CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 5
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN– Chú giải của Fiches Donimicales 10
MỘT ĐỨC TIN CHỊU THỬ THÁCH (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 17
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long. 29
THIÊN CHÚA MUỐN CỮU RỖI MỌI NGƯỜI- Lm Giuse Đinh lập Liễm 41
THIÊN CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI, YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 56
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ…(*)- Suy niệm của Noel Quession 68
TIN YÊU, SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG MẸ MARIA – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 77
MỘT LÒNG TIN MẠNH MẼ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 83
LÒNG TIN CỦA BÀ MẠNH THẬT– Lm. Đinh Minh Tiên. 90
TÌNH MẸ THƯƠNG CON- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 93
NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN – Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 100
ĐỨC TIN CỦA MỘT NGƯỜI MẸ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 112
TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI – Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Thiên Chúa phán: “Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. “Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Đáp: Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
3) Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.
BÀI ĐỌC II: Rm 11, 13-15. 29-32
“Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi Israel, thì Người không hề hối tiếc”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nói với anh em là những người gốc Dân Ngoại rằng: Bao lâu tôi là Tông đồ các Dân Ngoại, tôi sẽ tôn trọng chức vụ của tôi, nếu có cách nào làm cho đồng bào tôi phân bì, mà tôi cứu rỗi được ít người trong họ. Vì nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì sự họ được thâu nhận sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết? Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All. – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – All.
PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28
“Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
“Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự gọi mình là người Canaan, và Cựu ước lẫn Tân ước cũng kêu họ như vậy.
“Một phụ nữ Canaan…”: Thành ra bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3, 8 danh tiếng Người đã vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu, không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền ưu tiên được cứu rỗi của Israel.
“Ra khỏi vùng đó… “: BJ dịch ra như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm: “ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được ban trong đất Israel”. Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê, Syria và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa) với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: “Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó…”. Cách dịch này ăn khớp hẳn với câu trước vậy (c. 21).
“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi”. Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10, 44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia. Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.
“Chó con”: Hy ngữ kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó” chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:
-Không chắc hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;
– Ngôn ngữ Aram không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con”; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).
“Lòng tin của bà lớn thật”: người đàn bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như vậy làm nên đức tin của bà.
Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy hiện ra một dân Israel mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước đó cũng thế (8, 10. 13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các “viên đá” thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân; Chúa Giêsu còn trở về Israel (c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
-Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con “chó ” ở ngoài, nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp “một lòng tin lớn” ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin, thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là “con cái Abraham”!.
-Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan, nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân thật vậy.
-Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ bàn ăn gia đình.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Một cử chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới…
Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cá lên nhiều đến dư dật (Chúa nhật thứ l8). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19). Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch, pbá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ, nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ánh con tin của họ. Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan ngoài giáo.
Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “dơ”, Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêu đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan, để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về “kẻ ngoại” những kẻ “dơ”, những dân mà dân Do Thái coi khinh như những “con chó”. Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do thái chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ mối thù truyền kiếp. “Lạy Chúa, xin thương xót tôi” bà ấy van xin, trong khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu “con vua Đavit”. Trước hết Đức Giêsu làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu van ấy Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những “chiên lạc của nhà Israel” mà thôi. J. Radmakers giải thích: “Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận cùng thế giới” (“Au fil de Evangile selon St Matthieu”, trang 211).
“Lạy Ngài, xin hãy đền cứu giúp” người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời kinh phụng vụ. Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh của con cái – là của dân Do Thái, dân của Lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Tuy câu nói “chó nhỏ” thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn mang vẻ sỗ sàng. Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. “Đúng vậy thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh được ưu tiên, họ là “chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những “miếng bánh vụn” trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa (L’evangile de Matthieu Centurion, trang 167).
Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người “dơ” đối với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền kết luận “Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn bà muốn sao thì được vậy. Đức Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó là con bà được lành.
Báo hiệu một Tin Mừng không biên giới
Tác giả Matthêu thuật lại câu truyện người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại, những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.
Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung cảnh “bẻ bánh”, tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự cách biệt giữa người “sạch” và người “dơ” từ nay không còn nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho dân ngoại, và nhận “bánh của con cái” là lòng tin vào Đức Giêsu.
Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn, Matthêu đà dẫn đến bài học về phái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin viết: “Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại đạo… Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu Thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa không cho họ vào. Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn cản người chiếu sáng cho dân ngoại.” (sđd trang 167-168).
Cuộc tranh luận giữa nhưng Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khấc nhau: cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng cửa để đón những cơ may. Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêu hôm nay câu truyện người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.
BÀI ĐỌC THÊM:
“Đức tin phá đổ mọi rào cản”.
Người ta không biết tên bà, người ta gọi bà là “người phụ nữ Canaan”. Tuy nhiên bà giữ một vai trò độc đáo Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới, bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc, đến Tyr và Sidon, ngày nay là miền nam Liban. Đã từ nhiều thập kỷ, người Do Thái giừ một khoảng cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung thành với Thiên Chúa Israel khinh miệt. Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà Israel. Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái là ném cho chó con. Và đây chính là lúc sự việc diễn ra. Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại bằng câu ví: “Thât đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: “lòng tin của bà quá lớn…”. Và đứa con được lành bệnh. Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn. Đối với các Kitô hữu đến từ các dân tộc và tôn giáo khác – người ta thường kêu là “dân ngoại” – đoạn Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan. Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này. Tại sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan? Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cùng khám phá ra rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.
“Đức tin của môt người phụ nữ ngoại
Người phụ nữ Canaan tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên. Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nagiarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tương sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà dáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người. Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
MỘT ĐỨC TIN CHỊU THỬ THÁCH (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng lòng mình để đón tiếp muôn dân nước, tức là bất kỳ ai, dù thuộc dân tộc nàò, nếu bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa chân thật.
Is 56: 1, 6-7
Bài Đọc I là sứ điệp loan báo ơn cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận vào cộng đồng mình những kiều cư, những ai kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Rm 11: 13-15, 29-32
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của thánh nhân, vì dân Do thái, dân Chúa chọn, từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.
Mt 15: 21-28
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật câu chuyện Đức Giê-su với một người đàn bà xứ Ca-na-an. Cuối cùng Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của người đàn bà ngoại giáo nầy và ca ngợi đức tin của bà.
BÀI ĐỌC I (Is 56: 1, 6-7)
Đoạn trích nầy mở ra phần thứ ba của sách I-sai-a. Phần thứ ba nầy, xét toàn bộ, được gán cho vị ngôn sứ biệt danh là I-sai-a đệ tam (ch. 56-66), vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới danh nghĩa của vị ngôn sứ I-sai-a vĩ đại (ch. 1-39).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 trước Công Nguyên). Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố sứ điệp gởi đến muôn dân nước.
Những kiều cư.
Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn những “kiều cư” ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người ngoại bang đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân cư bị đưa đi lưu đày. Đối với những người ngoại bang đến định cư lập nghiệp, luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi nào đó. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19: 33-34).
Trái lại, những những người “nhập cư”, tức những người ngoại quốc sinh sống trong một thời gian hạn định nào đó, không hưởng được bất kỳ một quyền lợi nào khác ngoài phong tục tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản là những người này được cư xử với lòng khoan dung độ lượng, đôi khi bị đồng hóa với những kẻ thù; họ bị cấm không được tham dự phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.
“Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56: 1).
Qua những lời này, vị ngôn sứ, “nhân danh đức công chính và điều chính trực”, tố cáo những kỳ thị như thế. Đức Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người thân cô phận hèn.
Yêu mến Danh Người.
Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát để đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en:
“Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta” (Is 56: 6)
Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế, “Yêu mến Thánh Danh” đồng nghĩa “yêu mến chính Thiên Chúa”. Diễn ngữ: “Yêu mến Thánh Danh”, không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Kiểu nói: “Để phụng sự”, không gợi lên bất kỳ phụng sự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” chỉ chung các tín hữu.
Trong câu nói: “hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm”, điểm nhấn được đặt trên việc tuân giữ “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy một tầm quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu hiệu biệt phân, nhờ đó người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.
Câu nói: “cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta”, tóm gọn những đòi hỏi được liệt kê ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-ma, ông Co-nê-li-ô.
Sứ điệp phổ quát.
Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và tháp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa:
“Đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56: 7a).
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Đức Chúa. Các “thánh vịnh lên Đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:
“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con” (Tv 43: 4),
Chúng ta cũng gặp thấy như vậy trong lời khẳng định của Thiên Chúa qua vị ngôn sứ của mình:
“Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận, những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7b).
Lời khẳng định nầy mang một cung điệu đặc biệt, một cung điệu mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại lời khẳng định nầy khi Ngài xua đuổi những người buôn bán ra khỏi khuôn viên Đền thờ, chính xác là nơi dành cho dân ngoại mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Hành vi của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng tất cả điều nầy rồi sẽ sớm biến mất, nhưng nơi nầy phải được dành cho muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15, 29-33)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với các bài đọc khác của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy: cả ba bài đọc đều nói về việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân.
Việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân nầy càng khẩn thiết hơn khi dân Do thái, nói chung, cố chấp trong sự mù quáng của mình. Đó là nguyên do tại sao thánh Phao-lô ưu phiền. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người Ki-tô hữu gốc dân ngoại: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại”.
Thánh Phao-lô tự đặt mình lần lượt vào trong hai viễn cảnh: viễn cảnh của chính ngài, vị Tông Đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.
Viễn cảnh của vị Tông Đồ dân ngoại (Rm 11: 13-15)
Đọc đoạn văn này lần đầu, chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô hiến trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: làm cho đồng bào Do thái của mình ganh tị khi thấy việc dân ngoại mỗi ngày mỗi thêm đông được dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thế chỗ cho dân Chúa chọn. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong hoạt động truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định kèm theo của thánh nhân: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. Thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của “một ít người” như mầm mống và bảo chứng cho việc cảm hóa đức tin của tất cả mọi người. Nếu dân Do thái bị gạt ra bên lề, đó lại là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại. Nếu giai đoạn đầu tiên là ơn cứu độ phổ quát cho muôn người, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy khi mà toàn thể dân Ít-ra-en được tái tháp nhập vào cộng đồng đức tin, tức là “từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương (Rm 11: 29-33)
Đối với vị Tông Đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ơn gọi của dân Chúa chọn không thể nào đổi thay: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”.
Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”. Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng để có thể cư xử với nhau một cách chính trực và nhân ái, nhưng họ đã lún sâu vào trong sự bất chính và tôn thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Đến phiên mình, dân Do thái, đến thời Thiên Sai, đã không thấy ánh sáng và cũng đã không vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc bất phục tùng của dân Ít-ra-en và sự hoán cải của dân ngoại. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc dân Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các Tông Đồ khác đã quyết định quay về phía dân ngoại. Nhưng, còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý trong ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo lối hành văn biền ngẫu đặc thù của dân Do thái, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Chúa xót thương: chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân ngoại đã có thể trở lại cùng Thiên Chúa, thì cũng chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân Ít-ra-en cũng sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh nhân tóm lược kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.
TIN MỪNG ( Mt 15: 21-28)
Câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều và việc đám đông dân chúng không nhận ra sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su quyết định tập trung sứ vụ của mình vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Thế nên, “Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Hiện thời, Ngài đang ở miền đất dân ngoại sau khi đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông dân Do thái và những luật sĩ, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để tìm cớ hãm hại Ngài. Trong bầu khí thanh bình của miền đất dân ngoại, Ngài dành hết thời giờ cho các môn đệ để chuẩn bị sứ vụ tương lai của họ.
Dân Ca-na-an là tên gọi cổ xưa của dân Phê-ni-xi. Thánh Mát-thêu sử dụng cách nói “người đàn bà Ca-na-an” không vì quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì tên gọi nầy nhắc lại quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà Sa-ma-ri” để gợi lại ở nơi tên gọi nầy những thù hiềm thâm căn cố đế giữa hai dân tộc nầy (Ga 4: 8). Thêm nữa, khi nói: “người đàn bà Ca-na-an” chứ không “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn xác định nguồn gốc của bà: bà nầy là dân ngoại, chứ không phải là một người Do thái đến sinh sống ở miền đất Ca-na-an.
Cuộc gặp gỡ của người đàn bà Ca-na-an với Đức Giêsu:
Người đàn bà Ca-na-an đã nghe người ta đồn thổi về Đức Giê-su và bà đã biết Đức Giê-su hiện đang có mặt ở trong miền. Vì thế, không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, bà đã vội vả đến gặp Ngài để khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con gái bà như của chính bà”, còn William Barclay thì xoáy sâu vào tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su”.[1]
Trong lời kêu xin của mình: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”, bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu thiên sai: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc thù của Do thái giáo cho Đức Giê-su? Hay đúng hơn thánh ký muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên? Lời khẩn cầu nầy vang lên như cung điệu phụng vụ: “Xin Chúa, xin thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích phổ quát vĩ đại của câu chuyện.
Thái độ của Đức Giê-su.
Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Người đàn bà không hề nhụt chí vẫn một mực bám riết theo Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ cũng phải cảm thương.
Một đức tin chịu thử thách.
Cảm thương người phụ nữ này vừa lẻo đẻo theo sau vừa khẩn khoản van nài đến độ các môn đệ không thể nín lặng được nên cầu xin Đức Giê-su lên tiếng bảo bà ấy về đi cho xong chuyện. Đức Giê-su đáp lại bằng cách từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” (Mt 10: 5-6).
Quả thật, Đức Giê-su đặt ưu tiên sứ vụ của Ngài cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng xót thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản ngoại giáo tại Ca-pha-na-um cho người đầy tớ đau nặng của ông được lành bệnh. Có biết bao nhiêu sự việc tương tự như thế giữa câu chuyện của viên quan ngoại giáo và câu chuyện người đàn bà Ca-na-an. Ngài không khíp kín từ tâm đối với dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa của sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian của các môn đệ Ngài, họ sẽ thực hiện tất cả mọi chiều kích rộng mở cho muôn dân nước.
Lời từ chối thẳng thừng của Đức Giê-su cũng không làm người phụ nữ này chùn bước. Bà đến sụp lạy mà van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Đức Giê-su nói thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại!”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” từ Hy lạp “kunaria” gợi lên chó cưng nuôi trong nhà, đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song đối của mình, đặt bối cảnh nầy vào “trong một nhà nọ” (Mc 7: 24). Quả thật, câu nói của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ và được định vị trong cùng một bối cảnh trong nhà: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.
Đức tin rực sáng của người đàn bà Ca-na-an.
Người đàn bà Ca-na-an đáp trả với tất cả tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết trong quê hương của Ngài: “Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh dân Do thái, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.
Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên quan ngoại giáo. Ngài nhậm lời khẩn cầu của bà.
Dấu chỉ của bánh.
Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi dưỡng no nê bánh vật chất, nhưng chỉ là tiên báo bánh thần linh, như bánh man-na trong sa mạc tiên báo những thiện hảo của thời Mê-si-a. Chính từ bánh nầy mà người đàn bà Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Vương Quốc mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh nhận được chỉ thị của Đấng Phục Sinh là phân phát trọn vẹn cho muôn dân.
[1] W. BARCLAY, The Gospel of Matthew, bản dịch tiếng Việt tập, nhà xuất bản Đức Bà Hòa Bình, tập II, tr. 100.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- Năm A
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ Canaan”. Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?
Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
-Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
-Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
-Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
-Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phêniki . Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
– ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Ít-ra-en bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ “đi ra” (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là “… thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy…”. Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là “này đây một người đàn bà Canaan đến từ đó…”.
– Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
– Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với …). Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Đức Chúa (YHWH) đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với YHWH. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, “những con chiên lạc nhà Israel” (ta probata … oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là “những con chiên lạc là nhà Israel”.
– Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi Dân ngoại.
Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài/Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là “Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là “Ngài/Chúa, kyrie”, và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng/đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy “lòng tin của bà mạnh thật” (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi “con chó” ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là “Con vua Đavít” (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
Gợi ý suy niệm
–Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có “lòng tin mạnh thật” nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
– Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
-Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
-Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm… Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người tôi ngoại, cho thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
-Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
CHÚA NHẬT XXTHƯỜNG NIÊN- Năm A
THIÊN CHÚA MUỐN CỮU RỖI MỌI NGƯỜI- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu , nhưng họ dã từ chối, lại còn chống đối Ngài.
Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã khen ngợi :”Lòng tin của bà mạnh thật”, và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói:”Bà muốn sao thì được như vậy”.
Chúng ta là những Kitô hữu , ai cũng đã có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 56,1.6-7.
Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Isaia cho biết : Thiên Chúa không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
+ Bài đọc 2 : Rm 11,13-15.29-32.
Trên bước đường truyền giáo, thánh Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Người. Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.
+ Bài Tin mừng : Mt 15,21-28.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta : Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy ? Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm cho Chúa xiêu lòng : Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị quỉ ám.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lòng tin của bà mạnh thật
Lòng tin mạnh mẽ cần thiết, thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi. Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào ?
Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và kiên trì xin cho được một ân huệ, bất chấp sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó : Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống… nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.
NÓI VỀ ĐỨC TIN.
Tin là gì ?
Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).
Phân tích chữ TIN.
Chữ TIN bởi chữ TÍN.
Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.
Tiếng Pháp thì chữ CROIRE , nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh lừa ta.
Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có thực. Ví dụ : Tôi thấy có vùng khói trước mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.
Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách : tin là việc hoàn toàn tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể phủ nhận không tin được …
Ông J. Calvet nói: “Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi ta tới chỗ nào mà khoa học không còn gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends et lis)(Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr 91-92)
Thấy và hiểu mới tin ư ?
Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là một chuyện khác ! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà đi ngược với chân lý thôi.
Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.
Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ giáo sư. Ví dụ : một em bé, học mới trình độ toán cộng, em làm một bài toán : 1+1+1 = 3. Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm toán mà ba con số 1 bằng số 1 : 1x1x1 = 1.
Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không ? Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác đều chứng minh cho ta thấy rằng : chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin. (Sđd, tr 88-89).
Truyện : Hiểu mới tin
Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt đông người rằng : mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi :
– Thưa ông, nếu vậy ông không tin những gì ông không hiểu ư ?
– Dĩ nhiên thế.
– Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết : tại sao ông cử động được ngón tay ?
– Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.
– Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động được hai tai ?
Vị trạng sư bí lối không biết trả lời thế nào, bèn mắng :
– Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta phải không ?
Nghe vậy mọi người đều cười. (Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.
Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở nguyện :”Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng ta cùng tìm hiểu.
Đức tin mạnh mẽ.
Tại sao một số người co ùđức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém ? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn ? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà ? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia :”Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài :”Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel”(Mt 8,10).
Tin và khiêm nhường.
“Con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. Dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.
Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời :”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa :”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc ! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
Tin và yêu thương.
Người đàn bà Canaan này có đứa con gái bị qủi ám đau khổ lắm. Bà thương con vô cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh huống này. Vì quá thương đứa con gái bị qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa. Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới đây :
Truyện : người mẹ Arménia.
Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 thuổi kêu lên :”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng :”Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Tin và kiên nhẫn.
Người đàn bà này gặp cản trở vì không phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.
Bà mẹ người Canaan này là người dân ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài, xin giúp tôi”… Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng. Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết mình không thể bị từ chối.
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO ?
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.
Kinh thánh nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng liêng. Tổ phụ Abraham được gọi là “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng .
Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi, chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc chưa gây được sự nghiệp : nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St 12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc, lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ phụ.
Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi : nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí khá hơn ? Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng ? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu của ôngAbraham (St 12,2-3) : nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St 18,11-12) ?
Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất khách quê người : mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ ABBRAHAM ĐÃ TIN.
Đức tin bao giờ cũng là một cuộc VĨNH BIỆT, CHIA LY : vĩnh biệt cái lòng tự phụ làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên. Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác : trật tự siêu nhiên của Thiên Chúa (Nguyễn huy Lịch, báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr 6-7).
Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.
Truyện : Chính ba tôi cầm tay lái.
Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau : Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên. Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.
Lạ lùng ! Một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi :
– Em không sợ chết sao ?
– Sao lại sợ ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu này kia mà.
Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian !
Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó :
“Tôi phải đâu một mình đơn côi ?
“Tôi có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”(Ga 16,32)
Xin Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp đỡ của Chúa. Có như thế đời sống của chúng con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
THIÊN CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI, YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều người khác, tuy cũng là kitô hữu, không có mặt ; và còn biết bao anh chị em người lương chưa biết Chúa.
Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, yêu thương hết mọi người và muốn ban ơn cứu độ cho hết mọi người.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các kitô hữu nguội lạnh trở về với tình thương của Chúa, và cho anh chị em người lương có dịp cảm nếm tình thương của Chúa.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta có thành kiến coi thường những người ngoài tôn giáo của chúng ta.
– Chúng ta không quan tâm giới thiệu Chúa cho lương dân.
– Nhiều khi cuộc sống của chúng ta còn thua kém người lương nữa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 56,1.6-7)
Phần thứ ba của sách Isaia gồm các chương 56-66, được gọi là Đệ Tam Isaia. Phần này được viết sau khi dân Israel thoát ách lưu đày Babylon, hồi hương về thánh địa.
Đoạn được trích đọc hôm nay mở đầu phần này. Đại ý : Thiên Chúa đã đưa dân Ngài hồi hương từ chốn lưu đày. Ngài muốn mở rộng dân này, để không chỉ có người Israel mà có cả lương dân nữa, vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Đáp ca (Tv 66)
Đây là một Thánh vịnh tạ ơn. Nhưng lời tạ ơn này đặc biệt do hai điểm :
– Tác giả kêu mời các “dân ngoại” cùng hợp tiếng với mình mà tạ ơn Chúa : “Chư dân hãy ca tụng Ngài”
– Tác giả cầu xin Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc trên địa cầu nhìn biết Ngài.
Tin Mừng (Mt 15,21-28)
Câu chuyện xảy ra ở miền Tyrô và Siđon, tức là ngoài lãnh thổ Palestina. Nên nhắc lại là dân Israel nghĩ rằng Thiên Chúa là Chúa của riêng họ, Ngài không ban ơn cho dân ngoại. Người phụ nữ trong chuyện là một người ngoại. Chắc bà cũng chia xẻ quan niệm trên. Vì thế khi đến với Đức Giêsu, bà rất khiêm tốn, tự nhận mình là “chó con” và chỉ dám xin ăn những vụn bánh thừa từ bàn ăn của con cái trong nhà rớt xuống.
Nhưng Đức Giêsu, sau khi làm ra vẻ lạnh nhạt để thử đức tin của bà, đã phải nhìn nhận bà có đức tin rất mạnh. Và chính vì có đức tin cho nên bà được kể là con cháu của Abraham và do đó đáng được Đức Giêsu ban ơn.
Qua chuyện này, Đức Giêsu cho thấy : con cháu đích thực của Abraham -mà cũng là dân Thiên Chúa đích thực – không phải là những người cùng huyết thống với Abraham, nhưng là những người có đức tin như Abraham, kẻ được gọi là “Cha của những người tin”.
Bài đọc II (Rm 11,13-15.29-32)
Thánh Phaolô nói với những tín hữu Rôma vốn trước kia là lương dân nay đã tin vào Đức Kitô :
– Tôi là tông đồ dân ngoại
– Do việc đi rao giảng cho dân ngoại, nếu Phaolô có làm cho đồng bào do thái của ông phải phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.
GỢI Ý GIẢNG
Tin và yêu
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên : “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng : “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên. Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị xua đuổi Bà vẫn kiên trì, bị Đức Giêsu nói nặng là “đồ chó”, Bà vẫn không nản.
Những sự kiên trì và khiêm tốn ấy chẳng những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt mà còn chứng tỏ một đức tin không gì lay chuyển nổi. Chính Đức Giêsu đã đánh giá sự kiên trì của Bà là một bằng chứng đức tin : “Này Bà, Bà có lòng tin mạnh. Bà muốn sao thì được như vậy”.
Tin và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta can đảm, kiên trì và khiêm tốn.
Đức tin của một người phụ nữ ngoại
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người do thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình : Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.
Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng ? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người.
Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không dấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể ? (F. Declos, được trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 262-263)
Còn hơn là truyền giáo
Giáo huấn Chúa nhựt hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của Chúa đến những anh em lương dân.
Thực ra nó còn hơn là truyền giáo nữa. Vì khi truyền giáo, chúng ta muốn dẫn người khác vào đạo của chúng ta. Đối với những người nào mà ta thấy không có hy vọng đem vào đạo thì chúng ta “dừng bước”.
Giáo huấn hôm nay không “dừng bước” trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, chúng ta không loại trừ họ, không khinh bỉ họ, không coi họ là “người khác hệ”. Trái lại chúng ta tôn trọng : tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọn lựa của họ. Chúng ta cũng yêu thương : yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.
Chuyện minh họa
Tôn giáo nào có Chúa ?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa : “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?”
Chúa nói : “Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : “Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?”
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : “Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : “Hừ, kẻ vô thần”.
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay : “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.
Chúa Giêsu đồng ý : “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : “Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
Một lời cầu nguyện của dân Ai-len
Chúa tốt lành với bạn trong suốt mọi ngày
Chúa nhân ái với bạn trên mọi nẻo đường
Chúa ban sức mạnh cho bạn lúc thánh giá đè nặng trên vai.
Chúa gửi ánh sáng cho bạn lúc mây mù vây phủ
Chúa ban bình an trong những cơn xung đột
Chúa chúc phúc cho đời bạn chan chứa ơn lành
Chúa gửi niềm vui trong những lúc ưu phiền
Chúa dẫn đường bạn đến tận cửa Thiên đàng (Brian O’ Higgins)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc. Ngài yêu thương tất cả và muốn cứu độ tất cả. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin Chúa.
1- Hội Thánh là ánh sáng của muôn dân, Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giúp Hội Thánh biết cách giới thiệu hình ảnh Thiên Chúa yêu thương cho tất cả mọi người trong thế giới hôm nay.
2- Trên thế giới, có nhiều nơi đang xảy ra chiến tranh, nhiều nơi nghèo túng khốn khổ. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo những nơi ấy tìm ra những biện pháp hữu hiệu để tái lập hòa bình và giúp dân mình được no cơm ấm áo.
3- Đất nước chúng ta có nhiều tôn giáo và nhiều người không tôn giáo nào cả. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người đối xử với nhau trong tinh thần tôn trọng và yêu thương.
4- Do thành kiến đạo mình là tốt nhất, nhiều kitô hữu có thái độ khinh miệt những người khác không cùng tín ngưỡng, khiến cho hình ảnh của Thiên Chúa và của Giáo Hội trở thành méo mó xấu xa trước mặt người khác. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta sống hòa thuận, tôn trọng và tương thân tương ái với hết mọi người trong phạm vi giáo xứ của mình.
CT : Lạy Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành người dữ, cho mặt trời mọc lên trên tất cả mọi người. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại bao la của Chúa, để chúng con có thể tôn trọng và yêu thương hết mọi người như Chúa đã yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ…(*)- Suy niệm của Noel Quession
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đa-vít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)… còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế”… cho những người khác (Xh 19,5-6).
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TIN YÊU, SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG MẸ MARIA – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
MỘT LÒNG TIN MẠNH MẼ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa nhật tuần rồi, chúng ta đề cập đến việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, với tính chất bất ngờ của cung cách biểu lộ của Thiên Chúa, cùng với chủ đề đức tin như là điều kiện cần thiết để gặp được Đức Giêsu Kitô và quyền năng cứu độ của người. Chủ đề nhẫn nại và tin tưởng trong lời cầu nguyện sẽ là chủ đề của bài lời Chúa tuần này với hình ảnh người phụ nữ xứ Canaan đã kiên nhẫn cầu xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái của bà đang bị bệnh quỉ ám. Người phụ nữ xứ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay đã chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ qua lời cầu xin, một tài ứng đáp khôn ngoan mềm dẻo, một đức tính khiêm nhường tin tưởng cách bất ngờ. Mặc dù bị từ chối, ngăn cản, bà đã tỏ ra kiên nhẫn cách lạ lùng, thái độ kiên nhẫn này được Ðức Giêsu nhìn nhận là đức tin chân thực. Phải chăng Thiên Chúa là Đấng hành động cách đầy bất ngờ vượt dự đoán của con người, đã nhận thấy nơi người phụ nữ xứ Canaan này những đức tính cần thiết để thực sự gặp gỡ được quyền năng cứu độ của Thiên Chúa: đó là một đức tin mạnh mẽ, trưởng thành và chấp nhận những thử thách hy sinh.
Những chi tiết trong câu chuyện Phúc âm hôm nay có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Chúa Giêsu đã thinh lặng trước lời cầu xin của người phụ nữ xứ Canaan, trong khi các môn đệ muốn Chúa Giêsu trả lời dứt khoát, tức ban ơn cho bà, để người phụ nữ này không còn theo quấy rầy các ngài. Lời khẳng định của Chúa Giêsu còn làm cho vấn đề nên rõ ràng khi Người nói chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israen, tức Người từ chối không can thiệp giúp đỡ cho người phũ nữ ngoại bang này. Câu chuyện của Phúc âm thánh Matthêu hôm nay thực ra nhằm trả lời cho vấn đề được đặt ra bởi cộng đoàn của Matthêu vào những năm 80 sau công nguyên khi mà cộng đoàn này gồm có những người do thái và lương dân. Thực ra vấn đề đã được giải quyết rõ từ thời các tông đồ, nhưng những hệ luận của nó vẫn còn dai dẳng trong những cộng đoàn do thái khi tự hỏi về chỗ đứng của người lương dân trong công cuộc truyền giáo.
Thực vậy, truyền thống do thái giáo luôn xác tín sự tuyển chọn của Thiên Chúa đối với Israen như là dân riêng của Thiên Chúa (Ðnl 7,6). Israen là dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa, thừa tự chính thức lời hứa của Thiên Chúa cho họ một dòng dõi đông đúc và sau cùng là một Đấng cứu thế với một triều đại trường tồn. Đồng thời, càng lúc, Israen cũng đã bắt đầu hiểu rằng các dân tộc khác cũng sẽ đến thờ lạy Thiên Chúa của Israen (Is 2,2-4), và sứ mạng của Israen là dẫn đưa các dân tộc khác đến với Thiên Chúa (Is 49,6). Như thế công việc cứu độ của Thiên Chúa diễn ra tiệm tiến trước hết là cho người Israen, sau đó là lương dân nhờ vào sứ vụ của người do thái. Câu trả lời của Chúa Giêsu phản ánh quan niệm này của người do thái: do thái trước hết, sau đó mới đến các dân tộc khác. Bài đọc I sách Isaia chương 56 diễn tả tầm nhìn của vị tiên tri về tính phổ quát của ơn cứu độ. Đây chính là hoàn cảnh sau thời lưu đày, Israen đã bắt đầu ra khỏi nhãn giới dân tộc hẹp hòi để mở ra cho mọi dân tộc mà Luật xưa khai trừ. Lời tiên tri này đã hướng đến ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Công chính, những người biết thực thi lề luật và giữ đức công bình sẽ được lên núi thánh, được Thiên Chúa nhận của lễ khi họ kêu cầu.
Trong bài Tin mừng, cách nói hình tượng của Chúa Giêsu “chó” chỉ chư dân đã được người phụ nữ này lý giải thực là thông minh. Theo một cách giải thích, cách nói “chó” là ám chỉ thông thường của người do thái đối với dân ngoại là những người không có được sự phân biệt sạch dơ như những người do thái. Dầu vậy, như người phụ nữ này đã trình bày thẳng thắn và khôn ngoan cũng như hợp tình hợp lý, dù là chó, nó cũng có vị trí của nó trong nhà và cũng có quyền được ăn uống nuôi dưỡng bởi vì nó cũng phục vụ công việc trong gia đình và có chỗ đứng riêng của nó. Như thế, cộng đoàn của Phúc âm Matthêu ngầm hiểu, qua lời tuyên xưng của người phụ nữ, điều mà sách Công vụ tông đồ đã khẳng định từ đầu qua kinh nghiệm của thánh Phêrô khi nhận thấy Thánh Thần được ban cho người do thái và lương dân, là Thiên Chúa của mọi người, của người do thái cũng như lương dân. Và Chúa Giêsu thực sự đã cảm nghiệm đức tin của người phụ nữ này, đức tin mà Người kinh nghiệm trong chính cuộc đời trần thế của mình như là lời đáp trả của con người cho Thiên Chúa. Đức tin đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa để đi vào trong tương quan với Thiên Chúa phải là một đức tin mạnh mẽ, dám chấp nhận vượt qua những thử thách, những hy sinh, những đau khổ. Đức tin này phải là đức tin sáng suốt trưởng thành, xác định được chỗ đứng và công việc của mình để chu toàn. Trong khi mà theo dự định cứu độ, thì thứ tự ưu tiên là do thái, sau đó mới tới dân ngoại, thì đức tin lại là điều kiện để hưởng ơn cứu độ cho mọi người không phân biệt chủng tộc hay điều kiện ưu tiên nào.
Câu chuyện về người phụ nữ xứ Canaan còn là bài học về lòng kiên nhẫn trong cầu nguyện, trong việc lành. Lòng kiên nhẫn này sẽ đưa chúng ta đến đức tin là điều thiết lập mối tương quan thân mật của chúng ta với Chúa Giêsu, nhờ đó đón nhận được ơn cứu độ. Người phụ nữ này đã tha thiết đến với Ðức Giêsu nhưng đã bị từ chối thẳng thừng. Thế nhưng bà vẫn nhẫn nại kiên trì trong lời cầu của mình, bà chỉ có một ý tưởng là cầu xin cho con gái của mình. Sau cùng Chúa Giêsu đã phải nhìn nhận đức tin chân thật của bà và Người phải tỏ lòng thương xót bà. Trong lời cầu xin của bà, ngoài lòng nhẫn nại kiên trì, chúng ta cần phải để ý đến những lời cầu xin của bà: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Lời cầu xin này vừa chạm tới Ðức Giêsu ở lời tuyên xưng chân tính Đấng cứu độ của Người là Con vua Ðavít, người Con Thiên Chúa thực sự dấn thân vào trong dòng dõi nhân loại chúng ta vì lòng thương xót, vừa diễn tả nổi đau của chính bà khi mang trong mình đau khổ của một người mẹ lo lắng cho con. Chúng ta còn có thể nhìn thấy, qua hình ảnh người phụ nữ này, khát vọng được đón nhận ơn cứu độ. Bà linh cảm điều gì đó về Đức Giêsu và quyền năng cứu độ của người cho hoàn cảnh cụ thể của gia đình bà, của con gái bà. Bà đã bắt đầu tin rằng, quyền năng cứu độ của Đức Giêsu có thể giải thoát con của bà khỏi nô lệ ma quỉ, và đó đã là điều lớn lao đối với bà và con của bà. Thực vậy, quyền năng cứu độ của Đức Giêsu giải thoát chúng ta ra khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết để đến với sự sống tự do và sung mãn của Thiên Chúa.
Vì thế, thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma, ngài nói đến tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người không trừ ai. Thánh Phaolô xác tín ơn gọi làm tông đồ dân ngoại của mình, từ đó, ngài cảm nghiệm thực sự Thiên Chúa không bao giờ hối tiếc đối với chúng ta là những người được Thiên Chúa ban ơn kêu gọi đến hưởng ơn cứu độ, dù là do thái hay là lương dân. Trong dự định yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, không hề có loại trừ một ai. Nếu trong một tầm nhìn ngắn hạn, chúng ta có thể cảm thấy khó hiểu trong đường lối cư xử của Thiên Chúa, thì trong tầm nhìn dài hạn, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đường lối ban ơn cứu độ của Thiên Chúa. Xưa kia, các dân ngoại chưa tin vào Thiên Chúa, nhưng nay dân ngoại, tức là chúng ta, các kitô hữu tin vào Thiên Chúa và Đức Giêsu vì những người do thái cứng lòng tin. Thiên Chúa để mọi người bị giam hãm trong sự cứng lòng tin để thương xót mọi người. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến dự định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nhằm cho mọi người được ơn cứu độ. Điều quan trọng đó là sự hiểu biết của chúng ta đối với dự định của Thiên Chúa và từ đó có lòng tin tưởng khôn ngoan và mạnh mẽ để có thể gặp được quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, được biểu lộ nơi Đức Giêsu.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LÒNG TIN CỦA BÀ MẠNH THẬT– Lm. Đinh Minh Tiên
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: “Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: “Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!” Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
– Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
– Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
– Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
– Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
– Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TÌNH MẸ THƯƠNG CON- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”
Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.
Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.
Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.
Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”
Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.
Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Giáo Hội chuẩn bị mừng lễ thánh Monica và thánh Augustinô. Xuyên suốt 18 năm dài, mẹ Mônica luôn cầu xin cho con trai Augustinô. Hằng ngày bà hy sinh, ăn chay và hãm mình cầu nguyện cho người chồng khô khan và con trai lầm lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay.Thánh Ambrôsiô khuyên nhủ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Nhờ niềm tin kiên cường của người mẹ nên Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời người con. Augustinô từ bỏ con đường tội lỗi và sống đời thánh thiện, trở nên vị thánh lớn của Giáo Hội.
Nhiều gia đình ngày nay có những người mẹ khổ đau vì con cái hư hỏng hay lâm bệnh hiểm nghèo. Hãy noi gương bà mẹ Canaan, mẹ thánh Mônica, tin tưởng và cầu xin. Chúa sẽ ban ơn cho những người mẹ có đức tin chân thành, kiên nhẫn.
Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời.Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN – Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi Chúa Giê-su đến miền Tia và Xi-đôn, “có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Nghe vậy Chúa Giê-su vẫn thinh lặng, không đáp lại lời van xin thiết tha và rất chính đáng của người mẹ đáng thương nầy.
Dù vậy, người phụ nữ vẫn không chùn bước, không tháo lui, không thất vọng, cứ tiếp tục bám sát Chúa Giê-su để van xin Ngài.
Chúa Giê-su vốn là Đấng giàu lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cứu chữa các bệnh nhân và xót thương người đau khổ. Vậy tại sao hôm nay Ngài không đáp lời một người mẹ tha thiết cầu xin Chúa cứu chữa cho con bà?
Vì giờ của Ngài chưa đến.
Quả vậy, sau một hồi bị quấy rầy bởi những lời van lơn dai dẳng của người đàn bà Ca-na-an, các môn đệ đề nghị với Chúa Giê-su: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”
Đến đây, Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ hiểu lý do vì sao Ngài im lặng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Nói khác đi, phạm vi phục vụ của Chúa Giê-su vào thời điểm đó, được khoanh lại trong phạm vi dân tộc Ít-ra-en mà chưa trải rộng đến muôn dân muôn nước. Giờ phục vụ ngoại bang chưa điểm.
Biết vậy nhưng người phụ nữ Ca-na-an vẫn không lùi bước. Bà đến sụp lạy dưới chân Chúa Giê-su và van lơn rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Lần nầy, Chúa Giê-su tỏ ra kiên quyết, Ngài đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nếu đặt mình vào hoàn cảnh người phụ nữ Ca-na-an, chúng ta cảm thấy cay đắng biết chừng nào khi nghe những lời đó và chắc chắn sẽ thất vọng rút lui. Thế nhưng người phụ nữ nầy vẫn không giận, không tủi, không buồn trước câu trả lời cứng cỏi của Chúa Giê-su, trái lại còn tỏ ra đồng cảm với Ngài. Bà thưa: “Thưa Ngài, đúng thế.” Rồi bà dựa vào ngôn từ của Chúa Giê-su để thưa với Ngài: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giê-su không thể nào chối từ được nữa. Ngài đáp ứng nguyện vọng của bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.”
Thế là cuối cùng, người phụ nữ Ca-na-an đã đạt được nguyện vọng của mình.
Cho dù vào thời điểm đó, Chúa Giê-su chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi (Mt 15, 24);
Cho dù kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có tính cách tiệm tiến, bắt đầu từ Ít-ra-en trước rồi mới lan tỏa ra muôn dân sau (Ga 4, 22b);
Cho dù theo lẽ phải thì không nên lấy bánh của con cái trong nhà mà trao cho người xa lạ (Mt 15, 26); Nhưng lòng tin mạnh mẽ và sự bền bĩ cầu xin của người phụ nữ Ca-na-an như giòng suối kiên trì lưu chảy làm xói mòn quyết định ban đầu của Chúa Giê-su, làm thay đổi kế hoạch cứu độ tiệm tiến của Thiên Chúa, khiến Chúa Giê-su phải đáp ứng yêu cầu của bà ngay lúc bấy giờ, cho dù giờ của Ngài chưa đến. Đúng là nước chảy đá mòn! Và thế là từ đây, ơn cứu độ bắt đầu vượt ra khỏi biên giới Ít-ra-en để được rộng ban cho muôn dân muôn nước.
* * *
Hình ảnh Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay có thể khiến cho nhiều người cảm thấy bị sốc vì thái độ cứng cỏi, lạnh lùng của Chúa trước những lời van xin tha thiết của người phụ nữ Ca-na-an. Hình ảnh nầy khác hẳn dung mạo bình thường của Ngài mà chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng, lúc nào cũng chạnh lòng lòng xót thương người đau khổ, lúc nào cũng sẵn sàng hiến thân phục vụ mọi người.
Đôi khi Chúa Giê-su tỏ ra như thế để chứng tỏ cho chúng ta hiểu rằng: bất cứ ai bền bĩ, nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu chính đáng của mình, như người phụ nữ Ca-na-an trên đây, thì chắc chắn người ấy sẽ được đáp ứng, cho dù ban đầu xem ra như thể Thiên Chúa chẳng chút lưu tâm đến nỗi cơ cực của mình.
Và qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng trao cho chúng ta bí quyết để đạt được thắng lợi trong mọi công việc ở đời. Đó là: ai kiên gan bền chí, người đó sẽ thành công.
Lạy Chúa Giê-su,
Biết bao lần chúng con cầu xin mà chẳng được như ý, chỉ vì điều chúng con cầu xin không chính đáng hoặc có hại cho đời sống thiêng liêng. Chúa là Cha nhân lành, Chúa không thể nào ban cho con cái mình những điều không hay, không tốt.
Cũng có khi chúng con kêu cầu mà chẳng được, chỉ vì nguyện cầu không đúng cách: cầu xin cách nông nổi, thiếu tin tưởng, thiếu kiên trì… Thế rồi, thay vì tự trách mình, chúng con đâm ra giận hờn, oán trách Chúa.
Xin cho chúng con biết cầu nguyện cách khiêm tốn, nhẫn nại và liên lỉ như người phụ nữ xứ Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay, đó là bí quyết để được đón nhận vô vàn hồng ân của Chúa.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TIN YÊU- Trích Logos A
Năm 2002, Hội Đồng Truyền Bá Văn Hóa nước Anh đã mở cuộc bình chọn 70 từ đẹp nhất trong tiếng Anh. Cuộc bình chọn đã diễn ra trên 102 nước với 40.000 người tham gia. Kết quả là từ đứng đầu danh sách những từ đẹp nhất chính là từ “người mẹ” (mother).
Quả thật, danh từ “mẹ” rất gần gũi với mọi người và là một danh từ gợi lên một cái gì đó rất thiêng liêng, bao hàm tình mẫu tử cao cả mà mọi người đều trân trọng.
Vào ngày 05/9/1997, khi trái tim Mẹ Têrêsa Calcutta ngừng đập, thi hài của Mẹ được đặt trên một xe cứu thương, chở đến nhà thờ thánh Tôma, thuộc dòng Loretto. Phía trước xe, người ta để một tấm bảng, trên đó ghi một chữ “Mẹ” duy nhất, danh từ gói ghém tất cả tình thương của Mẹ Têrêsa dành cho những người con cái nghèo khổ tại Ấn Độ.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu, chúng ta cũng bắt gặp tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý nơi bà mẹ xứ Canaan. Vì thương con gái bị quỉ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin Ngài chữa người con gái khỏi bệnh. Bị từ chối, thậm chí bị khinh bỉ, bà vẫn kiên trì cầu xin Chúa mà không nản lòng.
Sự kiên nhẫn và lòng khiêm tốn của người mẹ xứ Canaan không những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt dành cho con gái mình, mà còn biểu lộ một đức tin mạnh mẽ không gì lay chuyển, đến nỗi Chúa Giêsu đã khen ngợi : “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”.
Đức tin và tình yêu chính là đôi cánh được tháp vào cuộc đời người tín hữu, giúp họ bay lên cao, vượt qua những bão giông cuộc đời, để gặp gỡ được bầu trời tràn ngập hạnh phúc.
Tình yêu.
Tình yêu có một sức mạnh vạn năng và mạnh hơn cả sự chết. Vì thế, tình yêu là động lực thúc đẩy người ta vượt qua mọi thử thách và gian khó. Với tình yêu, người ta bất chấp tất cả và cũng chấp nhận tất cả, để đạt được điều mình mong muốn.
Người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan vì quá thương con gái bị quỉ ám, đã chạy đến với Chúa, để khẩn khoản xin Chúa cứu chữa con gái mình.
Trước lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo, Chúa Giêsu đã thử thách bà ta : Ngài không đáp lại một lời nào. Thế nhưng trái tim của người mẹ đã không lùi bước trước thái độ im lặng của Chúa, nhất là sự thiếu kiên nhẫn của các môn đệ : muốn Chúa cho bà ta về kẻo bà ta kêu mãi. Còn Chúa Giêsu thì tỏ ra không quan tâm đến lời thỉnh cầu của bà : “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”.
Tuy nhiên, tình mẫu tử vẫn thúc đẩy người phụ nữ đi theo Chúa một cách kiên trì, cho dù Chúa quay lại từ chối một cách lạnh lùng : “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Với tình yêu một người mẹ, bà vẫn khiêm tốn nài xin : “Nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống”.
Cuối cùng, tình yêu đã chiến thắng và vượt qua được những thử thách. Tình yêu đã mở lối cho tình yêu. Tình yêu của người mẹ quá mãnh liệt, đã gợi lên tình thương xót từ trái tim Chúa Giêsu. Ngài đã chữa lành cho con gái bà ta.
Chính tình yêu của người mẹ đã cho người phụ nữ ngoại giáo sức mạnh vượt qua những “rào cản” tôn giáo để đến với Chúa. Là một người không có đức tin, bà đã bước đến ranh giới niềm tin một cách can đảm và kiên trì. Chính tình yêu mãnh liệt của bà đã mở lối cho tình yêu của Thiên Chúa từ tâm. Đó là tình yêu không biên giới, sẵn sàng đón nhận tất cả mọi người vào vòng tay từ ái của Người.
Đức tin.
Niềm tin cũng là sức mạnh giúp người ta vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống. Niềm tin cũng còn là điều kiện con người phải có để Chúa làm phép lạ chữa lành bệnh tật.
– Khi chữa lành bệnh cho người đầy tớ viên đại đội trưởng ngoại giáo, Chúa nói với ông : “Ông về đi, ông tin thế nào thì được như vậy” (Mt 8, 5-13).
– Với người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đã chạm vào gấu áo Chúa, Chúa nói : “Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5, 34).
Cũng vậy, dù là một người ngoại giáo, người phụ nữ xứ Canaan cũng tìm đến Chúa với một lòng tin mạnh mẽ. Trước lời nói đầy vẻ khinh miệt của Chúa, người phụ nữ vẫn khiêm tốn nài van Chúa cứu chữa con gái mình. Bà không tự ái, không buồn giận trước những lời nói khinh rẻ của Chúa, thậm chí bà còn dùng chính lời Chúa để đáp trả một cách tinh tế : “Nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn”.
Với niềm tin mãnh liệt, bà đã nhìn thấy lòng xót thương ẩn sâu trong trái tim Chúa, Đấng đã từng nuôi năm ngàn người ăn no với 5 chiếc bánh và 2 con cá, còn dư 12 thúng đầy bánh vụn. Giờ đây, lẽ nào Ngài lại từ chối những vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn của con cái Thiên Chúa ?
Với một niềm tin mạnh mẽ, bà đã vượt qua được những cản trở của tín ngưỡng, sắc tộc, của những đố kỵ ghen ghét, để bước vào vòng tay yêu thương của Chúa.
Với một niềm tin vững vàng, bà đã chạm tay đến phép lạ kỳ diệu do tình thương của Chúa : “Bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được như vậy”.
Cũng thế, ngày nay nếu chúng ta biết không ngừng vỗ đôi cánh Tin – Yêu để bay lên cao, chúng ta sẽ vượt lên trên chính mình, vượt qua những thử thách của cuộc sống, vượt qua những rào cản của cuộc đời, để vươn lên đến ngưỡng cửa của những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa sẽ thực hiện trong cuộc đời chúng ta.
Mở rộng vòng tay Tin – Yêu.
Bài trích sách tiên tri Isaia thuật lại : Thiên Chúa đã đưa Dân Người hồi hương từ chốn lưu đày. Người muốn mở rộng đoàn dân này, để trong đó, không chỉ có người Israel mà có cả lương dân nữa, như lời Thiên Chúa phán : “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Thiên Chúa muốn mở rộng vòng tay để ôm lấy mọi dân tộc vào lòng mình. Ngài không muốn loại trừ ai, nhưng đón nhận tất cả vào một đoàn chiên duy nhất.
Chúa Giêsu cũng đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận người phụ nữ xứ Canaan và cứu chữa con gái bà. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi mở rộng vòng tay thân ái đón nhận mọi người : dù đó là kẻ tội lỗi hay là người lương dân. Qua đời sống bác ái và những nghĩa cử yêu thương, chúng ta sẽ mau chóng dẫn đưa họ về với Chúa, làm cho vòng tay tin yêu của Giáo Hội mỗi ngày một thêm rộng lớn hơn.
Vào một buổi chiều nọ, trên con đường hoang vắng thuộc vùng rừng núi Kontum hướng về Sàigòn, một chiếc xe hơi chết máy nằm ven đường. Đó là chiếc xe của một gia đình gồm hai vợ chồng và đứa con đang nôn nóng trở về Sàigòn sau chuyến đi Kontum.
Giữa lúc hai vợ chồng đang lo lắng bên cạnh chiếc xe hư, thì từ xa, một chiếc xe Jeep đi tới và dừng lại. Một “ông tây” từ trên xe bước xuống. Khi biết chiếc xe bị hỏng máy, “ông tây” liền xắn tay áo, chui vào gầm xe sửa chữa rất nhiệt tình. Một lúc sau, chiếc xe được sửa xong. Hai vợ chồng mừng rỡ, cám ơn “ông tây” rối rít. “Ông tây” liền rút ra một tấm danh thiếp trao cho hai vợ chồng. Trên tấm danh thiếp ghi hàng chữ :
Paul Léo Seitz Kim
Hội Thừa Sai Paris (MEP)
Giám mục Giáo Phận Kontum.
Thì ra, “ông tây” kia chính là Đức Cha Seitz, Giám Mục Giáo Phận Kontum. Từ đó trở đi, hai vợ chồng dù là người ngoại giáo, đã trở nên thân thiết với Đức Cha. Về sau, cảm kích trước tinh thần phục vụ và tấm lòng yêu thương của Đức Cha, cả gia đình họ đã trở lại đạo.
Với tinh thần phục vụ trong yêu thương, chúng ta cũng hãy biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, nhất là những người chưa nhận biết Chúa. Với đôi tay Tin – Yêu, chúng ta sẽ dẫn dắt nhiều người về với Chúa.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- Năm A
ĐỨC TIN CỦA MỘT NGƯỜI MẸ- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Lời hát : “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” của nhạc sĩ Y Vân cho chúng ta thấy tình cảm bao la của mọi người mẹ nói chung dành cho con từ khi mang thai cho đến khi sinh con ra trên cõi đời này, rồi chăm sóc và nuôi dạy con với bao khó khăn, thử thách của cuộc đời, chỉ mong con lớn khôn thành người. Vì vậy “Mẹ” là khởi hứng cho biết bao tác giả thơ, ca, chuyện tình tiểu thuyết khôn kể xiết. Khi viết về mẹ, Chế Lan Viên đã có câu: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi suốt cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”. Tình mẹ thương con vượt lên trên cả chính mình.
Hôm nay, chúng ta quan sát người một phụ nữ điển hình là người mẹ trong Kinh Thánh, bà không thuộc về Do Thái Giáo mà thuộc xứ Cannaan dân ngoại, đã vì muốn con gái đang ốm bệnh, và bị quỉ ám lâu năm được khỏi, nên khi nghe nói về Chúa Giêsu, bà đã lặn lội đến tìm gặp Chúa. Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mạ người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, bản chất và tình thương của một người mẹ vượt qua cả thù hận để kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng : “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm” (Mt 15,22). Bà kể bệnh tình của con bà với Chúa, cầu xin Chúa thương xót, với hy vọng sẽ được Chúa chữa lành.
Bà xin thì mặc bà xin, Chúa Giêsu vẫn như giả điếc làm ngơ. Tại sao vậy? Có thể vì Chúa đã ghi nhận đức tin của bà và muốn bà tin mạnh hơn. Bà sụp lạy xuống trước mặt Chúa. Đức tin mà bà thể hiện rất khiêm nhường, đến nỗi các môn đệ thấy cũng động lòng xin hộ : : “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay cho bà. Được đà, bà tiếp tục kêu xin. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu được giải thích rằng, Người chỉ được sai đến nhà Israël. Sứ mạng mà sau khi sống lại, Chúa mới sai các môn đệ đi : “Anh em hãy đi khắp thế gian. Rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
Thật khó hiểu về sự im lặng của Chúa trong lúc này, im lặng đến ngỡ ngàng. Chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự Chúa không đáp lời lúc chúng ta cầu xin, và đôi khi than phiền về sự lặng im của Chúa? Người đàn bà xứ Canaan là một bằng chứng. Bà sấp mình xuống, quì lạy và van xin. Đây là cử chỉ tôn thờ Chúa. Ấy vậy mà Chúa Giêsu vẫn không đoái hoài, chẳng những thế mà lại trả lời bà một cách cay nghiệt : “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Lời của Chúa không làm bà thất vọng, nhủn chí, sờn long. Bà đáp : “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15,26-27).
Bà thật can đảm. Bà không tự ái và tức giận nói lời lộng ngôn, bà đồng ý với Chúa Giêsu nên thưa : “Vâng, lạy Ngài”. Và khi thưa như vậy bà đến bên cạnh Chúa Giêsu để thưa với Chúa : vâng, tôi là một con chó, nhưng con chó ấy được Thầy nuôi nấng dạy dỗ và cho ăn. Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Ý ngay lành kèm theo lòng tin mạnh mẽ đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Chúng ta học được nhiều điều ở bà mẹ này. Thứ nhất, nhờ đức tin, Chúa cho chúng ta được đồng bàn tình thương của Chúa, được trở nên con cái Cha trên trời : “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu”(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12).
Thứ hai, Thiên Chúa là Đấng luôn có lý. Vì thế, trước nhan thánh Chúa, chúng ta đừng bao giờ cho rằng ý chúng ta là chính đáng và bắt Chúa phải đáp ứng nhu cầu. Vậy, khi ta cầu xin bất cứ sự gì thì hãy kết thúc bằng lời sau đây : “Lạy Chúa, con tin và xin cho ý Cha được thể hiện”.
Xin cho các bà mẹ ngày hôm nay chẳng những cưu mang, sinh hạ, dưỡng dục hồng ân Chúa ban là con cái, mà con thông truyền đức tin cho con cái nữa. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- Năm A
TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI – Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc Thập Tự chinh đẫm máu chống lại người Hồi Giáo vào những năm 1095-1291, bước sang thế kỷ 16 là cuộc chiến giữa người Tin lành và Công giáo tại Âu Châu, rồi cuộc đối đầu giữa những người quá khích Ấn giáo với những người theo các tôn giáo khác tại Ấn Độ… Và gần đây nhất là việc các nhóm khủng bố Hồi Giáo ở Syrie, Iraq tuyên bố thiết lập một “Nhà nước Hồi Giáo” (ISIS), để rồi nhân danh tôn giáo, nhóm người này đã thẳng tay giết hại cách dã man bất cứ ai không cùng niềm tin với họ.
Và Mahamat Ganhdi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Ganhdi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Những câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại hiện nay. Đó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên. Thế đó, con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Đế của mình để bách hại và loại trừ người khác.
Thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ nhiều người, nhất là những kẻ bé mọn, những người dân ngoại, những người mà họ cho là tội lỗi.
Thế nhưng khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do Thái. Chúa cũng đã đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn quy tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Điều này được thể hiện rõ trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
- Ơn cứu độ được ban cho mọi người
Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng đọc lại các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Trước hết, bài đọc một được trích đọc hôm nay, thuộc phần thứ ba trong sách của ngôn sứ Isaia (56, 6-7). Đoạn này được viết trong bối cảnh dân Do Thái vừa từ nơi lưu đày trở về. Tại Đất Hứa, và ngay chung quanh thành Thánh Giêrusalem đã có rất nhiều người dân ngoại sinh sống. Do đó, vấn đề đặt ra là họ phải đối xử với những dân tộc này như thế nào. Hơn nữa, những người ngoại bang này có được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không? Đứng trước những vấn nạn đó, vị ngôn sứ được mạc khải của Thiên Chúa đã đưa ra cho họ một câu trả lời thật rõ ràng: “Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Như thế, ngay từ trong Cựu ước, mạc khải về tính phổ quát của ơn cứu độ đã bắt đầu được hé mở.
Tính phổ quát này của ơn cứu độ đã trở nên hiện thực với việc xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngay từ khi Giáng Sinh thì một trong những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chính là những đạo sĩ người dân ngoại đến từ Đông Phương (x. Mt 2, 1-12). Rồi hôm nay đây, trong lúc những người đồng hương Nazareth với Chúa Giêsu đã không tin Ngài (x. Mt 13, 53-57); các Luật sĩ và Biệt phái thì dựa vào các lệ truyền của tiền nhân để huỷ bỏ chính Lời Thiên Chúa (x. Mt 15, 1-9). Họ đang tranh luận với Ngài về luật “sạch” và “dơ” (x. Mt 15, 10-20). Họ tự hào là công chính vì có lề luật, để loại bỏ những người mà họ cho là dân ngoại, là “dơ”, thì ngay lúc đó, một người phụ nữ người Canaan, một thứ “dân ngoại” chính gốc đã hết lòng tin tưởng và nhận được ân ban của Đức Giêsu (x. Mt 15, 21-28). Đây là khúc mở đầu, sau khi Phục Sinh, trước khi về trời, thì di chúc cuối cùng của Đức Kitô cho các tông đồ là ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân (x. Mt 28, 19-20).
Vâng lời Thiên Chúa, các tông đồ đã lên đường rao giảng cho hết mọi dân tộc. Chính thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma chúng ta vừa nghe, cũng khẳng định: “Tôi là Tông đồ các Dân ngoại”. Và ngài còn cho thấy, lẽ ra Tin mừng phải được loan báo cho dân Israel là dân được Chúa chọn trước, nhưng vì họ đã cứng lòng, không tin, nên giờ đây, vị tông đồ đã quay sang loan báo cho anh em dân ngoại để họ được cứu rỗi “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót”. Dù vậy, thánh nhân cũng hy vọng chính khi thấy dân ngoại tin nhận Đức Kitô và được ơn cứu độ, thì lúc đó dân Israel cũng sẽ quay lại để được ơn cứu độ “cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót”.
Như vậy, ơn cứu độ không thể bị giới hạn bởi bất cứ một dân tộc nào, cho dù đó là dân Chúa chọn; hay bởi bất cứ miền đất nào, dù đó là Đất Hứa. Tuy nhiên, mặc dù là ơn của Thiên Chúa, nhưng để lãnh nhận được ơn cứu độ này, mỗi người chúng ta cũng cần thể hiện một thiện chí nào đó của mình.
- Điều kiện để nhận lãnh được ơn cứu độ
Trước hết, chúng ta phải xác tín lại với nhau rằng ơn cứu độ là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: “Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. (Rm 15, 29).
Kế đến, ơn cứu độ cũng đòi chúng ta một sự mở rộng cõi lòng, sẵn sàng đón nhận và hết lòng tin tưởng trong tinh thần khiêm hạ. Chúng ta có thể nhận ra được điều này trong lời cầu xin của người phụ nữ Canaan, khi bà xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Bà không hề nhân danh một điều gì khác ngoài lòng thương xót của Đức Giêsu: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi” Đây là một lòng tin trong sự phó thác hoàn toàn nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không hề dựa vào bất cứ điều gì của bản thân mình. Khi Chúa nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” thì bà đã đáp lại một cách tuyệt vời: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng đựơc ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Trước lòng tin mạnh mẽ đó, Đức Giêsu đã làm cho bà những gì bà muốn: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi, mà Chúa Giêsu đã “thua” trong các cuộc tranh luận. Ngài đã thua trước lòng tin và sự khiêm hạ của người phụ nữ Canaan.
- Chúng ta hôm nay
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải tự nhìn lại chính mình. Có khi chúng ta đang đi vào vết xe cũ của những người Biệt phái xưa kia. Chúng ta tự hào mình là một kitô hữu, được rửa tội từ bé, mình là “đạo dòng, đạo gốc” rồi loại bỏ những người khác. Đây quả thật là một điều nguy hiểm, vì nếu chúng ta không có được một đức tin, lòng khiêm hạ và sự kiên nhẫn như người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng, thì nguồn gốc đó không thể cứu được chúng ta. Điều thứ hai chúng ta rút ra được từ lời Chúa hôm nay đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không loại trừ ai. Vì thế, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy biết tha thứ và sống bao dung với người khác, đón nhận người khác không phân biệt lương giáo, kể cả những người không cùng ý kiến với chúng ta như lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn đọc hàng ngày: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”.
Đối với các em thiếu nhi, các con cần tập sống lòng bao dung đó ngay từ bây giờ, cụ thể là không cãi nhau, đánh nhau, và sẵn sàng chơi với hết mọi bạn, nhất là những bạn không có ai chơi cùng. Các con hãy luôn giữ nụ cười trên môi đối với hết mọi người.
Nếu tất cả cộng đoàn chúng ta sống đức tin cách cụ thể như vậy, nghĩa là, luôn mở rộng vòng tay đón nhận người khác đến với chúng ta. Lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng nhận được lời hứa của Chúa: “Này con, con có lòng mạnh tin. Con muốn sao thì được vậy”. Amen.