phải coi và đối xử với mọi người như anh em. Lý do tại sao thì Chúa đã cho biết trong Bài TM hôm nay:”Tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Chúng ta là con của cùng một Thiên Chúa là Cha…và cùng là người được Chúa Giêsu cứu chuộc. Mọi thái độ có tính cách “cha-chú” đối với nhau đều không phải là thái độ của những người anh em và chắc là không phải là thái độ của những người biết sống khiêm nhường.
* Hơn thế nữa, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa còn cổ võ một nếp sống có tính cách quyết liệt và cao hơn nữa: “Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ phải là người phục vụ”. Đây quả là một quan niệm thật mới và táo bạo thời đó. Giữa lúc các xã hội còn đang bị chi phối bởi chế độ quân chủ và đầu óc con người còn nặng chất phong kiến mà Chúa đã có một quan niệm như thế thì phải nói là rất cách mạng. Không những Chúa nói mà Chúa còn sống như thế: “Thầy đến không phải được phục vụ mà là để phục vụ”.
Ngày 22.10.1978, trước mặt đầy đủ các vị trong hồng y đoàn, có khoảng chừng 100 phái đoàn ngoại giao và có khỏang 70.000 tín hữu tụ tập lại ở công trường Thánh Phêrô để tham dự buổi lễ đăng quang của người kế vị đức Gioan Phaolô I trên ngôi giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tuyên bố sự khởi đầu triều đại Giáo hoàng của ngài bằng những lời rất cảm động sau đây: “Người kế vị mới của Phêrô trên tòa Roma này hôm nay xin được dâng lên Chúa Kitô một lời nguyện cầu thật chân thành, khiêm tốn và tin tưởng. Đó là xin cho có thể làm một nô bộc hay đúng hơn: làm nô bộc của các nô bộc của Người”. Và cho tới hôm nay thì người ta đã thấy Ngài đã sống như thế.
Trước đó, một vị Giáo hoàng cũng lấy danh hiệu là Gioan Phaolô. Đức Gioan Phaolô thứ I. Ngài chỉ sống trong chức vụ Giáo hoàng của Ngài một thời gian rất ngắn ngủi: 33 ngày. Nhưng cuộc sống của Ngài đã để lại nhiều ấn tượng thật tốt đẹp. Jean Villot vị thư ký riêng của Ngài đã nói về ĐỨC THÁNH CHA với những lời lẽ cảm động như thế này: “Bên cạnh Ngài, tôi đã được sống những kinh nghiệm đạo đức phong phú nhất cuộc đời của tôi”
Trở về trước đó một chút nữa, ngày 14-12-1975, nhân dịp kỷ niệm 10 năm Giáo Hội Roma và Giáo hội chính thống Constantinopolis xóa bỏ sự khai trừ lẫn nhau có từ thế kỷ thứ 11 dẫn tới sự ly khai như Lịch sử đã cho chúng ta biết, một buổi lễ chính thức đã được cử hành long trọng trong nhà nguyện Sixtine nơi vẫn diễn ra các cuộc bầu cử Giáo hoàng. Tham dự buổi lễ hôm đó có 40 vị hồng y, toàn thể ngoại giao đoàn, các đại diện dòng tu nam nữ. Buổi lễ diễn ra trong một bầu khí thật đạo đức và thánh thiện. Vào gần cuối buổi lễ, ĐứC THÁNH CHA Phaolô VI đã làm cho mọi người tham dự phải sửng sốt. Ngài tiến lại gần Đức Tổng Giám Mục Mêliten, vị Giáo chủ chính thống giáo, Ngài quì xuống, vén áo và hôn chân vị Giáo chủ này. Mọi người đều ngỡ ngàng.
Phải chăng đây là một sự hạ mình quá đáng? Làm như vậy có thế mất thể diện chăng? – Không. Không phải là hạ mình, cũng không phải là mất thể diện, mà là thể hiện tinh thần của Bài TM hôm nay.”Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Hiện nay tại Roma, người ta đang cổ vũ cho việc phong thánh cho Ngài. Dostoievsky nói: “Nếu mọi người hiểu được điều ấy thì thế gian này sẽ trở thành Thiên đàng”.Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CON ĐƯỜNG PHỤC VỤ- Trích Logos A
Ông Vũ Duệ (1467-1522) là một vị quan nổi tiếng thanh liêm chính trực thời nhà Lê. Ông làm đến chức Lại Bộ Thượng Thư, một chức quan lớn trong triều đình, thế nhưng ông rất khiêm tốn và sống hòa đồng với dân.
Một lần nọ, ông về quê là Phú Thọ, tham gia chống lụt với dân làng. Ông đang cầm mai đào đất đắp đê, thì một quan huyện đến gần. Thấy ông mặc bộ quần áo cũ kỹ, lại to lớn lực lưỡng, tưởng là bác nông phu, nên quan huyện bắt ông ta phải cõng quan huyện về quan phủ cách đó 10 cây số. Ông Vũ Duệ chẳng nói chẳng rằng, khom lưng cõng vị quan huyện về phủ. Đến nơi, vừa thấy quan Vũ Duệ, các quan phủ đồng loạt quì lạy kính cẩn. Thấy vậy, viên quan huyện xanh mặt sợ hãi, van xin quan lớn tạ tội. Để dạy cho quan huyện một bài học, Vũ Duệ bình thản nói : “Quan lớn đã cõng quan bé rồi, giờ đến lượt quan bé cõng quan lớn về làng, theo con đường vừa đi”.
Câu chuyện chúng ta vừa nghe gợi lên hình ảnh hai mẫu người lãnh đạo : vị quan lớn thì khiêm tốn hạ mình, vị quan bé thì hống hách kiêu căng.
Chúa Giêsu cũng phác họa khuôn mặt của các luật sĩ và biệt phái, những người lãnh đạo dân Do Thái thời Chúa Giêsu. Đó là những người giả hình, thích phô trương, kiêu căng và hám danh. Hôm nay, chúng ta cũng đi tìm chân dung người lãnh đạo tuyệt vời là Đức Giêsu Kitô, người tôi tớ khiêm hạ.
Khuôn mặt thật của các luật sĩ và biệt phái.
Sở dĩ ta gọi là “khuôn mặt thật” vì các luật sĩ và biệt phái luôn sống giả hình. Họ mang chiếc “mặt nạ” đạo đức và tốt lành, che giấu một khuôn mặt xấu xa bên trong. Thực chất các luật sĩ và biệt phái là ai ?
Họ là những người “nói mà không làm”. Khi đề cập đến giới lãnh đạo tôn giáo, tức các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu luôn tỏ ra tôn trọng chức vụ của họ, những người được đặt “ngồi trên toà Môisen”. Vì thế, Chúa dạy các môn đệ và dân chúng hãy làm và tuân giữ những điều họ dạy, vì đó là những chân lý rút ra từ Thánh Kinh, từ Lời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo “đừng noi theo hành vi của họ”. Nghĩa là, đừng bắt chước những gì họ làm : họ “nói một đàng, làm một nẻo”, họ không thực hành đúng như điều họ nói, hoặc tệ hơn, họ “nói mà không làm”. Họ còn là những người lãnh đạo “quan liêu” chỉ biết đặt gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không giơ ngón tay lay thử. Họ là những người “nói nhiều, làm ít” hoặc là hạng người “chỉ tay năm ngón”.
Họ còn là những người thích phô trương và hám danh. Để chứng tỏ mình là những người yêu mến và thông giỏi Kinh Thánh, họ đeo những thẻ kinh to bản trên người, cùng với những tua áo rườm rà để mọi người chú ý đến mình. Ở chỗ đông người, họ chỉ muốn ngồi vào những vị trí quan trọng, dành cho những nhân vật cao cấp. Ra đường, họ thích được chào hỏi và mong được “làm thầy” trong mọi lĩnh vực.
Nói tóm lại, các luật sĩ và biệt phái là những người chỉ lo đi tìm vinh quang và danh dự hão huyền, mà quên mất họ chính là những người lãnh đạo kẻ khác, mà người lãnh đạo là gì nếu không phải là người phục vụ mọi người trong khiêm tốn ?
Chúa Giêsu, người lãnh đạo tuyệt vời
Chúng ta khám phá thấy nơi Chúa Giêsu hình ảnh một người lãnh đạo thật tốt lành. Chúa Giêsu là người “lãnh đạo” có nghĩa là người “chỉ đạo”, tức “người dẫn đường”. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ trong khiêm hạ. Không những Chúa Giêsu đến trần gian bằng con đường khiêm nhường của Ngôi Hai trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng Ngài còn cứu chuộc nhân loại bằng con đường tự hạ thẳm sâu của Người Tôi Tớ. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ như một người tôi tớ thấp hèn. Ngài đã đi đến tận cùng con đường phục vụ khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Chúa cũng đã dạy “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20, 26).
Sau cùng, Chúa đã đi vào con đường tử nạn, trao hiến chính mạng sống mình để làm giá chuộc cho nhiều người.
Tuy nhiên, thập giá không phải là “ngõ bí”, cũng không phải là sự huỷ diệt. Nhưng nhờ thập giá, Chúa mở ra con đường phục sinh vinh quang.
Như thế, đi theo Chúa là chúng ta đi vào con đường phục vụ trong khiêm tốn, con đường hy sinh khổ giá, để nhờ đó, chúng ta cũng được cùng Ngài bước vào vinh quang của sự phục sinh.
Nếu các luật sĩ và biệt phái ngồi trên “tòa Môisen” để lãnh đạo dân chúng, thì Chúa Giêsu đã trở nên người chỉ đạo chịu chết treo trên “tòa thập giá” để nên dấu chỉ dẫn đường cho mọi người.
Nếu các luật sĩ và biết phái chỉ biết đặt gánh nặng lên vai người khác, thì Chúa Giêsu lại ghé vai để vác lấy thập giá và mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại.
Sau cùng, Chúa đã bị treo lên cao, để rồi Ngài kéo lên với Ngài những kẻ khiêm nhường tự hạ : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Não trạng luật sĩ và biệt phái ngày nay
Trong bài đọc I, tiên tri Malakia nhắc lại lời Thiên Chúa phán dạy những người lãnh đạo dân Chúa phải làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
Còn trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô đã trình bày đường hướng lãnh đạo của mình : ngài đã trở nên bé mọn giữa anh em và nhất là đã tự lực cánh sinh để không trở nên gánh nặng cho người khác.
Có lẽ, đó cũng là lời khuyên nhủ dành cho chúng ta hôm nay, để chúng ta luôn tránh xa “men biệt phái” đang ăn sâu trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta.
Ngày nay, các ông biệt phái không còn nữa, nhưng não trạng và tinh thần biệt phái vẫn còn in đậm trong cách hành xử và cuộc sống của mỗi người. Thậm chí, tinh thần biệt phái vẫn còn ăn rễ sâu trong lòng Giáo Hội.
Chúng ta vẫn còn mang tinh thần biệt phái khi chúng ta thích phô trương, hợm mình trước mặt mọi người, chúng ta vẫn tỏ ra kiêu căng và hám danh.
Chúng ta vẫn còn mang tinh thần biệt phái khi chúng ta trở thành gánh nặng cho người khác, thay vì ghé vai đỡ lấy gánh nặng của tha nhân.
Chúng ta vẫn còn mang tinh thần biệt phái khi chúng ta “nói mà không làm”. Chúng ta nói rất hay về đạo, nhưng thử hỏi chúng ta đã thực hành đạo của chúng ta chưa ?
Vào một buổi chiều của năm 1953, một số nhân viên chính phủ và rất đông các phóng viên, nhà báo tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago, Hoa Kỳ, để chào đón một người vừa được giải thưởng Nobel hòa bình.
Đó là ông Albert Schweiser, một vị bác sĩ nổi tiếng người Đức, đồng thời cũng là nhà truyền giáo lừng danh. Ông đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ những người nghèo tại Phi Châu. Khi đang phát biểu trước đám đông, chợt ông ngừng lại, đưa mắt nhìn một người đàn bà lớn tuổi đang xách chiếc valy nặng nề. Ông rẽ đám đông, chạy lại đỡ chiếc valy cho người đàn bà, đưa bà đến chiếc xe buýt gần đó. Sau đó, ông trở lại, xin lỗi mọi người và tiếp tục nói chuyện.
Chứng kiến cử chỉ đầy tình bác ái của ông, một người có mặt hôm ấy đã nói với một nhà báo : “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã thấy một bài giảng biết đi”.
Chớ gì, cuộc đời mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải là một “bài giảng biết đi” như thế, bài giảng về tình yêu Thiên Chúa qua những việc làm bác ái và những nghĩa cử yêu thương trong cuộc sống hàng ngày.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
HƯỚNG ĐẾN SỰ THẬT- Lm Gioan Nguyễn Cao Luật OP
Giả hình và kiêu ngạo
Thêm một lần nữa, Tin Mừng đề cập đến những người Pharisêu. Họ là những người có địa vị trong xã hội và có tầm ảnh hưởng khá rộng. Và cũng thêm một lần nữa, lời lẽ của Đức Giêsu với những người Pharisêu chẳng có chút gì là dịu dàng, hoà hoãn. Đức Giêsu đã đưa ra những lời nghiêm khắc với những người tự nhận mình biết tất cả, nhưng chính họ lại chẳng hiểu gì.
Vậy, Đức Giêsu quở trách những người Pharisêu về chuyện gì? Sự dối trá của họ. Thông thường, sự dối trá chỉ thể hiện qua lời nói: người ta biết một điều là sai nhưng lại trình bày là đúng. Về phương diện này, người Pharisêu không bị khiển trách. Điều họ quả quyết thực sự là đúng: họ có nhiều kiến thức, có khả năng xét xử, lời họ nói có thể dẫn đến Thiên Chúa, và dựa vào những thẩm quyền chính thống. Họ không nói năng như những người xa lạ muốn chiếm đoạt một quyền dành riêng. Họ là những người “nối quyền ông Môsê mà giảng dạy” -như lời Đức Giêsu, họ không giống như những người Xa-ma-ri vốn cũng nói về ông Môsê, nhưng giáo huấn của người này đã sai lạc vì đã pha trộn thêm nhiều yếu tố khác.
Như vậy, sự dối trá của những người Pharisêu không phải là lời nói, nhưng một cách tinh vi hơn, là sự cách biệt, sự mâu thuẫn giữa lời họ nói và việc họ làm. Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ: “… họ nói mà không làm. Vậy những gì họ dạy, thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng cách họ hành động, thì đừng có làm theo.” Bởi vì “họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buổn động ngón tay vào.”
Chính sự cách biệt, mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm cho thấy tội của người Pharisêu. Đó là tội “giả hình”. Đó là một sự đứt đoạn mà chẳng hề có một sự hối hận nào.
Xa hơn, Đức Giêsu cho thấy động lực của thái độ này: “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”, tức là lòng “kiêu ngạo”. Đây không phải là thái độ của một người tự hào về những tài năng hay sự thành công của mình, nhưng đây là một thái độ tinh vi hơn, nếu không muốn nói là tệ hại hơn. Quả vậy, đây là việc sử dụng quyền bính và uy tín cách bất xứng: đúng ra quyền bính và uy tín này chỉ có được ý nghĩa khi được sử dụng qua và vì nhiệm vụ của mình, và khi có nhiệm vụ càng cao, lại phải khiêm tốn hơn. Làm sao người ta có thể tự nhận là dụng cụ của Thiên Chúa để thông truyền cho người khác về mầu nhiệm của Người, mà lại chẳng quan tâm đến việc sống xứng hợp với mầu nhiệm này, và cũng chẳng ý thức rằng dụng cụ chỉ có được ý nghĩa khi phục vụ cho điều mình đã khấn nguyện, và mình chỉ là một phản ánh cho sự thật lớn lao!
Những người Pharisêu đã sử dụng quyền bính được trao cho mình để tìm vinh quang cho cá nhân và thu lợi cho riêng mình. Đó là một sự sai lầm, một sự lạm dụng quyền bính. Sự lạm dụng này đã biến họ trở thành những người đổi bại, ngược hẳn với điều họ bắt người khác làm.
Vì lợi ích của cộng đoàn
Thiên Chúa đã trao Lời của Người cho con người, nhưng họ đã tìm cách chiếm đoạt Lời đó. Con người được mời gọi làm sứ giả, làm tôi tớ của Lời, nhưng họ đã biến lời đó thành dụng cụ để phục vụ lợi ích riêng mình. Nói cách khác, họ biến Thiên Chúa thành người phục vụ họ.
Hiện tượng này đã xảy ra vào thời Đức Giêsu, và vẫn xảy ra trong Hội Thánh, suốt dòng lịch sử. Đã không phải chỉ một lần Hội Thánh bỏ quên sứ mạng cốt yếu của mình là loan báo Tin Mừng, các giáo sĩ cũng đã nhiều lần ủng hộ các chế độ trong đó quyền lợi của các vị được đề cao để rổi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng. Và với các tín hữu, sứ điệp được trao cho họ là sự thật, nhưng họ đã cắt nghĩa theo lối của mình để xét đoán người khác.
Những lời của Đức Giêsu với những người Pharisêu cho thấy thái độ đầy giận dữ trước sự dối trá, và những hình thức của nó là kiêu căng, giả hình, ham mê tiền bạc. Những hình thức dối trá này làm phát sinh tình trạng vô trật tự và cuối cùng làm bùng nỗ bạo lực. Nơi người Pharisêu, lời chân lý đã bị trói chặt, bị giam hãm, và thay vào đó là lời dối trá.
Ngoài ra, những lời của Đức Giêsu cũng là một lời mời có sức giải thoát, cho thấy một chân trời mới đang xuất hiện và làm nỗ tung những giới hạn của con người. Những lời này mở ra một khoảng không để mọi người có thể hiệp thông với nhau, cùng chia sẻ một ưu tư là trao đổi về ý nghĩa chiều hướng sẽ đến, luôn cần phải khám phá. Những lời này không phải là những lý do để tạo ra những trường phái đối lập nhau, hay gây ra những cuộc chiến tranh có sức gây huỷ diệt.
Chính vì mỗi người ý thức được nhiệm vụ của mình là bảo toàn sự siêu việt của Lời, nên Hội Thánh phải là điểm quy chiếu của sứ vụ: không ai có quyền giải thích lời Chúa mà không hướng đến toàn thể cộng đoàn. Không ai có quyền giải thích lời Chúa nhằm lợi ích cho cá nhân mình, trong khi coi thường ích lợi của người khác.
Tuy vậy, Hội Thánh cũng nhắc nhở rằng, những lời này có thể được đọc lại theo một cách thức mới do những người nghèo. Cộng đoàn có thể được hình thành và bao gổm những trách nhiệm nhỏ hay lớn, nhưng từ căn bản, tất cả mọi người trong cộng đoàn đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Mọi người, bất kể là ai, đều là anh em với nhau, và đều cùng được mời gọi làm cho lời đã âm vang trong lòng họ được thêm phong phú. Mỗi người, trong trách nhiệm, trong công việc của mình, đều là chứng tá sống động và đích thực của lời Chúa.
Đừng tưởng mình vô tội
Đọc lại đoạn Tin Mừng này, có lẽ chúng ta cảm thấy vui mừng vì nhận thấy Đức Giêsu nói những lời này với những người đã sống và chết từ lâu. Ngày nay chẳng còn những kinh sư, những biệt phái nữa! Có phải như thế không?
Và cũng có lúc chúng ta nghĩ rằng có một vài sự kiện trong quá khứ có thể đã tạo nên một hình ảnh không mấy tốt đẹp về Hội Thánh, nhưng tất cả đã trôi vào dĩ vãng.
Nhưng coi chừng, chúng ta lại không phải là kinh sư và biệt phái đấy sao, mỗi khi lời nói và việc làm của chúng ta không ăn khớp với nhau.
Và nhất là, khi đã ý thức được điều này, không phải chỉ là thay đổi thái độ, còn cần phải thay đổi lối nhìn: tất cả chúng ta đều là anh em, tất cả chúng ta đều bình đẳng, vì chúng ta “chỉ có một Cha, chỉ có một Thầy, chỉ có một vị lãnh đạo.”
Không có điều nào cho phép chúng ta nghĩ mình trổi vượt hơn người khác, dù đó là kiến thức, địa vị xã hội, hay tiền bạc … Những điều này chỉ có ý nghĩa một khi chúng ta đem sử dụng để phục vụ người khác.
Như vậy, để không dối trá với người khác, với chính mình và với tình yêu, chúng ta phải gạt bỏ đi thế giới đầy ảo tưởng và những vẻ bên ngoài mà tính ích kỷ và thói kiêu ngạo hay tạo nên nơi chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta không còn muốn “thu góp” và “xuất hiện”, lúc ấy chúng ta mới bắt đầu “là”.
Cái nhìn đức tin xuyên thủng tấm màn bên ngoài. Cái nhìn của những người Pharisêu, cái nhìn dối trá, thật quá thô thiển, bởi vì nó chỉ mong tìm vinh quang và ích lợi. Cái nhìn này không cho chúng ta nhận ra những chiều kích về con người cũng như về Thiên Chúa. Chúng ta chẳng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó những vẻ hào nhoáng này rơi xuống, và khi ấy những chiều kích đích thực sẽ xuất hiện, trong đó -như lời Đức Giêsu- “người đầu hết sẽ trở nên cuối hết, và người cuối hết sẽ nên trước hết.”
“Trong tất cả thảm kịch của Chúa Giêsu, người ta cảm nhận ra vì sao người Pharisêu lại sợ Người. Bởi vì sự hiện diện của Người làm mờ đi sự hiện diện của họ, và chính vì sự ghen tương mà họ đã không có được sự sáng suốt để nhận biết Người … Họ đã cảm thấy không có vũ khí ngang tầm để tấn công Chúa Giêsu. Họ đã cảm thấy ở Người có một sự chân thật, một sự chất phác mà họ không thể với tới được. Họ đã muốn bịt tiếng nói đó, bởi tiếng nói đó quá trung thực khiến họ không thể thoát được …
“Nếu chúng ta làm điệu làm bộ với mốt này, mốt nọ, điều đó ích lợi gì cho ai, vì đó chỉ là những điệu bộ. Điều mà dân chúng chờ đợi, đó là một ý thức sắc bén về sự công bằng, lòng nhân ái, một sự rộng mở của con tim, rộng mở đến vô hạn, đến độ người ta nhận ra ở đó có cái gì rất lạ lùng, một ý tưởng của Thiên Chúa …” (x. Maurice Zundel, “Sống với Chúa trong cái thường ngày”, tập 1, trang 33-35).
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
BIỆT PHÁI GIẢ HÌNH- Radio Veritas Asia
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
“Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói.”
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ”.
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
“Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người”.
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng ta canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
ĐỪNG SỐNG GIẢ DỐI KIỂU BIỆT PHÁI! – Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
(Ml 1,14- 2,2.8-10; 1Tx 2,7- 9.13; Mt 23,1- 12)
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được trọng vọng. Sự huênh hoang tự đắc gần như nó đã bén sâu trong tâm trí con người ở mọi thời. Vì thế, nhiều người đã cố gắng bằng mọi cách có thể để ngụy trang cho mình, hầu mong đạt được mục đích.
Những kiểu cách này, đã được các Luật Sĩ và Biệt Phái khai thác triệt để và sử dụng chúng như lá bùa hộ mệnh cho mình.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thấu hiểu tường tận những con người này, vì thế, chúng ta không lạ gì khi dạy các môn đệ và dân chúng bài học khiêm nhường, Ngài đã đưa ra hình ảnh đối lập nơi những Luật Sĩ và Biệt Phái để làm toát lên tác hại của sự dối trá, giả hình.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trung thành, khiêm tốn, làm việc trong sự thật và lòng mến. Có thế, công việc của chúng ta mới được đẹp lòng Chúa, nếu không, hẳn sẽ thất bại.
- Ý Nghĩa Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc I cho chúng ta biết: sau khi vua Cyrô cho dân Dothái được hồi hương và tự do thờ phượng Thiên Chúa. Dân chúng quá đỗi vui mừng. Tuy nhiên, sự hồ hởi, nhiệt huyết buổi ban đầu dần dần lắng xuống và vụt tắt, nhường chỗ cho sự ươn lười, chểnh mảng của cả người lãnh đạo lẫn dân chúng. Vì thế, dẫn đến hệ quả là: người dân thì sống vô cảm, tranh dành và ganh tỵ với nhau, còn những nhà lãnh đạo thì quan liêu, hách dịch, tự kiêu, bảo thủ và dối trá…
Đúng lúc đó, tiên tri Malakhi xuất hiện, ngài đã vạch trần nguyên nhân của sự xuống cấp này, đồng thời chỉ cho thấy trách nhiệm thuộc về các vị lãnh đạo. Họ đã không tìm ý Chúa để thực thi, nhưng họ đã thượng tôn chính kiến của mình và tìm những lợi lộc thấp hèn cho riêng bản thân.
Khi đến, tiên tri Malakhi đã kêu gọi họ sám hối để được tha thứ, tránh được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và giao hòa lại với Ngài, hầu xứng đáng là người thay mặt Chúa, hướng dẫn dân đi theo đường công chính.
Sang bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã trở nên vị lãnh đạo đối lập lại với các nhà lãnh đạo của thời tiên tri Malakia trong bài đọc I. Thánh nhân đã luôn tìm thánh ý Thiên Chúa để thực thi. Luôn quy chiếu mọi vinh dự và vinh quang về Thiên Chúa, còn bản thân của ngài thì chỉ là đầy tớ phục vụ trong lòng mến.
Chính tâm tình như thế, thánh Phaolô đã trở thành mục tử luôn hy sinh, sống hết lòng vì đoàn chiên được trao phó. Sống tinh thần phục vụ chứ không để người khác phục vụ. Chính gương sáng đó nơi ngài mà dân thành Thêxalônica có một đời sống đạo thật vui tươi, hân hoan và yêu thương nhau.
Sang bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã chỉ rõ cho các môn đệ và dân chúng về ích lợi của sự khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ làm cho tư cách và hành động của người môn đệ trở nên hấp dẫn, vì lời nói và hành động của họ đi đôi với nhau.
Đời sống và cung cách ứng xử của người loan báo Tin Mừng cần tránh hết sức bao nhiêu có thể những thói kiêu căng, cứng ngắc, hám danh, thích quyền và sai khiến như các Luật Sĩ và Biệt Phái. Vì thế, tư cách của nhà lãnh đạo theo tinh thần của Chúa, chính là: khiêm nhường, tự hạ, trung thực, hiền lành, lắng nghe, đơn sơ, và hăng say phục vụ chứ không mong được người khác phục vụ. Có được những đặc tính đó, người môn đệ sẽ hành động vì Chúa, nhân danh Chúa và quy hướng về Ngài hết thảy.
- Lối sống giả hình của những “Rapbi” Dothái
Hình ảnh và đời sống của người kiêu ngạo và khiêm nhường luôn luôn đối lập nhau. Kiêu ngạo, giả dối là thuộc về phe ma quỷ, còn khiêm tốn là thuộc về bản chất của Thiên Chúa. Người đi theo ma quỷ, hẳn sẽ thuộc về chúng với tất cả những đặc trưng của chúng. Người thuộc về Thiên Chúa thì luôn mang trong mình phẩm hạnh của Ngài.
Khi thấy được những Luật Sĩ và Biệt Phái sống kiểu quen trò bịp bợm thói lưu manh…, Đức Giêsu đã không muốn để cho dân chúng bị mắc hợm và cũng không muốn các môn đệ của mình khi thi hành sứ vụ lại có một lối sống như họ. Vì thế, Ngài đã thẳng thắn phê phán họ cách công khai và hướng dẫn các môn đệ về cách thức thi hành Luật Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu phán: “Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm”. Không được sống kiểu: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều).
Nguyên nhân dẫn đến việc các Biệt Phái và Luật Sĩ sống giả đò nhân đức là vì:
Họ thuộc hạng người chỉ biết tìm lợi lộc cho mình, hám danh, muốn được mọi người ta ca tụng ở nơi công cộng là đạo đức, tốt lành.
Cũng chính vì những ý tưởng đó chủ đạo, nên họ mới nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo cốt để cho người ta chú ý và khen là mình đạo đức, khôn ngoan, chứ không nhằm nhắc nhớ mình nhớ đến luật Chúa hầu thực hành cho đúng cốt lõi của Luật.
Chính cách sống đó, dẫn họ đến thái độ ưa được người ta chào hỏi nơi công cộng, thích được ngồi cỗ nhất trong đám tiệc và mong muốn được người ta chào mình bằng thầy….
Nói chung, thực ra những người Luật Sĩ và Biệt Phái này họ thuộc hạng am tường Kinh Thánh thật. Nhưng điều đáng nói chính là sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của họ. Họ giải thích luật thật cặn kẽ và bó buộc người ta phải thi hành từng chi tiết. Tuy nhiên, với bản thân họ thì không hề để ý tới. Họ thuộc dạng nói một đàng, làm một nẻo: “Ngôn hành bất nhất”; hay: “Mồm miệng đỡ chân tay”.
Thấy được hình thức của họ, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ và dân chúng hãy vâng nghe lời họ giảng dạy khi họ nhân danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, lòng đạo đức của họ thì hoàn toàn giả dối, vì thế không được làm theo.
- Sống Sứ điệp Lời Chúa
Khi nghe bài Tin Mừng này, hẳn nhiều người trong chúng ta luôn có thái độ phê phán những nhà lãnh đạo tinh thần…, tuy nhiên, xét về một góc độ nào đó, mỗi người chúng ta cũng đang là những người nắm giữ vai trò đại diện cho Chúa khi đảm nhận trọng trách là người cha, người mẹ trong các gia đình, hay là những người lãnh đạo một hội đoàn, tập thể nào đó trong đạo…. Vì thế, chung một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy thống nhất trong việc giữ đạo và sống đạo. Giữa niềm tin và cuộc sống phải ăn khớp với nhau. Cần tránh kiểu: “Ngôn hành bất nhất” giống như những người Luật Sĩ và Biệt Phái. Đừng giống như những người lãnh đạo tinh thần Dothái khi xưa là: chỉ lo tô son trét phấn bên ngoài như kiểu mồ mả tô vôi, còn bên trong thì nhơ bẩn, thối tha. Nếu sống như vậy, chúng ta đâu khác gì những tay hề chuyên nghiệp trên sân khấu đang diễn một vở kịch châm biếm!
Mặt khác, cần tránh thói kiêu ngạo, khoe khoang, phô trương, giả hình và bất nhân…. Bởi vì những tính cách đó là con đẻ của ma quỷ. Nhưng hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại và khiêm nhường. Sống trong tâm tình và thái độ của kẻ bé mọn, tôi tớ, đến để phục vụ chứ không phải được người khác phục vụ.
Thật vậy, đời sống khiêm nhường là thuộc về phẩm hạnh của Thiên Chúa và được Ngài yêu mến. Sống đức khiêm nhường là được ở trong Thiên Chúa. Hành động khiêm nhường sẽ được Chúa chúc lành. Người khiêm nhường sẽ thành công và được nhiều người ca tụng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa, vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
NGÔN HÀNH NHƯ NHẤT – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mt. 23, 1-12
Kính … Thời Đức Giêsu, những người Pharisêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu nhìn thấy trong lối sống đạo của họ có những biểu hiện lệch lạc làm hoen ố đạo thật. Nhân đó Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo.
Đừng nói, hãy làm. Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Nên người ta dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn thế khi việc làm mâu thuẫn với lời nói. Như trường hợp những người Pharisêu : Họ sống vẻ bề ngoài: “Họ làm tất cả các công việc đều có ý cho người ta thấy” (Mt 23,5). Và hơn nữa, ngôn hành của họ thật bất nhất “vì họ nói mà không làm” (Mt 23,3), họ trở nên nô lệ cho sự lừa dối của chính mình bằng cách chỉ tìm kiếm lời khen và sự ngưỡng mộ của người khác. Thành thử ra, những lời họ dạy về đạo trở thành phản chứng, làm cho người nghe khó chấp nhận. Khi phê phán thái độ của người Pharisêu, Đức Giêsu muốn dạy ta đừng nói nhiều, nhưng hãy làm, lời nói phải đi đôi với việc làm. Ngôn hành phải như nhất, đừng có dạy người ta sống một đàng, mình sống một nẻo.
Đấy là thái độ của người Pharisiêu. Cũng tựa như chúng ta đang sống trong Giáo Hội luôn thưa với Chúa rằng : Lạy Chúa, con tin, con thờ lạy và yêu mến Chúa, nhưng trong thực tế lại không thực hành Lời Chúa dạy. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nhiều người cho rằng : Cứ đọc nhiều kinh, xem nhiều sách Đạo, hay nói về Chúa, về Đạo một cách thông thạo, như thế là người đạo đức. Không phải thế, Đức Giêsu nói : “Không phải mọi kẻ nói với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21). Người đạo đức thật không phải là người đọc nhiều kinh, nhưng là người sống theo những kinh mình đọc.
Nếu đem những kinh chúng ta đọc hàng ngày đối chiếu với cách ta sống, thật xa vời. Cụ thể như Kinh Kính Mến ta đọc : “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sưc, trên hết mọi sự…” Kính mến Chúa trên hết mọi sự là coi Chúa hơn của cải, hơn người thân, hơn chính mình, thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa. Thế mà, trong đời sống, chỉ vì một chút lợi lộc khiến ta liều mình làm điều mất lòng Chúa. Như thế có phải là người kính mến Chúa trên hết mọi sự không? Ta đọc tiếp : “Vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vây”. Yêu người như mình, nghĩa là ta muốn mình sao thì muốn cho người khác làm vậy. Ta muốn người khác giúp đỡ ta mà ta không bao giờ giúp ai, ta không muốn ai nói xấu ta, mà ta cứ nói xấu người khác. Như vậy, mà nói là thương yêu người ta như mình ta vậy, đó là nói dối.
Còn Kinh Lạy Cha : “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Mỗi lần đọc câu ấy, ta như nói với Chúa rằng : Lạy Chúa, con tha thứ cho anh chị em con rồi, xin Chúa cũng tha thứ cho con. Ngoài miệng nói thế, nhưng trong lòng vẫn còn chấp lỗi nhưng kẻ làm mất lòng ta. Như vậy, lời kinh ta đọc không đi đôi với đời sống và việc làm ta làm.
Người ta thường nói con đường xa nhất là từ con đường từ miệng tới tay. Từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa tắp. Một người dù có nói hay mấy chăng nữa mà không đem ra thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói : “Ăn vóc học hay”, ăn để mà học, học để biết, biết để mà làm. Nhưng thực thế trong xã hội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Bài Tin Mừng nhắc nhở ta nhìn lại lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta phê bình, yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính mình lại không tự sửa sai. Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm. Chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng mình lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta dạy con cái sống thành thật, nhưng mình lại quanh co, gian dối với người khác. Nếu sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, Chúa sẽ cảnh cáo chúng ta, người khác sẽ vào thiên đàng, còn chúng ta thì sao?
Người môn đệ Chúa Giêsu không như thế, trái lại: “Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi” (Mt 23,11). Và chúng ta chỉ có một Cha, còn tất cả đều là anh em với nhau. Tin Mừng nói rõ cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể tách rời chiều dọc (Cha) chiều ngang (chúng ta) hoặc, như Chúa nhật tuần trước, “ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi (… ). Và yêu tha nhân như chính mình ngươi“(Mt 22,37,39).
Vậy, chúng ta hãy để cho tình yêu Thiên Chúa tái tạo và thành luyện con tim chúng ta, làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, để chúng ta không còn sống cho mình, sống lý thuyết suông nữa mà sống cho tình yêu: mến Chúa yêu người, sống ngôn hành như nhất. Một đới sống như thế chắc chắn sẽ mang lại hoa trái tốt lành như lòng Chúa mong ước.
Xin Mẹ Maria dạy chúng ta biết sống và thực hành Lời Chúa như Mẹ. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
LỜI NÓI VÀ HÀNH ĐỘNG – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Bài đọc 1: Ml 1, 14b-2, 2b. 8-10
Bài đọc 2: 1 Tx 2, 7b-9. 13
Tin mừng: Mt 23, 1-12
Sau khi ghi lại các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các người Biệt phái và các thủ lãnh trong dân Do Thái, thánh Matthêu đã thu tập lại trong chương 23, lời kết án của Chúa Giêsu đối với lớp người này. Mặc dù biết rõ những người này đang tìm mọi cách để bắt, kết án và giết mình, Chúa Giêsu vẫn không ngần ngại tố cáo đời sống giả hình của lớp người lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ. Đồng thời, cũng nhân dịp này, Chúa Giêsu mời gọi từng người chúng ta sám hối, luôn sống khiêm tốn sẵn sàng phục vụ trong yêu thương vì tất cả chúng ta là anh em cùng một Cha trên trời.
- Chỉ có một Chúa, một Thầy và một vị lãnh đạo:
Vào thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cùng với các luật sĩ đã đặt ra không biết bao nhiêu là lề luật đến nỗi họ cũng chẳng biết đâu là chính, đâu là phụ. Họ đã “chẻ sợi tóc làm tư” khiến lề luật trở nên một “gánh nặng” cho đám đông dân chúng. Nhưng bản thân họ lại “không muốn giơ ngón tay lay thử”. Họ bắt ép người khác giữ luật một cách khắt khe, nhưng lại dễ dãi với bản thân mình. Những điều họ làm, những nghi thức đạo đức họ thực hiện chỉ có một mục đích duy nhất là “có ý cho người ta thấy”. Và mặc dù là giả dối, họ vẫn luôn muốn được mọi người tôn kính, muốn được “bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “Thầy”.
Đứng trước thái độ giả hình đó của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau… Các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời … Các ngươi chỉ có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô.”. Đó cũng là điều mà ngôn sứ Malakhi nhắc nhở dân Do Thái vào thời của ngài: “Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của các tổ phụ chúng ta?”. Đối với vị ngôn sứ, hành động khinh rẻ anh em không chỉ xúc phạm đến bản thân họ, nhưng còn là “phản bội giao ước của các tổ phụ”, nghĩa là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Vâng, chỉ có một Cha, một Thầy và một vị Chỉ đạo, vì thế, tất cả chúng ta là anh chị em với nhau. Tuy nhiên, trong cuộc sống tại thế này, Thiên Chúa vẫn dùng những người ở giữa chúng ta để thay mặt Ngài hướng dẫn cộng đoàn. Thế thì mối tương quan giữa những người này với anh chị em mình là như thế nào?
- Người lãnh đạo theo Tin mừng:
Dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể nhận ra các đặc điểm chính của một người lãnh đạo đúng với ý muốn của Thiên Chúa:
Trước hết, người lãnh đạo phải có tâm tình yêu mến như lời Thánh Phaolô tâm sự với giáo đoàn Thessalonica: “Như những người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa.”. Trong sứ mạng rao giảng của mình, thánh nhân đã coi những người mình chịu trách nhiệm như là những người con của mình. Noi gương Đức Kitô, vị lãnh đạo duy nhất, Ngài đã sẵn sàng hiến cả mạng sống cho họ.
Kế đến là tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu tuyên bố: “Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi”. Không chỉ nói, đọc lại cả Tin mừng, chúng ta sẽ thấy, Chúa Giêsu đã sống tinh thần phục vụ này thật tuyệt vời. Tin mừng nhiều lần ghi lại sau những ngày rao giảng mệt nhọc, Chúa Giêsu đã muốn cùng các môn đệ lui vào nơi hoang vắng để nghỉ ngơi, nhưng khi thấy đoàn lũ dân chúng đông đảo, thì Ngài lại “chạnh lòng thương”, và thế là công việc phục vụ của Ngài lại tiếp tục (x. Mt 14, 14; Mc 3, 20). Cao điểm của đời sống phục vụ này chính là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ trong bữa ăn sau hết, Ngài nói: “Vậy nếu Ta là Thầy, là Chúa mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 15).
Người lãnh đạo theo mẫu gương của Chúa Giêsu còn là một người sẵn sàng hy sinh, chịu đựng vất vả, để không trở nên cớ vấp phạm hay gánh nặng cho bất cứ ai như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai chúng ta vừa nghe: “Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em”.
Như thế, những người lãnh đạo trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo đều phải luôn ý thức rằng: mình hành động nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Đức Kitô chứ không phải là do mình. Quyền bính mình nhận được là để phục vụ và xây dựng cộng đoàn, chứ không phải để “ăn trên, ngồi trước”. Vì thế, chính bản thân những người này phải sống trước hết điều họ rao giảng cho người khác, hay nói một cách khác: họ phải “ngôn – hành như nhất”.
Tuy nhiên, về phía mình, có một điểm chúng ta cũng cần lưu ý, đó là thái độ sẵn sàng đón nhận chân lý, cho dù chân lý đó đến từ những người mà chúng ta không thích. Thật vậy, mặc dù không đồng ý với cách sống giả hình của hàng lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ, và Ngài cũng không ngần ngại khi trách mắng họ nặng lời, nhưng Chúa Giêsu vẫn căn dặn dân chúng: “Các Luật sĩ và các người Biệt phái ngồi trên toà Môisen: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ”.
Để thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần có một đời sống nội tâm vững chắc, một mối tương quan riêng tư mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta cần ý thức rằng mình theo đạo, sống đạo không phải vì người này hay người kia, nhưng trước hết, vì phần rỗi của riêng cá nhân chúng ta và vì lòng yêu mến Chúa.
Nhiều người chỉ vì không thiện cảm với Cha xứ, các tu sĩ, Ban hành giáo hay thậm chí vì một vài bất đồng nhỏ với anh chị em, đã vội bỏ lễ với lý luận: “Tới nhà thờ nhìn cái mặt đó là thấy ghét rồi nên tôi không đi lễ nữa”. Như thế, chúng ta giữ đạo vì ai và cho ai? Chúng ta đến nhà thờ là để gặp Chúa hay gặp ai? Nếu chúng ta chỉ giữ đạo cho người khác thấy thì quả thật, chúng ta cũng chẳng khác gì những người Biệt phái trong Tin mừng hôm nay.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta chỉnh đốn đời sống của mình cho phù hợp với lời miệng chúng ta tuyên xưng như ước mong của Chúa Giêsu: “Chúng con phải sống thế nào để người khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời” (Mt 5, 16). Và chính đời sống ngay lành, thánh thiện, công bình, tha thứ và bác ái của từng người chúng ta sẽ là một lời rao giảng Tin mừng hùng hồn nhất, vì con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, cùng với sự nâng đỡ của Thánh Thể, ước mong mỗi người chúng ta luôn hết sức khiêm tốn, lắng nghe mọi giáo huấn của Chúa qua Giáo Hội và các thừa tác viên của Ngài. Và rồi khi trở về nhà, chúng ta hãy sống trọn giáo huấn của Chúa, để “Lời Chúa thực sự là ngọn đèn soi cho con bước” (Tv 118, 105). Amen.