CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 5
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN– Chú giải của Fiches Donimicales 16
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA THÁNH PHÊRÔ (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 25
ĐỨC GIÊSU KITÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 39
LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 51
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 65
CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI(*)- Suy niệm của Noel Quession. 76
HỘI THÁNH CỦA CHÚA – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 85
GIÁO HỘI CUẢ ĐỨC GIÊSU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 89
ĐÁ TẢNG PHÊRÔ, QUYỀN BÍNH VỮNG CHẮC– Văn Hào, SDB chuyển ngữ 95
CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 99
TRỞ NÊN “ĐÁ TẢNG” XÂY DỰNG HỘI THÁNH TẠI GIA – Lm. Inhaxiô Trần Ngà 111
PHÊ RÔ, CON LÀ ĐÁ- Trích Logos A.. 116
THẦY LÀ ĐỨC KI TÔ, CON THIÊN CHÚA- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 123
———————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán cùng Sobna, quan cai đền thờ rằng: “Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi, và Ta sẽ cách chức ngươi; trong ngày đó, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà cha nó”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6 và 8bc
Đáp: Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa (8).
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.
3) Quả thực Chúa cao cả và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa.
BÀI ĐỌC II: Rm 11, 33-36
“Mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
All. All. – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – All.
PHÚC ÂM: Mt 16, 13-20
“Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Đó là lời Chúa.
——————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
“Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia”: Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ”, xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai”: Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
“Con Thiên Chúa hằng sống”: Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
-Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
-Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
-Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
-Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
-Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
-Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
-Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
-Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ “Người” (Lc) trong thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
-Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là “Chúa” của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v…
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy “được đọc lại” dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
“Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta”: Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai “Ta sẽ xây” có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
“Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc” và “tháo cởi”, nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
-Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
-Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
-Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
-Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
-Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
——————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Phêrô tuyên xưng đức tin
Phải luôn lẩn tránh những địch thù quấy nhiễu Ngài, Đức Giêsu dẫn dắt môn đệ của Người đi vào một chỗ những cuộc tĩnh tâm liên tiếp. Nó đặt cột mốc -vừa về địa lý, vừa về tinh thần- trên chặng đường tìm hiểu căn tính thực của Ngài.
Vừa trải qua cuộc tranh luận với Biệt phái, những kẻ xin Người làm một dấu lạ, này đây Đức Giêsu và các môn đệ sang miền đất dân ngoại, phía nguồn sông Giođan. Césarée Philipphe là thành phố mới được xây dựng do kinh phí của hoàng tử Philipphe, con của vua Hêrôđê Cả, có ý tôn vinh hoàng đế Rôma, nên đã đặt tên là Césarée. C. Tassin chú giải: Dân ở đây là người Siri gốc Hy Lạp, họ thờ cúng thần Pan và thần Nymphe, tạo nên một khung cảnh gần giống với môi trường mà Matthêu đang sống (L’Evange le de Matthieu” (Centurion, trang 173).
Chính tại đây, trước khi khởi hành đi Giêrusalem trong cuộc hành trình cuối cùng mà Đức Giêsu đặt câu hỏi quan trọng mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay.
– Con Người- Đức Giêsu hỏi, người ta bảo Con Người là ai?
+ Chúa đã dùng hình ảnh “Con Người”, một hình ảnh mầu nhiệm (xem Danien 7,13) mà Matthêu nhắc lại tới 30 lần trong chính Tin Mừng của ông, để nói về chính mình và sứ mạng của Người: một con người thực thụ có tương quan với Thiên Chúa Đấng Cứu độ.
+ Để đáp lại câu hỏi, các môn đệ đã nêu ra một loạt các ý kiến về Người. Mọi ý kiến đều coi Người là một nhân vật đóng vai trò quan trọng, như là Gioan Tẩy Giả đã sống lại từ cõi kẻ chết, như ngôn sứ Êlia mà dân chúng trông đợi trở lại để loan báo Chúa Cứu thế đến, như ngôn sứ Giêrêmia, một vị ngôn sứ phản kháng vì bị phản kháng, như một ngôn sứ nào đó.
– Còn anh em, Đức Giêsu hỏi thẳng ý kiến các ông, anh em bảo Thầy là ai? – Simon Phêrô trả lời, tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lúc này ông không những là phát ngôn viên của nhóm môn đệ, nhưng còn là gương mẫu cho việc tuyên xưng đức tin Kitô hữu.
Lời đáp của Phêrô, theo C. Tassin, nhắc lại một mẩu tuyên tín phụng vụ của Hội Thánh thời Matthêu (sđd). Trong đó người Kitô hữu tuyên xưng đức tin cách toàn vẹn.
* “Thầy là Đấng Messia” (tiếng Hy Lạp Christos) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Đấng đáp ứng lòng mong đợi bao thế kỷ của Israel, Đấng thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa nói với dân Người.
* “Con” nghĩa là Đấng liên kết với Thiên Chúa bằng một dây liên hệ có một không hai.
* “Của Thiên Chúa hằng sống” nghĩa là, theo truyền thống Kinh Thánh, là Thiên Chúa ban sự sống, còn theo quan niệm Kitô giáo, là Thiên Chúa, Đấng làm cho Đức Giêsu từ trong cõi kẻ chết sống lại.
– “Con có phúc”, Đức Giêsu đã thốt lên câu đó, cũng là dạng thức Kinh Thánh của “Bát phúc” để chào mừng “con của Giona”, là người vừa nhìn nhận Người như “con của Thiên Chúa hằng sống”. Bởi vì Simon Phêrô không có thể công bố lời tuyên xưng này phát xuất từ thịt và máu, nghĩa là phát xuất từ bản tính nhân loại yếu giòn, nhưng chỉ có thể phát xuất từ cuộc mạc khải thần thiêng. “Bản văn không đề xuất cho Phêrô công lao đặc biệt nào, cũng không đề cao ông như một anh hùng của đức tin. Tác giả chỉ nhấn mạnh tính chính xác của đức tin nơi Phêrô, bởi vì nó đến từ một mạc khải thần thiêng” (C. Tassin).
Sứ mạng “đá” nền tảng của Phêrô.
Những lời long trọng mà Đức Giêsu phán chỉ về Simon Phêrô chỉ có trong Tin Mừng Matthêu.
“Anh là đá, trên đá này…”.
+ Trong Kinh Thánh sự thay tên đổi họ thường chỉ rằng sứ mạng Thiên Chúa trao làm cho người nhận thành một người mới. Cũng như Abram, khi được đổi thành Abraham thì thấy mình được giao sứ mạng trở nên “tảng đá duy nhất”, từ đó phát xuất cả một dân tộc (Is 51,1-2).
+ Trong ngôn ngữ Aramê “Kê-pha” “Đá” không phải là một tên riêng, nhưng chỉ là một danh từ. Đặt cho ông cái tên mới này, nó sẽ thay thế hẳn tên cũ, Đức Giêsu tỏ cho thấy Người giao cho ông một sứ mạng: ông sẽ là đá nền, đá tảng, đá sẽ bảo đảm cho toà nhà mà Người sẽ xây dựng được vững chắc.
“Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”.
+ Trong Kinh Thánh, từ “Hội Thánh” (nguyên ngữ mang ý nghĩa mời dự hội) chỉ cộng đoàn tôn giáo của Israel, cộng đoàn mà Thiên Chúa đã quy tụ giữa loài người để trở thành dân của Giao ước, dân -dấu chỉ lòng thương xót và tình thương của Thiên Chúa-.
+ Từ ngữ này được dùng ở đây, lần đầu tiên trong Tin Mừng Matthêu, ở trên đất ngoại giáo, để chỉ cộng đồng những người mà Đức Giêsu quy tụ, giữa các dân tộc tràn qua mọi biên giới để làm nên một dân của Giao ước mới, dân -dấu chỉ ơn cứu độ cho mọi người-.
Nếu cộng đồng này đứng trên tảng đá Phêrô thì quyền lực của sự chết cũng không thể phá đổ được.
“Thầy ban cho con chìa khá Nước Trời”.
+ Không nên nghĩ đến những chiếc chìa khóa hiện đại thời chúng ta, mà phải nghĩ đến những chìa khóa của những thành phố cổ, những lâu đài vua chúa. Loại chìa khóa giống như những thanh sắt khổng lồ mà người ta mang trên vai. Trao chìa khóa cho ai là trao cho người đó nhiệm vụ thủ tướng.
+ Trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, Đức Giêsu làm cho Phêrô thành thủ tướng. Người trao cho ông quyền lực chính Người nắm giữ, như sách Khải Huyền diễn tả: “Đấng Chân Thật, Đấng Thánh, Đấng giữ chìa khóa của Đavit. Người mở ra thì không ai đóng lại được. Người đóng lại thì không ai mở ra được” (đoạn văn có liên quan với 22 trong bài đọc I).
Chức vụ trao cho ông ở đây là ở dưới đất; ông không phải người canh giữ cửa thiên đàng (C.Tassin): Phêrô là người bảo lãnh, là thông dịch viên của sứ điệp cứu rỗi của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
“Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.
‘Cầm buộc’, ‘Cởi mở’ là những thuật ngữ vùng Palestine chỉ ý nghĩa đại khái: toàn bộ quyền lực, như thiết lập luật pháp, như loại trừ một ai ra khỏi cộng đoàn hoặc cho phép một ai gia nhập cộng đoàn.
+ Trong Mt 18,18 quyền cầm buộc cởi mở được hứa ban cho các môn đệ (ở số nhiều) như vậy không chỉ dành riêng cho Phêrô, nhưng Phêrô chia sẻ quyền đó với những người phụ trách khác.
* Dặn dò giữ im lặng
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kết thúc bằng một lời khuyến dụ ngược đời: “đừng nói với ai Người là Đấng Messia”. Tại sao có lời khuyến cáo này sau cuộc tuyên xưng đức tin cảm động như vậy? Chắc hẳn danh xưng “Messia” còn mang ý nghĩa mơ hồ, còn mang nhiều trông đợi có tính dân tộc quá khích, đi ngược lại sứ mạng mà Người nhận được từ Chúa Cha – phản ứng của Phêrô mà ta sẽ đọc trong Chúa nhật tới minh chứng điều đó.
Chỉ những ai mở tâm hồn đón nhận mạc khải thập giá mới hiểu chính xác danh xưng ấy. Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng của cuộc Khổ nạn – Phục sinh, danh xưng Messia mới tìm thấy ý nghĩa đích thực, và mọi ngộ nhận sẽ vĩnh viễn bị dẹp tan.
BÀI ĐỌC THÊM:
“Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mgr. Daloz, trong cuốn “Le règne de Dieu est approché” Desclée de Brouwer 1993, trang 237-238).
“Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi: Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Người cũng hỏi chúng ta câu đó. Người muốn chúng ta tiến tới, phát huy trong việc khám phá ra bản ngã đích thực của Người. Ta không thể tự thoả mãn khoác cho Người những mong ước của ta, hoặc phóng lên Người những ước vọng của ta. Cần phải đi xa hơn những ý kiến của những con người, cần lột bỏ những ấn tượng hời hợt, cần chấp nhận rằng không thể nắm bắt và không thể tóm gọn Người vào những ý tưởng và những ước muốn của ta. Như ta đã thấy đó, có một hiểu biết về Đức Giêsu theo cách loài người “Người ta bảo Thầy là ai?”. Từ thời Thượng cổ, trải qua giai đoạn lịch sử đã có rất nhiều câu giải đáp. Những giải đáp ấy vừa không vô nghĩa, vừa không đáng coi thường. Nhưng sự hiểu biết đích thực không chỉ của loài người đâu – Nó là do Thiên Chúa ban cho: “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Một con người, con người rặt, chính miệng Simon con ông Giona, nhận quyền do Thiên Chúa; quyền kêu đích danh xác thật của Đức Giêsu – Lời tuyên xưng của ông đã trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng nó đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục – còn mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu và để làm điều đó ông nhận được mạc khải do Chúa Cha ban – Từ đó ông trở nên tiêu chuẩn về sự chính xác cho mọi lời tuyên xưng đức tin và cho sự nhận biết chính xác về Thiên Chúa. Nhờ ông mà người tín hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông nâng đỡ đức tin của chúng ta”.
“Con là Đá” (J.Potin trong cuốn “Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, 1994, trang 322).
Hội Thánh của Đức Giêsu, ở đây Người kêu là “Hội Thánh của Người”, được xây dựng trên nền tảng là đức tin vào thiên tính của Người. Hội Thánh đó chỉ một mảng dân Israel chấp nhận đi vào giao ước mới. Simon, do việc tuyên xưng, đã trở nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây “Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá – Quyền lực của tử thần (dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người. Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phát quyết và nghị định của Hội Thánh này được Thiên Chúa công nhận là do Chúa ban hành.
Phải chăng Đức Giêsu phán những lời này trong khi đi đường lên Giêrusalem? Có nhiều nhà chú giải đặt những lời này sau biến cố Phục sinh, trong một cuộc hiện ra. Thật vậy, trước khi Chúa chết, từ “Hội Thánh chỉ thấy xuất hiện có một lần duy nhất ở Mt 18,17 nói về đời sống của cộng đồng Kitô hữu.
Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chí tính cách vững bền của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó… Phêrô là đá tảng mà Đức Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên hẳn cái tên cũ kia”.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA THÁNH PHÊRÔ (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI năm A này có thể được gọi là lễ trao ban quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên việc tấn phong một tổng giám quản hoàng cung của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma kết thúc phần đạo lý, thánh Phao-lô ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài Đọc I nầy hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy tước vị và quyền quản trị hoàng cung qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a thuật lại chắc chắn được định vị vào trước thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa. Chính Thiên Chúa sẽ truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” đương nhiệm, mà trao cho ông Ê-li-a-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài. Câu chuyện nầy có hai nét đặc trưng: lễ tấn phong và hậu cảnh thiên sai.
Lễ tấn phong:
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho y; cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y; quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay y”: Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định tước vị và quyền hành của ông: “Đối với dân cư Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa, y sẽ là một người cha”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”, chắc chắn, ở đây, tước hiệu này muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến tư lợi của mình. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày đăng quang của mình, chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền bính của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích Mê-si-a.
Hậu cảnh thiên sai:
Trong ánh sáng giải thích theo chiều hướng thiên sai, phần cuối bài thơ mặc lấy một chiều kích khác. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y: y mở ra thì không ai đóng được, y đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho y vững chắc như đinh đóng cột, và y sẽ làm cho gia tộc của mình được rạng rỡ vinh quang.” Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một tân vương. Nhưng phải chăng đây thật sự là một “tân vương thuộc dòng dõi vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích hậu duệ vua Đa-vít này theo nghĩa thiên sai. Quả thật, sách Khải Huyền thánh Gioan đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Theo sau thánh Gioan, các Giáo Phụ cũng đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh thiên sai nầy.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
Ơn Cứu Độ cho người Do thái:
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: sự bất phục tùng của dân Ít-ra-en lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
Niềm cảm tạ tri ân:
Từ đó, thánh Phao-lô cất cao lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi. Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh nhân diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình.
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a vang lên trong tâm trí của thánh nhân:
“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi? Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người? Người đã thỉnh ý ai để giúp Người thông hiểu, bảo cho Người biết lối công minh, dạy cho Người mở mang kiến thức, chỉ cho Người con đường trí tuệ?” (Is 40: 13).
Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Thiên Chúa:
“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
….
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể!” (Tv 139: 6, 17).
Lời chúc tụng:
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men.” Lời tán tụng nầy, câu “Vinh Chúc” nầy với những đặc ngữ chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xuyết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được một kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi khơi nguồn cảm hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì người Biệt Phái và kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư thân thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế, nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền của vua Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp, một nhà cai trị chừng mực và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp”. Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông.
Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
Thăm dò dư luận.
Trước khi đề cập đến cuộc chuyện trò cách chi tiết hơn, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện vừa mới xảy ra trước đây. Sự kiện thứ nhất chỉ một mình thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 67-69).
Sự kiện thứ hai kể ra việc Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ cùng một lúc: đi trên mặt biển và dẹp yên bảo tố, hai phép lạ này đặc biệt dành riêng cho các môn đệ và chỉ cho các môn đệ mà thôi. Thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và là người duy nhất được Thầy cho phép đi trên biển dậy sóng để gặp Ngài. Sau cùng tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33). Đức tin trong những giây phút đầy cảm kích còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi họ tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Vì thế, đây là giây phút thuận tiện để mà Đức Giê-su dò xét mức độ đức tin của họ vào Ngài.
Trước hết, Ngài hỏi các ông dư luận quần chúng về Ngài ngỏ hầu giúp các môn đệ hiểu biết hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi thế kiềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào. Kẻ thì nói Ngài là ông Gioan Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc độc giả nhớ rằng tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su chính là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ngôn sứ Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, tước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Có người lại cho Ngài là ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14). Sách Ma-ca-bê quyển hai chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (2Mcb 15: 13-16; x. Xh 32: 11).
Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.
Tuy nhiên, không phải dư luận quần chúng về Ngài mà Chúa Giê-su thực sự muốn biết khi hỏi các môn đệ của Ngài. Câu hỏi về dư luận quần chúng chỉ như khúc dạo đầu cho một câu hỏi khác, còn quan trọng hơn nhiều, mà Đức Giê-su muốn dò hỏi từ chính các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, thánh Phê-rô trả lời nhân danh họ: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là một tước hiệu được phiên âm từ tiếng Hy-lạp: “Christos” dịch sát từ tiếng Híp-ri: “Mê-si-a”, có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong các sấm ngôn Cựu Ước, tước hiệu này loan báo Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu độ dân Ngài. Còn trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là biểu thức tiêu biểu Cựu Ước. Biểu thức nầy nhắc nhớ rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng vô tri vô giác của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, nghĩa là Ngài không đơn giản chỉ là Đấng Ki-tô phàm nhân thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Ki-tô có nguồn gốc thần linh. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay là đầy đủ nhất so với Tin Mừng Mác-cô: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8: 29) và Tin Mừng Lu-ca: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20).
Đó là lý do tại sao chỉ duy Tin Mừng Mát-thêu ghi lại cho chúng ta rằng Đức Giê-su tán dương lời tuyên xưng đức tin nầy và nhận ra mặc khải siêu nhiên mà thánh Phê-rô nhận được: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu đuối mõng dòn trái ngược với Thiên Chúa hằng sống. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải. Lời tuyên xưng này cũng đã được Đức Giê-su xác nhận và chứng thực khi chính Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài: “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Vài ngày sau đó, Đức Giê-su sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp.
Lễ tấn phong thánh Phê-rô:
Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là lễ tấn phong Phê-rô cũng chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu, lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Kepha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Kepha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng, nhưng là một danh từ. Khi nâng danh từ “kepha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Kepha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên thánh nhân từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy để lãnh nhận một sứ mạng mới, như vậy, với một con người mới và một vận mệnh mới, thánh Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay trên đó Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Đức Giê-su chọn hình ảnh: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” để khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”. Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng cung, ông có nhiệm vụ coi sóc và quản trị hoàng cung. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, vị tổng quản Giáo Hội, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và quản trị Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” để áp dụng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “ngăn cấm”, và “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
Quyền Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô:
Để kết thúc buổi chia sẻ này, chúng ta nên đọc và hiểu bản văn Tin Mừng Mát-thêu này một cách tinh tế, đừng vội đồng hóa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với con người của thánh nhân, bởi vì ngay sau câu chuyện này, Đức Giê-su đã quở trách nặng lời với thánh nhân khi thánh nhân tìm cách ngăn cản Ngài thực hiện con đường cứu độ cho muôn người qua cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Vì thế, chính không phải con người của thánh nhân, nhưng lời tuyên xưng của thánh nhân mới là đá tảng vững chắc trên đó Đức Giê-su xây dựng Hội Thánh của Ngài mà ngay cả quyền lực tử thần cũng sẽ không thắng nổi.
Vì thế, không lạ gì trong các sách Tin Mừng, ngoài bản văn của thánh Mát-thêu, chúng ta còn gặp thấy hai bản văn khác nữa nói về quyền tối thượng của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng của thánh Lu-ca, vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi báo trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay thánh nhân sẽ chối thầy đến ba lần, Đức Giê-su nói với chỉ một thánh Phê-rô,: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22: 32). Theo truyền thống Tin Mừng Lu-ca, thánh Phê-rô được trao quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ngài không phải vì thánh nhân có đức độ tài năng hơn các bạn đồng môn khác, nhưng chỉ vì thánh nhân có cảm nghiệm sâu xa hơn những môn đệ khác về sự mõng dòn yếu đuối của bản thân mình qua ba lần chối Thầy và sự tha thứ vô hạn của Thầy đối với mình. Chỉ như thế, thánh nhân mới có thể cảm thông những yếu đuối của anh em mình và nâng đỡ đức tin của anh em mình trong những gian nan thử thách.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, vào sáng sớm sương mờ của biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su Phục Sinh gặp gỡ các môn đệ của Ngài. Sau khi đã cho các ông một mẽ lưới cá lạ lùng và đã dọn sẵn cho các ông một bữa ăn trên bờ hồ, xảy ra một cuộc đối thoại thật cảm động của Chúa Giê-su với chỉ một mình thánh Phê-rô. Trong cuộc đối thoại đó, Chúa Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Anh có mến Thầy không?”, và ba lần Chúa Giê-su trao quyền mục tử cho thánh nhân (Ga 21: 15-17). Như vậy, theo truyền thống Tin Mừng Gioan, quyền mà Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô không là cai trị, nhưng là ân cần chăm lo cho đoàn chiên của Ngài bằng trọn một tấm lòng yêu mến mà thánh nhân dành cho Thầy mình. Quả thật trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11), khác với kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10: 12). Kẻ chăn chiên thuê mà Chúa Giê-su đề cập đến ở đây chính là giới lãnh đạo tôn giáo của dân Ít-ra-en, họ cũng đã được Thiên Chúa chọn và trao ban quyền chăm lo cho dân của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su trách cứ họ khi gọi họ là kẻ chăn chiên thuê vì họ chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình, không sống chết với đoàn chiên mà Thiên Chúa ủy thác cho họ.
Có hiểu như thế, chúng ta mới có thể nhìn thấy cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội Chúa Ki-tô thật đẹp biết bao. Cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội được chính Đức Giê-su thiết lập không phải để cai trị nhưng để yêu thương và phục vụ. Ngay chính Tin Mừng Mát-thêu, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta cuộc tấn phong thánh Phê-rô hôm nay, cũng ghi lại những lời tâm huyết mà Đức Giê-su muốn các môn đệ chân chính của Ngài phải khắc cốt ghi tâm: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 25-28). Chính thánh Phê-rô đã hiểu, nên sau này thánh nhân đã khuyên các bậc kỳ mục: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiểu không bao giờ hư nát” (1Pr 5: 2-4).
Cuối cùng, chúng ta đừng quên, chính đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã chọn bản văn Tin Mừng Gioan chứ không bản văn Tin Mừng Mát-thêu vào ngày lễ đăng quang của mình, để nhấn mạnh chức năng Mục Tử tối cao của ngài, chứ không vai trò thủ lãnh tối cao của Giáo Hội.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
ĐỨC GIÊSU KITÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19).
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
– Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16):
- a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14),
- b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);
– Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16,17-19);
– Kết: Lệnh cấm (16,20).
Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và 13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18 (c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26,61-64).
Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:
- a) cc. 13-15;
- b) cc. 16-19
- c) c. 20
c’) cc. 21-22
b’) cc. 22-23
a’) cc. 24-28
Vài điểm chú giải
– Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoit); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20), đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
– không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người
– Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam tính.
– Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh, mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10,1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.
– chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời” là một công thức Mt song song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
– ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại.
Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và mộtlời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa mộttương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
* Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27; 17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng mộttên mới và loan báo mộtnhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là mộtsáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc mộtngười có quyền thế có thể ban mộttên mới cho mộtngười đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với mộtnhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói mộtcuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông mộttên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng mộtlời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với mộttòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như mộtcon người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này mộtngười lãnh đạo có uy quyền lớn lao.
* Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào mộtquan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8,30; Lc 9,21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì mộtlời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho mộtđức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16,22).
+ Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc” và “tháo cởi”. Do mộtsự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin.
Gợi ý suy niệm
– Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.
– Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình mộtĐức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra mộtĐức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.
– Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
– Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh mộtmáng cỏ và mộtcây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
– Trong buổi tiếp kiến ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.
Sau cuộc Phục Sinh, ta cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16,7; Ga 20,2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20,3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22,31t)…
Việc đặt vị trí tối thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21,11) và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng ta”.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Chúa nhật 21 hôm nay giúp chúng ta hướng lòng về Mầu nhiệm Hội thánh. Công đồng Vatican II gọi “Hội thánh là Dân Thiên Chúa” , một dân có tổ chức hẳn hoi, một Hội có đầy đủ các đặc tính của nó. Hội thánh được coi như một gia đình, trong đó mỗi người đóng một vai trò hoặc lớn hoặc nhỏ nhưng mọi người đều có trách nhiệm phải bảo vệ vào xây dựng gia đình đó.
Trong số các hồng ân Chúa ban cho loài người, Hội thánh chắc hẳn là hồng ân qúi giá nhất. Chính Hội thánh có nhiệm vụ tiếp tục công trình của Đức Kitô, và ban cho chúng ta những đặc ân Người mang đến. Chính Hội thánh làm cho Chúa Kitô hiện diện giữa chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu Hội thánh để thêm lòng yêu mến và cố gắng làm tròn nhiệm vụ của chúng ta đối với Hội thánh.
Chúng ta là những thành viên trong Hội thánh. Đã là thành viên thì mỗi người đều có quyền lợi và bổn phận bởi vì quyền lợi và bổn phận phải đi liền với nhau. Chúng ta đã được lãnh nhận nhiều ơn Chúa qua Hội thánh thì chúng ta cũng phải có bổn phận bảo vệ và xây dựng Hội thánh . Tuy mỗi người chỉ là một thành phần nhỏ nhưng cũng quan trọng, bởi vì một ngôi nhà được xây dựng lên phải bao gồm nhiều yếu tố, nhiều chất liệu mà thiếu một yếu tố nào thì ngôi nhà ấy chưa được hòan hảo. Hội thánh là một ngôi nhà chung, mỗi người phải có trách nhiệm góp vần vào việc xây dựng ngôi nhà đó.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 22, 19-23.
Lời tiên tri của Isaia hôm nay nói về việc truất phế một vị quan coi đền thờ là Sobna, dưới triều vua Ezechia, vì ông này có những hành vi nhũng lạm. Ông này không xứng đáng, nên chức vụ này được trao cho người khác là Éliakim, ông này sẽ lo quyền lợi chung và sẽ là người cha cho dân của ông.
Mặc dù Eliakim phục vụ cho vua Ezéchia, nhưng trách nhiệm của Eliakim không phải do vua trao, mà do chính Thiên Chúa. Ngài trao cho Eliakim “chìa khoá”, nghĩa là thẩm quyền để hành xử trong phạm vi trách nhiệm của mình. Ngài còn hứa sẽ che chở, trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm được giao phó.
+ Bài đọc 2 : Rm 11,33-36.
Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô ca tụng sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài không ai hiểu thấu vì mọi vật đều do Ngài mà có, nhờ Ngài mà tồn tại. Chúng ta chỉ biết ca ngợi tình thương của Chúa đối với chúng ta và cố gắng sống theo đường lối và thánh ý của Ngài : Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.
+ Bài Tin mừng : Mt 16,13-20.
Sau khi các Tông đồ cho Chúa Giêsu biết dư luận của dân chúng về Ngài, thì Chúa Giêsu lại hỏi chính các ông xem các ông bảo Ngài là ai ? Thánh Phêrô đã thay cho các ông khác mà tuyên xưng :”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời tuyên xưng ấy và để đáp lại, Ngài đã đặt Phêrô làm thủ lãnh Hội thánh, tượng trưng cho tước vị và quyền hạn này là việc trao chìa khóa.
Như vậy, thánh Phêrô và những người kế vị đã nhận được nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô điều khiển Hội thánh, là dân Thiên Chúa. Ngài còn hứa sẽ bảo trợ thánh Phêrô và các Đấng kế vị trong chức vụ mình, và bảo đảm với các vị là Hội thánh của Ngài luôn bền vững, không một quyền lực nào có thể phá nổi.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hội thánh của Chúa Kitô
HỘI THÁNH VÀ VIỆC TRAO QUYỀN BÍNH.
Xây dựng Hội thánh.
Sau khi Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu :”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền thưởng cho ông :”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
Con là Đá : Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên người đó (St 17,5-15. 35,10 . Tv 13,16. 2V 23,34) . Việc đổi tên như vậy cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên. Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô (Đá), Chúa có ý chỉ Phêrô sẽ là Đá tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người. Tất nhiên đây chỉ là tảng đá hữu hình của Hội thánh, còn đá vô hình là Chúa Giêsu (1Cr 3,10-11 ; 1Pr 2,6-8).
Qua đặc tính tự nhiên của đá, ta có thể hiểu về đặc tính của Hội thánh. Đá có đặc tính :
* Cứng : nói lên sức mạnh của Hội thánh.
* Bền : nói lên sự trường tồn của Hội thánh.
* Chắc : nói lên sự vững bền của Hội thánh.
Vì thế Phêrô quả là nền tảng của Hội thánh.
(Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật, năm A, tr 257)
Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào rằng : Hội thánh đã đến ngày tận số ! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000 năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu :
Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ : Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.
Năm 1758, Voltaire nói tiên tri : hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.
Năm 1850, P. Proudhon quả quyết : các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị linh mục nào để xức dầu cho đâu.
Và năm 1904, Combes tuyên bố : ba tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.
Đời nào cũng có những người cao hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ ở đâu ? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.
Thánh Augustinô nói :”Họ nhìn thấy Hội thánh, họ nói : Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau”.
Phêrô được trao quyền lãnh đạo.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố sẽ lập Hội thánh trên nền tảng là Phêrô, Chúa Giêsu liền ban quyền lãnh đạo cho ông :”Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy ; dưới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16,19).
Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tấn phong Phêrô làm thủ lãnh của Hội thánh. Ngài xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá Phêrô và hứa sẽ bảo vệ Hội thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Ngài còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền tối thượng này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
SỨ MẠNG LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH.
Hội thánh được Công đồng Vatican II gọi là “Dân Thiên Chúa”. Đã là một dân thì phải có tổ chức hẳn hoi. Chúa Giêsu đã lập một hội giáo. Hội đó là một hội hoàn toàn, có người chỉ huy và có kẻ phục tùng, không phải cá mè một lứa, theo hình thức quân chủ theo nghĩa một người có trọn quyền chỉ huy. Hội đó có đủ các quyền hành của một hội hoàn toàn : có quyền cai trị, quyền giáo huấn và quyền thưởng phạt. Các quyền này nhận thẳng từ Đấng sáng lập không chịu quyền của trần gian.
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh không rõ từ lúc nào, các nhà thần học chưa đồng ý với nhau, nhưng biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã thiết lập và trao quyền lãnh đạo Hội thánh cho thánh Phêrô :”Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất con tháo cởi cái gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”.. Do đó, thánh Phêrô là vị Giáo hoàng tiên khởi, rồi các vị khác tiếp tục thay phiên nhau mà cai trị Hội thánh. Các ngài cũng chỉ là con người như mọi người, nhưng được Chúa Giêsu tuyển chọn để thay quyền Ngài mà cai trị Hội thánh. Các ngài là những vị đại diện của Chúa Kitô ở trần gian.
Truyện : ĐGH Gioan-Phaolô II
Một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về ĐGH Gioan-Phaolô II. Tờ báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Roma, một hôm đã cùng với các bạn đi thăm cha đáng kính Piô, một Linh mục được Chúa in 5 dấu thánh. Vừa gặp, Cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia Cha sẽ làm Giáo hoàng và sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy. Wojtyla trả lời : “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ không bao giờ làm Giáo hoàng”. Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu ! Wojtyla đã làm Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày 13.10.1981 tại công trường thánh Phêrô. Gioan-Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng. (Lm Hồng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 128)
Giáo hoàng là vị Cha chung
Cầm quyền thống trị với lòng yêu thương.
Chúa Giêsu xây dựng Hội thánh trên Tảng đá Phêrô. Đá là một vật cứng , nhưng người ta thường nói :”Nước chảy đá mòn” nên tảng đá Phêrô có thể bị sứt mẻ nhưng không bị vỡ tan. Điều đó nói lên sự yếu đuối của Phêrô. Mặc dù ông đã hứa với Chúa :”Dầu tất cả có vấp phạm vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Và ngay đêm sau đó, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ gặng hỏi, ông đã thốt lên những điều độc địa và thề rằng :”Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).
Thế là đã rõ, Chúa Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội thánh của Ngài, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã và… phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấu suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn sâu thẳm và một lòng sám hối chân thành.
Thật vậy, trước đây trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã tâm sự với các môn đệ :”Đêm nay tất cả các con sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21) thì Phêrô không thể nào tin được. Ông quả quyết với Chúa :”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Nhưng “ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô” (Lc 22,60). Ánh mắt của Chúa nhìn thấu tâm hồn ông làm cho ông đau nhói. Ông rút lui ra ngoài, tan nát cõi lòng, bước đi nặng trĩu.
Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết vì lầm lỗi của mình : tại sao mình lại phản bội Thầy ? Lúc này Phêrô mới nhận thấy mình không còn là tảng đá vững chắc nữa, mà mình chỉ là cát bụi, mình yếu đuối dễ sa ngã, không còn cậy vào sức mình như trước nữa, mà phải hoàn toàn trông cậy vào sự nâng đỡ của Chúa. Gương sa ngã của thánh Phêrô làm cho chúng ta nhớ đến lời khuyên của thánh Phaolô : Ai đang đứng, ý tứ kẻo ngã. Cái cột trụ Hội thánh đã đổã thì những cột khác có đứng vững không ?
Tuy thế, ông Phêrô cố quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai của ơn thánh : cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Với kinh nghiệm bản thân đã kinh qua, sau này thánh Phêrô đã khuyên bảo các tin hữu của mình :”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).
SỨ MẠNG XÂY DỰNG HỘI THÁNH.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chọn thánh Phêrô là Tảng đá để Ngài xây dựng Hội thánh trên đó. Hội thánh này phải vững chắc vì xây nhà trên nền đá thì phải vững chắc, không sợ mưa sa bão táp (x. Mt 7,24-27). Hội thánh được xây dựng trên đá tảng Phêrô là đúng rồi, nhưng câu hỏi được đặt ra là “Chúa còn xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá nào khác nữa không” ? Thánh Phêrô đã trả lời cho chúng ta trong thư thứ nhất của ngài :”Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên đền thờ thiêng liêng”(1Pr 2,5). Như thế có nghĩa là thánh Phêrôâ trả lời cho chúng ta là “có” : vì mỗi Kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội thánh.
Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội thánh mà chia quyền ấy cho mọi tín hữu. Công đồng Vatican II cũng không nói khác với Phêrô : mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình mà xây dựng.
Hội thánh là gia bảo mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta qua các tông đồ và các Đấng kế vị. Trải qua 2000 năm Hội thánh đã phải chịu bao phen sóng gió, bao cuộc bách hại nhất là tại đế quốc Rôma trong 250 năm kể từ năm 64 đến năm 315, và tại Việt nam chúng ta trong suốt hơn 100 năm dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và nhóm Văn thân. Tuy thế Hội thánh vẫn luôn đứng vững vì Chúa đã hứa với Phêrô là không sức mạnh nào có thể phá nổi.
Nếu Hội thánh là di sản quí báu cha ông chúng ta đã để lại, chúng ta phải bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đừng bao giờ để cha ông chúng ta phải than vì “Đời cha vo trò, đời con bóp méo”. Hội thánh là ai ? Hội thánh là ta, là mỗi người chúng ta. Chúng ta phải làm sao cho Hội thánh luôn mặc một vẻ đẹp và hấp dẫn trước mặt luơng dân. Bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đó là công tác của chúng ta. Hãy giữ lấy gia sản quí báu ấy như các em thiếu nhi thuờng hát trong các buổi sinh hoạt giáo lý :
Cái nhà là nhà của ta
Ông cố ông cha làm ra.
Cháu con hãy gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Qua 2000 năn lịch sử của Hội thánh, chúng ta thấy Hội thánh luôn được phát triển trong những hoàn cảnh thật khó khăn, có biết bao thế lực chống phá, ngăn cản việc truyền giáo, nhiều nhà truyền giáo đã phải đổ máu ra để xây dựng Hội thánh vì “máu các thánh Tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertulien).
Truyện : Viên đá đầu tiên
Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị Linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu Linh mục. Vị Linh mục cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ.
– Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.
Và sự thật viên đá đó là viên đá đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.
Nước Chúa trên mặt đất này là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi như vậy. Hội thánh vẫn phát triển trong âm thầm và đau khổ. (Nguyễn hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 114).
Chúng ta luôn tin tưởng rằng Hội thánh của Chúa luôn vững bền, mặc dầu luôn gặp muôn vàn khó khăn vì Hội thánh là ngôi nhà được xây trên đá vững chắc. Vậy xây nhà trên đá là gì ? Thưa là biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là biết đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, ai xây nhà trên đá là người khôn (Mt 7,24-27), còn ngược lại, kẻ nào không lắng nghe Lời Chúa và nhất là không thực hành Lời Chúa thì giống như người ngu xây nhà trên cát.
Còn đối với các Đấng bậc trong Hội thánh, Chúa Giêsu đã muốn cho thánh Phêrô và những người kế vị trở thành lãnh đạo Hội thánh mà Ngài đã lập ra, điều này không thể chối cãi được. Bởi đó, chúng ta phải công nhận quyền uy của các Ngài, phải vâng theo lời dạy của các Ngài và làm cho nhiệm vụ của các Ngài được dễ dàng. Vâng lời các Ngài là vâng lời chính Đức Kitô. Ngài đã phán :”Ai nghe lời các con là nghe Ta”.
Nếu người ta đang hô hào người dân phải bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì đó là bổn phận của mỗi công dân, thì chúng ta, mỗi người la đều là công dân Nước Trời , làø thành viên trong Hội thánh, chúng ta cũng có nhiệm vụ phải yêu mến, bảo vệ và xây dựng Hội thánh, xây dựng giáo xứ, xây dựng xã hội và xây dựng gia đình. Việc xây dựng đầu tiên , làm nền tảng cho mọi cuộc xây dựng tiếp theo, chính là nỗ lực lắng nghe và sống Lời Chúa.
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Thiên Chúa trao nhiệm vụ cai quản đền thờ cho Sobna.
– Đáp ca : Lời cầu xin Chúa cho kẻ khiêm nhường đang chăm lo công việc Chúa giao.
– Tin Mừng : Đức Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh cho Phêrô.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong anh chị em đang hiện diện ở đây, có người làm cha, có người làm mẹ, có người làm con… người nào cũng có trách nhiệm trong gia đình.
Đối với giáo xứ, có người được giao trọng trách trong Hội đồng giáo xứ, trong ban trị sự khu xóm, trong các giới các đoàn thể. Những người khác không có chức tước, nhưng cũng có trách nhiệm xây dựng giáo xứ và Giáo Hội. Ai cũng có trách nhiệm.
Đối với xã hội và đất nước cũng thế… Không ai được quyền chỉ lo cho mình hoặc chờ người khác lo cho mình. Ai ai cũng có trách nhiệm với người khác.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm của mình, và xin Ngài giúp sức để chúng ta chu toàn trách nhiệm ấy.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta thiếu sót rất nhiều về trách nhiệm đối với gia đình.
– Chúng ta còn thiếu sót hơn nữa trong trách nhiệm đối với xã hội và Giáo Hội.
– Nhất là chúng ta có khuynh hướng ích kỷ, lo cho bản thân nhiều hơn lo cho người khác.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 22,19-23)
Thời vua Eâdêkia làm vua nước Giuđa (thế kỷ thứ 8 trước công nguyên), Sobna làm quan cai đền thờ. Vì ông này không xứng đáng nên bị cách chức, và chức vụ này được trao cho một người khác tên là Eâliakim.
Những điều đáng chú ý trong chuyện này là :
– Chính Thiên Chúa trao trách nhiệm cho con người : mặc dù Eâliakim phục vụ cho vua Eâdêkia, nhưng trách nhiệm của Eâliakim không phải do vua trao, mà do chính Thiên Chúa.
– Khi Thiên Chúa trao trách nhiệm cho ai thì Ngài cũng ban cho người đó những trợ giúp cần thiết để có thể chu toàn trách nhiệm : Ngài trao cho Eâliakim “áo choàng” và “đai lưng”, tức là những thứ bề ngoài để người lãnh trách nhiệm có một tư cách được người ta nhìn nhận ; Ngài cũng trao cho Eâliakim “chìa khóa”, nghĩa là thẩm quyền để hành xử trong phạm vi trách nhiệm của mình ; Ngài còn hứa “sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh”, nghĩa là che chở, trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm.
Đáp ca (Tv 137)
Lời cầu xin Chúa cho kẻ khiêm nhường đang chăm lo công việc Chúa giao : “Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa”.
Tin Mừng (Mt 16,13-23)
Đức Giêsu trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời”, nghĩa là ông được làm người quản trị của Hội Thánh mà Ngài sẽ thành lập. Việc trao trách nhiệm này có một số điều đáng ta lưu ý :
– Phêrô được giao trách nhiệm sau khi tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu : “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” à Người lãnh trách nhiệm của Chúa phải có đức tin vào Chúa.
– Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa sẽ hỗ trợ cho trách nhiệm của Phêrô : “Điều gì con cầm buộc… trên trời cũng cầm buộc ; điều gì con tháo cởi… trên trời cũng tháo cởi”.
– Tuy nhiên người lãnh trách nhiệm không hẳn là người hoàn toán xứng đáng, thánh thiện : vừa được trao trách nhiệm cao cả, đã can gián Chúa chịu nạn chịu chết và bị Ngài quở trách nặng lời : “Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy”.
Bài đọc II (Rm 11,33-36) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô ca tụng sự khôn ngoan vô cùng của Chúa : “Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa. Sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được”
GỢI Ý GIẢNG
Mỗi người chúng ta cũng là một viên đá sống động
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng Thánh Phêrô đã được Đức Giêsu chọn làm tảng đá để xây dựng Hội Thánh của Ngài trên đó. Nhưng ngoài tảng đá Phêrô, Chúa còn xây dựng Hội Thánh của Ngài trên tảng đá nào khác nữa không ? Đây là một câu hỏi thú vị. Câu hỏi thú vị này lại có câu trả lời thú vị không kém, mà lại là câu trả lời của chính tảng đá Phêrô : Thưa có, mỗi kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội Thánh. Nguyên văn câu nói của Phêrô trong thư thứ nhất của ngài là : “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1 Pr 2,5)
Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội Thánh mà chia quyền ấy cho mọi kitô hữu. Công đồng Vaticanô II cũng nói không khác với Phêrô : mọi kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội Thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình.
Có một bài cầu nguyện rất đặc biệt mà tôi đã đọc trong một quyển sách. Tôi không còn nhớ tựa đề quyển sách đó, cũng không nhớ tên tác giả, nhưng vẫn nhớ nội dung lời cầu nguyện ấy mặc dù không nhớ kỹ từng lời. Đó là lời cầu nguyện của một viên gạch. Viên gạch này nằm sát chân tường. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng nó chợt nảy ra những so sánh, những ước ao, và nó cầu nguyện như sau :
Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường.
Con không được như viên gạch xây cửa, ở ngay tầm mắt người ta.
Con không được như viên gạch xây mặt tiền, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen đẹp.
Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được người ta lau chùi đánh bóng.
Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát chân tường.
Nhưng viên gạch ấy đã suy nghĩ, rồi nó cầu nguyện thêm:
Nhưng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập. Mặt tiền xinh đẹp kia không còn, cánh cửa xinh đẹp kia không còn, phòng khách xinh đẹp kia cũng không còn.
Xây nhà trên đá
Bài Tin Mừng về việc Chúa chọn Phêrô làm đá tảng xây dựng Hội Thánh khiến ta liên tưởng tới một đoạn Tin Mừng khác, Đức Giêsu nói về việc xây nhà trên đá (Mt 7,24-27).
Xây nhà trên đá là gì ? Thưa là biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là sau đó đem Lời Chúa ra thi hành. Đức Giêsu bảo người đó là người khôn. Còn kẻ nào không lắng nghe Lời Chúa và nhất là không thi hành lời Chúa thì giống như người ngu xây nhà trên cát.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm xây dựng Giáo Hội, xây dựng giáo xứ, xây dựng xã hội và xây dựng gia đình. Việc xây dựng đầu tiên, làm nền tảng cho mọi cuộc xây dựng tiếp theo, chính là nỗ lực lắng nghe và sống Lời Chúa.
Đừng là gánh nặng cho nhau, mà hãy là đá để thành chỗ dựa cho nhau
Trong cuộc sống chung, khi mọi việc đều êm xuôi tốt đẹp thì hòa thuận yêu thương nhau rất là dễ, hạnh phúc như đang bao bọc chung quanh mình. Nhưng khi khó khăn xảy đến thì mọi người đều buồn phiền, bực bội, gắt gỏng… Một chuyện nhỏ cũng có thể gây nên một xung đột lớn. Tại sao thế ?
Thưa vì trong những lúc khó khăn như thế, người ta chỉ còn nghĩ đến nỗi khổ của mình mà không còn nghĩ đến người khác, người ta chỉ nhớ rằng người khác phải có trách nhiệm với mình mà quên rằng mình cũng có trách nhiệm với người khác.
Ai nấy cũng đã khổ rồi, sao còn vô tình làm khổ nhau thêm ? Phải chi mỗi người nhớ đến trách nhiệm của mình để đến an ủi người khác, san xẻ gánh nặng của người khác, và trở thành chỗ dựa cho người khác thì tốt hơn biết mấy !
Hạnh phúc không phải do thụ động chờ mà tới. Hạnh phúc phải do con người xây dựng, người này xây dựng cho người kia, mọi người xây dựng cho nhau.
Chuyện minh họa
Trách nhiệm âm thầm
Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.
Sau một hồi vãng cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân : do người phu quét là rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)
Trung thành với trách nhiệm
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói : “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh để tiếp tục công cuộc cứu độ của gười. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Đức Thánh Cha là đấng kế vị Thánh Phêrô / và thay mặt Chúa Giêsu / hướng dẫn dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn gìn giữ Người khỏi mọi hiểm nguy / và giúp đỡ Người chu toàn trọng trách của mình.
2- Các Đức Giám mục là những đấng kế vị các thánh tông đồ / là thầy dạy chân lý cho các kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các ngài trong đời sống mục vụ / vốn đầy dẫy những khó khăn và đau khổ.
3- Tuyên xứng đức tin phải là việc làm thường xuyên của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho các kitô hữu / luôn hiên ngang sống đức ái đã lãnh nhận / bất chấp những thử thách cam go trong cuộc sống thường ngày.
4- Bổn phận của người kitô hữu là luôn yêu mến / vâng lời / và bênh vực Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn trung thành với Hội Thánh / mến yêu hàng giáo phẩm / nhất là biết tích cực cộng tác với các ngài trong việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô.
CT : Lạy Chúa, theo Thánh Gioan Tông đồ, tin không phải là tuân giữ một số điều răn, nhưng là gắn bó và dấn thân theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con biết cố gắng sống trọn vẹn niềm tin mà thánh Gioan đã nhắc nhở chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
————————————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ…(*)- Suy niệm của Noel Quession
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…
Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban… Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!
Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ “tảng đá” dưới chân núi.
Người hỏi các món đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”
Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về “căn tính” của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?
Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?… ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.
NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương… Bạn, Duyên…. Bạn, Minh Hạnh… Bạn Hằng… Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền “làm giảm nhẹ” lời tuyên xưng đức tin” của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa”, “ben Elohim”. Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 – 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là “một ngôn sứ” nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến… nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con… và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.
Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
“Phàm nhân”… từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói… một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: “Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!”.
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự “mạc khải”.
Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: “Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra… Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào… Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?”
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về “Thiên Chúa”: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên” (Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!” Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố “thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”
Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ “Tảng Đá” (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:
-Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa…
-Giáo Hội: có nghĩa là “cộng đoàn”, được Thiên Chúa triệu tập.
-Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại…
-Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.
-‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là “Tảng Đá”. Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!
Từ “Giáo Hội” dịch chữ “Qahal” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Cộng đoàn”, điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một “Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu “lẻ loi”. Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…
Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: “Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi”. Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào “ngục tù của sự chết” để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một “cộng đoàn” những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không…”. Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những “cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành” mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HỘI THÁNH CỦA CHÚA – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
GIÁO HỘI CUẢ ĐỨC GIÊSU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Câu hỏi của Chúa Giêsu : “Người ta nói con người là ai?” đã đưa đến lời tuyên xưng Ðức tin của thánh Phêrô và việc Chúa Giêsu quyết định thiết lập Giáo hội, trao quyền bính cho Giáo hội, và cách riêng trao cho thánh Phêrô, đá tảng của Giáo hội. Lời tuyên xưng đức tin này đã là động lực để Chúa Giêsu quyết định đặt Phêrô là tảng đá trên đó Người xây dựng Giáo hội cũng như đặt Phêrô làm người thủ lãnh của Giáo hội. Giữa lời tuyên xưng của thánh Phêrô và việc thiết lập Giáo hội của Chúa Giêsu, trên nền tảng Phêrô, có mối liên hệ của việc Chúa Giêsu tin tưởng trao cho Giáo hội trọng trách loan báo và chia sẻ mầu nhiệm cứu độ mà Người đã thiết lập. Những con người yếu hèn bình thường lại được tin tưởng trao trọng trách rao giảng Tin mừng cứu độ, đồng thời việc tín nhiệm này mời gọi mỗi người hãy biết tin tưởng và cộng tác với nhau để chu toàn công việc mà Thiên Chúa đã tín nhiệm trao phó, nhất là đứng trước thách đố đại kết hiệp nhất các Giáo hội Kitô giáo cũng như yêu cầu hội nhập văn hóa khi Giáo hội đứng trước các tôn giáo trong nhân loại đang khao khát gặp gỡ Thiên Chúa.
Trong các Phúc âm, thuật ngữ Giáo hội chỉ được nói đến hai lần trong Phúc âm Matthêu (16,18; 18,17), tuy nhiên thuật ngữ này được nói đến 112 lần trong các sách còn lại của bộ Tân ước. Sự kiện các sách Phúc âm khác như Marcô, Luca và Gioan không nhắc đến thuật ngữ Giáo hội khiến các học giả vì thế đã có thể kết luận là “Giáo hội” là một thực tại hậu phục sinh, và hầu như không phải là quan tâm chính của Chúa Giêsu trong đời trần thế của Người. Sự kiện này có thể được lý giải bằng ý niệm “tính tiên tri” của các Phúc âm: Chúa Giêsu, Ðấng Phục sinh vẫn đang nói với Giáo hội qua các Phúc âm nhờ các thánh sử biên soạn, và Giáo hội, một thực tại hậu phục sinh, thực sự phát xuất từ chính ý muốn của Chúa Giêsu. Hay nói cách khác, chúng ta không nên nghi ngờ thực tại Giáo hội, bởi vì dù thực tại Giáo hội được nói đến bởi các tác giả Tân ước, thì cũng chính là Chúa Giêsu đang nói, Người đang nói qua những con người được người tín nhiệm trao trọng trách nói cho chúng ta chính Lời của người.
Ðiều được ghi nhận qua bài tường thuật của Phúc âm chính là nguồn gốc thần linh của Giáo hội. Giáo hội được thiết lập bởi Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa mà Giáo hội là cộng đoàn những người tin và tuyên xưng Người chính là Ðức Kitô và là Con Thiên Chúa hằng sống. Lời tuyên xưng của Phêrô không phải là một trực giác đột nhiên hay một suy luận thuần lý, nhưng chính là mạc khải phát xuất từ thánh ý Chúa Cha, một ơn soi sáng từ Chúa Cha tác động trên trí tuệ của con người yếu hèn như Phêrô, là hình ảnh của khả năng con người chúng ta có thể lãnh nhận những mầu nhiệm vĩnh cửu về Thiên Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội khi nhận ra thánh ý của Chúa Cha trong việc thánh Phêrô đã đón nhận được mạc khải thần linh. Giáo hội này lại chính là Giáo hội của Chúa Giêsu, có Ðức Giêsu là Ðấng thiết lập. Như thế, sự hiện hữu của Giáo hội phát xuất từ thánh ý Chúa Cha và ý muốn của Chúa Giêsu. Hệ luận của việc nhìn nhận nguồn gốc thần linh này của Giáo hội cũng đưa tới việc nhìn nhận quyền bính của Giáo hội, đón nhận từ chính vị sáng lập của mình là Chúa Giêsu.
Vai trò của thánh Phêrô được đề cao. Phêrô, một con người được phúc lành từ trên, được thiết lập như là đá, là nền tảng của Giáo hội. Ở những truyền thống Phúc âm khác, chính Chúa Giêsu (1Cr 3,11), hay là cả nhóm các tông đồ được nhìn nhận như là nền tảng của Giáo hội. Những cách trình bày này sẽ bổ túc cho nhau. Luôn luôn, Ðức Giêsu được hiểu là Ðầu, thủ lãnh của Giáo hội, thánh Phêrô và các tông đồ khác nhận quyền bính từ Chúa Giêsu, và thay quyền cũng như hiệp nhất với Người. Những câu trả lời của dân chúng về Ðức Giêsu chỉ là những câu trả lời xa xa, riêng câu trả lời của tông đồ Phêrô lại là câu trả lời chính xác đến độ nhiều người đã gọi bài phúc âm này là phúc âm về “hồng ân”. Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là nhờ bởi ơn mạc khải của Chúa Cha. Như thế, chỉ nhờ vào ơn mạc khải từ Thiên Chúa mà thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin cũng như chỉ nhờ vào ơn của Thiên Chúa mà Phêrô được đặt làm người lãnh đạo Giáo hội. Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa ban cho các môn đệ của Người để xây dựng và tổ chức Giáo hội là cộng đoàn những môn đệ, những người tin vào Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Mạc khải, đức tin, Giáo hội, quyền lãnh đạo của tông đồ, tất cả là những hồng ân của Thiên Chúa.
Cũng như thánh Phêrô, mỗi người chúng ta cũng có thể nhận ra Ðức Giêsu bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải người Con này cho chúng ta. Công việc của chúng ta là nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Ðức Giêsu như Phêrô đã nhận ra và cảm nghiệm trong cuộc đời mình ơn gọi và hồng ân làm môn đệ của Ðức Giêsu. Ơn gọi người môn đệ là cố gắng biểu lộ trong đời sống của mình qua những công việc làm căn tính là Kitô hữu của mình, hồng ân đã lãnh nhận ngày lãnh bí tích rửa tội. Hồng ân này đã làm người Kitô hữu được nên một với Đức Giêsu, đón nhận sức sống sung mãn của người nhờ đó mà mọi việc làm của mình được mặc sức mạnh của chính Chúa Giêsu, làm cho người Kitô hữu không ngừng được thánh hóa trong mọi công việc của mình. Căn tính Kitô hữu còn là thân mình của Ðức Kitô, những Giêsu khác trong thế giới để làm chứng về Ðức Giêsu cho người khác, để loan báo ơn cứu độ, để là những đá tảng trên nền đá Phêrô mà Giáo hội đã được xây dựng.
Ý tưởng chúng ta có thể thấy rõ nét là Ðức Kitô đã tin tưởng và trao phó cho Giáo hội công việc loan báo về Người cho thế giới qua mọi thời đại. Ðức Giêsu đã không chọn những nhà tư tưởng lớn lao hoặc những con người thánh thiện vượt bậc mà kêu gọi những con người bình thường như chúng ta để làm chứng cho Người. Người chọn những con người biết mở rộng tâm hồn để trở nên những con người có lòng tin mạnh mẽ nhờ ơn mạc khải người thúc đẩy trong tâm hồn. Vì thế, đón nhận ơn mạc khải, theo gương của thánh Phêrô, không có nghĩa chúng ta thụ động không phải làm gì hết. Ðón nhận ơn mạc khải có nghĩa chúng ta hãy mở rộng cặp mắt của mình để nhìn, mở rộng đôi tai để lắng nghe, và mở rộng trí tuệ để học hỏi và hiểu biết, mở rộng tâm hồn để cảm nghiệm sự hiện diện của Ðức Giêsu và quyền năng của người qua những diễn biến xảy ra hằng ngày quanh chúng ta và mở rộng đôi tay để đón nhận người khác và làm việc làm chứng cho Ðức Giêsu. Một điều tốt đẹp xảy ra bất chợt trong ngày, một lời Chúa mà chúng ta nghe đọc, một tin tức xảy ra trong thế giới, những đau khổ thiên tai đang xảy ra, những biến cố, những người mà chúng ta gặp gỡ trong ngày, tất cả là dấu chỉ để chúng ta nhận ra Ðức Giêsu và quyền năng cứu độ của Người, cũng như hồng ân của Chúa ban tặng cho riêng ta, để rồi chúng ta được mời gọi dấn thân để làm chứng cho Thiên Chúa, để quyền năng cứu độ, tha thứ của Ðức Giêsu được hiện tại hóa cho nhân loại qua chứng tá của những con người trong Giáo hội.
Sứ vụ của Giáo hội là phải không ngừng tin nhận và làm chứng cho người khác về Ðức Giêsu. Giáo hội đón nhận quyền bính từ Ðức Giêsu bởi vì Giáo hội đã tin và hiểu biết về Ðức Giêsu nhờ ơn mạc khải cũng như ơn Chúa Giêsu thiết lập và trao ban quyền bính cho Giáo hội. Giáo hội phải tỏ ra là người phục vụ và làm chứng cho Chúa Giêsu và không ngừng nhận ra những dấu chỉ mạc khải của Thiên Chúa. Qua sự kiện Giáo hội, gồm những con người yếu hèn này được kêu gọi và trao trọng trách làm chúng ta suy nghĩ những lời của thánh Phaolô nói lên sự ngạc nhiên vô cùng đứng trước đường lối và thánh ý của Thiên Chúa. Qua những gì mà chúng ta đang sống, đang cảm nghiệm hằng giây phút, chúng ta thấy có nhiều khía cạnh khác nhau như sự giàu có của Thiên Chúa, thượng trí của Thiên Chúa, phán quyết và đường lối của Thiên Chúa. Sự giàu có của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giesu, làm cho chúng ta được thông dự vào sự giàu có này, thượng trí của Thiên Chúa lại chọn lựa chúng ta và qui tụ chúng ta trong Giáo hội, để Giáo hội làm chứng cho Thiên Chúa giữa thế gian, và phán quyết và đường lối của Thiên Chúa là ngay thẳng, tức được thông ban cho mọi người để mọi người được mời gọi đến hưởng ơn cứu độ.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ĐÁ TẢNG PHÊRÔ, QUYỀN BÍNH VỮNG CHẮC– Văn Hào, SDB chuyển ngữ
“Anh là Phêrô, là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18).
Một trong những điều mà Kinh thánh nói tới, thường dễ gây ra dị ứng, nhưng vẫn rất được quan tâm, đó là quyền bính. Quyền bính quả là một thách đố, nhưng thách đố như thế nào? Theo truyền thống Thánh kinh, quyền bính được phú trao như một ân huệ nhưng không. Tuy nhiên, đề cập tới những con người kém cỏi được trao ban quyền bính, thậm chí có quyền sinh sát hoặc có thể khuynh đảo xã hội, thì rất họa hiếm, trong xã hội ngày xưa cũng như ngày nay. Vì vậy, một cách mặc nhiên phải hiểu là, những ai được trao phó quyền bính, ngay cả những quyền bính được ban trao một cách chính đáng, thì chính họ cũng như chúng ta, cần phải lắng nghe để hiểu rõ sự thật về chính nhân thân nơi con người của mình. Trong cựu ước, các ngôn sứ thường được trao phó để đảm nhận công việc khó khăn này. Thiên Chúa khích lệ và cổ vũ để họ dám nói, dám nhắc bảo những con người nắm trong tay quyền lực nhưng phạm nhiều sai trái, để họ biết trở về với con đường giao ước và những thánh chỉ của Giavê.
Trong cách thức đó, Isaia đã nói với Shebna, “chủ cung điện”, tức tể tướng dưới triều đại của hoàng đế Sennacherib, vua nước Assyria. Chúng ta sẽ biết nhiều về thời kỳ này, cùng những nhân vật liên quan, khi đọc lại sách Isaia 36-39, và sách các vua quyển thứ nhất 18-20. Isaia quả quyết với Shebna là ông ta sẽ bị tước quyền hành, để trao cho Eliakim, người sẽ làm chủ lâu đài. Hiện nay, Shebna đang là tể tướng triều đình. Shebna sẽ bị truất phế, theo lời Isaia, vì ông ta đã xây một lăng mộ kiên cố cho chính ông ta và đã bội nghĩa với chủ. Chúa nói qua miệng Isaia: “Ta sẽ tống khứ ngươi khỏi chức vụ, và sẽ đuổi ngươi ra khỏi địa vị.”
Đoạn văn trên mang chở ý nghĩa sâu xa, vừa trong văn mạch cổ xưa, vừa tương thích với lối cắt nghĩa hiện nay. Eliakim đã được trao ban quyền bính, thay cho Shebna, “để trở thành cha của dân cư tại Giêrusalem và của nhà Giuđa. Ta sẽ đặt trên vai nó chìa khóa nhà Đavit, nó sẽ mở và không ai đóng được. Nó sẽ đóng lại và không ai có thể mở ra. Nó sẽ thắt đai lưng và ngồi trên ngai an toàn cho tới khi Eliakim bị hạ bệ và ngã đổ.”
Đoạn văn này vẫn để lại âm vang và ám chỉ về quyền bính để lãnh đạo trong Giáo hội, Ekklesia, như được nói tới trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Tại Cêsarê Philiphê, Đức Giêssu đã đặt tên cho Simon là Petros, nghĩa là Đá. Matthêu thuật lại, Đức Giêsu nói với Phêrô “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, cửa hỏa ngục cũng không chống nổi. Ta sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời. Điều gì ở dưới đất con cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên trời sẽ tháo mở”. Nhiều học giả tranh luận về tính xác thực của bối cảnh toàn bộ câu truyện. Nhưng có một điều chắc chắn, tên của Simon được Đức Giêsu thay đổi và gọi là Petros, là chi tiết được cả 4 phúc âm thuật lại, không có gì phải bàn cãi.
Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì? Oscar Cullmann trong cuốn tự điển thần học tân ước đã viết: “ Vì Phêrô, đá tảng của Hội Thánh, đã được chính Đức Giêsu đặt định, nên Ngài trở thành “ chủ của ngôi nhà, là chìa khóa của Vương quốc Nước Trời ”(Is 22,22; Khải huyền 3,7). Ngài còn là người trung gian của mầu nhiệm Phục sinh, và có phận vụ tiếp nhận dân của Chúa vào trong Vương quốc Phục Sinh này. Chính Đức Giêsu đã ủy thác cho Phêrô năng quyền để mở cửa Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến, hoặc là sẽ đóng lại”. Shebna và Eliakim được phó trao quyền bính để phục vụ ông chủ của ngôi nhà là Hezekiah. Cũng vậy, Phêrô cũng được trao phó quyền bính để cai quản ngôi nhà của Đấng Messia.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, quyền bính này không thuộc về người quản lý ngôi nhà. Nó hệ tại ở chính ngôi nhà đó, và sâu xa hơn, nó phát nguyên từ Thiên Chúa. Ngay sau khi Phêrô tuyên tín Đức Giêsu là Đấng Messia, ông đã bị Người khiển trách vì đã không quy thuận đường lối của Chúa. Đó là lý do tại sao ngay cả hôm nay, khi chúng ta chấp nhận vâng phục quyền bính đối với các vị lãnh đạo trong Giáo hội, thì chính các Ngài là những người được ủy thác, luôn được mời gọi phải hành xử quyền bính trong khiêm tốn để phục vụ, bởi lẽ quyền bính tối thượng trong Giáo hội khởi nguồn từ Thiên Chúa, và chính xác hơn, là chính Thiên Chúa.
—————————————————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao “Chìa Khóa Nước Trời”, tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa.
Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavid (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).
Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho Ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).
Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình. (Harper’s Dict 524-525).
Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia. (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).
Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.
Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua Ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể” ; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu. Chìa khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.
Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẽ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”.
Có câu chuyện “Chìa khoá và ổ khoá Thiên Đàng” thật ý nghĩa.
Một hôm nọ, khoá cửa Thiên Đàng bị hư, Thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khoá xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.
– Chào anh, tôi có cái ổ khoá bị hư, anh làm ơn sửa giùm.
– Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khoá to và quý thế này ?
– Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ .
– Ừ ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái của quý bằng vàng ròng này ở đâu vậy?
Thánh Phêrô tần ngần trả lời :
– Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.
Anh thợ vồn vã :
– À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng .
Thánh Phêrô giật mình :
– Đắt thế à ? Tôi chỉ có 1.000 thôi.
– Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm ?
– Anh hiểu lầm rồi ! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nazareth. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng .
Anh thợ mỉm cười lắc đầu
– Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.
Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được nhiều thứ khoá, chỉ trừ khoá của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư ?
Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.
Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng .
– Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khoá vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.
Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi :
– Tôi có cái khoá cửa thiên đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp
– Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái khoá thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.
– Tốt lắm, anh cứ nói .
– Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên các Thánh hay các thiên thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khoá thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khoá cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.
Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khoá khi nghe nói Thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.
– Lạy Thánh Phêrô, Ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.
– Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khoá chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế ? Phải có hàng lối chứ .
-Gặp Thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xinê,hay đi mua thịt mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.
– Chúng mày biết gì ? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ” Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế ” à ? Phải trật tự chứ !
– Chúa ơi ! Chết con rồi.
………
Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hoả ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi Thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.
Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy Thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.
Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, gấu ó nhau đến vậy hay sao? Ôi ! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây,”những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.
– Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.
Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước,đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.
– Cám ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.
Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khoá trên tay Thánh Phêrô.
– Ổ khoá này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.
– Khoá cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi ?
– Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi .
– Thật không ?
– Thật chứ !Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à ?
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, Thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ khoá lẫn chìa cho cậu bé.
– Cẩn thận kẻo rơi nhé.
Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khoá cho Phêrô.
– Cụ giữ lấy chìa khoá này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì…Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khoá đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.
Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng :
– Ôi Chúa ơi ! Cậu làm gì vậy ?
Cậu bé mỉm cười trả lời :
– Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ .” Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở “. Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao ?
Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại :
– Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé ?
– Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa.Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không ?
Thánh Phêrô sốt sắng :
– Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ ?
Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô :
– Đi Bêlem, rồi lên Núi Sọ .
Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TRỞ NÊN “ĐÁ TẢNG” XÂY DỰNG HỘI THÁNH TẠI GIA – Lm. Inhaxiô Trần Ngà
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phê-rô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phê-rô xưa.
Trong số 90 triệu người Việt Nam, có chừng sáu triệu người công giáo, chiếm 7% dân số. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được bảy người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đó là đại phúc:
“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là chìa khoá đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời.
Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phê-rô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giê-su là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phê-rô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại gia đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
PHÊRÔ, CON LÀ ĐÁ- Trích Logos A
Hiện nay, tại vùng thôn quê Hauterives, nước Pháp có một tòa lâu đài rất xinh đẹp, được xây bằng vô số những viên đá muôn hình vạn trạng ghép lại.
Có điều đặc biệt là, tòa lâu đài độc đáo ấy do một người duy nhất xây dựng, một người không biết gì về kiến trúc. Đó là một người đưa thư tầm thường tên Ferdinaud Cheval. Một mình anh đã xây tòa lâu đài nguy nga ấy trong vòng 33 năm.
Vào năm 1879, lúc 34 tuổi, với nghề đưa thư, anh bắt đầu đi khắp nơi lượm đá mang về. Trung bình mỗi ngày anh lựa chọn và đem về được khoảng 30 kg đá.
Những viên đá được anh dùng vôi, hồ ráp nối lại, khởi đầu từ chân móng. Hôm sau, anh lại tiếp tục lượm đá đem về xây lâu đài.
Cho đến năm 1912, chàng thanh niên trở thành ông già 67 tuổi, cũng là lúc tòa lâu đài hoàn tất. Trước khi nhắm mắt lìa đời, ông nở một nụ cười mãn nguyện : “Từ một giấc mơ, tôi đã xây được một tòa lâu đài tôi hằng ước mong”.
Con người tầm thường, nhưng lại làm một việc phi thường đó gợi lên hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã từng sống ở trần thế 33 năm, Đấng đã từng xây dựng tòa nhà Hội Thánh trên nền đá Phêrô, và mỗi người tín hữu được mời gọi trở thành viên đá nhỏ góp phần xây dựng tòa nhà thiêng liêng ấy.
Hội Thánh trên nền móng đức tin.
Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay thuật lại : sau khi tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thánh Phêrô được Chúa Giêsu tuyển chọn đứng đầu Hội Thánh của Ngài : “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy …”.
Thánh Phêrô đã đại diện anh em lên tiếng tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng chứa đựng một suy nghĩ, một cái nhìn hoàn toàn khác với dư luận quần chúng. Đó là lời tuyên xưng đức tin chính xác đã trở thành nền móng để Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh trên đó và trao cho thánh Phêrô quyền lãnh đạo tối cao trong Hội Thánh : “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời, sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở ”.
Như thế, thánh Phêrô chính là đá tảng đức tin, mà tất cả quyền bính trong Hội Thánh đều đặt trên nền tảng đức tin ấy.
Tòa nhà Hội Thánh sẽ không thể đứng vững nếu không được xây trên nền móng đức tin này. Cũng thế, quyền bính trong Hội Thánh nếu không đặt để trên nền tảng đức tin, quyền bính sẽ trở thành sự thống trị thay vì sự phục vụ. Hơn nữa, nếu không có đức tin, Hội Thánh sẽ trở thành “pháo đài” thay vì luôn mở rộng cửa để đón nhận mọi người.
Một Hội Thánh luôn mở cửa.
Khi tuyên xưng công khai, với lòng tin mạnh mẽ, thánh Phêrô đã được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Do đó, lời tuyên xưng của thánh Phêrô do Chúa Cha mạc khải, chứ không do người phàm : “Hỡi Simon, con ông Giona, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Hội Thánh được Chúa Giêsu xây dựng trên nền đá Phêrô và các tông đồ. Hội Thánh không thuộc về riêng ai, không thuộc thánh Phêrô hay các tông đồ, nhưng thuộc về Đức Kitô. Chính Ngài đã quy tụ, điều khiển và xây dựng Hội Thánh.
Hội Thánh là con đường duy nhất để nhân loại đến với Thiên Chúa. Ngoài Hội Thánh, không có ơn cứu độ. Vì thế, Hội Thánh mang một trọng trách lớn lao : Hội Thánh phải trở nên con đường, để qua đó, con người tìm gặp được Thiên Chúa. Hội Thánh luôn phải là một “Hội Thánh mở cửa”, đón nhận mọi người. Qua Hội Thánh, con người sẽ tìm được ơn cứu rỗi.
Tuy nhiên, với lòng khiêm tốn, Hội Thánh luôn tự nhận ra mình vẫn là một “Hội Thánh lữ hành”, đang hoàn thiện chính mình trong cuộc sống trần gian. Chính vì ý thức được sự yếu hèn của mình, Hội Thánh luôn khiêm nhường không ngừng canh tân đổi mới cùng với ơn Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh và con đường thập giá.
Ngay sau khi đặt Phêrô là tảng đá đức tin, để trên đó, Chúa xây dựng Hội Thánh, Ngài loan báo cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa tỏ cho các môn đệ thấy : Ngài phải lên Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Cuộc hành trình “đi lên Giêrusalem” luôn luôn là cuộc hành trình đau khổ. Đó là con đường dẫn đến cái chết, con đường khiến cho nhiều người e ngại và tránh né. Như thánh Phêrô, vừa mới mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, khi nghe Chúa nói tới con đường thập giá, thánh Phêrô đã can ngăn Chúa, khiến Chúa đã quở trách ông nặng lời : “Hỡi Satan, hãy lui lại đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
“Đường đi lên Giêrusalem” là đường Chúa đã chọn để đi, cũng là con đường Hội Thánh đã đi suốt hơn 20 thế kỷ qua. Con đường đó sẽ dẫn ta đến niềm hạnh phúc vô biên nếu ta trung thành đi đến cùng.
“Đường đi lên Giêrusalem” cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá để đi theo Chúa mỗi ngày. Đó chính là con đường sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang bất diệt.
“Đường đi lên Giêrusalem” là con đường thánh Phêrô và các tông đồ đã đi, cũng là con đường dành cho những ai muốn “làm lớn” trong Hội Thánh : con đường phục vụ trong khiêm tốn, phục vụ đến quên mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục, các linh mục và tu sĩ luôn đi theo con đường phục vụ mà Chúa đã đi : Ngài đã phục vụ như một người tôi tớ : đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì chúng ta cũng hãy biết cúi xuống rửa chân cho nhau.
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia, kể chuyện ông Sobna làm quan cai Đền Thờ, vì không xứng đáng nên đã bị cách chức và chức vụ này được Thiên Chúa trao cho một người khác tên là Êliakim.
Như thế, Thiên Chúa trao trách nhiệm cho con người và Người luôn ban những ơn cần thiết để người đó chu toàn trách nhiệm. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi kitô hữu luôn biết chu toàn trách nhiệm Thiên Chúa trao phó và luôn được Chúa ban ơn trợ lực, để chu toàn trách nhiệm của mình.
Hiện nay, ở phường 10, quận 8, Thành Phố Hồ Chí Minh có một ngôi chùa rất độc đáo mang tên “Chùa Miểng Sành”. Hơn 40 năm qua, người ta đã xử dụng những mảnh vỡ của chén đĩa, độc bình, đồ gia dụng để ốp vào ngôi chùa. Vì thế, toàn bộ ngôi chùa lấp lánh bởi những mảnh vỡ của sành sứ đủ màu sắc trông rất đẹp mắt.
Chùa Miểng sành được tạo lập từ năm 1847, thời vua Tự Đức. Từ năm 1960, chùa bắt đầu được gắn miểng sành. Có điều đáng nói là miểng sành không đập lấy từ chén đĩa còn nguyên, mà hàng ngày các phật tử đi lượm hoặc xin những mảnh vỡ sành sứ về cho chùa. Họ tự hào gọi đó là “những mảnh vỡ của đời” được tái sinh.
Là người tín hữu, chúng ta tự hào vì Hội Thánh cũng được xây dựng từ những “mảnh vỡ” của những cuộc đời đau khổ và hy sinh cho Hội Thánh. Từ thánh Phêrô đến các tông đồ và các đấng kế vị, các ngài đã cống hiến tất cả cuộc đời để phục vụ Hội Thánh. Thậm chí, đã hy sinh cả mạng sống để giữ gìn và bảo vệ niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta cũng hãy trở nên những viên đá sống động góp phần xây dựng Hội Thánh mỗi ngày một vững vàng hơn, như lời thánh Phêrô kêu gọi : “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2, 5).
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm A
THẦY LÀ ĐỨC KI TÔ, CON THIÊN CHÚA- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
“Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”(Mt 16, 15) là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Chúa để trắc nghiệm sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, trên hành trình từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, nay chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài, một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và này, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.
Đáp lại lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả nói: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17).
Phêrô thật có phúc! Phúc của Phêrô phát xuất từ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa Cha, chính Chúa Cha mạc khải cho ông. Đây là mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành chứng nhân tuyên xưng một chân lý siêu phàm. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội Chúa : “Trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Chúa cho ông (x. Cv 12, 5), vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh : Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.
Hôm nay, lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, vào giai đoạn công khai sứ vụ cuối cùng, chuẩn bị bước vào cuộc thương khó dẫn tới cái chết đau thương và phục sinh của Chúa. Sau khi hóa bánh và cá ra nhiều, Chúa Giêsu đã quyết định cùng với các môn đệ tách khỏi dân chúng, sang bờ bên kia để huấn luyện các ông.
Hai ngày Chúa nhật trước, chúng ta nghe nói về Phêrô xin Chúa cho đi trên mặt nước, đang đi thì ông chìm dần xuống, Chúa cứu ông lên kèm theo lời quở trách : “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” (Mt 14,31 ). Hôm nay, Chúa khen ông : “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc” (Mt 16,17). Phêrô có phúc là vì ông đã mở lòng mình ra để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa và nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Câu hỏi: “Người ta bảo Con Người là ai? ” (Mt 16, 13) được đặt ra trong dòng lịch sử cùng một câu hỏi : “Phần các con các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Và một lúc nào đó chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi : Chúa Giêsu là ai đối với tôi và tôi là ai đối với Chúa?
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), là câu trả lời của Phêrô sau khi được Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình về chính mình. Nếu ngày hôm nay Chúa Giêsu hỏi chúng ta : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” Chúng ta có thể trả lời Chúa một cách rõ ràng và chính xác như Phêrô. Nhưng nếu Chúa hỏi : Thầy là ai đối với mỗi người chúng ta ? Mỗi người phải suy nghĩ, nhìn vào chính tâm hồn mình để trả lời câu Chúa hỏi. Câu trả lời này hết sức riêng tư, không ai giống ai. Đối với người này, Chúa là gia nghiệp, Chúa là bạn trăm năm, là sức mạnh mỗi khi gặp thử thách ; đối với người kia, Chúa là Đấng ai ủi khi buồn phiền,v.v…
Bây giờ chúng ta hãy hỏi ngược lại Chúa: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấy con là ai ? Chúa xếp con vào loại người nào ?
Tin Mừng hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi quan trọng : Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta ? Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu ? Mỗi người chúng ta phải tự trả lời, không ai trả lời thay cho chúng ta được. Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Đấng sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Amen.