CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ANH EM SỬA LỖI NHAU- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 5
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU– Chú giải của Fiches Donimicales. 12
SỬA LỖI ANH EM (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 21
KỶ LUẬT CỦA GIÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 29
VIỆC SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 41
ANH EM SỬA LỖI CHO NHAU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 56
ANH ĐÃ ĐƯỢC MÓN LỢI- Suy niệm của Noel Quession. 67
SỬA LỖI ANH EM – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 76
SỬA LỖI HUYNH ĐỆ LÀ BỔN PHẬN CỦA TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 79
CỘNG ĐỒNG HUYNH ĐỆ– Cố Lm. Hồng Phúc. 85
NGHỆ THUẬT SỬA LỖI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 89
SỬA LỖI CHO NHAU – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 95
CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG- Trích Logos A.. 99
RẤT CẦN TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 106
——————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác, thì Ta đòi máu nó bởi tay ngươi”.
Bài trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Đây Chúa phán: “Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: “Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết”; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Đáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng” (x. c. 8).
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người!
2) Hãy tiến liên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta.
BÀI ĐỌC II: Rm 13, 8-10
“Yêu thương là chu toàn cả lề luật”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Đó là: “Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham”, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: “Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình”. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
All. All. – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – All.
PHÚC ÂM: Mt 18, 15-20
“Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
“Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
“Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
Đó là lời Chúa.
————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ANH EM SỬA LỖI NHAU- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
“Nếu anh em ngươi trót phạm tội”: câu giả thiết này từ môi miệng Chúa Giê-su thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giê-su khuyên kẻ chứng kiến lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi về “cọng rác và cái xà” (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) – cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian” – cho thấy rõ một công việc như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối. Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của Chúa Thánh Thần? “Ngươi đã lợi được anh em người”. Không phải “lợi được” một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.
“Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa”: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.
“Hãy thưa với cộng đoàn (Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng “Giáo Hội”. Câu này, với 16, 18, là hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18). Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ “chẳng màng nghe Giáo Hội”, nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự không còn là “anh em” nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.
“Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc”: Việc chuyển đột ngột từ số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ “các ngươi”. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2. 10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.
“Nếu hai người trong các ngươi “: Thoạt nhìn, giây liên lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em, thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa Giê-su”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ”, trong việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.
“Ta ở giữa họ”: Trong sách “Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ” (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah (tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở”) thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40, 34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.
KẾT LUẬN
Đoạn văn này cho ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.
Ngoài ra đoạn này còn cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không ngừng hân hoan trên cõi thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
– Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái.
Vì ta thấy chúng đi tiếp sau câu: “Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này”. Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng. Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Chúa.
– Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa. Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. “Không ai là một hòn đảo”….
– Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận lời vì Người đã long trọng tuyên bố: “Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con” (Ga 11, 42)?
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.
Sau lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền “Cêsarée Phiìipphê” đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc âm Matthêu “diễn từ về đời sống Giáo Hội”. Những hướng dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của “Cha trên trời”.
Potin báo trước: “Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội “của ông”, nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ “bé nhỏ” tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những “con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người “anh em” đã “phạm tội”.. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.
….Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau.
Sửa đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người “anh em” đã “phạm tội” này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để “chinh phục”người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: “trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội”. Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, “ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: “Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: “Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành việc “sửa lỗi anh em” là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động “nhân danh” Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này”.
BÀI ĐỌC THÊM:
Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: “Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người đó “vấn đề của nó” và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị khi nói sau lưng họ…
Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội… Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.
Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong chương 18 mà ta quen gọi là “diễn từ về cộng đoàn các môn đệ”, là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó…” (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn – Chính Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó – nhưng không phải vì thế bỏ cuộc: “nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi… nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội…” (Mt 18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc như người thu thuế…. Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ “ngoại đạo” chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về “những người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như “kẻ ngoại đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa “không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: “Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm: “… Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau” và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SỬA LỖI ANH EM (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A nêu bật một chủ đề: “yêu thương đồng loại”.
Ed 33: 7-9
Tư tế Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình bên cạnh những người đồng hương bị lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ VI trước Công Nguyên); ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh chị em mình.
Rm 13: 8-10
Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh chị em của mình là Đức Ái.
Mt 18: 15-20
Thánh Mát-thêu trích dẫn những lời của Đức Giê-su mời gọi các Ki-tô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải mất đi mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách khác nhau với thái độ tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33: 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong bởi đế quốc Ba-by-lon. Vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-so bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597, tiếp đó một phần dân cư, kể cả thành phần ưu tú, bị lưu đày. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc vào số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những người lưu đày cho đến khi qua đời vào năm 571 tCn.
Ê-dê-ki-en đã là tư tế trước khi thi hành sứ vụ ngôn sứ. Vì thế, ông mang lấy ở nơi mình cả tinh thần ngôn sứ lẫn tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy minh chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế hợp nhất bất khả phân ly ở nơi ông. Khung cảnh là làng “Tel-Avi” (có nghĩa “đồi lúa mì”) bên bờ sông Cơ-va không xa kinh thành Ba-by-lon, ở đó vị ngôn sứ cùng sống chung với một số người đồng hương bị lưu đày.
Từ những biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra một bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, các bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế hình phạt đã xảy đến cho dân tộc. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc thấy trong bản văn trích dẫn nầy.
“Hỡi con Người”:
Danh xưng: “con người”, dịch sát từ: “con của con người”, là đặc ngữ sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”. Đặc ngữ nầy thường xuất hiện trong các sấm ngôn của Ê-dê-ki-en với một nét nghĩa tiêu cực: “Ngươi chỉ là một phàm nhân”. Mỗi lần Thiên Chúa giao phó cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào vị thế của một phàm nhân để ông khỏi tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà ông nhận được. Vị ngôn sứ phải xoá mình thành một người vô danh tiểu tốt ở giữa những người đồng hương bị lưu đày của ông.
“Người canh gác cho nhà Ít-ra-en”:
Những danh xưng gợi hình như “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ”, được dùng để nói về sứ vụ ngôn sứ thì rất quen thuộc trong Cựu Ước. Danh xưng “người canh gác” gợi lên hình ảnh người lính canh gác trên các tường thành ngỏ hầu nhận biết sự chuyển động của quân thù từ xa mà cảnh báo cho dân thành biết để đề phòng. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố đích danh là “người canh gác cho nhà Ít-ra-en”, ông sẽ là người canh gác ở giữa một đám dân, với tư cách là một phàm nhân như bao nhiêu phàm nhân khác, thậm chí một người lưu đày trong số họ, không hơn không kém.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en phác họa sứ vụ ngôn sứ của mình: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân mật nầy, trong bầu khí thân quen của những cuộc giao tiếp gần gũi giữa người với người cùng chung cảnh khổ này, mà vị ngôn sứ có thể gởi đến cho từng người những lời cảnh báo chất chứa tình nghĩa huynh đệ.
Trách nhiệm cá nhân:
Đối với dân Thiên Chúa, “sống” tức là đón nhận những phúc lành của Thiên Chúa và “chết” chính là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo đối với dân Ít-ra-en. Đây là kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy phải giúp anh em mình được hiểu biết ngọn nguồn: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: ‘Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết’, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Vả lại, ông là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, số phận của mỗi người không bất di bất dịch: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải để trở thành một vị thánh. Sứ vụ ngôn sứ của Ê-dê-ki-en được định vị ở nơi hành động nầy mà chính Đức Giê-su sẽ khuyên bảo các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 8-10)
Thánh Phao-lô nhắc cho các Ki-tô hữu nhớ rằng mỗi người phải là những người mắc nợ đối với anh em đồng loại của mình, một món nợ tương thân tương ái không bao giờ trả hết được: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập Giới mời gọi phải tôn trọng phẩm giá của tha nhân và của cải của họ, nhưng không đề cập cách minh nhiên đến bổn phận phải yêu thương đồng loại của mình. Bổn phận yêu thương đồng loại được sách Lê-vi công bố và thánh Phao-lô cũng trích dẫn: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18).
Theo Cựu Ước, anh em đồng loại trước hết những người cùng chung một chủng tộc, một quốc gia, như chữ “đồng bào” của người Việt Nam. Đức Giê-su đã mở rộng tầm mức của huấn lệnh yêu thương đến tất cả mọi thành viên của cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật mới của Đức Ái Ki-tô giáo nữa. Ở đây, thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất, huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ, vì thế huấn lệnh yêu thương đồng loại bất khả phân ly với huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa: chính từ huấn lệnh “yêu mến Thiên Chúa” mà huấn lệnh “yêu thương đồng loại” được khơi nguồn. Việc con người đòi buộc phải yêu thương đồng loại vô giới hạn là theo mẫu gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương nhân loại đến cùng tận. Ở đây, vị sứ đồ nhấn mạnh tình tương thân tương ái, đó là “chu toàn lề luật”.
TIN MỪNG (Mt 18: 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp những huấn lệnh của Đức Giê-su được ngỏ với nhóm Mười Hai, hoa trái đầu mùa của Giáo Hội Ngài. Diễn từ nầy cũng được gọi “diễn từ về Giáo Hội”.
Sửa lỗi anh em:
Việc sửa lỗi anh em mà Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài thực hành cho nhau đã được sách Lê-vi đề cập đến: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19: 17). Huấn lệnh nầy đặt ngay sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18), như vậy, việc sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hành tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giê-su phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ:
-Sửa lỗi anh em trong chỗ riêng tư kín đáo, không ai hay biết, nhờ đó người anh em sai phạm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa đổi. Có như vậy, cộng đoàn sẽ không đánh mất người anh em lỗi phạm của mình.
-Nếu lần đầu không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện diện của một hay hai người khôn ngoan, để người anh em nhận ra lỗi phạm của mình cách thấu tình đạt lý. Cả hai biện pháp trên tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở giữa cộng đoàn.
-Nếu lần nầy cũng thất bại nữa, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị loại trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, nghĩa là một người mà người ta tránh mọi giao tiếp.
Qua những biện pháp trên, Đức Giê-su dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Ki-tô hữu – tránh tất cả mọi hình thức loại trừ một thành viên quá khắc khe tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa khi mời gọi noi gương vị mục tử nhân lành trèo non lặn suối ra đi tìm kiếm cho bằng được một con chiên lạc đàn. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi mà những lời khuyên sửa lỗi anh em nầy được đặt ngay liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc” (Mt 18: 12-14). Giáo Hội cũng phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người sai phạm.
Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giê-su định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Ki-tô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội của Ngài. Vì thế, Ngài mở rộng quyền năng cho Tông Đồ Đoàn, mà trước đây Ngài đã trao phó cho một mình thánh Phê-rô: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ lập lại quyền năng nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20: 23).
Đức Giê-su thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giê-su đích thân ở giữa họ”. Xem ra Đức Giê-su ám chỉ đến truyền thống kinh sư, theo đó khi hai hay ba người Ít-ra-en họp nhau lại để học hỏi Lề Luật, Thiên Chúa ở với họ. Nhưng ở đây Đức Giê-su đặt mối liên hệ của các Ki-tô hữu với Chúa Cha nhờ và trong lời cầu nguyện. Sự hiện diện của Thiên Chúa được đảm bảo qua sự hiện diện của Ngôi Lời làm người, gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- Năm A
KỶ LUẬT CỦA GIÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến “người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
-Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
- Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
- Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
- Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
-Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
+Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
+Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
+Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
-Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
-Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
-Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
Vài điểm chú giải
– Người anh em (15): Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong một gia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong một cộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các “con cái Israel” thuộc về cùng một “nhà”, các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng” (x. 1 Pr 2,5).
– phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ “làm cớ cho sa ngã” (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của “người anh em”.
– sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là một lời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự (“Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: “Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).
– chinh phục (15): Động từ kerdainô có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì. Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh phục một con người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
– không nghe (17): Động từ parakouô có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe; không vâng lời”.
– một người ngoại … một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.
Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như một hiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc một người anh em có lỗi là một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không một ai bị Thiên Chúa quên lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê). “Tội” là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em (“đối với anh; chống lại anh”, eis se). Tuy thế, “tội” mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.
Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: “chinh phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.
Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng một hành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi (18)
Rất có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố một phán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội Thánh.
* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở cuối lệnh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiện diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc một mình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là “danh Đức Giêsu”. “Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; “nhân danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là một cuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
Gợi ý suy niệm
-Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không một ai được phép nói về một người anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
-Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành một cộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác, một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
-Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
-Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên một trong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- Năm A
VIỆC SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không ? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng :”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đòan. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.
Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đòan, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đòan kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đòan không bao giờø gồm tòan những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi ?
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước : từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hòan cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Ez 33,7-9.
Ezéchiel được chọn làm tiên tri. Vai trò của tiên tri làø phải tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri có trách nhiệm mang đến cho loài người sứ điệp của Chúa và để báo cho con người sự nguy hiểm nếu họ không tuân lệnh Chúa. Nếu tiên tri nói với kẻ gian ác mà nó không nghe, thì nó phải chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu tiên tri không chịu vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Như vậy, tiên tri được coi như người lính gác phải luôn thức tỉnh để nhắc nhở kẻ có tội để họ khỏi phải hư đi.
+ Bài đọc 2 : Rm 43,8-10.
Thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma nhắc lại lời Chúa Giêsu trả lời cho người biệt phái muốn biết điều răn nào trọng nhất : điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là mến Chúa trên hết và điều răn thứ hai cũng giống như vậy là thương yêu anh em như chính mình. Tất cả những giới răn chỉ gồm lại trong một điều là : thương yêu người anh em. Thánh Phaolô tóm tắt lại : Yêu thương là chu toàn cả lề luật.
+ Bài Tin mừng : Mt 18,15-20.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến mối tương quan giữa mọi người trong cộng đoàn. Một trong những mối tương quan đó là sửa lỗi cho nhau. Khi một người phạm lỗi thì đều liên quan đến cộng đoàn. Vì vậy, với tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải sửa lỗi cho họ trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Diễn tiến việc sửa lỗi này là tiệm tiến, phải đi từ kín đáo đến công khai :
– Riêng ngươi với nó : giữa hai người.
– Đem theo một hay hai người làm chứng.
– Kể nó như người ngoại hay thu thuế.
Tuy nhiên, thánh Matthêu ghi tiếp sau đoạn này (Mt 18,21-35) là có lỗi giữa hai cá nhân với nhau. Trong trường hợp này thì giải pháp hay nhất là tha thứ.
Mục đích của việc sửa lỗi này không phải nhằm lên án người có tội mà là thức tỉnh họ, giúp họ trở về với cộng đoàn. Cả hai trừng hợp cần có sự cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, nhất là việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy sửa lỗi cho nhau
MỌI NGƯỜI ĐỀU SAI LỖI.
Lời khẳng định.
Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn” : Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi. Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói :” Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.
Thánh Gioan tông đồ khẳng định :”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10). Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự :”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).
Từ chối nhận lỗi.
Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi bởi vì tính tư ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy. Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên Tổ. Ông bà Nguyên Tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói :
– Lỗi là do bà ấy.
Hỏi bà, bà nói :
– Lỗi là do con rắn ấy.
Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.
Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng.
Truyện : không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết :”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này : dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ : Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói :”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai“.
Capone đã tự tuyên bố :”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả :”Ta là ân nhân của thiên hạ” (Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).
NHU CẦU PHẢI SỬA LỖI.
Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỡi người trong cộng doàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần . Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.
Trong cách sửa lỗi người ta hay nói :”Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này ?
* Cho roi : nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như : phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đầy biệt xứ hoặïc tử hình như pháp luật vẫn làm.
* Cho ngọt : nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trươhg của nhà giáo dục của J.J. Rousseau.
Cả hai cách giáo dục đó : một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo. (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)
Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị :
– Tế nhị về phía người được sửa lỗi.
– Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Người ta thường nói :”Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng”. Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình nhưng dù sao cũng phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình. Kinh nghiệm cho hay : người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại vì nhớ đến lời Chúa phán :”Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt anh đã”.
Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng : sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức Bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa.
Chúa khuyên chúng ta phãi sửa lỗi cho nhau vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như ø bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau :
* Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.
* Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ich kỷ.
PHẢI SỬA LỖI NHƯ THẾ NÀO ?
Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước :
* Bước 1 : Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.
Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.
* Bước 2 : Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2. Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1).
Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.
* Bước 3 : Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng : đưa ra trước Giáo hội : trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.
Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án : Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).
THÁI ĐỘ KHI SỬA LỖI.
Henry Ford nói :”Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Nói cách khác, sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy ? Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này :
Yêu thương :
Hãy bầy tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn : đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Truyện : Đức Giám mục đi kinh lý.
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây : Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bầy tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án :”Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo :”Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám mục mới nói :”Bây giờ anh chị em phải qùy xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rải nói :”Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
Kính trọng :
Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi. Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.
Truyện : Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua :
– Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước ?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói :
– Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng :
– Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
Vua nói :- Phải.
Án Tử kể tội rằng :”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục…”.
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng :
– Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân. (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29)
Cầu nguyện :
Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.
Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục. Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội. Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.
Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích sự hòa giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hòa giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.
Lạy Chúa biết nhìn nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng : sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.
Ôi ! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ sái mua. (L. Terphagnon)
—————————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ANH EM SỬA LỖI CHO NHAU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
“Nhân vô thập toàn”, nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết điểm. Nếu đố kỵ nhau thì những lỗi lầm và khuyết điểm của những cá thể sẽ làm khổ cho cả tập thể. Nhưng nếu tập thể đó là một cộng đoàn huynh đệ, thì người này phải lấy tình thương mà sửa lỗi người kia, cộng đoàn sẽ ngày càng tốt hơn, cuộc sống cộng đoàn sẽ ngày càng hạnh phúc hơn.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy ta phải sửa lỗi cho nhau cách nào. Và chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp mỗi người chúng ta can đảm lấy tình thương mà sửa lỗi cho những anh chị em của ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Vì thiếu can đảm, chúng ta đã không dám sửa lỗi cho những anh chị em chúng ta.
– Vì thiếu quan tâm, chúng ta bỏ mặc khi thấy một người trong cộng đoàn phạm lỗi.
– Nhiều khi chúng ta không chú ý sửa lỗi, mà chỉ kết án anh chị em.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Êd 33,7-9)
Thiên Chúa đặt ngôn sứ Êdêkien như người lính canh, với nhiệm vụ vạch tội của kẻ gian ác. Nếu ngôn sứ nói mà nó không nghe, thì nó chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu ngôn sứ không vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về cái chết đó.
Đáp ca (Tv 94)
Tác giả lên tiếng kêu gọi các anh em tín hữu của mình. Nhưng hình như tiếng của tác giả kêu vô ích trong sa mạc. Bởi thế tác giả mong rằng người anh em ý thức tiếng huynh đệ ấy cũng là tiếng nói của chính Chúa và đừng cứng lòng nữa.
Tin Mừng (Mt 18,15-20)
Vấn đề được đặt ra là sửa lỗi anh em.
Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp : Trường hợp của đoạn Tin Mừng này liên quan đến lỗi có hại cho cộng đoàn, khi đó vì tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải đi sửa lỗi ; còn trường hợp thứ hai được Thánh Matthêu ghi tiếp theo sau đoạn này (Mt 18,21-35) là lỗi giữa những cá nhân với nhau. Khi đó, giải pháp là tha thứ, tha “không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7”.
Vậy khi một người anh em làm điều gì đó sai lỗi có hại đến cộng đoàn thì Đức Giêsu dạy ta phải sửa lỗi như thế nào ?
– Căn bản là vẫn đối xử như “anh em”. Chú ý trong đoạn Tin Mừng này, chữ “anh em” được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
– Diễn tiến từ kín đáo đến công khai : “riêng ngươi và nó” à “đem theo một hoặc hai người nữa” à “Trình với cộng đoàn” à “Kể nó như người ngoại và người thu thuế”.
– Mục đích sự can thiệp sửa lỗi này không phải là để kết án người anh em mình, mà là để thu phục, làm cho người anh em trở lại với cộng đoàn. Nếu được như vậy thì kể như “đã lợi được một người anh em”.
Bài đọc II (Rm 13,8-10)
Thánh Phaolô chỉ cho tín hữu Rôma biết cốt lõi của mọi lề luật, đó là “yêu mến nhau”. Ngài dùng hai kiểu nói : “Vì ai yêu người thì đã giữ trọn Lề luật” ; “Yêu thương là chu toàn cả lề luật”.
GỢI Ý GIẢNG
Tế nhị, khó khăn, nhưng cần thiết
Lời Chúa hôm nay trong bài Tin Mừng nhắc lại một vấn đề quan trọng nhưng rất tế nhị trong cuộc sống chung giữa con người với nhau : đó là việc sửa lỗi người khác.
Phải nói ngay rằng đó là một việc vô cùng tế nhị và hết sức khó khăn :
– tế nhị về phía người được sửa lỗi
– khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Nói rằng đó là một việc tế nhị, vì thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng : muốn khỏi bệnh nhưng sợ uống thuốc vì thuốc đắng ; muốn nói lên sự thật nhưng ngại không dám nói vì sợ mất lòng. Đó là điều tế nhị thứ nhất. Điều tế nhị thứ hai ai cũng phải công nhận : Nhân vô thập toàn, người nào cũng có khuyết điểm, không ai vẹn toàn trăm phần trăm. Thế nhưng tâm lý tự nhiên người ta thường nói : đẹp đẽ khoe ra xấu xa che lại. Và không ai muốn vạch áo cho người xem lưng, vì ai cũng sợ người khác biết được khuyết điểm hay tính xấu của mình, tự nhiên ai cũng muốn người khác quên đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Do đó việc sửa lỗi anh em gây khó khăn vì phía người sửa lỗi. Vì nếu không khéo hay vụng về cách nào đó thì anh em sẽ cho rằng chúng ta sửa lưng anh em chứ không phải sửa lỗi anh em, miệt thị, hạ giá anh em hơn là muốn anh em nên tốt. Và không khéo thì chúng ta sẽ bị anh em mắng lại : Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Thậm chí có khi lại bị anh em dùng chính Lời Chúa để “phang” lại : “Hãy lấy cái đà khỏi mắt anh đã”
Việc sửa lỗi anh em thật tế nhị và khó khăn. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng : sửa lỗi anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là một bổn phận nữa.
– Sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét bới móc, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều.
– Sửa lỗi anh em không phải là kể ra lỗi lầm của anh em với bất cứ ai.
– Sửa lỗi anh em trong đức ái là ý thức rằng tôi cũng có lỗi lầm, tôi cũng đầy khuyết điểm và tôi cũng cần người khác sửa lỗi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy tràn Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là Đấng duy nhất “sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi”.
– Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để khiêm tốn chấp nhận những sửa sai, những chỉ bảo của người khác về những lỗi lầm, thiếu sót của ta.
– Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng ta có thể nói thẳng nói thật những lỗi lầm của nhau mà không làm thương tổn tình đoàn keết thân ái và mối dây thông cảm yêu thương.
– Xin Chúa cho chúng ta hiểu được một lời kia của Tuân Tử nói rằng : Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta. Kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta. Còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại đời ta mà thôi.
– Lạy Chúa, hình như chúng con chỉ thích những lời khen và hình như chúng con thích nhất những lời nịnh hót tâng bốc, và chúng con không thích mấy, hay rất sợ, thậm chí rất ghét những ai sửa lỗi chúng con.
– Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết chọn lựa một thái độ đúng đắn qua Lời Chúa dạy hôm nay. (Lm Đoàn vĩnh Thịnh. Chánh xứ An Lạc, trong CgvDt số đặc biệt Giáng sinh ’95, trang 244-245)
Hai từ ngữ chói sáng
“Nếu người anh em của anh phạm lỗi…”
Từ sáng chói thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là từ “anh em”. Tại sao tôi phải đi gặp người vừa phạm lỗi nặng ? Bởi vì người ấy là anh tôi, em tôi. Chúng tôi là con cùng một cha. Người anh em ấy đang mắc sai lầm. Nhưng tôi không đến để “vạch mặt chỉ tên” mà đến nói chuyện tay đôi trong tình anh em, chỉ cho anh ta biết đâu là phải đâu là quấy. Tôi đến với anh như người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm và chăm sóc con chiên lạc.
Nếu biện pháp nói chuyện tay đôi cũng không có kết quả, thì tôi sẽ nhờ đến cộng đoàn. Đây là biện pháp mà chỉ Tin Mừng theo thánh Matthêu mới có. Tin Mừng của Ngài viết cho những tín hữu là người do thái. Họ đã thuộc luật do thái. Theo sách Thứ luật, viết trước Đức Giêsu cả 6 thế kỷ, thì khi luận tội một người phải có ít là hai ba nhân chứng. Biện pháp tiếp theo cũng chỉ có trong Tin Mừng Matthêu : “Nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì hãy kể như anh ta là một người dân ngoại, một người thu thuế”.
Biện pháp sau cùng xem ra khắc nghiệt. Phải chăng đây là biện pháp loại trừ ? Chúa có loại trừ dân ngoại và người thu thuế bao giờ đâu. Vả lại hãy nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, hãy nhớ đến thái độ của người cha đối với nữa con hoang đàng và hợp ý cầu nguyện cùng Cha cho người anh em được mau quay về đoàn tự trong nhà Cha.
Như vậy từ chói sáng thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay là từ “Cha”. Chúa nói : “Nếu hai người trong anh em họp nhau để cầu xin gì cùng Cha, thì họ sẽ được điều đó nhân danh Thầy”. Lời Chúa còn mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện âm thầm của Chúa : “Khi hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì sẽ có Thầy ở đó”. Cùng với Chúa, cả cộng đoàn thiết tha cầu mong cho người anh em trở về, thì nhất định anh ta sẽ trở về, vì cảm được nỗi chờ mong đau đáu của Cha, giữa họ. (Trích báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’98, trang 258-259)
Dám sửa lỗi anh em là dấu hiệu của một tình thương cao độ
Thương ai thật là muốn điều tốt cho người đó. Muốn điều tốt cũng có nghĩa là không muốn điều xấu.
Vậy nếu ta thương người anh em mình thật thì khi thấy người anh em mình sai lỗi, ta phải tìm đủ cách để cứu người anh em ấy ra khỏi lỗi lầm.
Việc sửa lỗi cho anh em cũng khó khăn và thậm chí đau khổ, đau đớn. Cũng giống như nhảy vào lửa để cứu người.
Nếu không thương thì không nhảy vào lửa. Dám nhảy vào lửa là dấu hiệu của tình thương lớn lao.
Chuyện minh họa
Sửa lỗi cách tế nhị
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói :
– Tôi không biết phải cám ơn Ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được Ngài ưu ái như thế ?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói :
– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
Người anh em
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc : ” Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói : “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi !”
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thánh Phaolô dạy : “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật”. Với quyết tâm sống bác ái yêu thương, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Đời sống của Hội Thánh phải luôn phản ánh trung thực đới sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử / luôn nhẫn nại và hiền hòa / nhưng cương quyết khi phải sửa chữa lầm lỗi của anh em mình.
2- Ngày nay / một số người / nhất là các thanh thiếu niên / do ảnh hưởng của những băng hình xấu / cổ võ bạo lực / thích dùng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn bất hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tình bác ái mà giải quyết những xích mích trong cuộc sống thường ngày.
3- Lòng bác ái thật không chỉ là giúp đỡ vật chất / hay an ủi người khác khi họ gặp hoạn nạn / nhưng còn là sửa dạy khi thấy họ lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / cũng như những người có trách nhiệm đối với cộng đoàn / biết can đảm và khôn khéo sửa dạy con cái / và những người dưới quyền khi thấy họ lỗi lầm.
4- Đức Giêsu luôn chúc lành / và hiện diện giữa những ai có cùng một niềm tin / họp nhau để cầu nguyện / hay tham dự các nghi lễ phụng vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hiểu được điều đó và có những tâm tình xứng hợp.
CT : Lạy Chúa Cha nhân lành, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt là một trong những bổn phận quan trọng của từng người trong chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật để chúng con có thể vui lòng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
—————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ANH ĐÃ ĐƯỢC MÓN LỢI- Suy niệm của Noel Quession
Đức Giêsu bảo các môn đệ:”Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình”.
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống “cộng đoàn”.
“Cộng đoàn” mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những “người thanh khiết các thánh”, nhưng những “người tội lỗi”. Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng “các Kitô hữu không tốt hơn những người khác”, như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người… kể cả Giáo Hội!”Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình…
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những “vị quản giáo mắc khuyết điểm” lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng “buộc tội” và “đè nặng” lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô “tha thứ bảy mươi lần bảy” (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta ” yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
“Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó…” “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình ..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình… và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi “bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy… bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:”Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh “thần học”. Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình… Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi” mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa “đất” và “trời” có sự tương giao?
Giữa “thời gian” và “vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này… được “cầm buộc” hoặc “tháo gỡ” nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng… Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa “đất” và “trời”.
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không “nhìn thấy” kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như’ thế? Đức Giêsu đáp lại “không” với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn – Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả… ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được… “Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời”…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. ” ‘
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được” (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
“Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc…”. Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SỬA LỖI ANH EM – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SỬA LỖI HUYNH ĐỆ LÀ BỔN PHẬN CỦA TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cách thế giải quyết những tranh chấp, xích mích, những cá nhân lầm lỗi trong cộng đoàn. Ðây là công việc khó khăn vì phải thực hiện cách tế nhị nhưng trực tiếp, thẳng thắn và liên tục nhiều lần nhằm đạt được kết quả hòa giải và thống hối cho các thành viên trong cộng đoàn. Ðiều quan trọng không phải chỉ là nhằm một mục tiêu giới hạn là sửa chữa tính tình cá nhân nhưng mục tiêu còn rộng lớn hơn là nhằm làm cho đời sống của Giáo hội được phát triển tốt đẹp, cho mọi người đều được thăng tiến trong đời sống đạo đức. Thiên Chúa luôn mong muốn huấn luyện và sửa dạy dân Chúa trong đường lối tinh toàn để họ biết nhìn nhận Thiên Chúa và nhờ đó xứng đáng hưởng ơn cứu độ là sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi mọi người trong cộng đoàn biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau để cộng đoàn là nơi qui tụ những con người bắt đầu sống những thực tại mới của ân sủng.
Trích đoạn lời Chúa tuần này là thành phần của bài giảng thứ tư của Ðức Giêsu. Chủ đề là nhằm giúp đời sống cộng đoàn huynh đệ, sự thăng tiến của cá nhân, và trách nhiệm của mỗi người đối với nhau. Bởi vì những tranh chấp xích mích, những lỗi phạm cá nhân là điều không thể tránh được trong cộng đoàn, nên cần phải có những phương thế giải quyết. Trong bất kỳ cộng đoàn nào, những tranh chấp giữa các cá nhân là điều dễ gây đổ vỡ, trong cộng đoàn các môn đệ Chúa Giêsu, những tranh chấp này lại còn cao hơn nữa bởi vì chứng tá của những chứng nhân đời sống cộng đoàn sẽ làm cho Tin mừng được khả tín hơn hay đe doạ sự khả tín của Tin mừng.
Vì giải pháp cho tranh chấp có thể dẫn đến biện pháp kỷ luật nghiêm trọng là việc khai trừ khỏi cộng đoàn, nên điều Ðức Giêsu dạy được xem là có mức độ tiệm tiến từ hòa giải đến biện pháp kỷ luật nghiêm khắc: cố gắng ban đầu để giải quyết chỉ bao gồm giữa hai người liên hệ và nhằm nhắc nhở, khuyên nhủ. Nếu như không giải quyết được thì cần phải mời những người làm chứng. Những người làm chứng này kiểm chứng những biện pháp giải quyết của hai bên đang tranh cãi, và quan sát phản ứng của bị cáo nhằm bảo vệ cho người đứng ra cáo buộc, và cũng bảo vệ cho bị cáo khỏi những lời cáo buộc vô căn cứ. Nếu như hai giải pháp ban đầu, gồm có việc trao đổi cá nhân, và sau đó có thêm hai nhân chứng đều thất bại, thì những giải pháp sau nghiêm trọng hơn sẽ gồm có việc nhờ đến sự can thiệp của cộng đoàn. Khi cộng đoàn quyết định mà bị cáo còn từ chối không chịu hối cải, thì bị cáo bị sa thải, loại trừ và bị kể là người tội lỗi. Như thế, việc sửa đổi và hối cải là điều rất quan trọng đối với đời sống của người môn đệ đến độ từ chối sửa đổi tật xấu của mình tức đương nhiên quyết định tự loại khỏi cộng đoàn những môn đệ của Ðức Giêsu cũng như không cố gắng mạnh dạn góp ý cho người khác cũng là lỗi trách nhiệm. Sự chuẩn nhận của cộng đoàn là quan trọng trong việc nhìn nhận cá nhân sai lỗi đã sửa đổi tật xấu của mình hay không chịu sửa đổi. Phán quyết và quyền bính của Giáo hội hành động trong những sự việc này là chính quyền bính của Ðức Giêsu đã ban cho Phêrô.
Câu chuyện giải quyết tranh chấp trong đời sống cộng đoàn lại được tiếp nối bằng lời tuyên bố hiệu lực của lời cầu nguyện khi có hai hay ba người họp lại nhân danh Chúa Giêsu. Ðiều này được hiểu là hai ba người cầu nguyện này cũng chính là những người đến làm chứng cho việc dàn xếp tranh chấp trong cộng đoàn. Khi cộng đoàn đã đi đến quyết định, thì chính Chúa sẽ chấp thuận quyết định này của cộng đoàn, qua việc ưng thuận lời cầu nguyện của cộng đoàn.
Đây cũng chính là giáo huấn của các tiên tri, đặc biệt chúng ta nghe đọc trong sách tiên tri Êzêkiel. Hình ảnh được tiên tri mô tả sứ vụ của mình là người lính canh của nhà Israel. Công việc của người lính canh quan trọng cho sự bình an của người dân trong thành thế nào thì công việc sửa lỗi huynh đệ cũng như thế. Người lính canh này nhận lệnh từ chính Thiên Chúa để nhắc nhở mọi người biết sống theo đường đạo lý ngay thẳng, giúp cho người tội lỗi biết bỏ đường gian ác mà trở về con đường hoàn thiện để được sống. Người lính canh này mang một trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa, bởi vì nếu như người tội lỗi phải chết trong đường gian ác mà không được nghe lời nhắc nhở cảnh tỉnh của người lính canh, thì Thiên Chúa bắt lỗi nặng người lính canh này, bởi vì ông đã không chu toàn bổn phận của mình do Chúa trao phó.
Thánh Phaolô trong bức thư Rôma thì so sánh bổn phận giúp đỡ lẫn nhau là bổn phận do tình yêu nối kết mọi người với nhau đến mức độ giúp đỡ nhau được xem như một món nợ của tình yêu mà chúng ta phải chu toàn. Người tín hữu trong cộng đoàn cố gắng giúp nhau để mọi người sống những giới răn luân lý như không ngoại tình, không giết người, không làm chứng gian, không mê tham. Cộng đoàn các Kitô hữu là một cộng đoàn không phải lý tưởng, tức không có những tội lỗi. Nhưng đây là một cộng đoàn mà mọi người cùng giúp nhau để tiến bộ, để lần hồi biết từ bỏ những tội lỗi của mình. Vì thế, đời sống đạo của chúng ta không chỉ là sống tương quan thẳng với Chúa mà thôi mà còn phải sống tương quan ngang với anh em, bởi vì giúp nhau để trở nên tốt đẹp hơn là bổn phận của tình yêu và là đòi hỏi của Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta muốn bị sửa lỗi, bởi vì ai cũng tự ái. Thế nhưng, ai trong chúng ta cũng phải nhìn nhận là mình không hoàn hảo, dù chúng ta dễ thấy tật xấu của người khác hơn là của chính mình. Ðiều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh không chỉ là việc sửa lỗi cá nhân, mà còn là nhằm gìn giữ đời sống toàn vẹn của cộng đoàn cũng như của mỗi người để được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Ðây là một công việc nhẫn nại bởi vì phải giải quyết trực tiếp, thẳng thắn và nhiều lần nhằm đạt được mục đích là làm cho người này hoán cải và được hòa giải với cộng đoàn và với Thiên Chúa. Ðiều quan trọng không phải chỉ là việc sửa chữa việc tranh chấp của một cá nhân mà còn là vì chính đời sống của cộng đoàn.
Thống hối, hòa giải, chữa lành là những thực tại cánh chung, loan báo Nước Trời gần kề. Ở trong cuộc đời này, chúng ta không bao giờ là cộng đoàn hoàn hảo, hoặc là Giáo hội hoàn hảo, bởi vì chúng ta luôn là những con người yếu đuối với nhiều bất toàn. Ðời sống của Giáo hội, như là một cộng đoàn, đòi hỏi không ngừng hoán cải, bởi vì Giáo hội, xét như là Thân mình của Chúa Kitô, loan báo sự hiệp nhất chưa hoàn tất qua những con người yếu hèn của chúng ta. Nói cho cùng, khi chúng ta hành động như Giáo hội để hòa giải, chúng ta đang hành động như là Thân mình của Chúa Kitô hiệp nhất với Ðầu. Hòa giải là điều quan trọng thiết yếu trong Giáo hội bởi vì chúng ta là những phần chi thể của thân mình duy nhất của Chúa Kitô.
Vì thế, sửa lỗi người khác và được sửa lỗi là những điều rất khó khăn mà chúng ta phải cố gắng. Việc sửa lỗi huynh đệ cần phải có động lực chân thật nhằm đạt được việc thống hối và hòa giải thực sự. Có thể có những động lực không chính đáng xen lẫn khi chúng ta sửa lỗi nhau như chỉ vì tự ái, hoặc là để làm vui lòng nhau. Trái lại, động lực chân thực phải là sự xác tín rằng chúng ta cùng chia sẻ cùng một thân mình của Chúa Kitô như lời Người hứa hiện diện nơi nào có hai hay ba người họp lại nhân danh Người. Qua việc sửa lỗi huynh đệ, chúng ta muốn gìn giữ cho đời sống cộng đoàn được hiệp nhất trong cùng một Thân mình Chúa Kitô cũng như muốn giúp đỡ nhau sống những giá trị của Tin mừng đang hướng dẫn chúng ta. Chính đó là sức mạnh của Chúa Kitô Phục sinh đang hoạt động trong thân mình Giáo hội là chúng ta. Như thế, chúng ta lần hồi kinh nghiệm những chiều kích khác nhau của đời sống mới.
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CỘNG ĐỒNG HUYNH ĐỆ– Cố Lm. Hồng Phúc
Chúa Giêsu đã muốn thiết lập Giáo hội của Ngài như một cộng đồng Tình yêu, trong đó luật bác ái thương yêu là một giới răn mới, một dấu chỉ để biết ai là môn đệ của Chúa.
Nhưng Chúa cũng biết rằng đâu đâu cũng có những yếu đuối con người, đâu đâu cũng có những vấn đề giữa con người. Trong cộng đoàn bé nhỏ 12 môn đệ sống với Ngài, Chúa đã nghiệm thấy như vậy.
Giáo hội là một cộng đồng anh em, nhưng là một cộng đồng gồm người tội lỗi bên cạnh người lành.
Chúa phán: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Nhưng sửa dạy làm sao? Theo tinh thần Phúc Âm, việc sửa lỗi anh em là một việc rất tế nhị và gồm 3 công tác sau đây:
– “Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu không kết quả thì hãy nhờ đến hai ba người làm nhân chứng. Và sau cùng mới trình với cộng đoàn”. Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có”. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.
– Giáo hội theo lối quảng diễn của Matthêô còn là một cộng đồng tha thứ và liên đới, trong đó mỗi người có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Nếu sau nhiều cố gắng để đưa người anh em lầm lỗi trở về mà không có kết quả thì hãy trông cậy vào tình thương xót của Đấng chăn chiên tối thượng.
Cái quyền “tuyệt thông” đối với một người anh em làm cho ta nhớ lại một lời khác của Chúa về quyền năng của Giáo hội: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo gỡ dưới đất trên trời cũng tháo gỡ”. Quyền năng tha thứ đó, Chúa đã hứa cho Phêrô thì nay Chúa cũng ban cho các môn đệ. Đó là tập đoàn 12 Tông đồ Chúa đã tuyển chọn và sai đi, trong đó Phêrô giữ một vai trò trọng yếu. Chúa trao cho họ sứ mạng hòa giải và cứu rỗi. Như vậy dần dần Chúa đã thiết lập các cơ cấu của Giáo hội.
– Sau cùng, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin. Tám ngày sau phục sinh, một bầu khí chia rẽ cũng bao trùm các môn đệ. Tôma nằng nặc không muốn tin rằng Thầy đã sống lai. Chúa xuất hiện, sự hiện diện của Chúa đánh tan mối nghi ngờ, chia rẽ, đem lại sự hiệp nhất.
Khi viết đoạn Phúc Âm này, hẳn là Matthêô muốn nhắc nhở cho Giáo hội, đã lan rộng ra ngoài biên cương Do thái, đến Cận đông, đến cả Lamã rằng Chúa là sự hiệp nhất. Muốn có sự hiệp nhất, muốn tránh sự chia rẽ vì mầu sắc chủng tộc, văn hóa, thì Giáo hội phải cầu nguyện, phải tập họp “nhân danh Thầy” vì có Thầy ở giữa. “Thầy là trung tâm hội tụ mọi động lực” (Kinh của Teilhard de Chardin).
Lạy Chúa, xin dạy con biết khiêm tốn hòa nhã khi phải sửa lỗi anh em, xin dạy con biết cầu nguyện khi phải đương đầu với chia rẽ hiểu lầm, vì chỉ có Chúa là rường mối sự Hiệp nhất.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
NGHỆ THUẬT SỬA LỖI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại, ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.
Sửa lỗi cho nhau:
– Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:
+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.
+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.
– Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.
+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.
– Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.
– Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác. Không yêu thương chân thật thì mọi cách sửa lỗi đều vô hiệu. Không có tấm lòng sẽ gây nên phản kháng và chống báng. Càng yêu thương nhau thì việc sửa lỗi cho nhau càng hữu hiệu.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý của Chúa Kitô hàm chứa trong điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”, và lời mời gọi nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Sự hoàn thiện nào cũng đòi hỏi phải sửa đổi và điều chỉnh liên tục mới đạt đến nhân đức và sự thánh thiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
SỬA LỖI CHO NHAU – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên, những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.
Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm hồn.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.
Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
– Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.
Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp ý, sửa lỗi của anh em. Vì “kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta, còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta”.
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.
————————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG- Trích Logos A
Một người Ả rập kia có con ngựa rất đẹp. Người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối. Người láng giềng liền nghĩ ra một mưu kế để chiếm đoạt con ngựa.
Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, người láng giềng cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường. Chủ ngựa là người tốt bụng, thấy người hành khất liền cảm thương, đề nghị đưa ông ta lên ngựa đem về quán trọ săn sóc.
Con người tốt bụng kia xuống ngựa, đưa người hành khất lên ngựa. Nhưng khi vừa lên lưng ngựa, người hành khất hiện nguyên hình tên bất lương. Hắn giật giây cương, thúc ngựa phi nước đại.
Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết đuổi theo nói với tên bất lương : “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Ta sẵn sàng bỏ qua. Nhưng ta chỉ xin ngươi một điều : là đừng bao giờ kể cho ai nghe mưu mẹo này của ngươi. Kẻo một ngày nào đó, có người hoạn nạn thật sự bên vệ đường, sẽ không có ai dám dừng lại để cứu giúp người ấy nữa !”.
Cuộc sống con người trong xã hội như một sợi giây chuyền liên đới. Vì thế, một hành động xấu, một lỗi lầm hay một khuyết điểm của cá nhân, có thể ảnh hưởng đến đời sống tập thể hay cộng đoàn. Mưu mẹo của tên ăn cắp ngựa trong câu chuyện trên sẽ làm giảm sút niềm tin trong cuộc sống. Cũng thế, trong một cộng đoàn đức tin, những lỗi lầm cá nhân cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đức tin của cộng đoàn. Vì thế, trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta cách sửa lỗi cho nhau để xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và tràn đầy niềm tin.
Một cộng đoàn hiệp nhất.
Chúa Giêsu đã làm nổi bật ý nghĩa của đời sống cộng đoàn khi nói : “Nếu anh em ngươi lỗi phạm …”. Chúa Giêsu muốn ám chỉ các môn đệ của Ngài chính là một “cộng đoàn anh em”, mang những nét tiêu biểu cho một cộng đoàn đức tin.
Chúa Giêsu đã tuyển chọn và kêu gọi các môn đệ đi theo Chúa, sống với Chúa và với nhau như một cộng đoàn anh em.
– Các môn đệ luôn quây quần bên Chúa, đi theo Chúa trên mọi nẻo đường rao giảng Tin Mừng.
– Trong những lúc thành công hay thất bại của Chúa : những lúc được tung hô hay cả những lúc bị chống đối, những khi vui buồn, sướng khổ, thầy trò luôn bên cạnh nhau, chia sẻ cho nhau từng miếng ăn, từng giấc ngủ …
– Ngay sau cuộc tử nạn của Chúa, các môn đệ vẫn tiếp tục tụ họp lại với nhau như một cộng đoàn. Khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu phục sinh trước hết đã tìm đến với cộng đoàn các anh em mình (Mt 28, 16-20; Mc 16, 14-18; Lc 24, 36-49).
Qua “Kinh Lạy Cha”, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết họ có người Cha tốt lành trên trời (Mt 6, 7-15). Vì thế, họ là anh em với nhau : một cộng đoàn anh em hiệp nhất có người Cha chung trên trời.
Chúa Giêsu còn cầu nguyện để các môn đệ trở thành một cộng đoàn hiệp nhất nên một : “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta” (Ga 18, 21).
Một cộng đoàn yêu thương.
Chúa Giêsu cũng còn mong muốn các môn đệ trở thành một cộng đoàn yêu thương nhau. Sự yêu thương đó biểu lộ qua cách sửa lỗi cho nhau.
Con người ai cũng có lầm lỗi, và những sai lỗi của cá nhân luôn ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn. Chúng ta không nên có thái độ khắt khe, thậm chí xét nét hay kết án những anh chị em sai lỗi. Chúng ta cũng không nên có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với những khuyết điểm của anh chị em mình, vì ngại khó hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm.
Chúng ta hãy mặc lấy tinh thần yêu thương của Chúa để xây dựng nhau trở thành người tốt, và nhờ vậy, cộng đoàn cũng sẽ trở nên tốt hơn.
Việc sửa lỗi cho anh em phải đi qua ba bước :
Bước thứ nhất : gặp gỡ riêng với người phạm lỗi và giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình để sửa đổi. Cuộc gặp gỡ này phải được thực hiện trong thân tình và kín đáo, để bảo vệ danh dự của người phạm lỗi.
Bước thứ hai : nếu bước một không thành công, ta hãy đến với người phạm lỗi cùng với một hoặc hai người nữa. Sự hiện diện của các nhân chứng sẽ bảo đảm cho tính khách quan và mang yếu tố cộng đoàn.
Bước thứ ba : nếu người anh em phạm lỗi cũng không nghe và không sửa lỗi, ta sẽ đưa sự việc ra trước cộng đoàn để có sự giúp đỡ của tập thể.
Cuối cùng, nếu người ấy cũng không chấp nhận lời khuyên của cộng đoàn, khi ấy, người đó tự tách lìa ra khỏi đời sống cộng đoàn.
Nơi cộng đoàn gia đình hay giáo xứ, tình yêu thương chính là nền tảng để cộng đoàn được đứng vững. Chúng ta hãy góp phần thắp lên ngọn lửa yêu thương, xây dựng cộng đoàn chúng ta thành một cộng đoàn tràn đầy tình yêu thương.
Một cộng đoàn đức tin.
Chúa còn mong ước các môn đệ họp nhau lại thành một cộng đoàn đức tin : “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
Tất cả mọi người sẽ được liên kết nên một trong bầu khí cầu nguyện. Hay nói cách khác, cầu nguyện chính là “hơi thở của đời sống đức tin”. Ngày nào chúng ta thôi cầu nguyện, ngày đó, đời sống đức tin sẽ bị sa sút.
Điều quan trong hơn, bầu khí cầu nguyện của cộng đoàn còn tạo nên đời sống đức tin vững mạnh nữa. Vì thế, lời cầu nguyện của cộng đoàn sẽ kéo nhiều ơn lành của Thiên Chúa xuống cho mọi người và tạo nên một cộng đoàn đức tin luôn được nâng đỡ và củng cố trong mọi hoàn cảnh.
Trong vụ khủng bố kinh hoàng tại nước Mỹ vào ngày 11/9/2001, ngoài hai chiếc phi cơ đâm vào tòa tháp đôi tại New York, còn một chuyến bay khác mang tên United Flight 93 đã đâm xuống một vùng quê thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Mọi người thắc mắc : tại sao bọn khủng bố không dùng chiếc phi cơ này đâm vào Tòa Bạch Ốc (The White House) là cơ quan đầu não của chính phủ Hoa Kỳ ?
Phải đợi đến tháng 12 năm 2001, người ta mới tiết lộ mọi chi tiết từ đoạn băng thu âm trong phòng lái chiếc phi cơ.
Chiếc máy bay bị bọn không tặc khống chế. Chúng dồn hành khách xuống cuối máy bay và dự tính cho đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Nhưng các hành khách dưới sự hướng dẫn của một người đàn ông tên Todd Beamer, đã chống lại bọn khủng bố, ép cho chiếc máy bay đâm xuống đất, thay vì đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Có điều đặc biệt là Todd Beamer đã xin mọi người cùng cầu nguyện với anh bằng kinh Lạy Cha trước khi xông vào chiến đấu với bọn khủng bố. Chính sức mạnh của lời cầu nguyện đã làm tăng thêm niềm tin nơi họ, để họ chiến thắng bọn khủng bố.
“Nếu hai người trong các con ở dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho các con điều đó”.
Chúng ta hãy xin Chúa biến cộng đoàn chúng ta thành cộng đoàn của niềm tin, khi mọi người chúng ta luôn biết họp nhau mỗi ngày dâng lời cầu nguyện và siêng năng tham dự thánh lễ thật sốt sắng.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- Năm A
RẤT CẦN TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
“Bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu” là chủ để nổi bật hơn cả của Chúa nhật tuân này. Quả thật, “hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu”, bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi : “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó ” (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkiel “trở nên người lính canh nhà Israel”, và truyền ông phải nói cho “kẻ gian ác bỏ đường lối mình”, để được sống, nếu không “thì chính kẻ gian ác sẽ chết” (x. Ed 33, 7-9).
Thánh Phaolô nói : “Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau” (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả Mười Điều Răn “và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình” (x. Rm 13, 8-10).
Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái: ” Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác ” (1Cr, 9), cho thấy Giáo hội được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ : nó đã xúc phạm đến tôi ! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ ? Nó đã xúc phạm đến tôi : Mắt đền mắt, răng đền răng ư ? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được ! Anh được Thiên Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.
Sửa lỗi, cụ thể hơn là phê bình hiệu quả hay góp ý xây dựng là những cụm từ đã từ lâu trở nên quen thuộc trong nghệ thuật giao tiếp. Bị người khác phê bình, cho dù đó là góp ý hay chỉ trích, cũng đều cho chúng ta thấy bản thân mình có khiếm khuyết. Đã là con người thì chắng mấy ai muốn thật lòng thừa nhận điều đó. Cho dù ta thuộc tuýp người nào đi chăng nữa thì lời phê bình cũng là thứ mà không ai mong muốn được nghe. Làm được điều đó không phải là chuyện dễ bởi chúng ta cần có cả sự tự tin lẫn đức khiêm tốn để thừa nhận chúng ta đã lầm lỗi. Đồng thời, phải nhìn nhận mặt sáng trong mỗi người. Phê bình là vì chính lợi ích của chúng ta, chứng tỏ tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ tương.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấynếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em.
Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn. Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này. Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa : “Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật ” (Rm 13, 10).
Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu nguyện : ” Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy “(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết : Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng “chúng ta phải thực hiện bản giao hưởng này” nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta, xin Chúa liên kết chúng ta trong tình yêu Chúa. Amen.