CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TÌNH YÊU VƯỢT XQ CÔNG LÝ– Chú giải của Fiches Donimicales 6
CÔNG BÌNH VÀ LÒNG NHÂN ÁI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 15
TỰ DO VÀ LÒNG NHÂN LÀNH CẢU THIÊN CHÚA- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 27
LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 38
LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 52
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO- Suy niệm của Noel Quession 66
LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 74
THÁI ĐỘ MỚI ĐỐI VỚI ANH CHỊ EM TRONG CỘNG ĐOÀN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 77
VUI VỚI NGƯỜI VUI– Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 84
LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 88
LÒNG NHÂN HẬU – Lm. Gioan.M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 95
THỢ LÀM VƯỜN NHO- Trích Logos A.. 98
ĐỒNG LƯƠNG XỨNG ĐÁNG- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 104
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi”.
Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
ĐÁP CA: Tv 144, 2-3. 8-9. 17-18
Đáp: Chúa ở gần mọi kẻ kêu cầu Người (c. 18a).
1) Hằng ngày tôi sẽ chúc tụng Chúa, và tôi sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi người, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Người, mọi kẻ kêu cầu Người cách thành tâm.
“Đối với tôi, sống là Đức Kitô”
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi. Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Đức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô.
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
“Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
———————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TÌNH YÊU VƯỢT XQ CÔNG LÝ– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39). Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả, nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác định cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế, những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ. Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
Câu chuyện khởi đầu rất bình thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm…”? ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương ‘bắt đâu từ những người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im lặng, ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với nhưng người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “ông đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
… hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”. Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin kết luận: Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời – làm như thể khi cứu vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành. Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.
BÀI ĐỌC THÊM:
-Công bình kỳ cục (G. Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta trở nên trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch… vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta, phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
-Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz, Le Règne des cieux siest approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên: “Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CÔNG BÌNH VÀ LÒNG NHÂN ÁI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV năm A này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha và cứu thoát, vì tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang sống trong cảnh giam cầm, bị giằng co giữa đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh nhân phó thác số phận của mình vào lòng nhân hậu của Chúa.
Mt 20: 1-16
Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích dẫn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đầy ở Ba-by-lon vào khoảng những năm 545-540 trước Công Nguyên, họ đang mong chờ ơn giải thoát, nhưng vài người trong số họ nghi ngờ và nhụt chí. Trong bối cảnh như vậy, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (ch. 40-55), khẩn thiết loan báo những chủ đề hy vọng; ông nhấn mạnh niềm tin vào một Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn.
Thiên Chúa rộng lòng tha thứ:
Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải:
“Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55: 6).
Phải chăng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh dân Ngài trong cảnh lưu đày còn gần gũi hơn khi Ngài còn ngự giữa họ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên vào lúc ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách diễn tả: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Hoán cải không gì khác hơn là tránh xa điều gian ác. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng chung nhịp bước với cuộc trở về với Thiên Chúa.
“Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương -, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người rộng lòng tha thứ” (Is 55: 7)
Động từ “tha thứ” nầy được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ, vì sự tha thứ nầy không có cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người. Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là:
“Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55: 8).
Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở dưới tận chốn đất thấp. Làm thế nào đầu óc nhỏ bé của phàm nhân có thể hiểu được đường lối cao vời khôn ví của Thiên Chúa được chứ? Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào tha thứ được, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết rằng Ngài vô cùng độ lượng, rộng lòng tha thứ và sẵn lòng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ cất bước trở về với Ngài, cũng như Ngài sẵn lòng trả công bội hậu vượt quá công sức của con người.
Thiên Chúa siêu việt và toàn năng.
Ngôn sứ I-sai-a kết thúc sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng siêu việt và toàn năng:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Ngôn sứ I-sai-a kết nối sự cao cả của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mỏng dòn, bởi vì tất cả chúng ta là những tội nhân, còn Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài ôm ấp trong lòng những tư tưởng cứu độ. Các tác giả thánh vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa, như Tv 145 (144) mà Phụng Vụ mời gọi chúng ta cất cao lời chúc tụng Đức Chúa hôm nay:
“Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng, Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145: 3).
Đây là ý tưởng truyền thống mà Đức Giê-su dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Ở thành phố này, các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, vì thế một đám thính giả đông đảo lắng nghe thánh nhân chắc hẳn đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, kể từ khi đặt chân đến thành Phi-líp-phê, thánh nhân luôn luôn dành cho các tín hữu này một ân tình tròn đầy. Như chúng ta biết thánh Phao-lô đã không muốn đón nhận sự trợ giúp của bất kỳ cộng đoàn tín hữu nào, ngỏ hầu Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng là một ân ban nhưng không. Tuy nhiên, thánh Phao-lô chỉ đón nhận sự giúp đỡ của các tín hữu Phi-líp-phê, vì thánh nhân muốn bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài danh cho họ.
Hoàn cảnh của thánh Phao-lô khi viết thư gởi tín hữu Phi-líp-phê:
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn bức thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp, chứa đựng một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và trọn một cuộc đời gắn bó vào Đức Ki-tô. Vốn tính tình bộc trực, ấy vậy những lời khuyên bảo của thánh nhân lại nồng nàn chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết bức thư nầy, ngài đang sống trong cảnh giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô, vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Ki-tô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài, thánh nhân chỉ còn biết nguyện ước. Sự giằng co đôi đàng, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã mà thánh nhân có quyền chọn lựa nhưng là thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu đoạn thư trích dẫn: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn , trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Giê-su sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống, hay tôi chết” (Pl 1: 20).
Chết là một mối lợi.
Bị giằng co giữa hai giải pháp khả dĩ: chịu chết hay được phóng thích, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi… ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều nầy tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích của cuộc đời mình: “sống là Đức Ki-tô”. Ở bên kia cái chết, thánh nhân được nên một với Đức Ki-tô cách trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thì thánh Phao-lô hoàn thành tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa… Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích thư Cô-rin-tô nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc “nhị nguyên thuyết” của tư tưởng Hy lạp; tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của triết lý Hy lạp này, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, Vị Tông Đồ dân ngoại ca ngợi thân xác nầy là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Ki-tô sau khi chết; tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã khởi sự ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Ki-tô hữu vốn là đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ cùng với chúng ta. Thần học của Giáo Hội tiếp nối thần học của thánh nhân trên lộ trình nầy. Cái chết không làm gián đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Ki-tô.
Niềm say mê loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn mang trong lòng mình niềm say mê loan báo Tin Mừng đến mức thánh nhân xem việc loan báo Tin Mừng như một trách nhiệm mà mình buộc phải chu toàn: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Vì thế, lời căn dặn đầy tâm huyết sau cùng của thánh nhân gởi đến họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Ki-tô”.
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy khép lại một loạt những dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố giúp cho thính giả của Ngài hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su có chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp hướng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra một bài học. Ở đây, điều thú vị của câu chuyện hệ tại ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm.
Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân lộc của Ngài.
Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo cùng một tư tưởng của Bài Đọc I:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Vì thế, thật là vô lý nếu chúng ta tiếp cận dụ ngôn nầy theo nhãn quang trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, trước tiên chúng ta nên khảo sát cách hành xử của con người với con người trong giao tiếp xã hội. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra rất gần gũi hơn với thế giới của chúng ta, một thế giới đang quần quại trong nỗi đau của đa số người cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Suốt ngày, họ đứng đó mong chờ bất kỳ ai thuê họ bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm cho gia đình. Ông chủ trong Tin Mừng năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy hàm chứa một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được tiền công nhật đầy đủ để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một quan tiền, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
Sống trong tư thế sẵn sàng:
“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong tâm trạng nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ cũng đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người khác. Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một chiều hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4: 26), không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận Mặc Khải của Ngài.
Nổi bất bình của những thợ đầu tiên.
Những người thợ làm việc ngay từ tảng sáng sớm ngạc nhiên đến bất bình trước việc ông chủ trả tiền công: làm sao ông có thể trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc khí trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng như thiêu như đốt được chứ? Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng trong đó người con cả công phẩn trước cách đối xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu cách hành xử của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng của tình phụ tử.
Trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay, ông chủ trả lời một trong những người bất bình với một cung giọng quở trách: “Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan tiền sao?”, như Đức Giê-su quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm!” (Mt 26: 50), hay như đức vua quở trách một trong những khách vào dự tiệc cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22: 12).
Công bình và lòng nhân ái:
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ là mình được gọi vào làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã đổ nhiều công sức trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt, không bỏ sót một điều luật nào, nên tỏ ra thái độ khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái”.
Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Những Ki-tô hữu gốc lương dân là những người đến sau lại được gọi gia nhập Nước Trời và được hưởng vô vàn những ân lộc mà Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Vì thế, dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho những Ki-tô hữu gốc lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ vào những giờ phút sau cùng của cuộc đời mình. Ví dụ cảm động nhất không phải là ví dụ tên gian phi sám hối đấy sao? Cả một đời gian ác, nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- Năm A
TỰ DO VÀ LÒNG NHÂN LÀNH CẢU THIÊN CHÚA- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Trong các giáo huấn luân lý, ngay từ đầu Đức Giêsu đã tuyên bố rằng, là những con người, chúng ta không được tỏ ra thụ động, dửng dưng, chúng ta phải cộng tác để có thể thuộc về Nước Trời. Người đã khẳng định rõ ràng rằng chúng ta phải có một sự công chính “dồi dào hơn” (5,20), chúng ta phải làm thánh ý của Chúa Cha (7,21), để được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn Kho tàng chôn giấu trong ruộng và Viên ngọc quý, Người cho thấy rằng Nước Trời xứng đáng được yêu cầu người ta dồn hết sức mà theo đuổi (13,44-46). Phêrô đã hỏi: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (19,27). Đức Giêsu không gạt bỏ câu hỏi về phần thưởng; Người hứa ban cho các môn đệ một phần thưởng gấp trăm và sự sống đời đời (19,29). Hành động đúng và dấn thân trọn vẹn là những điều cần thiết, và chúng ta có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa quảng đại nhìn nhận và chúc phúc. Bài dụ ngôn Những người thợ vườn nho bổ sung cho nguyên tắc trên đây ở điểm: chúng ta không thể khẳng định một quyền gì trước nhan Thiên Chúa. Chính vì thế có liên từ “bởi vì/quả thế” (gar) mở đầu cho bài[1].
Bài này được ngỏ với các môn đệ, với người Pharisêu, hay là nhắm đến các tương quan giữa Do Thái và Dân ngoại? Ngữ cảnh gần cho thấy rất rõ là Đức Giêsu nói với các môn đệ: trong các bản văn trước cũng như trong các bản văn tiếp sau, các thính giả là các môn đệ. Và chính là nhân một câu hỏi rõ rệt của Phêrô mà Đức Giêsu kể dụ ngôn này. Có thể Người cũng nghĩ đến người Pharisêu hoặc toàn thể Israel, được tượng trưng bằng “những kẻ đứng đầu” lại thành “chót”? Rất có thể như thế, nhưng không có chi tiết nào trong bản văn bảo đảm như thế cả. Vậy phải giải thích dụ ngôn theo câu hỏi của Phêrô.
Nhân câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu đã nói về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi Người kể dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho. Dường như tâm trí Phêrô là tâm trí tính toán: phải tha mấy lần? Ông sẵn sàng tỏ ra quảng đại tối đa: tới bảy lần (con số chỉ sự hoàn hảo). Đức Giêsu đẩy đi xa hơn: Phải tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là cứ cố gắng hoàn hảo “hơn”. Trong thực tế, Đức Giêsu cho biết rằng người ta không thể dàn xếp các vấn đề quan hệ liên vị dựa theo kiểu khối lượng được.
Rồi trong hoàn cảnh hiện tại, Phêrô muốn biết những ai đã bỏ mọi sự để phục vụ Đức Kitô thì được thưởng thế nào. Hai vế của phương trình phải cân bằng: phục vụ và hy sinh bao nhiêu thì phần thưởng bấy nhiêu. Đức Giêsu nồng nhiệt trả lời và đảm bảo rằng họ sẽ được ban thưởng bội hậu. Thế nhưng câu hỏi của Phêrô sai chỗ và cho thấy có một thái độ sai lạc. Nước Thiên Chúa không dựa trên luật có qua có lại; trong Nước này, không có chuyện các công trạng cá nhân được đánh giá theo số giờ làm việc. Trước tiên, đây là vấn đề đón nhận một ân huệ.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
-Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (20,1-7);
-Cách trả lương (20,8-12);
-Ông chủ giải thích (20,13-15);
-Kết luận (20,16a).
Vài điểm chú giải
– Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền (2): Một đồng quan là lương thông thường một ngày làm việc vào thời Đức Giêsu. Ghi nhận về sự thỏa thuận này quan trọng để có thể đưa tới kết luận đầy kịch tính. Sách Mishnah tính là một người cần tối thiểu 200 quan một năm để có thể sống, tức giả thiết là một người làm công có thể tìm ra việc ít nhất 200 ngày một năm. Một quan có thể mua được từ 10 đến 12 ổ bánh mì nhỏ; 3 đến 4 quan thì mua được 12 lít lúa mạch (để làm được 15 ký bánh mì) hoặc một con chiên; 30 quan mua được một bộ quần áo nô lệ; 300 quan mua được một con bò. Theo giá đó, ta biết đời sống của một người làm công cũng khó khăn.
– Khoảng chín giờ sáng (3): Dịch sát là “Giờ thứ ba”. Mặc dù giờ pháp lý bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, người ta vẫn tính giờ kể từ khi mặt trời mọc. Do đó, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và giờ thứ mười một tương đương với 9g, 12g, 15g và 17g. Ngày làm việc kết thúc vào khoảng 18g.
– bắt đầu từ những người vào làm sau chót (8): Cách trả lương như thế là bất thường. Nhưng câu truyện được xây dựng sao cho độc giả hiểu được lý do khiến những người thợ đầu tiên phải cằn nhằn.
– Này bạn (hetaire, 13): Hetairos là “người bạn đường”. Người ta thường dùng từ này để xưng hô với kẻ mà người ta không biết tên. Những người thợ làm giờ đầu đã không thưa gửi gì cả với ông chủ, nên ông chủ đã làm họ phải bẽ mặt khi bắt đầu câu trả lời bằng lời này. Ở đây hẳn là lời xưng hô này vừa toát ra sự tốt lành, vừa nhuốm màu trách móc.
– Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? (15): Dịch sát là “Hay mắt bạn xấu vì tôi tốt lành?”. Câu này là chìa khóa mở ra bài học của dụ ngôn. Đối với người Do Thái, căn cứ của tư tưởng, tức của những tâm trạng tốt và xấu, là trái tim; trái tim thông truyền các phản ứng của nó ra bên ngoài qua con mắt. Do đó, phẩm chất của con mắt cũng chính là phẩm chất của trái tim, hoặc của tâm hồn (x. 6,22; x. Mc 7,22; Cn 22,9; 23,6-7; 28,22).
Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu đã tạo ra một dụ ngôn với khung cảnh là việc chăm sóc vườn nho. Ông chủ nhà (oikodespotês) đi ra chợ thuê mướn thêm thợ, từ lúc đầu ngày, khi mặt trời mọc, cho đến khi chỉ còn một giờ nữa là chấm dứt ngày làm việc.
* Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (1-7)
Ông chủ mời gọi mọi người ông gặp, những người ông gặp ngay lúc sáng sớm, cũng như những người ông gặp lúc trưa, lúc xế chiều, thậm chí lúc trời đã về chiều. Với những người được mướn đầu tiên, ông đã thỏa thuận với họ tiền lương thông thường một ngày làm việc là một quan (c. 2); với những người khác, ông hứa trả cho họ hợp lẽ công bằng, và hẳn họ hiểu là chỉ một phần đồng quan thôi (cc. 4-5); còn những người cuối cùng, ông sai họ đi làm vườn nho mà không nói minh nhiên về phần lương (c. 7). Thời gian làm việc của mỗi nhóm rất khác nhau. Thuê thợ vào hai giờ cuối ngày là chuyện lạ lùng, khiến thính giả chú ý. Có những tác giả, chẳng hạn Jeremias và Flusser, giải thích rằng cần phải thu hoạch nho trước khi những trận mưa thu đến. Nhưng bản văn không xác định là đang thu hoạch nho trong mùa thu; biết đâu thợ đang làm cỏ cho vườn nho vào mùa xuân? Chi tiết này muốn thính giả hay độc giả phải tự hỏi về khả năng lên kế hoạch của ông chủ và chờ đợi xem cách trả lương vào cuối ngày.
Tác giả dành một khoảng thời gian cho những người được mướn vào giờ cuối cùng. Ông chủ hỏi tại sao họ đứng đây không làm gì cả. Họ trả lời câu hỏi “thừa” này là không có ai mướn họ cả. Dĩ nhiên, vì chính ông chủ cũng thấy là họ không có việc (cc. 6-7). Mẩu đối thoại ngắn này nhắm làm cho thính giả cũng phải dừng lại với những người thợ này. Phải chăng họ quá lớn tuổi, hay là đau ốm? Phải chăng họ ngủ quên, nên hụt mất giờ thuê mướn thợ sáng sớm? Tác giả không cung cấp một chi tiết nào để trả lời các câu hỏi này. Ngài chỉ muốn thính giả để ý tới họ thôi.
Thính giả có thể cũng đã quen với hình ảnh ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; Ngài kêu gọi dân Ngài làm việc cho Ngài. Nhưng không có chỗ nào trong truyền thống kinh sư nói rằng ông chủ mướn thợ vào các giờ khác nhau. Do đó, dụ ngôn này vẫn giữ được tính độc đáo riêng.
* Cách trả lương (8-12)
Đến chiều (opsias genomenês), người ta trả lương. Đây là truyền thống của Kinh Thánh và Do Thái giáo (x. Lv 19,13; Đnl 24,14-15). Đến c. 8, “chủ nhà” (oikodespotês) đột ngột biến thành “chủ vườn nho” (kyrios tou ampelônos); chi tiết này cũng làm cho người ta nghĩ đến Thiên Chúa. Người quản lý (epitropos) xuất hiện chỉ để thi hành lệnh lạ lùng của ông chủ: trả lương trước cho những người làm giờ cuối cùng. Mục đích hẳn chỉ là để những người làm giờ đầu tiên thấy những người kia được nhận lương thế nào.
Những người đầu tiên đã làm mười hai giờ, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (c. 12). Những người cuối cùng chỉ làm có một giờ mà thôi. Như thế, những người làm giờ đầu tiên đã phải làm dài giờ mà còn phải chịu cái nóng nực, còn những người làm giờ cuối cùng đã làm ít giờ lại được hưởng cái mát mẻ của buổi chiều. Nếu cứ theo cách tính toán chính xác thông thường, những người cuối cùng hẳn là chỉ được nhận một phần mười hai số lương của những người đầu tiên, nghĩa là một phần mười hai của một quan. Thế nhưng với những người thợ cuối cùng, dù ông chủ không hứa gì cả, ông đã trả cho họ trọn một quan. Đây là điều hoàn toàn bất ngờ, trái với sự tính toán thông thường.
Vậy những người thợ đầu tiên nghĩ rằng họ sẽ được nhận nhiều hơn, và có lẽ các thính giả cũng nghĩ như vậy. Thế nhưng mỗi người cũng chỉ nhận được một quan.
* Ông chủ giải thích (13-15)
Do đó, ông chủ đã khiến những người đầu tiên càm ràm phản đối: dường như là ông chủ đã vị phạm cách võ đoán nguyên tắc căn bản về công bình khi coi những người chỉ làm có một giờ ngang hàng với những người suốt ngày phải chịu nặng nhọc và nắng nôi. Ông chủ đã trả lời trả lời cho người phát ngôn của nhóm thứ nhất, với lời thưa gửi mở đầu là “bạn” (hetaire). Trước tiên, ông bảo vệ cách cư xử của ông dựa trên nền tảng là công bình hình thức, theo những gì đã thỏa thuận (c. 13). Thế thì người phản đối chỉ có thể cầm lấy phần của mình mà về nhà. Ông chủ cũng bảo vệ cách cư xử của mình khi nói đến quyền của người chủ là được tự do định đoạt về của cải của mình (c. 15). Cuối cùng, ông nêu một câu hỏi cho thấy động lực chân thật thúc đẩy ông ứng xử như thế: ông tốt bụng, cho dù ông không buộc phải hành động như thế. Phải chăng sự ghen tức đã thúc đẩy những người thợ đầu tiên phản đối ông?
Như vậy, ông đã trả lời để mở rộng cái nhìn hạn hẹp của họ và nhắc họ nhớ đến một loạt những yếu tố khác cũng quan trọng đối với việc lượng định lối xử sự của ông. Ông không nói với đám đông, nhưng nói với riêng một người. Các tôi tớ không được để cho mình bị ảnh hưởng bởi ý kiến của đám đông, nhưng mỗi người phải tự mình cân nhắc quan điểm của ông chủ.
* Kết luận (16a)
Có những tác giả coi câu này như câu cốt yếu của dụ ngôn. Nhưng thật ra những người đầu đâu có trở thành chót (trừ chuyện nhận lương); họ tất cả đều được hưởng một đồng lương như nhau. Đối với các người thợ, chỉ tiền bạc mới đáng kể. Câu này không được rút ra từ dụ ngôn, mà chỉ được thêm vào vì tương tự với đề tài. Trong thực tế, câu châm ngôn này nói đến sự đảo ngược các chỗ, còn dụ zgôn thì nói đến sự đối xử đồng đều.
+ Kết luận
Dựa trên c. 15, chúng ta hiểu được chiều hướng của câu truyện: nói đến lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể trong đời sống của Đức Giêsu. Giống như ông chủ vườn nho cư xử với những người thợ cuối cùng, Đức Giêsu cư xử tốt với những người không có một chuẩn mực nào mà đòi hỏi Thiên Chúa. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu bảo vệ những kẻ tội lỗi, những người không tuân giữ Lề Luật; những phụ nữ và những người nghèo, những người vì nhiều lý do, không giữ được trọn Lề Luật; những bệnh nhân bị loại khỏi cộng đồng; những người thuộc đám đông dân chúng, không biết Lề Luật là gì. Vậy bài dụ ngôn không chỉ kể về lòng nhân ái của Thiên Chúa, nhưng còn giải thích lối cư xử của Đức Giêsu đối với dân chúng.
Chúng ta không thể khẳng định mình có một quyền hay một giá trị gì trước nhan Thiên Chúa; không thể xác định được một sự tương ứng cứng ngắc giữa phần ta đóng góp và phần thưởng từ phía Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng, nhưng Ngài vẫn giữ lại cho mình quyền tự do tuyệt đối; và trên nền tảng là lòng nhân lành hoàn toàn tự do của Ngài, Ngài có thể ban tặng vượt xa mọi công trạng.
Hành động và các công trạng của con người không bao giờ thiếu ý nghĩa; chúng vẫn luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa, nhưng không thể áp đặt cho Ngài bất cứ quy tắc nào về ban thưởng, cũng không thể giới hạn tự do của Ngài trong lối hành động cũng như lòng nhân lành của Ngài. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu lưu ý chúng ta là không được tính toán với Thiên Chúa, và quy định cho Ngài những gì Ngài phải ban cho chúng ta và người khác.
Gợi ý suy niệm
-Nếu tác giả (Đức Giêsu) muốn cống hiến một bài học về công bình xã hội, thì hẳn là Người đã thất bại, bởi vì câu truyện không hề tôn trọng các luật lệ sơ đẳng nhất về sự bình đẳng. Thật ra tác giả không có ý giới thiệu một ông chủ thông thường, ban thưởng theo những đóng góp đã bỏ ra, nhưng là một ông chủ đặc biệt, có lối xử sự vượt quá kiểu tương quan bình đẳng. Giống như nhân vật chính của bài dụ ngôn, Thiên Chúa xử sự như thế trong tương quan với loài người, và theo đường lối Ngài, Đức Kitô cũng xử sự như thế khi ban ơn cứu độ cho loài người.
-Thiên Chúa gọi mọi người đi vào vườn nho của Ngài, vào các thời điểm khác nhau. Những người Do Thái được gọi trước, nhưng rồi mọi người đều được chiếu cố, dù có lúc đã tưởng mình bị bỏ quên (“Vì không ai mướn chúng tôi”, c. 7). Bài dụ ngôn không nhấn mạnh đến sự quý chuộng riêng ông chủ tỏ ra với một ai, nhưng nhấn trên những quyền bình đẳng mà mọi người đều có trước lời mời và trước phần lương được ban. Nếu trước đây ông chủ đã hoặc có thể tỏ ra thiên vị, thì từ nay không còn như thế nữa.
-Chúng ta không được so đo về các ân huệ của Thiên Chúa và than trách Ngài vì tưởng rằng chúng ta được nhận ít. Chúng ta phải chu toàn nhiệm vụ và đón nhận với lòng biết ơn những gì Ngài ban cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng tự do và lòng nhân lành của Ngài, và vui mừng khi thấy bất cứ dấu chỉ nào cho thấy lòng nhân lành của Ngài, cho dù không liên hệ đến chúng ta mà liên hệ đến người thân cận.
-Ông chủ không ban phát đồng quan cách ngẫu hứng, cho ai nhiều ai ít tùy hứng. Ông ban cho mọi người điều họ cần, và ông ban phát rộng rãi tùy theo nhu cầu của người ta. Ông không gây thiệt hại cho ai cả, nhưng lòng tốt thúc bách ông ban tặng điều cần thiết để sống, cho cả người không được may mắn. Bài học của dụ ngôn vẫn tiếp diễn trong lòng cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, trong đó vẫn vang lên lời kêu gọi sống khiêm nhường, sống tế nhị, quảng đại, như Đức Giêsu đã nhiều lần ngỏ với các môn đệ Người (x. 18,1tt; 20,22).
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- Năm A
LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta :”Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không ? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.
Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa khác hẳn con người, khác nhau như trời cao đất thấp. Con người thì thấp hèn nhỏ nhen, hay so đo ghen tị. chỉ thích giữ công bằng mà quên đi Tình yêu. Còn Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài không thích chúng ta chỉ sống như người làm thuê, tính toán sòng phẳng như kẻ mua người bán, mà Ngài chỉ muốn là người Cha yêu thương hằng săn sóc đến con cái, cung cấp cho nó những cái gì cần thiết và tốt đẹp nhất.
Vì thế dụ ngôn những người thợ được thuê vào giờ thứ 11 mà phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta sẽ va chạm với ý niệm của chúng ta về công bằng trong phân phát. Đấy và vì Chúa Kitô đặt công lý của Nước Trời trên một bình diện khác hẳn bình diện của chúng ta dưới thế gian, đến độ mà “đường lối và tư tưởng của chúng ta” bị xáo dộng và sửng sốt.
Chúng ta hãy cố gắng sống với Chúa như người con thảo, muốn làm đẹp lòng Cha yêu thương. Đừng bao giờ sống như người làm thuê trong nhà Cha mà so đo tính toán với Chúa. Hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, đừng kiêu ngạo, đừng phân bì với tha nhân. Hãy sống trong tình anh em con một Cha trên trời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 55,6-9.
Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn tránh Ngài. Tiên tri Isaia hối thúc dân Israel từ chốn lưu đầy trở về, phải sám hối và hãy tìm đến Chúa. Hay tin tưởng vào Thiên Chúa bởi vì những dự định và cách hành xử của Ngài không giống với tư tưởng của ta. Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Ngài không bắt tội mà chỉ thứ tha.
Nếu đem so sánh tư tưởng và cách cử xử của loài người và của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra một khoảng cách rất xa, rất cách biệt :”Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cao hơn của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy”
+ Bài đọc 2 : Pl 1,21-24,27.
Thánh Phaolô viết thư này ở trong tù vào khoảng năm 63 gửi cho tín hữu Philipphê biết : Ngài không biết số phận của Ngài sẽ ra sao, được tha hay bị kết án. Nhưng Ngài sẵn sàng đương đầu với tất cả :
– Nếu được thả tự do, Ngài sẽ tiếp tục rao giảng Tin mừng Đức Giêsu Kitô, và Đức Kitô sẽ được vẻ vang.
– Nếu bị giết chết, Ngài sẵn sàng hy sinh vì Chúa. Vì cái chết của Ngài cũng làm vẻ vang cho Đức Kitô.
Và Ngài kết luận : Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang nơi tôi.
+ Bài Tin mừng : Mt 20,1-16a.
Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn này có ý nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương và nhân hậu. Cách cử xử của Ngài không giống với lối cư xử của con người.
Dụ ngôn này gợi cho ta hai cách suy nghĩ :
- a) Suy nghĩ của loài người : theo cách cư xử thông thường thì người thợ làm nhiều sẽ được lãnh nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương ít. Như thế mới công bằng và hợp lý.
- b) Suy nghĩ của Thiên Chúa : ông chủ vẫn trả lương cho người làm nhiều giờ như đã hợp đồng. Nhưng ở đây, ông chủ có lòng quảng đại, muốn trả cho người thợ làm có một giờ cũng được lãnh một quan tiền mà không có hợp đồng , hoàn toàn do lòng tốt của ông chủ. Như vậy, người làm thợ giờ cuối cùng được ông chủ thương cách riêng, không có lỗi đức công bằng.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tất cả là hồng ân
TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
Tình trạng thất nghiệp.
Mọi người phải có công ăn việc làm để nuôi sống mình và gia đình. Ai cũng phải có một việc làm hoặc bằng chân tay hoặc bằng trí óc. Không có việc làm là thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp đã làm đau đầu các nhà lãnh đạo quốc gia vì phải tìm cách tạo công ăn việc làm cho dân. Ngay như nước Mỹ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hằng năm (theo đài Hà nội đưa tin hồi 07g15 sáng ngày 21.09.1987) . Ngày nay, những người thất nghiệp được nhận vào làm việc trong các nhà máy là một niềm vui và hy vọng. Ngày xưa cũng không thiếu gì người thất nghiệp cả ngày ngồi ở chợ chờ đợi mà không có chủ thuê, nếu được gọi vào làm công cho người ta thì là một sự may mắn.
Cách thuê thợ ở Palestine.
Ở Palestine, mùa hái nho chính vào đầu tháng 10. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian để kịp thu hoạch. Bất cứ người làm công nào cũng được thu nhận dù người đó chỉ làm được một giờ.
Tiền công trả cũng bình thường, một denier (một quan tiền) là tiền công của một ngày bình thường của một người làm mướn. Những người đứng ở chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến 5 giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Thời giờ trong dụ ngôn cũng là thời giờ bình thường của người Do thái. Giờ của người Do thái bắt đầu từ 6 giờ sáng và được tính từ đó đến 6 giờ chiều. Tính từ 6 giờ sáng thì giờ thứ 3 là 9 giờ sáng, giờ thứ 6 là 12 giờ trưa, và giờ thứ 11 là 5 giờ chiều.
Ý nghĩa dụ ngôn.
Để hiểu dụ ngôn này, chúng ta phải chú ý tới tâm trạng của người Do thái lúc bấy giờ. Họ quan niệm rằng : Nước Trời chỉ dành cho họ những con cái Abraham, còn người ngoại bang, dân ngoại bị loại trừ hoàn toàn. Người Do thái chiếm được Nước Trời là vì sự trung thành của họ đối với Lề luật Moisen, được thể diện ở giao ước Sinai giữa Israel và Giavê. Để đả phá quan niệm sai lầm này, Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn “Thợ vườn nho” đây, vì Nước Trời không phải là món tiền lương, hay một đặc ân, nhưng là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này là lời cảnh cáo đối với người Do thái. Người Do thái biết họ là dân được chọn, và không bao giờ quên được sự tuyển trạch đó. Kết quả là họ khinh người ngoại bang, chỉ muốn cho người ngoại bang bị hủy diệt. Thái độ này có nguy cơ được đem vào Hội thánh Chúa. Nếu người ngoại bang được cho vào thân hữu của Hội thánh thì phải vào như những kẻ thấp kém hơn.
Trong đạo Chúa không có quan niệm ưu đãi một dân tộc nào. Chính những người tin Chúa lâu năm có thể học hỏi được nhiều nơi những người tân tòng, những người mới bước vào cộng đồng đức tin.
Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái vượt thời gian và không gian. Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Đấng cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đốù kỵ, ghen ghét lẫn nhau.”Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng : bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao” ? Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng cách vạch ra cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông :”Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao ? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư” ?
Truyện : Với Chúa không có mặc cả so đo.
Một người công giáo thấy mình chết phải đến tòa phán xét. Vừa bước chân vào pháp đình, một tòa nhà nguy nga đồ sộ, liền thấy một quang cảnh vừa uy nghiêm vừa im lặng đáng sợ. Trên ngai cao rực rỡ, Chúa Giêsu ngồi oai nghi xử án, có các Thiên thần mặc toàn trắng chầu chực giúp việc. Bên hữu Chúa có một cánh cửa rộng mở một lối đi tràn ngập ánh sáng. Còn bên tả cũng có một cánh cửa, nhưng lớn hơn và nhìn vào chỉ thấy đen thăm thẳm. Trước mắt Chúa đặt một chiếc bục để con người đến đứng trình diện . Cả một biển người đủ mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc, sang hèn cao thấp chen chúc nhau, hồi hộp chờ đợi.
Và một hồi chuông rung lên, một Thiên thần cầm một quyển sổ đọc tên thì thấy một đứa bé da đen khoảng 10 tuổi đi đến đứng trên bục. Rồi Thiên thần trình cho Chúa một tờ giấy , thấy Chúa mỉm cười và giơ tay chúc lành cho em. Lập tức các Thiên thần xúm lại dẫn em vào cửa có ánh sáng giữa tiếng đàn đón chào tưng bừng.
Tiếp đến là một thanh niên da trắng và Thiên thần cũng làm như lần đầu, nhưng thấy mặt Chúa phẫn nộ giơ tay xua đuổi. Tức khắc, mấy thằng qủi nhảy tới chộp ngay lấy chàng thanh niên và lôi tuột vào cửa đen ngòm giữa tiếng la hét chửi rủa. Cứ như thế cuộc phán xét tiếp tục khi thì vui mừng khi thì đau thương.
Bỗng người công giáo thấy bà già bên luơng bước lên bục phán xét và bà ta được Chúa cho lên thiên đàng. Thấy thế, ông công giáo mừng thầm trong bụng. Đến lượt một người mà ông biết rất rõ và tin chắc thế nào cũng bị phạt vì đời sống của người ấy quá bê tha tội lỗi. Nhưng kìa Chúa mỉm cười và được các Thiên thần an ủi dẫn vào luyện ngục.
Đến đây người công giáo chắc mẩm mình sẽ được Chúa thương vì dù sao mình cũng đã theo Chúa bấy lâu nay. Do đó, khi được gọi lên toà phán xét, ông ta tỏ vẻ hiên ngang vui sướng, nhưng khi nghe Thiên thần báo cáo với Chúa về những gì đã sống thì ông ta xanh mặt run rẩy. Chúa phẫn nộ xua đuổi, lập tức ba thằng quỉ lôi tuột ông ta vào hỏa ngục. Ông ta thét lên đau đớn và tỉnh dậy. Té ra ông ta nằm mơ. Một giấc mơ hãi hùng khủng khiếp khiến ông lạnh toát cả người, suy nghĩ đặt lại vấn đề sống xưa nay. Vậy Chúa đã tỏ cho biết sai chỗ nào nghiêm trọng đến nỗi bị sa hoả ngục. (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 117)
Đọc câu truyện trên, chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta sống với Chúa như tình con thảo chứ không muốn chúng ta sống như một người làm thuê, tính toán sòng phẳng. Thực ra, những gì chúng ta có là do hồng ân Chúa ban, là món quà Chúa ban nhưng không.
Suy đi nghĩ lại, chúng ta thấy đó là sai lầm của ông công giáo kia đã hành xử suốt đời mình khi đặt mối liên hệ giữa ông ta với Chúa trên cơ sở trao đổi mặc cả giống như những người làm thuê giờ thứ mười một đã lẩm bẩm kêu trách Ông Chủ trong dụ ngôn của Tin mừng hôm nay. Và phải chăng đây cũng là lối suy nghĩ và cung cách sống đạo của chúng ta thường mắc phải và cứ cho là đúng, nhưng thực tế lại sai lầm trầm trọng.
BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
Tư tưởng của Chúa và của ta.
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán : món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa : tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có yêu thương và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xem xét nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên lối suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông chủ đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.(Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 478).
Hai bài học cho ta.
- a) Bài học thứ nhất : như đã nói : mọi công việc đối với Chúa đều bằng nhau, Vấn đề không phải ở số lượng công việc nhưng ở tình yêu thúc đẩy làm công việc đó. Một người có thể tặng chúng ta một món quà cả trăm ngàn, chúng ta rất biết ơn người đó. Một em bé có thể tặng chúng ta một món quà chỉ đáng giá vài ngàn, nhưng đó là món quà dành dụm đầy nỗ lực và yêu thương của nó, dù món quà nhỏ không giá trị bao nhiêu nhưng nó khiến chúng ta cảm động nhiều hơn. Thiên Chúa không nhìn vào số lượng công việc của chúng ta. Bao lâu ta còn làm, công việc đều được xếp như nhau trước mặt Chúa.
- b) Bài học thứ hai : Đó là tất cả mọi sự Chúa ban cho ta đều là ân sủng của Ngài. Chúng ta không thể làm ra những điều Chúa ban cho, chúng ta không xứng đáng với điều đó. Thiên Chúa cho chúng ta là do bởi lòng tốt của Ngài, bởi ân sủng Ngài. Tất cả những gì Chúa ban cho không phải là để trả công nhưng là quà tặng, đó không phải là phần thưởng nhưng là ân sủng.
Thái độ chúng ta phải có.
Chúng ta phải chấp nhận như một người con khiêm nhường những hành động của Chúa vì chúng ta biết rằng động cơ duy nhất thúc đẩy người ta trong sự lựa chọn là tình yêu. Chúng ta hãy khôn ngoan chấp nhận những quyết định của Người với sự mau mắn và biết ơn.
Chúng ta phải hành động như Chúa đối với tha nhân : không ganh tị, không nghiêm khắc, không phán xét xấu, không lên án chung thẩm, nhưng phải thông cảm, ưu ái với một “nụ cười của tâm hồn”.
Muốn nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến Bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ vì như thế chúng ta còng đang sống theo tinh thần Cựu ước vì Cựu ước chưa được hoàn hảo.. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc cho chúng ta là phải chú trọng đến Tình yêu đối với Chúa và với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng bao giờ phân bì với nhau mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.
Truyện : Cha Sở và Cha Phó.
Tại một xứ đạo kia số giáo dân khá đông, có Cha Sở, Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc với nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia mến Cha phó, vì ngài còn trẻ, năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài :
– Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dầy, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ mình – bỏ đi công lao cha xây dựng ? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời :
– Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn ?
– Cha Phó.
Cha Sở chậm rải nói tiếp :
– Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp Ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi – một người đáng lẽ đã về hưu ?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế :
– Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp :
– Và tôi cũng đã từng được người ta qúi mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá ! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.(Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm A, tr 175-177).
Chúng ta hãy nhớ : ghen tị là một trong bảy mối tội đầu. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác.
Người ta ghen tị về đủ mọi mặt : của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn.
Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong một hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá… ghen tị nhau.
Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay nhắc cho chúng ta hai điều :
-Chúng ta phải luôn luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không có gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban. Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Ta hãy nói như thánh Phaolô :”Tất cả là hồng ân”.
-Mỗi nguời hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu.
“Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tâm tình tạ ơn vì muôn ơn phúc Chúa đã tặng ban cho chúng con suốt cả cuộc đời.
“Xin giúp chúng con lánh xa lối suy nghĩ do lòng ghen tị, và biết cố gắng làm cho trổ hoa kết trái ân phúc Chúa đã ban cho mỗi người, để Chúa được vinh danh, anh em được an bình và hạnh phúc”.
Ta hãy có tâm tình như Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng :
Khi hoàn tất việc phải làm
Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :
Này con vô dụng muôn phần,
Phần con, con đã thi hành mà thôi.(Mt 5,16)
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã hiểu rất rõ lại không như ta tưởng ; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống suy nghĩ của chúng ta ; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và cư xử như Ngài.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta ít lo tìm hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.
– Cách chúng ta đối xử với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.
– Nhiều khi thấy một người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 55,6-9) :
Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội.
Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi” : Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
Đáp ca (Tv 144) :
Tv này ca tụng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài : nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người…
Tin Mừng (Mt 20,1-16a) :
Dụ ngôn này phản ảnh hai cách suy nghĩ :
– Cách suy nghĩ của đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng : kẻ làm ít giờ lẽ ra phải được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Đây cũng là suy nghĩ của loài người chúng ta.
– Cách suy nghĩ của ông chủ vườn nho : vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ, nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng đủ một đồng. Đây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.
Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ) :
* Trong các Chúa nhựt XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê. (Xin xem bài giới thiệu tổng quát về Thư Philipphê, ngay sau bài này)
Đây là bức thư Phaolô viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.
Trong đoạn thư này, Phaolô nghĩ đến hai tình huống :
– Một là ông sẽ được tha tự do : khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, và Ngài sẽ được vẻ vang.
– Hai là ông bị xử tử : cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Đức Kitô.
Vì thế Phaolô kết luận : “Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi”
GỢI Ý GIẢNG
Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán : món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa : tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất…
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.
Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả : Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn : đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình ; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình : ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình à đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó : có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau :
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươivà đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêuthì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi
Bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng conđể chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con ý đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ : “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa : Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu : tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa : Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao ? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài… Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.
Nói “trước hết” và “sau hết” là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng :
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán : làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì ? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn.
Sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng : sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối :
– Như thế là không công bình !
– Tại sao ? Ông chủ tịch hỏi lại.
– Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng.
– Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh… Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót : họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì ?
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa Giêsu đã giao cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan và nhân hậu.
2- Trên thế giới ngày nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế / do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.
3- Hiện tại có biết bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời sống chứng nhân của mình.
4- Tính ganh tị làm cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.
CT : Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như Chúa : luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị…
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
GIẢI TÁN
Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt với mọi người.
Bài đọc thêm 3
THƯ PHILIPPHÊ
GIÁO ĐOÀN PHILÍP
Philíp là một thành phố trong tỉnh Makêđoan, được thành lập bởi vua Philíp, cha của Alexandre đại đế (đế quốc hy lạp), do đó thành này mang tên Philíp. Đến năm 42 công nguyên nó thành thuộc địa của đế quốc Rôma. Thuộc địa này rất thịnh vượng. Được làm công dân của Philíp thì cũng đương nhiên được quyền công dân Rôma. Dân thành này hãnh diện vì mình là công dân Rôma, họ nói tiếng Latin và ăn mặc theo kiểu rôma (đây là bối cảnh của 3,20-21 : Phaolô bảo các tín hữu hãy hãnh diện vì được làm công dân Nước Thiên Chúa). Đa số dân cư là lính tráng rôma, do đó nếp sống và việc quản trị hành chánh ở đây mang đậm sắc thái rôma (x. Cv 16,21). Cũng có những người do thái nhưng rất ít đến nỗi họ không có hội đường (x. Cv 16,3), và đây cũng là lý do khiến trong thư này Phaolô rất ít trích dẫn Cựu Ước.
Năm 50, trong cuộc du hành truyền giáo thứ 2, Phaolô đã đến Philíp. Cùng đi có Sila, Timôtêô và Luca. Họ đã thành lập được giáo đoàn mà đa số tín hữu là người lương trở lại (Cv 16,12-40). Vì không có hội đường nên Phaolô không rao giảng tại hội đường như thói quen. Các cuộc nhóm họp của tín hữu cũng tổ chức tại tư gia. Hình như cuộc nhóm họp đầu tiên tổ chức tại nhà Bà Lyđya một tín hữu làm nghề buôn bán vải điều (Cv 16,14-15)
Giáo đoàn này xem ra rất được Phaolô quý mến nên ông thường trở lại thăm viếng. Sau khi thành lập xong giáo đoàn, Phaolô ra đi, để Luca ở lại cai quản. Đến năm 57, Phaolô trở lại. Năm sau, trên đường từ Côrintô đi Giêrusalem, Phaolô lại ghé thăm. Cũng có lẽ vì quý mến giáo đoàn này nên mặc dù có lập trường không nhận trợ giúp vật chất của ai, Phaolô đã bằng lòng để họ giúp đỡ mình (Pl 4,16 2Cr 11,8-9)
MỤC ĐÍCH :
Mục đích của thư này là cám ơn sự giúp đỡ của tín hữu Philíp. Nhưng ngoài ra cũng có một số mục đích khác :
– Thông tin về hoàn cảnh sống hiện tại của Phaolô (1,12-26 ; 4,10-19).
– Khuyến khích tín hữu can đảm, kiên trì và nhất là vẫn vui vẻ lạc quan trong thời gian thử thách (1,27-30 ; 4,4).
– Khuyên bảo họ hai điều quan trọng là khiêm tốn và đoàn kết (2,1-11 ; 4,2-5).
– Gởi gắm Timôtêô và Êpaphrôđitô cho giáo đoàn Philíp (2,19-30).
– Cảnh cáo tín hữu về hiểm nguy của khuynh hướng vụ luật (do những người do thái thủ cựu) và khuynh hướng phóng túng (chương 3).
NỘI DUNG
– Khuyến khích và dạy dỗ :1,1-3,1
– Khiển trách 3,2-4,1
– Tiếp tục khuyến khích và dạy dỗ : 4,2-9
– Cám ơn sự giúp đỡ 4,10-20
NHẬN ĐỊNH
Điểm đặc biệt nhất của thư này là “niềm vui” : kitô hữu hãy vui luôn, cho dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa cũng vẫn vui.
– Đặc tính của niềm vui này : Không chóng qua nhưng bền bỉ : “Yến tiệc nào không có lúc tàn” (Qohelet). Niềm vui tự nhiên sẽ tàn khi cuộc vui kết thúc. Nhưng niềm vui siêu nhiên trong thư này thì vẫn tồn tại. Ngay cả khi tín hữu phải sống trong hoàn cảnh hết sức khổ sở, họ vẫn vui. Thậm chí ngay khi đối diện với cái chết họ vẫn cứ vui. Cụ thể là Phaolô khi ấy đang bị cầm tù và không biết mạng sống sẽ ra sao nhưng ông vẫn vui.
– Nguồn gốc của niềm vui này : a/ Xác tín rằng Thiên Chúa có thể biến một điều xem ra bất lợi trở thành có lợi (2,5-11). Bằng chứng hiển nhiên nhất là cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu độ. b/ Tự nhủ rằng cù sướng hay khổ, dù sống hay chết cũng được, miễn sao cho Tin Mừng được rao giảng (1,12-18).
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO- Suy niệm của Noel Quession
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện… Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy… và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng… bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
– Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
– Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
– Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
———————————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
THÁI ĐỘ MỚI ĐỐI VỚI ANH CHỊ EM TRONG CỘNG ĐOÀN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Bài dụ ngôn của Chúa nhật này trình bày việc Thiên Chúa ban tặng cho con người ơn cứu độ qua hình ảnh dụ ngôn những người thợ làm vườn nho. Ðiều đáng ngạc nhiên về người chủ trong câu chuyện là đã mướn những người thợ làm việc từ giờ đầu và cả những người thợ làm giờ cuối cùng trong ngày và trả lương đồng đều cho mọi người, từ người làm việc sau hết cho tới người làm việc trước hết, mỗi người đều lãnh được một đồng công nhật. Trọng tâm của câu chuyện là để trình bày về đường lối và sự công bằng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đối xử công bằng với chúng ta, có lẽ chúng ta không xứng đáng chút nào để đón nhận điều gì cả. Thế nhưng, Thiên Chúa không đối xử công bằng với chúng ta hiểu theo nghĩa con người nhưng là quảng đại vô bờ bến theo như lòng tốt lành của Ngài. Ðiều Thiên Chúa ban tặng cho con người không gì lớn hơn là ơn cứu độ, là điều mà con người không đạt được do bởi công sức của mình nhưng hoàn toàn là ân huệ do lòng rộng rãi của Thiên Chúa.
Câu chuyện dụ ngôn này có thể giải thích theo hai mức độ. Trước hết, Chúa Giêsu nói với những thính giả của Người, nhất là những người biệt phái và luật sĩ, những thượng tế và kỳ lão vốn luôn công kích Người vì giao tiếp thân mật với những người thu thuế và gái điếm, được xem là những người tội lỗi công khai, những người thu thuế (Mt 9,11; 11,19; 21,23). Vì thế, qua câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn giải thích là Thiên Chúa luôn xử quảng đại với người công chính (những người đã làm lụng vất vả suốt ngày), cũng như với những người tội lỗi (những người làm việc giờ cuối). Kế đến, thánh Matthêu muốn ngỏ lời với những tín hữu trong cộng đoàn của Ngài vốn là cộng đoàn gốc do thái và có cả những người gốc hy lạp trở lại với Kitô giáo. Cộng đoàn Kitô giáo này vẫn luôn đặt câu hỏi về chỗ đứng của những lương dân trong cộng đoàn. Và câu chuyện dụ ngôn muốn trả lời cho câu hỏi này. Những Kitô hữu gốc lương dân và gốc do thái giáo đều có chỗ đứng như nhau trong cộng đoàn, tức cùng được thừa hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng. Những người do thái được xem như những người thợ làm việc từ giờ đầu, còn những tín hữu gốc lương dân được xem như những người thợ làm giờ cuối trong ngày, được Chúa Giêsu đưa vào làm việc trong vườn nho. Những tín hữu gốc do thái không vì thế mà bị mất phần của mình, bởi vì họ đã thỏa thuận với chủ về lương công nhật, họ cũng không có cơ sở để trách chủ, bởi vì chủ nhân quảng đại trả cùng một lương cho những người thợ làm việc giờ cuối như trả cho họ được.
Phép ẩn dụ về tiền lương khiến chúng ta suy nghĩ theo lối công bằng, nhưng đây chỉ là hình ảnh ẩn dụ với những giới hạn của nó. Điều Thiên Chúa ban tặng cho con người không phải là tiền bạc nhưng là ơn cứu độ. Mọi người làm việc trong vườn nho đều lãnh nhận ơn cứu độ là hồng ân lớn lao được ban tặng do lòng quảng đại vô bờ của Thiên Chúa. Không bao giờ con người có thể chiếm hữu được Nước Trời do công sức của mình, nhưng ơn cứu độ được ban cho con người chỉ do lòng đại lượng của Thiên Chúa vốn luôn vượt quá những khó nhọc cũng như khả năng của con người.
Nhiều người trong chúng ta, khi nghe câu chuyện dụ ngôn này, thường nghĩ nhiều về lương bổng và giờ làm việc. Cũng như những người thợ làm việc từ giờ đầu trong câu chuyện, chúng ta thường hiểu công bằng theo nghĩa tiền lương trả tương xứng với giờ làm việc. Thế nhưng câu chuyện làm thay đổi những cách suy nghĩ thông thường để hướng đến những thực tại mới như là tương quan với Thiên Chúa và mầu nhiệm nước trời. Những người thợ làm vườn nho này được mời để làm việc cho vườn nho trong tình trạng họ đều là những người không có việc làm, và lương bổng đã thỏa thuận cách hợp lý là một đồng lương công nhật. Tình trạng không có việc làm và được đón nhận vào làm việc một cách dễ dàng là những điều được nhấn mạnh trong câu chuyện, nói lên tình trạng nghèo khó thiếu thốn của con người, cũng như hồng ân của Nước Trời được ban tặng cho mọi người cách rộng rãi không phân biệt.
Trọng tâm của câu chuyện này như đã nêu lên, là về đường lối và sự công chính của Thiên Chúa thực sự vượt lên trên đường lối và sự công bằng người đời. Ðiều Thiên Chúa cho con người là ơn cứu độ, là điều vượt lên trên mọi cố gắng, mọi khó nhọc của con người. Chúng ta có là những người làm việc ở giờ cuối hay ở giờ đầu, không hệ gì cả. Điều quan trọng là chúng ta hãy đến với Thiên Chúa là “Đấng luôn công chính trong mọi đường lối của Ngài, và gần gủi với những ai kêu cầu Ngài”. Sự công chính của Thiên Chúa không chỉ là công bằng luân lý, trả lại cho cân xứng những gì phải trả, nhưng sự công chính của Thiên Chúa là tương quan. Thiên Chúa quảng đại đối với chúng ta hơn những gì chúng ta có thể nghĩ, vượt xa những chuẩn mực của con người. Thiên Chúa quảng đại ở lòng thương xót và tha thứ : “như trời cao hơn đất, đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi”. Đây là điểm nhấn trong sứ điệp của tiên tri Isaia. Tuy nhiên, không phải vì Thiên Chúa thương xót và tha thứ mà con người được phép coi thường và ở mãi trong tội của mình. Con người cần phải nhận thức lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa để rồi mau mắn hoán cải trở về với Thiên Chúa. Điều thực an ủi và hạnh phúc cho chúng ta là Thiên Chúa thương xót và tha thứ cho chúng ta, hay nói như thánh vịnh 144, “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và hay thương xót”. Vì thế, trái ngược với thái độ nhận thức đúng và hiểu biết sâu sắc về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, thái độ của những người thợ làm việc từ giờ đầu là cảm thấy Thiên Chúa bất công và đối xử tệ bạc với mình. Thái độ này xem ra có vẻ hữu lý hay đòi hỏi được đối xử công bằng, nhưng nó bộc lộ những sự hẹp hòi thiển cận ích kỷ của con người đứng trước lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa.
Trong bức thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chia sẻ những tâm sự của người, lúc này thánh nhân đã phải mang xiềng xích vì bị cầm tù. Có lẽ thánh nhân cũng tiên cảm giờ chết của mình và người hầu như đã sẵn sàng, bởi vì đối với thánh nhân, chết là được về với Chúa, được tham dự vào sự phục sinh của Chúa. Mặt khác, thánh nhân cũng cảm thấy gắn bó với các anh chị em trong cộng đoàn và cảm thấy người cần thiết ở lại để giúp đỡ các anh chị em để củng cố họ trong đức tin. Dù sao, điều mà thánh Phaolô thâm tín và nhắc nhở cho mọi người, đó là dù sống hay chết thì hãy luôn cố gắng sống xứng đáng với Tin mừng của Chúa Kitô. Chúng ta có thể hình dung phần nào giáo đoàn mà thánh nhân đang viết bức thư này. Họ là thế hệ kitô hữu đầu tiên sau khi Chúa Giêsu Phục sinh. Họ được đón nhận Tin mừng cứu độ mà Phaolô rao giảng, thế nhưng cộng đoàn này cũng không phải là cộng đoàn lý tưởng, cũng có tội lỗi, và nhiều thói xấu khác, có những đố kỵ và tranh giành giữa các anh chị em, ngay cả trong việc rao giảng Tin mừng. Vì thế, trong bức thư, chúng ta thấy phần nào phản ảnh những bận tâm của thánh Phaolô về đời sống cộng đoàn với những nguy cơ chia rẽ tranh chấp nghi kỵ nhau.
Có lẽ chúng ta thường để đến giờ thứ 11 mới bắt tay làm việc, nhất là trong việc sống tương quan xứng đáng với Thiên Chúa. Hơn nữa, thái độ của chúng ta dễ tự kiêu, cho mình là thế này thế khác, và chúng ta dễ phê phán người khác. Bài Tin mừng cũng có tính hiện tại, tức soi sáng cho thái độ sống của chúng ta trong cộng đoàn, và hơn nữa, khi chúng ta nhìn ra xã hội và thế giới để có thể hiểu tình yêu và long quảng đại nhân từ của Thiên Chúa đối với những người khác, để rồi chúng ta sẵn sang để đón nhận các anh chị em khác. Chúa không phải để chúng ta trở nên những con người thờ ơ với Thiên Chúa, nhưng là để chúng ta nhận thức hồng ân lớn lao Ngài ban tặng cho chúng ta và cố gắng sống quảng đại với Thiên Chúa cũng như với những anh chị em khác của chúng ta.
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
VUI VỚI NGƯỜI VUI– Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính mình. Nó giống như có một con rắn độc trong tim, nên không bao giờ có thể yên vui để thưởng thức mọi niềm vui và hạnh phúc trên đời”
Đó cũng là nỗi đau của bà dì ghẻ của nàng Bạch Tuyết năm xưa. Bà đã sống trong đau khổ khi cố dùng mọi mưu trí hèn hạ để hại người, nhưng rút cuộc “gậy ông lại đập lưng ông”, chính bà nuốt nỗi khổ đau của sự thất bại suốt đời.
Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Khi ai đó bàn luận về một người nào đó vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Sự ghen ghét còn ẩn chứa trong cả lời cầu nguyện khi không muốn người khác gặp may lành, và điều tệ hại là còn muốn anh em gặp sự dữ như câu chuyện vui sau:
Chuyện kể rằng có người đàn ông rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi.
Thế là khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy. Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng…
Không chịu được sự “bất công” đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để người hàng xóm bị mù cả hai!
Chính lòng đố kỵ đã tạo nên sự nhỏ nhen, biến thành cảm giác hận thù và suy nghĩ mù quáng cho ông ta: thà kém may mắn hơn một chút để người khác đau khổ hơn mình thay vì chọn điều ngược lại.
Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho có phần, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không chúc phúc cho họ mà còn dèm pha và đạp đổ họ.
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn theo kiểu con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng thường tình mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Điều này còn là dấu chỉ cho tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu độ mọi người. Ngài dành tình thương cho mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu rỗi. Tình thương Chúa vẫn dành cho mọi người, nhưng điều quan yếu là họ đã đáp lại lời Chúa. Họ đã sống lời Chúa. Dù chỉ là thời gian ngắn thì họ vẫn được Chúa ban phúc thiên đàng cho họ như bao người tín hữu khác. Họ phải luôn khoác trong mình chiếc áo của ân sủng, chiếc áo của hiệp nhất trong Chúa thì không bị loại ra khỏi bàn tiệc.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích nhỏ nhỏ nhoen thường tình. Amen
—————————————————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới : “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều : – 3 giờ là 9 giờ sáng – 6 giờ là 12 giờ trưa – 9 giờ là 3 giờ chiều – 11 giờ là 5 giờ chiều
Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành “nô lệ”, thành “kẻ làm công”. Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
—————————————————-
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LÒNG NHÂN HẬU – Lm. Gioan.M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa anh chị em,
Từ ngàn xưa, Lời Chúa đã khẳng định qua miệng tiên tri Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi. Và đường lối của các ngươi, không phải là đường lối của Ta”(Is 55,8). Lời Chúa không chỉ là âm từ, là câu, nhưng còn bằng cả tấm lòng yêu thương mà Thiên Chúa muốn bày tỏ cho con người trong suốt dòng lịch sử cứu độ, mà hôm nay là một chứng từ cụ thể được minh họa qua dụ ngôn ông chủ vườn nho.
Chúng ta thấy ông chủ này rất kỳ lạ và khác thường: khác thường trong cách thức mướn thợ và kỳ lạ trong việc trả lương. Lẽ thường tình, thì ai ai cũng mướn thợ làm công với giá rẻ và làm việc sớm bao nhiêu có thể, để công việc đạt được kết quả cao. Còn đàng này, trời đã về chiều rồi, vậy mà ông chủ vẫn còn ra đầu đường phố chợ, kêu gọi những người làm công. Dường như, ông không nghĩ tới lợi lộc cho mình, mà chỉ bận tâm đến những người thất nghiệp không có việc làm.
Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn làm nổi bật lên lòng nhân hậu nơi ông chủ. Ông nhân hậu từ cách mướn thợ cho đến việc trả lương.
Nhìn vào những người thợ làm trong vườn nho, kẻ đến sớm người đến muộn. Ông chủ đều trả lương bằng nhau. Cách đối xử của ông đã làm những người lao động chỉ có một giờ cảm thấy tâm hồn phấn khởi, vì được trả lương cao và được lãnh trước, nhưng lại tạo nên sự ghen tị nơi những người đến làm từ sáng sớm, cũng chỉ nhận được một đồng.
Thật ra, đó là sự tốt bụng của ông chủ, chứ không phải ông đối xử thiếu công bằng. Vì ông không làm sai giao kèo với những người đi làm từ sáng sớm, mà chỉ là sự ân thưởng cho những người đến làm sau mà thôi. Nếu có sự bất mãn, chẳng qua đó là tại họ không bằng lòng với những gì mình có, mà sinh lòng ghen tị bởi sự thành công của người khác.
Anh chị em thân mến,
Đi từ dụ ngôn những người làm vườn nho, và cách trả lương khác thường của ông chủ, Tin Mừng muốn cho chúng ta thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa vượt lên trên tất cả tư tưởng của con người. Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận.
Đừng ai trong chúng ta ung dung cho mình giữ đạo nhiều năm, tham gia nhiều hội đoàn, đi lễ đọc kinh không bỏ sót ngày nào, làm nhiều những việc lành phúc đức… rồi an tâm tới ngày nhắm mắt xuôi tay, chắc chắn Chúa sẽ ghi công thưởng phúc bội hậu ở đời sau. Nếu tính công như thế thì e rằng không ổn, bởi vì nếu không có ơn Chúa giúp, thì chúng ta chẳng làm gì nên công trạng.
Chúng ta nên ý thức rằng: tất cả là hồng ân, tất cả là ân ban nhưng không đến từ Thiên Chúa, chúng ta chỉ là đầy tớ vô duyên bất tài. Mỗi người chúng ta được kêu gọi vào làm vườn nho cho Chúa khác nhau về tuổi tác, về nơi chốn và thời gian. Chẳng hạn như có người theo đạo từ khi mới lọt lòng mẹ, có người khi lấy vợ lấy chồng mới theo đạo, có người ơn được chữa lành mới nhận ra Chúa và xin theo đạo. Có người tới giờ hấp hối mới trở lại đạo…. Đây là hạng người được Chúa gọi làm vườn nho giờ thứ mười một, giờ cuối cùng trong ngày.
Như vậy, Thiên Chúa kêu gọi mỗi người khác nhau vào làm việc cho Ngài. Mỗi người hãy cảm tạ Chúa đã thương tuyển chọn mình làm việc cho Ngài, cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ.
Mặt khác, dụ ngôn cũng cho thấy lòng dạ hẹp hòi và ghen bì giữa con người đối với nhau. Chúng ta cần phải sống khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, luôn cậy nhờ vào ơn Chúa. Vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có và sẽ có đều là do Chúa ban.
Xin cho mỗi người hãy bằng lòng với số phận của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì, ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên gương mù gương xấu.
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu Chúa vượt quá mọi tính toán của con người. Xin cho chúng con một tâm hồn quảng đại như Chúa, không hẹp hòi ghen tị với những ai được Chúa ban nhiều ơn, nhưng luôn biết “vui với người vui” , để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen .
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
THỢ LÀM VƯỜN NHO- Trích Logos A
Ông đại tá Sanders là một người Mỹ nổi tiếng. Vào tuổi 65, trong tình trạng nghèo túng, ông bắt đầu đi gõ cửa các nhà hàng xin việc và bán công thức gà rán của riêng ông. Nhưng đi đến đâu, ông cũng bị từ chối. Ông đã mất 2 năm đi khắp nước Mỹ, trong bộ đồ màu trắng nhàu nát. Sau 1009 lần bị từ chối, ông đã được một nhà hàng nhận lời. Từ đó, ông phát huy tài năng của mình với món gà rán tuyệt hảo.
Hiện nay, công ty KFC (Kentucky Fried Chicken) do ông thành lập đã trở thành một trong những hệ thống bán lẻ thức ăn nhanh lớn nhất thế giới. Hằng năm, 2 tỉ suất thức ăn của đại tá Sanders được bán ra khắp thế giới.
Nhiều nơi ở tại Việt Nam cũng đã xuất hiện món gà rán nổi tiếng này cùng với hình ảnh quen thuộc : ông Sanders trong bộ đồ màu trắng và chiếc gậy trong tay.
Thông thường, người thợ đi tìm việc và đôi khi bị những người chủ từ chối một cách phũ phàng. Nhưng trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay, Thiên Chúa xuất hiện trong hình ảnh của một người chủ vườn nho đặc biệt : Người chủ đi tìm thợ mọi nơi mọi lúc. Không những thế, người chủ vườn nho còn đối xử với thợ bằng tình thương của một người cha nhân lành, một tình thương vượt lên trên cả sự công bình.
Qua dụ ngôn “Người Thợ Làm Vườn Nho”, chúng ta có thể bắt gặp dung mạo của một Thiên Chúa công bình, nhưng đồng thời cũng là một Thiên Chúa tình thương.
Một Thiên Chúa công bình
Từ sáng sớm, ông chủ vườn nho đã đi thuê thợ làm vườn cho ông. Ông thỏa thuận với những người này tiền công nhật là 1 đồng.
Sau đó, ông lại đi tìm những người thợ khác vào những giờ khắc muộn hơn, thậm chí có những người thợ mãi đến chiều mới được thuê làm vườn nho.
Khi hết giờ làm việc, ông chủ trả cho mỗi người 1 đồng. Những người thợ làm từ sáng sớm lẩm bẩm kêu trách ông chủ không công bình, vì đã trả công cho những người thợ đến làm muộn giống như họ.
– Thực ra, ông chủ đã xử công bình đối với những người làm công từ sáng sớm. Vì ông đã giữ đúng điều ông đã thỏa thuận với họ : tiền công nhật được tính là 1 đồng. Đó là tiền lương xứng với công việc họ đã làm.
– Ông chủ cũng đã xử công bình với những thợ làm việc muộn hơn : thợ nửa buổi, thợ giữa trưa, hoặc thợ xế chiều. Họ đều là những người đã cố gắng đi tìm việc, nhưng không tìm được việc cho đến khi ông chủ đến thuê họ. Như thế, những người thợ này cũng đã nếm trải những vất vả khi phải đi tìm việc, đã lo âu khắc khoải vì thất nghiệp. Vậy, họ cũng xứng đáng với 1 đồng tiền lương ông chủ trả cho.
– Hơn nữa, một thế giới công bằng là một điều lý tưởng cho mọi người hướng tới. Tuy nhiên, sự công bằng tuyệt đối đến nỗi trở nên “phi nhân, bất nghĩa” sẽ biến thế giới này trở thành một guồng máy và con người trở nên máy móc trong một nền văn minh “khô cứng” và thiếu tình người. Xã hội chỉ đánh giá con người theo “năng suất công việc” hay theo “giờ lao động”, thì chẳng bao lâu xã hội đó sẽ biến con người trở nên chai đá vì thiếu lòng nhân ái.
Hôm nay, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa vừa công bình, nhưng cũng tràn đầy tình thương với mọi người. Có thể nói tình thương của Ngài còn vượt lên trên cả đức công bình.
Một Thiên Chúa tình yêu
Qua dụ ngôn “Người Thợ Làm Vườn Nho”, chúng ta còn thấy được một Thiên Chúa đầy tình thương.
Ông chủ vườn nho đã chứng tỏ một tình thương đặc biệt với những người thợ, nhất là những người thợ đang thất nghiệp. Ông thuê những người thợ làm vườn từ sáng sớm là điều hợp lý, vì họ sẽ làm được nhiều việc cho ông. Ông sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Nhưng khi thuê những người thợ đến muộn hơn, thậm chí có những người chỉ làm được 1 giờ, điều đó sẽ không có lợi cho ông. Họ sẽ không làm được nhiều việc và vì thế, ông sẽ bị thiệt hại.
Tuy nhiên, ông chủ vườn nho quan tâm đến công ăn việc làm của thợ hơn là tới lợi nhuận của ông. Ông đi tìm thợ không phải vì lợi tức của vườn nho, nhưng vì thương những người thợ thất nghiệp, những người bất tài vô dụng không được ai quan tâm, những người kém may mắn giữa chợ đời. Ông không tính toán như một nhà kinh tế, nhưng ông suy nghĩ và hành động như một người bạn đầy lòng nhân ái. Vì thế, ông trả lương cho người chỉ làm 1 giờ cũng bằng người làm 8 giờ. Ông là một người chủ không tính toán công việc theo “lợi nhuận” của mình, nhưng theo “lợi ích” của anh em thợ thuyền.
Đối với người thợ làm suốt ngày, ông là người chủ công bình. Còn đối với người thợ chỉ làm 1 giờ, ông đã đối xử hơn mức công bình : ông đối xử theo lòng xót thương.
Hôm nay, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa tình yêu. Ngài cũng đối xử với ta theo lòng nhân từ vô biên của Ngài. Ngài muốn chúng ta cũng đối xử với nhau bằng tấm lòng nhân ái và yêu thương ấy.
Một xã hội công bằng bác ái
“Xã hội công bằng bác ái” là điều con người ước mơ và hướng tới. Công bằng luôn phải đi đôi với bác ái. Cũng như Thiên Chúa là Đấng công bình và đầy tình yêu thương : Ngài ân thưởng, trả công cho mỗi người đúng theo việc họ làm. Chúa Giêsu cũng đã từng dạy : thợ thì đáng được trả công. Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa bao la vô tận, con người không thể hiểu thấu. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu, vượt lên trên mọi luật lệ, phép tắc của con người. Tình yêu của Ngài cũng vượt lên trên cả đức công bình, vượt xa mọi ranh giới và mọi nghĩ suy của con người. Thiên Chúa không chỉ là một ông chủ mà còn là một người cha.
Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia cho thấy : tư tưởng Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta. Những kế hoạch và cách thức hành động của Thiên Chúa thường làm cho chúng ta bối rối ngỡ ngàng : vì Ngài thực hiện tất cả mọi việc theo tình yêu thúc đẩy, mà tình yêu của Ngài thì bao la, không biên giới.
Mỗi người chúng ta cũng đang bơ vơ và lạc lõng giữa chợ đời. Thiên Chúa đã đến gọi chúng ta đi làm vườn nho của Ngài : chúng ta được mời gọi để tham gia vào “vườn nho tình yêu” của Chúa. Chúng ta là những công nhân đi xây tình bác ái yêu thương trong thế giới hôm nay.
Chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người thợ đi xây đắp một xã hội “công bằng, bác ái” theo đường lối của Thiên Chúa, đường lối của tình yêu tự hiến, một tình yêu luôn biết cho đi và cho đi đến tận cùng.
Cách đây ít lâu, tại Thế vận hội đặc biệt dành cho những người tàn tật, được tổ chức tại Seattle, Hoa Kỳ, có 9 vận động viên tàn tật cùng tập trung trước vạch xuất phát, để tham dự cuộc đua 100m.
Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng, trừ 1 cậu bé vì chân bị tật, cứ vấp té liên tục trên đường đua. Cậu dừng lại tủi thân và bật khóc. Nghe tiếng khóc, cả 8 người kia giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Sau đó không ai bảo ai, tất cả đều quay lại chỗ cậu bé. Một người nâng cậu bé lên, rồi cả 9 người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Tất cả khán giả trong sân vân động đều đứng dậy vỗ tay hoan hô vang dội. Mãi về sau, người ta vẫn còn kể cho nhau nghe câu chuyện cảm động này.
Hôm nay, Chúa nói : “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”. Chúa luôn nâng đỡ những kẻ hèn mọn, kém may mắn, những kẻ rốt hết, và hạ bệ những kẻ kiêu căng, hiếu thắng, luôn ganh tỵ.
Chớ gì trên cuộc hành trình tiến về Thiên Quốc, chúng ta biết nâng đỡ nhau, để cùng sánh bước trong cuộc đồng hành đầy yêu thương.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- Năm A
ĐỒNG LƯƠNG XỨNG ĐÁNG- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ( “chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày ” Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : “Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta”.
Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Nên câu “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là ” hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta : “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín”.
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê”; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng ” vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời : “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta : “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng”. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn : ” Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? “
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành,” quảng đại và nhân đạo.