CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN
– NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
DỤ NGÔN CỎ LÙNG, HẠT CẢI, MEN BỘT- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 6
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A.. 16
DỤ NGÔN HẠT CẢI VÀ CỎ LÙNG, BỘT VÀ MEN– Chú giải của Fiches Donimicales 16
ĐỨC GIÊSU DÙNG DỤ NGÔN MÀ NÓI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
HIỂU BIẾT VÀ KIÊN NHẪN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long. 32
SỰ KIÊN NHẪN CỦA THIÊN CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 49
CHÚA KIÊN NHẪN VÀ KHOAN DUNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 63
TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 74
HÃY ĐỂ CỎ LÙNG VÀ LÚA MỌC LÊN ĐẾN MÙA GẶT- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 78
THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 84
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A.. 90
CỨ ĐỂ CẢ HAI MỌC LÊN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 90
HAI ĐẠO QUÂN – Lm. Trần Ngà. 98
CỎ LÙNG VÀ LÚA- Trích Logos A.. 102
LÒNG CHÚA CAO CẢ HƠN LÒNG CHÚNG TA- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 109
———————————————————
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại”.
Bài trích sách Khôn Ngoan.
Ngoài Chúa, không có chúa nào khác chăm sóc mọi sự, ngõ hầu minh chứng rằng Chúa không đoán xét bất công. Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh, và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người. Chúa chỉ tỏ sức mạnh Chúa ra khi có kẻ không tin vào uy quyền của Chúa, và triệt hạ kẻ kiêu căng không nhìn biết Người. Vì là chủ sức mạnh, nên Chúa xét xử hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung: vì khi Chúa muốn, mọi quyền hành tuân lệnh Người. Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 85, 5-6. 9-10. 15-16a
Đáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).
1) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.
2) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa.
3) Nhưng lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, rất mực khoan dung và thủ tín. Xin đoái nhìn đến con và xót thương con.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 26-27
“Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
All. All. – Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – All.
PHÚC ÂM: Mt 13, 24-43
“Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?” Ông đáp: “Người thù của ta đã làm như thế”. Đầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”. Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: “Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”. Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: “Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: “Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian”. Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”. Người đáp rằng: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe”.
Đó là lời Chúa.
————————————————————
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
DỤ NGÔN CỎ LÙNG, HẠT CẢI, MEN BỘT- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
“Về Nước Trời thì cũng in như người kia”: Trong lúc dụ ngôn người gieo giống có thể tóm tắt bằng mấy chữ: việc nảy mầm của Nước Trời sẽ gặp nhiều thất bại đau đớn; thì dụ ngôn cỏ lùng lập tức đi tiếp theo và đặt ngay câu hỏi: các thất bại, các sự chống đối Nước Trời, cái công việc của Thần dữ đó phải chăng không thể bị dẹp bỏ ngay lập tức? Cả hai đều cố gắng đánh đổ lòng nao nức trông chờ Đấng Thiên sai ra tay, dụ ngôn người gieo giống thì bằng cách xác quyết rằng không thể tránh được việc một phần lớn hạt giống bị mất đi; còn dụ ngôn cỏ lùng thì bằng cách khẳng định: đừng hành động trước thời gian, đừng muốn dẹp bô công việc của Thần dữ trước mùa gặt. Xin nhớ là vào thời Chúa Giêsu, sự nóng lòng này đã khiến người ta tin rằng việc giải phóng dân thánh và việc tiêu diệt quân vô đạo sẽ xảy ra ngay lập tức (x. các Thánh vịnh của Salomon và các bản văn Qumrân). Do đó họ không thể nghĩ là có việc chống đối lại Đấng Cứu thế (dụ ngôn người gieo giống) và việc chung sống, lâu dài với sự dữ trong thời Đấng Messia (dụ ngôn cỏ lùng).
(Chú thích về các công thức nhập đề của các dụ ngôn):
Như các dụ ngôn đương thời, dụ ngôn của Chúa Giêsu xuất hiện dưới hai hình thức căn bản:
-Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng chủ cách (nominatif) (chủ từ): đó là các câu chuyện đơn giản không có động thức nhập đề, ví như dụ ngôn người gieo giống (“Này người gieo giống đi ra gieo lúa”).
-Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng ở dữ cách (datif) (tức từ gián tiếp) tương đương với chữ “Le” trong tiếng Aram. Đa số dụ ngôn của các giáo sĩ bắt đầu với các chữ ấy: MashalLe (người ta hay gặp chẳng hạn: Mashal. Le mélék shé: “Một dụ ngôn. Giống như ông vua kia…”). Ngữ điệu đó là một cách nói rút gọn, hay một lối viết tắt của câu émshol Lekha, Úlashal. Le ma haddabhar dom? Le… = “Tôi muốn kể cho anh một dụ ngôn. Tôi sẽ so sánh sự vật với cái gì? Thì nó cũng giống như… “. Thỉnh thoảng người ta thay thế ngữ điệu dài dòng đó bằng một tiếng dữ cách duy nhất.
Trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu, ta gặp một công thức nhập đề dài ở dữ cách nơi các câu hỏi đi trước dụ ngôn của Mc 4, 30 tắt: “Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa hay lấy gì mà ví nó được? Thì cũng như…” hoặc của Lc 13, 20t: “Ta sẽ lấy gì mà so sánh Nước Thiên Chúa?”.
Tương ứng với công thức vắn với dữ cách khởi đầu, là các chữ hôs, hôsper, “như” viết ra tiếng Hy lạp là homoiôthêsetai, homoiôthê, homoios estin, “giống như”; trong căn ngữ của 5 công thức này, cũng có cùng một giới từ Aram là “Lc”. Như vừa nói, chữ “Le” này là một lối viết tắt, nên không chỉ được dịch là “giống như song là: “Về… thì cũng giống như…”. Trong nhiều trường hợp, chính nội dung của dụ ngôn buộc ta phải để ý đến lối viết tắt của công thức nhập đề đó, vì công thức này thay đổi điểm ta muốn so sánh. Trong Mt 13, 45, Nước Thiên Chúa rõ ràng là không “giống như người thương gia”, mà giống như “viên ngọc quý”; trong Mt 25, 1, nó không “giống như mười trinh nữ” mà giống như bữa tiệc cưới; trong 22, 2 nó không “giống như vua kia” mà giống như các cuộc vui ở tiệc cưới; trong 20,1 Nước Thiên Chúa không “giống như gia chủ” nhưng giống như việc trả lương; trong 13, 24, nó không “giống như ‘ người kia gieo giống tốt trong ruộng mình”, mà giống như mùa gặt hái; trong 18, 23 nó không “giống như ông vua trần thế” mà giống như việc tính sổ. Trong mọi trường hợp trên, ta tìm ra điểm so sánh đích thực khi nhớ rằng: dưới thành ngữ Hy lạp homoios estin “giống như”, tiềm ẩn một chữ “Le” Aram, mà ta phải dịch là: “Về…. thì cũng giống như..”.
Nhận xét này cũng có giá trị đối với các trường hợp khác trong đó ta thường không thấy lối viết tắt của công thức nhập đề. Không thể dịch Mt 13,31 là “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải…” mà phải dịch: “Về Nước Thiên Chúa thì cũng giống như hạt cải… “, vì chẳng phải với hạt cải mà Nước Thiên Chúa được so sánh, nhưng là với cây to lớn phát sinh từ hạt cải và làm chốn nương náu cho chim trời. Ở trong Mt 13, 33 cũng thế: Nước Trời không “giống như men” mà giống như bột dậy lên (coi Rm 11,16) và trong Mt 13,47 Nước Trời không được ví với chiếc lưới đánh cá, nhưng như việc lựa lọc cá bị mắc vào lưới.
“Hãy để chúng mọc lên cả hai cho đến mùa gặt”: Trong suốt cả dụ ngôn, ông chủ luôn tỏ ra tự tín. Khi được hỏi về nguồn gốc cỏ lùng, ông không chút ngần ngại tuyên bố: cỏ lùng do kẻ thù gieo. Ông cũng tỏ ra tin tưởng vào giá trị hạt giống của ông, và biết chắc cỏ lùng sẽ không tài nào thắng thế. Kể cũng lạ khi ở đây hầu như không biết đến nguy cơ làm chết ngạt hạt giống tốt, cái nguy cơ đã được tỉ mỉ mô tả ở dụ ngôn người gieo giống trước (13,7).
“Một hạt cải”: Tính cách nhỏ bé của hạt cải được đưa vào ngạn ngữ Palestine. Nhưng cây cải lại cao đến 2 hay 3 mét, đứng quanh vùng có thể thấy. Tuy nhiên dù cao lớn (arbuste), nó cũng không phải là cây (arbre) như dụ ngôn nói.
“Thành một cây”: Trong Cựu ước, cây có chỗ cho chim trời nương náu là một hình ảnh thường dùng để chỉ một vương quốc hùng mạnh bảo đảm được an ninh cho thần dân mình (Ed 17, 23; 31, 6; Đn 4, 9; 11, 18). Trong văn chương khải huyền, giáp sĩ hay targum, chim tượng trưng cho dân ngoại đến từng lũ, từng đoàn. Ở đây Mt nhấn mạnh đặc tính cánh chung của dụ ngôn (nhưng điều này không loại bỏ lối áp dụng có tính cách Giáo Hội học) khi phóng đại thân cây rau lớn (arbuste) thành một “cây to (arbre).
“Bà nọ lấy, vùi…”: dịch sát chữ: che dấu”, hạn từ này đưa về ý tưởng chủ yếu của cả phần này.
“Ba thúng bột”: Đây là một khối lượng bột rất lớn, trên 39 lít, nghĩa là khoảng 60-70 ký lô. Con số ba thúng bột này. Khác hẳn lấy từ St 18. 6 (x.Tl 6, 19 và 1 Sm 1, 24) là quá phóng đại vì lượng bột đó làm đủ bánh nuôi trên 150 người ăn! Viễn ảnh dị thường của bữa ăn này xem ra muốn đưa ta nghĩ đến bữa tiệc cánh chung. Ở dây Matthêu nhấn mạnh tới hiệu lực của men, thứ có một sức mạnh lạ lùng như vậy. “Cho đến khi tất cả dậy men”: hiệu lực của Nước Trời lan rộng đến toàn thể sức mạnh của nó thật vô song, dù bề ngoài xem ra yếu ớt.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói hết thảy các điều ấy với dân chúng, và Người không nói với họ điều gì mà lại chẳng dùng dụ ngôn”: Trong văn mạch Mt, phải giới hạn nghĩa của chữ “hết thảy” vào lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Trời. Vì không phải bao giờ Người cũng nói bằng dụ ngôn; nhưng khi dạy về mầu nhiệm Nước Trời, thì Người luôn dùng thể văn ấy. Phần thứ hai của câu ngụ ý rằng Chúa Giêsu, để dạy về Nước Trời cho quần chúng, đã cẩn thận nói bằng dụ ngôn, hầu tránh mọi hậu quả tuyên truyền có tính cách thiên sai chủ nghĩa.
“Sấm ngôn của ngôn sứ”: Matthêu bảo là một ‘ngôn sứ’ nhưng lại trích dẫn một tác giả Thánh vịnh, Asaph. Có thể ông nhớ Asaph ấy đã được gọi là “ngôn sứ” trong 2 Sk 29, 30; nhưng đúng hơn, có Iẽ ông quan niệm tất cả các sách Cựu ước đều có giá trị sứ ngôn… Thế mà sách thánh đã tiên báo Đấng Messia sẽ dùng dụ ngôn mà phán dạy.
“Con cái của Nước… con cái quỷ dữ ”: Cách phân chia nhân loại thành hai khi đối nghịch nhau đây rất thông dụng trong Do thái giáo đương thời. Ta thường gặp lối phân chia đó trong các văn tập của Qumrân. Chỉ khác một điều là: đối với Qumrân, nói kẻ lành đều ở trường phái của họ. Tất cả kẻ dữ là những người bên ngoài; còn ở đây cá hai đều sống lẫn lộn, và các môn đồ không có quyền tách rời họ ra.
“Cũng như người ta nhặt cỏ lùng…”: Trong dụ ngôn, trọng tâm nằm trên quyết định của ông chủ là để cỏ lùng mọc chung với giống tốt, trong lúc ở phần giải thích lại là đề tài mùa gặt tương lai, là số phận chung cục của cỏ lùng và lúa: trên 7 câu giải thích, đã có tới 4 câu nói về mùa gặt tương lai. Có lẽ Matthêu đã lan rộng một kết luận nguyên thủy vừa phải hơn của Chúa Giêsu, để đánh đổ một niềm vững tin tự đại có khuynh hướng lan tràn giữa Kitô hữu thời ông: việc gia nhập Giáo Hội chưa phải là được cứu độ cách dứt khoát; còn có cuộc phán xét sau cùng sẽ vô cùng khốc liệt đối với các Kitô hữu xấu xa.
Được bắt đầu với việc rao giảng Lời, Nước Trời thoạt tiên rất nhỏ bé khiêm hèn. Nó không áp đặt trên mọi tạo vật một cách hách dịch và ngay tức thời. Tình trạng hiện nay của nó còn hỗn tạp hồ đồ: kẻ lành người dữ đều triển nở trong nó. Và chỉ vào cuối cuộc hành trình dài đằng đẵng? được theo đuổi một cách âm thầm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nước Trời âm ỉ quy tụ toàn thể vũ trụ trong Hòa bình của Chúa Kitô.
–Người môn đồ Chúa Kitô sẽ chấp nhận hiện tại dễ dàng hơn nếu biết tin tưởng như đã nói vào tương lai. Họ biết rõ rằng các bước đầu thật khiêm tốn như thế (Giáo Hội luôn luôn là thiểu số trong trần gian) chỉ là các dấu chỉ bất tương xứng vai công trình một ngày kia sẽ hoàn tất. Họ hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa. Thiên Chúa há không thể biến sỏi đá thành con cái Abraham được sao, nghĩa là Ngài không thể từ hư vô mà gầy dựng nên một dân tộc, một dân cho riêng Ngài được sao (Mt 3, 9)? Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của người đời các vật tầm thường đối với Ngài lại là to tát, và cái lớn lao trước mặt người đời đôi khi lại làm Ngài ghê tởm.
-Người hoàn toàn phó thác cho Nước Thiên Chúa, để Nước Chúa biến đổi, tái dựng mình, thì đúng là men đích thực của môi trường họ sống. Cái sinh lực liềm tàng trong họ cũng xâm nhập vào mọi thứ chung quanh và lan tràn đến hết mọi người. Tình yêu ở trong một con người luôn chiếu dọi cho những kẻ chung quanh.
-Hạt giống tốt đã được gieo đầu tiên và ở khắp nơi, thì hạt lúa tốt sẽ được gặt hái sau cùng và khắp mọi chốn. Cỏ lùng không phải là nguyên thủy và cùng đích, chẳng phải là alpha và omêga:- Alpha và Omêga chính là hạt lúa tốt vậy.
– Cái nhìn của Kitô hữu về thế giới, về tha nhân phải là một cái nhìn tích cực. Không phải vì ta có mắt tốt hơn những người khác để phân biệt cỏ lùng với lúa tốt hay bàn tay tài khéo hơn để tách rời thứ này khỏi thứ kia. Nhưng vì cái nhìn của ta là một cái nhìn đức tin: ta biết hạt giống hôm nay đang triển nở mà không gì ngăn được vì ta tin vào Chúa Giêsu Kitô; nhưng niềm xác tín này ta được không phải nhờ một phân tích “khoa học” về lịch sử đâu. Ta chẳng thấy hạt giống tốt ưu thắng và sẽ không bị chết ngạt, nhưng ta tin diều đó. Niềm tin làm ta hy vọng mãnh liệt vào con người, sự vật, biến cố.
-“Óc kỳ thị” không chết trong ta đâu. Ta vẫn luôn bị cám dỗ lên án hay loại trừ những kẻ xem ra chẳng có cùng quan niệm như ta về chân thiện mỹ.
–Ta thường đặt câu hỏi như các đầy tớ trong dụ ngôn: Từ đâu mà có biết bao sự dữ trong trần gian? Tại sao thế giới không nên tốt hơn sau 20 thế kỷ Kitô giáo? Vì sao Giáo Hội vẫn luôn có những khuyết điểm sờ sờ như vây? Chúa Giêsu trả lời bằng cách cho thấy tính cách hàm hồ không thể tránh được của toàn thể tạo vật đang trên đường tiến về Nước Trời. Một tính cách hàm hồ phổ quát, lan tới các tập thể cũng như cá nhân, Giáo Hội cũng như tín hữu. Điều đó có nghĩa là chân, thiện, mỹ không hiện hữu ở tình trạng hiển nhiên, y như điều sai quấy, xấu xa. Không một ai, không một tập thể nào hoàn toàn phù hợp với Nước Trời, nhưng cũng chẳng ai xa lạ, chẳng bị khai trừ khỏi Nước ấy.
-Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn: Ngài chịu đựng nhiều thế kỷ tội lỗi vì viễn ảnh rộng lớn của Ngài là ban ơn cứu độ cho ta (Rm 3, 26). Ngài ghét tội lỗi, nhưng yêu kẻ biết thống hối ăn năn dù tội lỗi đến đâu (Rm 2, 4). Nếu Thiên Chúa không kiên nhẫn, bây giờ ta ở đâu rồi?
–Đức kiên nhẫn ấy cũng cần cho con người. Do đấy có nhiều yêu sách xem ra mâu thuẫn nhưng phải biết dung hòa: không dung túng sự dữ, song vẫn kính trọng nhân vị và khả năng hoán cải của tội nhân, vẫn bảo vệ các tâm hồn ngay chính khỏi nhiễm lây gương xấu, tà đạo, thái độ dửng dưng tôn giáo. Do đó ngay từ nguyên thuỷ, ta thấy Giáo Hội khi thì nghiêm khắc (1Cr 5, 3- 5) lúc lại thông cảm (1 Cr 5, 9-10) tùy hoàn cảnh cụ thể của các tâm hồn. Hai thái độ ấy đều chính đáng và cần thiết, dù theo một lường độ khó mà xác định. Chúng cũng đề phòng ta khỏi bị ảo tưởng đạt được những trạng thái dứt khoát rõ ràng ở đời này. Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng trong đó chỉ có các thánh, chỉ gồm người công chính là một điều hão huyền. Nếu đường ranh giới phân chia sự dữ điều lành khá rõ ràng, thì lại rất lu mờ giữa kẻ lành người dữ (lấy quyền nào mà cho mình là “tốt”?). Vì kẻ sống trong tội lỗi hôm nay, mai ngày có thể trở nên một thánh Augustinô hay một Charles de Foucauld.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
DỤ NGÔN HẠT CẢI VÀ CỎ LÙNG, BỘT VÀ MEN– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Theo gương nhẫn nại của Chúa
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc bài giảng thứ ba trong năm bài giảng lớn của Phúc âm thánh Matthêu là dụ ngôn Người gieo giống. Hôm nay chúng ta tiếp tục với ba dụ ngôn khác. Trước tiên là dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng, rồi sau là dụ ngôn bột và men. Cả ba đều tiếp theo sau phần giải thích dụ ngôn người gieo giống.
Dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng đều mở đầu giống như dụ ngôn người gieo giống: “Nước Trời thì ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng “mình…? Thế rồi đột nhiên câu chuyện trở nên bi đát: các đầy tớ sửng sốt khám phá thấy cỏ lùng đã mọc lan khắp cả ruộng lúa vừa gieo. Họ hỏi ông chủ: “Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó”. Họ sẵn sàng đi ra ruộng ngay để nhổ hết thứ cỏ dại làm hư ruộng của chủ.
+ “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không”. Phản ứng tự phát của những người đầy tớ trong dụ ngôn cũng đúng là phản ứng của những người đã mắt thấy tai nghe bài giảng của Đức Giêsu, phản ứng của những tín hữu ở mọi thời. Đó là phản ứng của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Mêsia sắp đến: “Tay Người cần nia. Người sẽ rê sạch lúa. trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tốt là đốt đi” (Mt 3,12). Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Người sai hai môn đệ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác”. Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo: “Nước Trời đã đến gần, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác hoạ giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.
Đó là phản ứng tỏ ra thất vọng của mấy môn đệ thân tín của Chúa khi thấy người ta không lịch sự tiếp đón Thầy mình. Giacôbê và Gioan, hai con ông Dêbêđê rất bực mình vì thái độ tiêu cực của một thôn làng miền Samari, liền hỏi Chúa: “ Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống tiêu diệt họ không?”.
Thực vậy, làm sao tin được rằng những hành động chẳng có gì là vẻ vang của Chúa Giêsu như chữa lành người bệnh, quan tâm đến các trẻ em và những người hèn mọn, tiếp xúc gần gũi với những người tội lỗi, mà lại loan báo và thực thi Nước Chúa một cách hiệu quả đang lúc giờ phút xét xử của Thiên Chúa còn muộn màng, chưa tỏ hiện và sự ác thì hoành hành và có mặt khắp nơi.
+ Ông chủ bình tĩnh đáp lời những người giúp việc tỏ ra quá mẫn tiệp: “cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt… sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
Từ hình ảnh mùa gieo Nước Thiên Chúa đến-đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa – hình ảnh việc xét xử – có một khoảng giữa: Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người – kẻ tội lỗi cũng như người công chính – và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời gieo trong lòng họ. Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người; ngày đó không thể dự đoán trước. ông chủ nói với các gia nhân ông rằng: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: Hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi. Là một lời mời gọi sống theo gương nhẫn nại của Thiên Chúa, dụ ngôn này đồng thời cũng đề nghị ta suy niệm về thời gian của Giáo Hội: đó là thời gian mà tiềm năng của Lời đang hoạt động, bất chấp mọi trở ngại và chống đối; thời gian chờ đợi ngày cánh chung, thời gian của niềm hy vọng. Lời giải thích dụ ngôn chúa có ý nhắm nói năng cho các môn đệ khi đã về tới nhà xem ra xa với bài học về lòng nhẫn nại mà dụ ngôn đã đưa ra. Điểm nhấn mạnh ở đây không còn nhắm tới sự sống giữa giống tốt và cỏ lùng nữa, mà là sự chọn lựa cuối cùng; đang khi chờ đợi sự chọn lựa này, thì phải cố gắng sống không như “con cái ác thần” mà như “những con cái Nước Trời”.
….trong niềm hy vọng hạt giống sẽ nẩy mần:
Xen giữa dụ ngôn cỏ lùng và người gieo giống được giảng cho đám đông, mà giải thích thì dành cho các môn đệ, ta thấy có hai dụ ngôn mới: dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột. Dụ ngôn này cũng như dụ ngôn kia đều nói đến mối tương quan be,1ớn, mà có ý làm nổi bật sự bất cân xứng khác thường giữa một bên là cái bé nhỏ, khiêm tốn hầu như vô nghĩa lúc khởi đầu và bên kia là sự bành trướng lạ thường khi tới đích.
Quả thực, chẳng có tỉ lệ cân xứng chút nào giữa “một hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” và một cây lớn lên từ hạt đó” vì khi mọc lên thành cây lớn nhất trong vườn, nó trở thành cây cổ thụ, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được!”.
Và thật là chẳng cân xứng chút nào giữa một bên là một dúm men hầu như không trông thấy mà người phụ nữ vùi vào trong bột, và ba đấu bột là dùng để ủ men: từ ba trở thành 40 hạt đủ bảo đảm bữa ăn cho hơn 100 người!
Cũng vậy, để làm cho Nước Chúa đến, Thiên Chúa cũng không xử sự khác người nông dân khi gieo vào đất một hạt bé nhỏ, hay như người đàn bà vùi một chút men vào bột. Dù bề ngoài xem quá khiêm tốn, sứ mệnh của Đức Giêsu vẫn cứ khai mào việc Thiên Chúa nhất định can thiệp vào lịch sử của con người. Vậy thì có lẽ nào mà phải nghi ngờ về kết quả chung cuộc?
BÀI ĐỌC THÊM:
“Chưa nhẫn nại đợi chờ”
“Sự nhẫn nại đợi chờ này thực là rõ nét trong dụ ngôn cỏ lùng, tâm điểm của Tin Mừng hôm nay. Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Con người đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện, Satan tới gieo cỏ lùng. Và thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian, người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Nếu chỉ thoáng nhìn, đôi khi khó mà không phê phán Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại để điều ác phát triển như vậy? Những người xấu đôi khi xem ra lại được ưu đãi trong đời sống vật chất hơn những kẻ lành. Đó là vấn đề thường nhật mà không phải chỉ riêng cho những người chân chất. Thiên Chúa để cho như vậy. Và quả thực Thiên Chúa muốn để cho mọc lên hạt giống Người đã gieo; đó là người con Chúa đã tuyển chọn, những người Chúa đã ban ơn thanh tẩy, những người mà Thần Khí đã biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Con của Người. Chúa để cho họ phát triển, cùng lúc để cho cỏ lùng Người đã không gieo và không thể gieo lớn lên. Nhưng Người kiên nhẫn đợi chờ. Thế giới phải đi con đường của mình, và Thiên Chúa cứ để cho họ đi. Người đợi cho đến mùa thu hoạch. Cuộc đời trần gian cứ trà trộn như vậy, nên tốt hơn ta đừng can thiệp quá sớm kẻo làm chết đi cái gì còn đang sống. Nhưng Nước Chúa vẫn không ngừng tiến triển như hạt cải như, bột lên men: Chúa đợi chờ cho mọi cái đạt tới độ chín mùi. Thánh Matthêu khi viết điều này không phải là người không biết đến tình trạng của cộng đoàn mà ngài trách nhiệm. Ngài thấy cộng đoàn ấy lớn lên bước đầu từ hạt cải nhỏ tí ti, rồi trở thành cây lớn. Ngài hiểu biết rằng men đang nằm trong bột, nhưng ngài cũng không thể không biết rằng cỏ lùng lẫn lộn với hạt giống. Chắc chắn điều đó tạo nên vấn đề cho các tín hữu của ngài, cũng như ngày nay vậy và vấn đề không chỉ đơn giản là trấn an những nổi lo âu và hâm nóng lòng tin tường vào Chúa quan phòng. Chứng tỏ cho thấy rằng Nước Chúa vẫn có sức năng động, mặc dầu có những kẻ thù, mặc dầu có những khiếm khuyết, và đồng thời giúp cho cộng đoàn biết suy nghĩ về trách nhiệm của mình đang khi chờ đợi Ngày hội ngộ, đấy mới phải là mục tiêu mà thánh sử nhắm tới.
“Hạt giống tốt và cỏ lùng lẫn lộn xà ngầu”
Phân loại nhưng “người lành”, “kẻ dữ ” thực ra có quá dễ dàng như thế không? Chúa Giêsu phán rằng sẽ chỉ đến mùa gặt thì việc phân biệt lựa chọn (nghĩa là đến ngày tận thế) mới thực hiện được: “Con người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người. Phải, việc đó sẽ được thực hiện, nhưng chỉ những tình huống tuyệt vọng nhất, nơi những con người xem như tồi tệ nhất, vẫn còn lập loè vài tia sáng. Hơn nữa, trong tình liên đới giữa con người với nhau, những người bị hãm hại và bị ức hiếp không để mình chịu thua sự độc ác của những kẻ hành hạ mình, mà lại trở thành con đường hộ phù và cứu độ cho những kẻ ấy. Đức Giêsu người đứng đầu các kẻ công chính khi hấp hối trên thập giá đã cầu nguyện: “lạy Cha, xin tha cho chúng..!”. Nét đẹp của con người, vẻ cao cả của một tấm lòng, đức tận tuỵ hy sinh của tình yêu thương cho đến tận cùng cũng biểu lộ cả trong những tình huống tội lỗi hỗn loạn hoàn toàn. Đôi khi chính ở đó mà những vẻ đẹp kia lại tìm những cứ chỉ yêu thương và anh hùng bất ngờ, phải là phép lạ khi hình ảnh của Thiên Chúa thường bị biến dạng mà vẫn ẩn vùi trong thâm sâu của bản thân mỗi người phải là phép lạ khi tình yêu vẫn le lói như một tia sáng yếu ớt và kiên cường ngay ở nơi xem ra chỉ cồ bóng tối; hạt giống nhỏ xíu của Nước Trời “loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” mà người ta tưởng chừng nó phải mất hút, thế mà lại xuyên qua được đá cứng nhất nhờ sức mạnh của nhựa cây? Hạt giống rất quý giá đó mà Thiên Chúa vốn nhẫn nại không cho phép người ta tạo nguy cơ loại bỏ nó, chỉ vì vội muốn nhổ ngay đám cỏ dại. “Sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa… “. Ta phải học cho biết hy vọng cả khi phải nguyện vọng như thế nào?; phải có lòng trắc ẩn và xót thương biết bao để biết tôn trọng tình trạng “‘hổ lốn” mà ta vốn thích phân loại cho rõ rệt! Ta phải học đức nhẫn nại của Chúa, một sự nhẫn nại không mệt mỏi cho đến tận thế, học thương yêu con người, hết mọi người để cho không một ai phải hư mất, học lòng thương yêu của Chúa Con, Đấng đã mặc lấy xác phàm để các anh em nhân loại của Người không phải là những nạn nhân của chính lòng độc ác của họ. Đức nhẫn nại của Cha đâu có biết đến giới hạn? “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt…? Con người thật là quý giá, nên phải coi chừng đừng để mất đi một mảnh vụn nào hết! Thiên Chúa không hề mệt mỏi khi phải kiên nhẫn “cho đến ngày tận thế”.
————————————————————–
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ĐỨC GIÊSU DÙNG DỤ NGÔN MÀ NÓI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Bài Đọc I và Tin Mừng của Chúa Nhật này mời gọi chúng ta gẫm suy về tấm lòng kiên nhẫn đầy nhân ái của Thiên Chúa.
Kn 12: 13, 16-19
Tác giả sách Khôn Ngoan ca ngợi tấm lòng kiên nhẫn đầy nhân ái của Thiên Chúa, bởi vì với lòng kiên nhẫn đầy nhân ái này mà Ngài cai quản muôn loài muôn vật. Khi Thiên Chúa trì hoãn trừng phạt, Ngài muốn ban cho người tội lỗi một kỳ hạn để mà ăn năn sám hối.
Rm 8: 26-27
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma không hoàn toàn xa lạ với chủ đề này: Thiên Chúa thấy tận thâm tâm con người. Thánh Thần tác động và can thiệp để giúp đỡ người tín hữu ngỏ hầu Thiên Ý được thực hiện.
Mt 13: 24-43
Trong dụ ngôn “hạt giống và cỏ lùng” của Tin Mừng Mát-thêu, ông chủ ruộng yêu cầu cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Dụ ngôn này cũng đưa ra cùng một viễn cảnh như Bài Đọc I.
BÀI ĐỌC I (Kn 12: 13, 16-19)
Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất của bộ Kinh Thánh Cựu Ước; sách này được soạn thảo ở thành phố A-lê-xan-ri-a Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
Vào lúc đó, thành phố A-lê-xan-ri-a là cái nôi rực rỡ nhất của nền văn hóa Hy-lạp. Do số lượng dân Do-thái định cư ở đây, thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của Kiều bào Do thái. Tác giả sách Khôn Ngoan, vô danh, viết tác phẩm bằng Hy ngữ của mình để gởi cho kiều bào Do thái của mình, họ không còn biết tiếng Hy-bá. Tác giả lo lắng khi thấy sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp tác động trên những đồng đạo của mình, vì thế ông muốn chứng minh cho họ thấy rằng sự Khôn Ngoan xuất phát từ Thiên Chúa vượt quá tất cả mọi khôn ngoan phàm nhân.
Đoạn trích này là một lời nguyện ngợi khen, trong đó tác giả ngỏ lời với Thiên Chúa về sự công minh chính trực mà Ngài cai quản muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là chủ tể thời gian:
Hiền nhân này khẳng định rằng sự công minh chính trực này xuất phát từ sự toàn năng của Ngài, bởi vì không sức mạnh ngoại tại nào khiến Thiên Chúa phải chậm trể, Ngài làm chủ thời gian. Trước đó, tác giả vừa mới gợi lên tấm lòng kiên nhẫn đầy nhân ái tột cùng của Thiên Chúa đối với dân Ca-na-an: tuy là những kẻ thù của dân Ngài, Ngài đã nương tay trừng phạt để cho chúng có cơ may hối cải.
Con người yếu đuối thường sử dụng bạo lực:
Con người đã không hành xử như thế. Vì yếu đuối, con người củng cố quyền hành của mình bằng bạo lực. Nó ra tay tiêu diệt những ai chống đối mình. Phải chăng tác giả nghĩ đến một bạo chúa nào đó hay nói một cách chung chung? Một trong những phương thức mà ông đắc ý là sự tương phản: tác giả muốn nêu bật sự khác biệt giữa Thiên Chúa với con người.
Đức điều độ của Thiên Chúa:
Dù đoạn văn này được gợi hứng từ Kinh Thánh, người ta có thể tự hỏi phải chăng tư tưởng của tác giả không chịu ảnh hưởng bởi quan niệm thần linh của Hy-lạp, chẳng hạn như “Đức điều độ là ưu phẩm của các thần linh và là giới hạn duy nhất mà họ tự ý đòi buộc cho quyền năng của mình” (Eschyle, Les Eumnides, v. 529-530), thì tác giả sách Khôn Ngoan viết:
“Vì Chúa làm bá chủ vạn vật,
nên Chúa nương tay với muôn loài…
Chúa làm chủ được sức mạnh,
nên Chúa xét xử khoan hồng,
Chúa cai quản chúng con với lượng cả bao dung”.
Chúng ta cũng nên ghi nhận chiều kích phổ quát của những kiểu nói: “Thiên Chúa làm bá chủ vạn vật” (lập lại đến ba lần), “Chúa cai quản chúng con”, nghĩa là Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn là Thiên Chúa của mọi dân nước. Lịch Sử Cứu Độ làm chứng điều đó (tác giả dựa rất nhiều trên những chứng từ của Lịch Sử Cứu Độ); đó là một quan niệm thần học cốt yếu, vả lại quan niệm này hòa hợp một cách đáng chú ý với những trào lưu tư tưởng của thời đại: vì thế chiều kích phổ quát là nốt nhạc chủ đạo của các hệ thống triết học.
Lòng nhân ái:
Lời cầu nguyện tiếp tục với một lời ngợi khen Đức Chúa về lòng nhân ái của Ngài:
“Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng:
người công chính phải có lòng nhân ái”.
Từ ngữ “lòng nhân ái” là một đức tính rất thịnh hành. Đức tính này xuất phát từ ngôn ngữ Hy-lạp kinh điển, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Vào thời kỳ Hy-lạp hóa, đức tính này đã có một tầm ảnh hưởng lớn lao. Tác giả sách Khôn Ngoan áp dụng đức tính cho Thiên Chúa (rất nhiều lần) và làm cho đức tính này thành một mẫu gương có tầm mức quan trọng: ai muốn là người công chính phải có lòng nhân ái, không chỉ đối với đồng bào mình, như Luật đã truyền lệnh, nhưng đối với hết mọi người. Lòng nhân ái đối với mọi người này chuẩn bị cho đoạn Tin Mừng hôm nay.
Ước muốn của Thiên Chúa là được thấy tội nhân hoán cải cũng là nét đặc trưng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Đó là lý do cốt yếu tại sao Thiên Chúa nhẫn nại với tội nhân. Nếu Thiên Chúa trì hoãn trừng phạt, chính vì Ngài cho kẻ tội lỗi một kỳ hạn để mà ăn năn sám hối, đó là lòng nhân ái của Ngài. Tấm lòng nhân ái này rất gần với dụ ngôn cỏ lùng, đừng nhổ ngay, nhưng cứ để cỏ lùng mọc lên cùng với lúa tốt.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 26-27)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Chương 8 này vạch ra cuộc đời Ki-tô hữu sống theo Thần Khí. Đoạn trích này có liên hệ với lời cầu nguyện. Thánh Phao-lô đã là một nhà cầu nguyện vĩ đại; thánh nhân cầu nguyện luôn, trong mọi lúc, như ngài căn dặn nhiều lần.
Trong Cựu Ước, Thần Khí không là một ngôi vị, nhưng một năng lực thần linh. Trong Tân Ước, Thần Khí không chỉ là một năng lực thần linh, nhưng còn được mặc khải là một trong Ba Ngôi Thiên Chúa; Ngài hoạt động một cách nội tại trong chúng ta.
Vốn thích những phản đề theo cách thức sê-mít, thánh Phao-lô nhấn mạnh sự yếu hèn của chúng ta khi đối diện với năng lực thần linh này. Trong các chương trước, thánh nhân đã nói đến sự yếu hèn của chúng ta khi đối diện với thế gian tội lỗi; còn ở đây, thánh nhân chủ yếu đề cập đến sự yếu hèn của chúng ta khi đối diện với thế giới thần linh mà chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho phải lẽ.
Vì thế, Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta để phù trợ chúng ta trong hành động như thế nào thì cũng phù trợ chúng ta trong cầu nguyện cũng như vậy. Ngài “cầu thay nguyện giúp cho chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả”, nghĩa là bằng những ngôn từ mà ngôn ngữ phàm nhân không thể nào diễn tả được. Ở đây, thánh Phao-lô không nhắm đến ơn nói tiếng lạ hay tiếng thì thầm đặc sủng nào đó: thánh nhân nhắc cho chúng ta nhớ rằng lối vào Thiên Chúa là một mầu nhiệm; chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể mở lối cho chúng ta vào trong mầu nhiệm cao với khôn ví này.
TIN MỪNG (Mt 13: 24-43)
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu thuật lại cho chúng ta ba dụ ngôn: “cỏ lùng”, “hạt cải” và “men trong bột” để gợi lên sự phát triển của Nước Trời trong trần gian.
Dụ ngôn “cỏ lùng”:
Trong số các dụ ngôn mà Chúa Giê-su rao giảng, dụ ngôn “cỏ lùng” này làm cho các môn đệ rối trí nhất, bởi vì đây là dụ ngôn duy nhất mà họ hỏi Đức Giê-su. Quả thật, dụ ngôn “cỏ lùng” này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng: người lành và kẻ ác cùng sống chung với nhau trong công trình của Thiên Chúa.
Dụ ngôn “cỏ lùng” cho hiểu rằng ông chủ ruộng có một kẻ thù bí nhiệm, hắn hành động lén lút ban đêm như một người có quyền năng giới hạn. Khi đầy tớ báo cho ông biết hiện trạng của thuở ruộng, ông không hề xao động nhưng bình thản chờ đợi thời vụ, bởi vì ông biết rằng ông sẽ có lời phán quyết sau cùng. Cỏ lùng sẽ không ngăn cản được vụ mùa bội thu: công trình của Thiên Chúa sẽ không bao giờ thất bại cả.
Phần cuối dụ ngôn, ông chủ giải thích tại sao Thiên Chúa cứ để cả hai mọc lên cho tới mùa gặt, sau đó mới phân loại. Theo bản tính bộc phát của loài người cũng như theo kỷ thuật canh tác, đương nhiên là phải lập tức nhổ cỏ xấu đi để khỏi ăn bám chất đất màu mở và làm hại đến lúa tốt. Tuy nhiên, trong trường hợp hiện tại, có quá nhiều cỏ lùng và cũng rất dễ lầm với lúa còn non. Để khỏi làm hư toàn bộ, thì chi bằng chờ cho đến mùa thu hoạch rồi hãy hay.
Qua dụ ngôn cỏ lùng này, Đức Giê-su nói lên tấm lòng kiên nhẫn đầy nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng về bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động, để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ. Sứ vụ công khai của Chúa Giê-su cho chúng ta thấy điều đó. “Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện nhưng lại gồm những con người tội lỗi. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh nhưng cũng một số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì có thể trở thành thánh thiện hơn. Các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta, còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta” (“Một Ngày Một Tin Vui”).
Dụ ngôn “hạt cải”:
Tại miền Pa-lét-tin, hạt cải là hạt giống nhỏ bé nhất trong các loại hạt giống. Ấy vậy, từ hạt giống nhỏ bé này, Chúa Giê-su miêu tả sự phát triển kỳ diệu: hạt cải nẩy mầm thành một cây con để rồi vươn mình thành một cây lớn xum xê cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành. Nước Trời rồi cũng sẽ lớn mạnh như vậy.
Dụ ngôn “men trong bột” (13: 33)
Dụ ngôn này được rút ra từ kinh nghiệm thường ngày: như nấm men làm dậy lên ba đấu bột như thế nào, thì Giáo Hội làm biến đổi mọi dân nước như vậy. Dụ ngôn “men trong bột” khá giống với dụ ngôn “hạt cải”, cả hai đều nói về sụ phát triển phi thường của Nước Trời; tuy nhiên, dụ ngôn “men trong bột” nêu bật sự biến đổi thế giới từ bên trong về chất lượng, còn dụ ngôn “hạt cải” nhấn mạnh sự tăng trưởng bên ngoài về số lượng.
Men cũng là biểu tượng mỗi người Ki-tô hữu. Sống giữa lòng thế giới và được nuôi dưỡng phẩm chất Ki-tô của mình, người Ki-tô hữu thu phục con người bằng đời sống gương mẫu của mình: “Ơn gọi của chúng ta là con cái Thiên Chúa giữa lòng thế giới, đòi hỏi chúng ta không chỉ tìm kiếm sự thánh thiện cho riêng mình, nhưng cũng phải lan tỏa hương thơm trên mọi lối sống trần thế, biến chúng thành những con đường dẫn đưa mọi người đến Đức Ki-tô. Khi chúng ta dự phần vào mọi sinh hoạt trần thế với tư cách người công dân bình thường, chúng ta phải trở nên men làm dậy ba đấu bột” (Bl. J. Exriva, Christ is passing by, 123).
Lý do Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói (13: 34-35)
Tại sao thánh Mát-thêu cắt ngang “Diễn Từ về Dụ Ngôn” để đưa vào đây lời giải thích của Chúa Giê-su về việc Ngài dùng dụ ngôn mà nói với đám đông? Chúng ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả đưa đoạn văn này vào đây để ngưng một chút trong bài diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giê-su đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường.
Theo cách dàn dựng của tác giả, dụ ngôn “men trong bột” là dụ ngôn cuối cùng Đức Giê-su rao giảng cho dân chúng khi Ngài ngồi trên thuyền cách xa bờ một chút, rồi sau đó Ngài về nhà và tiếp tục “Diễn Từ về Dụ Ngôn” cho các môn đệ (13: 36). Cũng như ở 13: 14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của thánh Mát-thêu, đó là xác nhận việc Chúa Giê-su dùng dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này, thánh Mát-thêu trích dẫn Tv 78 trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. thánh Mát-thêu coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo và được gặp thấy thành tựu ở nơi việc Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————————
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm A
HIỂU BIẾT VÀ KIÊN NHẪN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30) với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ đề “gieo giống” cũng là chủ đề của dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô), “giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta tới với diễn từ về các dụ ngôn Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt cải, với một câu mở tương tự 13,24, được liên kết với dụ ngôn trước bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo” (speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có bố cục song song trong phần thứ nhất, còn kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa tới một kết luận cho bài Diễn từ công cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta được đưa trở lại với Mt 13,1-2: thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu được đối lại ở c. 51, với câu hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của các môn đệ.
Bố cục
Nếu xác định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt, chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
- Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1 : “Cỏ lùng” (13,24b-30):
- a) Trình bày sự việc (cc. 24b-26),
- b) Mẩu đối thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc. 27-30);
(2) Dụ ngôn 2 : “Hạt cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3 : “Men” (13,33);
- Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
- Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
- a) Giải thích bài dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
- b) “Bài khải huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
Vài điểm chú giải
– Cỏ lùng (zizania, 25): Đây là một loại cỏ ăn bám, độc hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất, của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm thường tiết ra một chất độc.
– Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác, người ta trồng trong vườn nhà.
– Nó trở thành cây to (32): Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là một hình ảnh quen thuộc để diễn tả một vương quốc hùng mạnh đảm bảo che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong nền văn chương khải huyền, kinh sư hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng đại kích thước của cây rau thành “một cây to”.
– chim trời tới làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt cải.
– vùi vào (33): dịch sát là “giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với văn cảnh (x. cc. 35.44)
– ba thúng bột (33): “Thúng” là từ được chọn để dịch từ saton Hy Lạp. Saton là một đơn vị đo lường ngũ cốc và bột, tương đương với 13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150 người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính hữu hiệu của men.
– công bố (35): Động từ “công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng. Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
– các gương mù gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến những sự vật chứ không nhắm đến những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên. Người ta có thể sống không cần và còn chống lại Ngài mà dường như chẳng có hậu quả gì cả. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các thế lực và các quyền hành đang thống trị sân khấu thế giới và đang can thiệp vào trong đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả cộng đoàn các tín hữu là Họi Thánh. Do bản tính, chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh, sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả, chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi, sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu đến không như một nhà chiến thắng oai hùng, có sức thuyết phục và thống trị mọi người. Con đường Người theo và công trình của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết của Người trong tình trạng bất lực và bị bỏ rơi dường như cung cấp một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người không thay đổi cách xử sự: Người là và vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc sống con người. Người vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1 : “Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những kết luận vội vã. Chúng ta không được chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng là một tấn kịch có hai xen. Xen thứ nhất diễn ra hai nhân vật và hành động đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Xen thứ hai mở ra với sự can thiệp của các đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh được?
Câu trả lời của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn. Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt, chứ không phải là các đầy tớ đã đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng, bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất, sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc để đốt đi.
* Dụ ngôn 2 : “Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan tâm đến sự tương phản giữa hạt cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc. Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một” hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho Nước Trời cũng như vậy: khởi đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng kết cuộc sẽ là một kết quả đầy sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời “loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong thiên sai được thể hiện nơi công trình của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3 : “Men” (33)
Dụ ngôn về men lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh “men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và khối lượng bột to lớn ở cuối. Khởi đầu với một chút men, không mấy ai để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng tất cả sức bung mở trong tương lai. Như men đã được “giấu ẩn” trong bột, Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn thứ hai, ta mới thấy được sức mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác động của nó trên khối bột; đó cũng sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một điều kiện quan trọng để hạt cải phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn với bột là điều kiện thiết yếu để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi” (“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình trạng ẩn giấu của sự thật trong các dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị “vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng của Đức Giêsu. “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này được TM Mc dùng để kết thúc “phân đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy vào đây để ngưng một chút trong diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35 với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng, rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt 13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả. Đây là cách tác giả báo trước những điều sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên tục loại trừ các sứ giả cho đến khi loại được cả vị Sứ Giả tối cao.
* Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu bỏ đám đông đang nghe Người tại điểm này và cùng với các môn đệ về nhà, nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy cho các môn đệ. Đời môn đệ là như vậy: suốt đời, họ phải học với “vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm vào điểm này.
Đức Giêsu đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm trong tay không những công việc gieo giống, mà cả việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ, để đi đến sự sống lại. Ruộng là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác “con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê) mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở 13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế. Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc “trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những người tốt, có những kẻ xấu. Sự gần kề này là một chướng kỳ. Các môn đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc về “những kẻ làm gương mù gương xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác” (anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh.
Thiên Chúa lại không phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu hành động và chặn đứng tất cả những lối xử sự bất công của họ sao? Đây lại không phải là nhiệm vụ của Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ và thiết lập những tương quan vĩnh viễn trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn người lành với người dữ. Người quy tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ biết con đường của Người; như Người, cả họ nữa, họ cũng phải rảo qua con đường ấy trong thế giới này.
Nếu trong cuộc sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần kề, chưa tách biệt, điều đó không có nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết, số phận của người lành kẻ dữ sau này sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ được đón vào trong Nước Trời và thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa; chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ.
Xuyên qua hình ảnh hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy rằng một tình trạng khởi đầu không nổi rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế. Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và bột đã dậy men, người ta mới biết có cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt đất đang hiện diện, không viên mãn và xán lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao thuộc về Đức Kitô, cần phải có một tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy, Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục) và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng, Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong bình an của Thiên Chúa.
Gợi ý suy niệm
-Phương pháp làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác nhau. Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10), như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17); một phép rửa trong lửa đang chờ đợi mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng tạo lập những nhóm “những người hoàn hảo” tách khỏi những người khác: đó là những người Pharisêu, “những người tách biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là những đầy tớ của ông chủ trong dụ ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
-Thiên Chúa không muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống chung với những người tốt. Hẳn là Ngài hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt. Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa tốt (về thực vật học), kẻ xấu lại có thể trở thành người tốt (trong đời sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng được Nước Thiên Chúa, nhưng là với sự kiên nhẫn và tin tưởng.
-Những gì mà loài người thấy như là một chướng kỳ thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo điều kiện cho thành công tương lai. Nếu Nước Thiên Chúa trở thành một định chế tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt cải, thì Nước ấy thiếu mất điều kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có được những đặc tính như Đấng Sáng Lập thần linh muốn cho có.
-Dụ ngôn Men trong bột khiến chúng ta nhớ đến một phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin Mừng đều nhớ: họ được đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Một tư tưởng khác đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora. Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn thế giới trở thành một cánh đồng của Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm A
SỰ KIÊN NHẪN CỦA THIÊN CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Tuần vừa qua, chúng ta đã suy niệm về dụ ngôn Lời Chúa, hạt giống Lời Chúa phải được sinh hoa kết quả trong lòng chúng ta. Hôm nay, chúng ta suy niệm về dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng. Trong đồng lúa tốt lại có xen cỏ lùng do hạt giống xấu sinh ra, cỏ dại này cùng mọc bên cạnh lúa tốt, cả hai cùng mọc lên xanh tốt.
Cũng thế, trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn, và trớ trêu thay, có khi người xấu lại được gặp may mắn hơn cả người tốt. Chúng ta phải có thái độ nào đối với những người xấu ? Phải tiêu diệt người xấu đi chăng để chỉ còn lại người tốt ?
Câu trả lời sẽ là : theo gương Chúa, chúng ta phải có thái độ như trong bài Tin mừng hôm nay : hãy bắt chước lòng kiên nhẫn của Chúa. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như cho cỏ lùng và lúa cùng mọc lên, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt chiên ra khỏi dê, người lành khỏi kẻ dữ. Trong khi chờ đợi ngày phân xử, chúng ta hãy yêu thương mọi người, nhất là tạo điều kiện cho những kẻ tội lỗi biết sám hối trở về đường lành, còn việc xét xử thì dành cho Thiên Chúa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Kn 12,13,16-19.
Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Do thái bị kẻ thù hãm hại đủ điều, họ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ dùng sức mạnh, dùng bạo lực để tiêu diệt quân thù của họ, nhưng ngược lại, Ngài hành xử với chúng bằng sự kiên nhẫn và nhân hậu.
Sự kiện này làm cho dân Do thái hiểu lầm rằng Thiên Chúa quá yếu ớt không thể can thiệp giúp họ. Nhưng câu trả lời cho họ là những kể thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, nên cũng được Ngài yêu thương. Ngài có đủ uy quyền phá tan kẻ dữ, nhưng Ngài chỉ dùng sức mạnh ấy đối với những kẻ ngoan cố. Còn đối với những người mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi cho họ sám hối để được tha thứ.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,26-27 (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cao vai trò Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu, nhất là trong việc cầu nguyện. Vì chúng ta yếu đuối không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp với ý Chúa, nên Chúa Thánh Thần sẽ ở trong chúng ta, Ngài giúp chúng ta cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho có hiệu quả bằng những “tiếng than khôn tả” như lời thánh Phalô đã nói.
+ Bài Tin mừng : Mt 13,24-43.
Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để nói đến từng khía cạnh của Nước Trời. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để ta suy gẫm , đó là dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men bánh.
Dụ ngôn cỏ lùng giải thích cho chúng ta lý do tại sao lại có sự thiện và sự ác trên trần gian, tại sao trong Hội thánh lại có người lành kẻ dữ ? Và tại sao Thiên Chúa lại để cho người dữ sống chung với người lành mà không tiêu diệt nó đi.
Hai dụ ngôn hạt cải và men bánh nói lên sự tăng triển của Nước Trời. Nước Trời hay Hội thánh chỉ là cộng đoàn nhỏ nhưng sẽ phát triển mạnh trong âm thầm và trong những hoàn cảnh khó khăn, như những cuộc cấm cách, bách hại đạo.
Qua những dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được một kết luận để cảnh giác chúng ta : đừng có ảo tưởng là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ còn có toàn những người thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ biết ăn năn sám hối để được tha thứ.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chúa kiên nhẫn chờ đợi.
DỤ NGÔN CỎ LÙNG.
Ý nghĩa dụ ngôn :
Dụ ngôn này cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma qủi, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, nguời ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền phân xử.
Lúa và cỏ lùng.
Những hình ảnh trong dụ ngôn này rất rõ ràng và quen thuộc với người Palestine. Cỏ lùng là một thứ cỏ dại mà nhà nông phải diệt trừ. Lúc còn nhỏ, cây cỏ lùng giống như cây lúa mì nên khó phân biệt hai thứ, cho đến khi cả hai đâm bông thì có thể nhận ra cách dễ dàng, nhưng lúc đó rễ cỏ lùng và rễ lúa đã mọc quyện vào nhau đến nỗi hễ nhổ cỏ lùng thì lúa cũng dễ dàng bị trốc theo.
Lúa và cỏ lùng không thể tách riêng ra một cách an toàn khi cả hai đang phát triển nhưng cuối cùng chúng phải được tách riêng ra. Cần phải tách riêng chúng ra bởi vì (khác với cỏ lồng vực bên chúng ta) hạt cỏ lùng rất độc, nó gây chóng mặt, đau ốm và hôn mê. Một số lượng nhỏ của nó cũng có thể gây vị đắng khó chịu. Rốt cuộc người ta thường tách riêng nó ra bằng tay.
Ông Levison mô tả diễn tiến như sau : người ta thuê đàn bà lượm hạt cỏ lùng trong lúa trước khi đem đi xay. Theo nguyên tắc thì người ta tách cỏ lùng với lúa mì sau khi đập xong. Người ta bầy hạt lên trên một cái nia to và các bà có thể lựa ra những hạt cỏ lùng có kích thước và hình dáng y như hạt lúa mì nhưng có mầu xám nhạt.
Người tốt và người xấu.
Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt.
Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội. Thánh Phaolô đã nói :”Tôi không làm được điều thiện mà tôi muốn, mà điều ác tôi không muốn, tôi lại làm”.
THIÊN CHÚA KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI.
Cách hành xử của con người.
Chúng ta là những con người bất toàn nhưng lại muốn tiêu diệt những kẻ bất toàn vì chúng ta mang một thái độ bất bao dung. Chúng ta cảm thấy khó chịu tại sao trong Hội thánh lại có những kẻ xấu, những kẻ bách hại Hội thánh, gây đau khổ cho nhiều người mà họ cứ sống nhởn nhơ con cá vàng, đôi lúc lại còn may mắn hơn người chịu đau khổ ? Chúng ta thường có thái độ như những đầy tớ của ông chủ trong Tin Mừng :”Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không”?
Đây là thái độ chung của mọi tín hữu chúng ta. Đó cũng là phản ứng của thánh Gioan Tẩy giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Messia sắp đến :”Tay Người cầm nia. Người rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm,còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3,12). Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Ngài sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng :”Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác “?
Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo :”Nước Trời đã đến gần”, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác họa giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.(Fiches dominicales, năm A, tr 230)
Cách hành xử của Thiên Chúa.
Phản ứng tự nhiên của con người là muốn tiêu diệt ngay cái xấu, diệt cả con người xấu. Nhưng Thiên Chúa lại có một lối hành xử khác với con người. Theo Tin mừng, đáp lại lời hỏi của đầy tớ, ông chủ nói :”Đừng, cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt… sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
Từ mùa gieo – hình ảnh Nước Thiên Chúa đến – đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa – hình ảnh việc xét xử – có một khoảng thời gian : Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa : nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người – kẻ tội lỗi cũng như người công chính – và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời trong lòng họ. Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người ; ngày đó không thể dự đoán trước. Ông chủ nói với các đầy tớ ông rằng :”Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt : hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.(Fiches dominicales, năm A, tr 231)
Trong Thánh vịnh chúng ta thấy có câu :”Chúa chậm bất bình và giầu lòng khoan dung”. Chúa kiên nhẫn đợi chờ con người sám hối. Cỏ lùng thì không có cách nào thay đổi đuợc chỉ chờ đến ngày là thu hoạch cho vào lửa ; còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng qủi biến thành một vị thánh. Trong lịch sự Giáo hội, có biết bao “cỏ lùng”, nhờ ơn Chúa, đã trở nên hạt lúa tốt. Những Augustinô, những Charles de Foucauld, những Ève Lavallìere là những chứng tích sáng chói.
Truyện : Cải tà qui chính
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề :”Hãy xuống những con đường tồi tàn này” Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chirô ngủ đã, anh mới qùi gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng :”Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng… Tôi cảm thấy dường như có thể khóc đuợc… đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
Sau khi Piri vừa cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại :”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri :”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói :”Chúc Chicô ngủ ngon nhé ! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Tích cực hay tiêu cực.
Đứng trước tình trạng như thế trong trần gian và trong Giáo hội , chúng ta phải có thái độ nào ? Chỉ có hai thái độ : hoặc là tiêu cực, hoặc là tích cực. Nếu có thái độ tiêu cực thì cho thế gian này là đồ bỏ đi, một thế giới hư hỏng đầy tội lồi, cứ để cho nó qua đi. Thái độ tiêu cực này làm cho chúng ta tuyệt vọng, không còn tin vào cái gì nữa, chỉ còn biết ngồi mà rủa bóng tối. Chắc chắn Chúa không cho chúng ta có thái độ tiêu cực này.
Chúng ta phải có thái độ tích cực. Thái độ này giúp chúng ta hãy hướng lòng lên, không ngồi đấy mà nguyền rủa bóng tối, mà chấp nhận nó, đồng thời cố gắng đốt lên một ngọn nến. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ :”Các con là ánh sáng cho thế gian, không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, ngược lại người ấy sẽ đặt trên giá đèn để soi sáng cho mọi người trong nhà. Ánh sáng các con cũng phải tỏa sáng trước thiên hạ như thế”(Mt 5,14-16).
Nhưng một cách thực tế, làm sao chúng ta có thể thắp lên một ngọn nến giữa đêm đen tối tăm của thế giới hôm này ? Trước hết, chúng ta có thể cầu nguyện. Một thi sĩ đã nói :”Lời cầu nguyện mang lại nhiều điều hơn những điều thế giới dám mơ ước”. Thứ đến và tích cực hơn, chúng ta có thể xắn tay áo lên làm một điều gì đó chống lại sự ác trong thế giới chúng ta.
Tấm lòng khoan dung.
Chúa để người lành kẻ dữ sống chung với nhau là để gây ích lợi cho nhau như lời thánh Augustinô đã nói :”Kẻ dữ người lành đều là con cái Chúa, được Chúa thương yêu tất cả, chúng ta cũng phải thương yêu nhau và phải có thái độ khoan dung”.
Có lần Liên hiệp quốc đã chọn nguyên một năm làm “năm quốc tế về lòng khoan dung” để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại. Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ.
Kiên nhẫn chịu đựng.
Sự kiên nhẫn mà Chúa khuyên chúng ta phải có là phản ảnh sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Đây không phải là sự cam chịu vô ích là đè nén cơn giận và cay cú thất vọng. Sự kiên nhẫn phải cóù là sự bình thản đợi chờ để kẻ tội lỗi có cơ may quay trở lại.
Chúa ghét tội nhưng lại yêu tội nhân vì họ còn có thể thống hối để được tha thứ (Rm 2,4). Nếu Chúa không kiên nhẫn với ta, ta sẽ thế nào ? Ta có cần kiên nhẫn với người gây phiền hà cho ta không ? Nhưng nên nhớ rằng Chúa kiên nhẫn chịu đựng là để giải thoát chứ không phải để dung túng.
Truyện : Giai thoại về thánh Antôn.
Một hôm thánh nhân nghe tin một người thợ giầy tiến bộ hơn Ngài về đường nhân đức. Lòng hăm hở tiến đức đã thúc đẩy Ngài quyết chí đi tìm người thợ giầy kia để học hỏi cách tu đức của người ấy.
Sau những ngày cố công tìm tòi, Ngài đã gặp được người thợ giầy kia. Thoạt thấy công việc của người thợ giầy, thánh nhân hơi nản lòng, vì thấy sinh hoạt duy nhất của người này là đóng giầy. Nhưng để cho bõ công đi tìm kiếm, thánh nhân đã trao đổi với người thợ giầy kia về lối sống tu đức.
Thánh nhân hỏi người thợ giầy về chương trình sống hằng ngày của người thợ ấy. Người này cho biết một ngày của ông được chia ra làm ba phần như sau :
– 8 giờ cho công việc của người thợ giầy.
– 8 giờ cho việc cầu nguyện.
– 8 giờ cho việc ăn uống nghỉ ngơi.
Sau khi nghe người thợ giầy nói, thánh nhân nản lòng vì chính Ngài đã dành cho hết cả ngày để cầu nguyện chứ không phải chỉ tám tiếng.
Thánh nhân hỏi cách xử dụng tiền của ông ta. Người này cho biết 1/3 dành cho ông, 1/3 dành cho Giáo hội, 1/3 dành cho người nghèo.
Nghe vậy thánh nhân cho rằng người thợ giầy này không thể nhân đức hơn Ngài được vì Ngài đã dành tất cả của cải của Ngài cho người nghèo chứ không phải chỉ 1/3.
Cuối cùng thánh nhân khám phá ra người thợ giầy phải sống giữa một thành phố sa đọa, chung quanh đầy những người tội lỗi và gương xấu, và ông thợ giầy đau khổ về chuyện đó, ông không ngớt kêu cầu cùng Chúa cho họ, và ông hằng cầu nguyện cho kẻ có tội chung quanh ông. Và thánh nhân chợt nhận ra rằng đó là điều mà Ngài thua kém người thợ giầy. Ngài thấy rằng Ngài chưa có được sự thao thức về những nỗi khổ đau của những người chung quanh, trái lại, Ngài lại đi tìm cho một mình một cuộc sống an phận với nếp sống ẩn tu.(Cử hành phụng vụ Chúa nhật, năm A, tr 67-68)
Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta rằng : luôn luôn có một thế lực thù địch ở trong thế gian, tìm kiếm và chời đợi để phá hủy hạt giống tốt. Kinh nghiệm đời sống chúng ta có hai loại ảnh hưởng và cùng tác động trên đời sống chúng ta : ảnh hưởng giúp cho hạt giống Lời Chúa được nảy nở tăng trưởng và ảnh hưởng tìm hủy hoại hạt giống tốt trước khi nó có thể đâm bông kết trái. Đó là bài học nhắc nhở chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác.
Không có vinh quang nào mà không phải trải qua đau thương, không có vinh dự nào mà không đòi hỏi phải chiến đấu. Bởi đó, khi sống trong trần gian đối diện với cái ác, chúng ta không run sợ đầu hàng, hoặc thất vọng nản chí, nhưng hãy kiên tâm chiến đấu để luôn đứng vững trong hàng ngũ con cái Chúa, rồi chắc chắn Chúa sẽ đội mũ triều thiên cho ta. Trong khi chiến đấu với cái ác, chúng ta cũng phải luôn có cái nhìn bao dung với những người tội lỗi, phải có lòng quảng đại, biết cảm thông, và luôn giúp họ tìm dịp trở về. Có như thế chúng ta mới thực sự là những Kitô hữu hoàn thiện như người thợ đóng giầy trong câu chuyện trên.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CHÚA KIÊN NHẪN VÀ KHOAN DUNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều chuyện xấu và nhiều người xấu. Chúng ta không thích, chúng ta muốn dẹp sạch những thứ xấu xa ấy đi. Chúng ta còn cầu xin Chúa dùng uy quyền của Ngài để tiêu diệt chúng. Thế nhưng hình như Chúa không nghe lời cầu xin của chúng ta. Sự xấu và người xấu vẫn còn đó. Tại sao thế ?
Chúng ta hãy để ý lắng nghe Lời Chúa giải thích về vấn đề này, và chúng ta hãy xin Ngài chỉ cho chúng ta một cách sống thích hợp trong cuộc đời lẫn lộn tốt xấu này.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Tuy bản thân chúng ta đầy khuyết điểm, nhưng chúng ta thường khắt khe với những khuyết điểm của người khác.
– Không ít lần chúng ta nuôi ý muốn làm hại những người có va chạm với mình.
– Có khi chúng ta trách Chúa vì Ngài đã không sớm giải thoát chúng ta khỏi những bất công mà chúng ta gặp phải.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Kn 12,13.16-19)
Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Chúa đã nhiều lần bị kẻ thù làm khổ. Mặc dù cuối cùng rồi Thiên Chúa cũng giải thoát họ, nhưng họ vẫn ấm ức sao Chúa không ra tay sớm, sao Ngài không tiêu diệt chúng cho hết sạch.
Câu trả lời là : những kẻ thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, cũng được Ngài yêu thương. Cho nên mặc dù Ngài có đầy đủ sức mạnh và uy quyền để tận diệt họ, nhưng Ngài chỉ sử dụng sức mạnh đối với kẻ ngoan cố. Còn đối với những kẻ mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi họ sám hối để được thứ tha.
Đáp ca (Tv 85)
Tv 85 là lời cầu nguyện của người công chính bị bách hại. Mặc dù thế, tác giả đã thấu hiểu tấm lòng của Thiên Chúa, cho nên một mặt tác giả nài xin “Lạy Chúa, xin nghe lời tôi khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng tôi van nài”, nhưng mặc khác tác giả cũng cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình sớm nhận biết tội lỗi của họ, để rồi “Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, họ sẽ thờ lạy Ngài và họ sẽ ca tụng danh Ngài”.
Tin Mừng (Mt 13,24-43)
– Dụ ngôn lúa và cỏ lùng : dụ ngôn này phản ảnh hai thái độ trái ngược nhau. Thái độ của con người (biểu nhiên nơi các đầy tớ) là bất nhẫn trước kẻ xấu và muốn diệt trừ chúng. Thái độ của Thiên Chúa (chủ ruộng) là kiên nhẫn chờ cho đến thời gian phán xét (mùa gặt) mới ra tay.
– Hai dụ ngôn hạt cải và nắm men : hai dụ ngôn này vừa cho thấy sức phát triển rất mạnh của Nước Trời, vừa nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa : Ngài không nóng vội, nhưng kiên nhẫn chờ cho hạt cải thành cây to và nắm men làm dậy cả thúng bột.
Bài đọc II (Rm 8,26-27) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc cầu nguyện :
– Vì chúng ta yếu đuối không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nên Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cầu nguyện.
– Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta sẽ cầu nguyện đúng theo thánh ý Thiên Chúa.
– Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong lòng ta một cách rất diệu kỳ “bằng những tiếng than khôn tả”.
GỢI Ý GIẢNG
Khuynh hướng bất bao dung
Có lần Liên Hợp Quốc đã chọn nguyên một năm làm “năm quốc tế về lòng khoan dung” để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại.
Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ. Bất bao dung là đòi trừng trị ngay những người xấu : một người làm gì đó có hại cho ta, ta trả đũa ngay. Do nóng vội, có khi ta không suy nghĩ kỹ xem biết đâu chính ta có gì sai lỗi nên người kia mới cư xử với ta như vậy. Khi người kia bị ta tấn công, họ cũng có thể cho là bị tấn công oan ức nên lại trả đũa ta. Thế là hai bên cứ leo thang. Thực ra có mấy ai hoàn toàn tốt, cũng như có mấy ai hoàn toàn xấu. Thái độ bất bao dung phát sinh từ suy nghĩ cho mình là tốt, hoàn toàn đúng và người ta là xấu, hoàn toàn sai.
Trên bình diện cá nhân và khu xóm, bất bao dung khiến người ta khó sống chung hòa thuận với nhau. Trên bình diện quốc tế, bất bao dung dẫn đến những cuộc chiến tranh khu vực. Mà xung đột và chiến tranh chẳng mang lại ích lợi gì, chỉ toàn gây hại. Chính vì trên thế giới có quá nhiều cuộc chiến tranh khu vực cho nên Liên Hợp Quốc mới thấy cần đề ra một năm quốc tế về lòng bao dung.
Muốn bao dung thì phải biết mình và biết người : biết mình cũng có lỗi lầm, và biết người cũng có những điều tốt. Muốn lấy cái rác trong mắt người ra thì trước hết phải lấy cái xà trong mắt mình đã.
Cái nhìn thiển cận
Thiển cận là chỉ thấy gần chứ không thấy xa, chỉ thấy bề ngoài mà không thấy bề trong. Do thiển cận nên người ta bất bao dung, mất kiên nhẫn.
Thiên Chúa có thể bao dung và kiên nhẫn vì Ngài vừa thấy hiện tại vừa thấy tương lai, vừa thấy bề ngoài vừa thấy bề trong.
Lành dữ cộng sinh
Nghe bài dụ ngôn “cỏ lùng” hôm nay, có người sẽ lấy làm lạ. Trong cuộc sống, làm gì có một nhà nông nào lại để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong ruộng mình ! Nhưng dụ ngôn là dụ ngôn, nghĩa là một cách nói ví von bóng gió để làm sáng tỏ một vấn đề.
Vấn đề của dụ ngôn là lành dữ cộng sinh và lòng nhân từ cũng như sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Kinh xưa có câu : “Hỏi kẻ lành là ai, kẻ dữ là ai ?” Chúng ta ưa thích phân biệt lành dữ, chánh tà, trắng đen rõ rệt. Chánh phải loại trừ tà, lúa tốt phải được chăm sóc, cỏ dại phải nhổ đi. Cái lý đo nhiên là vậy. Rất đơn giản. Nhưng cuộc sống không đơn giản như vậy.
Trong cuộc sống, có những lúc chánh tà không phân biệt rõ rệt. Cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Vả lại, cái mà ta gọi là kẻ dữ không giống như cỏ lùng. Cỏ lùng không thể biến thành lúa nhưng kẻ dữ có thể cải tà quy chánh, có thể hoán cải thành người tốt, nếu xã hội biết kiên nhẫn chờ đợi và tạo những điều kiện cho họ. Vả lại, kẻ lành, nếu không giữ mình, không liên tục làm điều lành, cũng có thể trở thành kẻ dữ. Vậy chẳng ai nên tự phong là lúa tốt, rồi loại trừ, lên án anh em là cỏ lùng. Có lần Chúa đã nói thẳng với những người tự phụ : “Tôi nói thật, bọn thu thuế, bọn gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông kia đấy !”
Qua bài dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta lòng nhân từ, kiên nhẫn, và tin tưởng vào sự lành. Hãy tin rằng sự lành sẽ tuần tự triển khai tốt đẹp, mặc dầu có sự dữ kè bên. Sự lành thậm chí còn có sức cảm hóa được sự dữ. “Kẻ lành” Monica đã cảm hóa được “kẻ dữ” Augustinô và cả hai mẹ con cùng trở nên những vị thánh lớn trong Giáo Hội. (Trích số đặc biệt báo Công giáo và Dân tộc, năm 1998, trang 223-224)
Người đảng viên quốc xã Schindler
Những ai đã từng xem cuốn phim Schindler’s List hẳn đều ghê tởm vai chính của phim đó, tên là Oskar Schindler, một đảng viên Đức quốc xã, đã từng giết hại rất nhiều người.
Thế nhưng nhiều người đã từng biết ông thì lại ca tụng ông như một ân nhân cứu mạng cho hàng ngàn người khỏi bị Đức quốc xã giết. Thậm chí có người còn nói : “Ông ta là cha, là mẹ và là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi”.
Sự thật là thế nào ? Sự thật, Oskar Schindler không phải là một vị thánh, mà là một con người với nhiều dằng co mâu thuẫn : trước hết ông là một người chồng bất trung đã bỏ vợ và chạy theo một cuộc sống ăn chơi thác loại ; ông cũng là một người công giáo nhưng lại không sống đạo ; ông là đảng viên đảng Quốc xã Đức từng tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh do đảng này phát động ; chính ông đã thú nhận rằng ông hy vọng khi chiến tranh thắng lợi thì ông sẽ có hai cái rương đầy vàng ; ông còn hành hạ nhiều người do thái….
Nhưng bên trong ông lại có một con người khác. Đó là một người tốt. Nhiều lần đang cư xử như một người xấu, ông lại hướng về bên trong con người tốt ấy. Thấy những từ nhân bị hành hạ tàn nhẫn, ông không chịu nổi và nhiều lần dám đứng lên bênh vực họ. Hai lần ông đã bị bỏ tù vì những hành động như thế.
Sự thật về Oskar Schindler là như thế : vừa là quỷ dữ vừa là thiên thần, trong lòng ông vừa có cỏ lùng vừa có lúa tốt.
Trái tim phân chia
Sau nhiều năm phải sống trong trại tập trung, văn hào Alexandre Solzhenitsyn đã nghiệm ra được những ý tưởng sau :
Tôi đã học được một bài học lớn nhờ những năm bị giam trong tù.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một người trở nên tốt như thế nào.
Tôi đã dần dần nhận ra rằng đường biên giới phân chia giữa tốt và xấu không nằm giữa các nước hay các giai cấp hay các đảng phái chính trị, mà nằm ngay trong lòng mỗi người.
Ngay trong những trái tim ngập tràn sự ác vẫn còn sót lại một đầu cầu nhỏ nối với sự thiện.
Và ngay trong trái tim tốt nhất của các trái tim vẫn còn tồn tại gốc rễ sự ác.
Lời cầu nguyện khi đến mùa gặt
Khi đến mùa gặt, rơm rạ bị để qua một bên, trấu bị gió thổi đi, cỏ dại bị quăng vào lửa, và lúa tốt được cất vào kho.
Lạy Chúa, khi đến ngày chết của con, mùa gặt của đời con cũng diễn ra trước mặt Chúa.
Xin bàn tay khôn ngoan của Chúa hãy sàng sẩy và chọn ra những gì đáng giữ lại ; nhưng đối với những gì không đáng giữ lại, xin hãy thổi đi bằng hơi thở nhân từ của Chúa.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung. Người luôn kiên nhẫn đợi trông kẻ có tội ăn năn trở lại. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn tạo điều kiện thuận lợi / để kẻ tội lỗi luôn có thể quay về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết nhận ra tình thương của Hội Thánh là mẹ chúng ta.
2- Ngày nay / người tốt kẻ xấu vẫn còn sống lẫn lộn ngay trong lòng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / kiên nhẫn cảm hóa những kẻ tội lỗi / bằng chính tình thương tha thứ của Đức Kitô / Vị Mục Tử nhân lành.
3- Cuộc sống trần gian ngày hôm nay / quyết định số phận mai ngày của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết luôn cố gắng sống bác ái yêu thương / tận tuỵ phục vụ trong khiêm tốn / để trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng cho trần gian / Nhờ đó họ sẽ được Chúa ; tưởng thưởng trong ngày phán xét chung.
4- Ngay trong chính bản thân mỗi người / vẫn hiện diện song song hai khuynh hướng tốt và xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn xứ đạo chúng ta / luôn biết chế ngự thói xấu bằng cách cố gắng sống theo Lời Chúa dạy / siêng năng lãnh nhận các bí tích hòa giải và Thánh lễ / đồng thời tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
CT : Lạy Chúa, chúng con thường hay xét đoán người khác rất khắc khe mà hầu như quên xét lại chính bản thân mình. Xin giúp chúng con biết can đảm dứt khoác với tật xấu này, để chúng con có thể noi gương Chúa mà sống nhân từ với mọi người hơn. Chúng con cầu xin nhờ…
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma quỷ hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?
2) Trong con người bạn có những khuyết điểm, những bệnh tật, bạn có phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, vượt qua bệnh tật để thăng tiến bản thân không?
3) Chúa đã khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ bạn ăn năn hối cải. Bạn có biết kiên nhẫn với người khác?
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HÃY ĐỂ CỎ LÙNG VÀ LÚA MỌC LÊN ĐẾN MÙA GẶT- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa nhật tuần này trở lại với dụ ngôn về Nước Trời với hình ảnh người gieo giống, nhưng với một khía cạnh chuyên biệt hơn: phải nhổ cỏ để bảo vệ lúa hay để cỏ lùng lớn lên chung với lúa. Khi công việc gieo hạt giống vừa xong thì kẻ thù, lợi dụng lúc chủ nhà đang ngủ, liền gieo cỏ lùng vào ruộng. Khi lúa bắt đầu mọc thì cỏ lùng cùng mọc và lớn lên chung với lúa. Cách làm thường tình của nghề nông là phải diệt sạch cỏ để lúa có thể lớn lên. Người ta phải thuê thợ nhổ sạch cỏ trong ruộng, đó là cách giải quyết nhanh gọn và hiệu quả. Thế nhưng, khi các đầy tớ đến trình bày sự việc với chủ là có nhiều cỏ lùng xuất hiện giữa lúa và xin phép chủ đi nhổ cỏ, thì đã nhận được quyết định của chủ là để cho cỏ lùng lớn lên chung với lúa cho đến mùa gặt. Lý do giải thích của chủ là sợ rằng khi các đầy tớ nhổ cỏ thì họ sẽ nhổ luôn cả lúa. Đồng thời chủ cũng giải thích thêm rằng đợi khi mùa gặt, thì sẽ nhổ cỏ lùng trước, bó lại và đốt đi, sau đó sẽ thu lúa vào kho. Rõ ràng cách hành xử của chủ khác lạ so với cách làm việc của người nông dân bình thường. Bổ túc cho giải thích về Nước Trời còn kèm theo hai dụ ngôn ngắn khác là dụ ngôn hạt cải và nắm men trộn trong bột. Hạt cải nhỏ hơn hết trong mọi thứ hạt giống, nhưng khi lớn lên thì thành cây to và chim trời có thể đến nương náu ; nắm men trộn trong đấu bột, tuy nhỏ bé, nhưng đủ sức làm cho đấu bột dậy lên.
Dụ ngôn chỉ dùng một số hình ảnh của đời sống con người, chen vào đó là những điều rất mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh. Hình ảnh được sử dụng với những nét mới mẻ diễn tả mầu nhiệm Nước Trời. Thiên Chúa chính là người chủ ruộng, và Chúa Giêsu là người gieo hạt giống, ruộng là thế gian, mùa gặt là ngày tận thế, lúa tốt là con cái Nước Trời, cỏ lùng là con cái gian ác. Người chủ ruộng Nước Trời sẽ hành xử một cách hoàn toàn mới mẻ và quyết đoán, ông để cho cỏ lùng lớn chung với lúa, và nhẫn nại chờ đợi cho tới mùa gặt rồi mới phân tách và chọn lựa : lúa thì được cất vào kho và cỏ lùng thì bị đốt đi. Trong dụ ngôn này, ngoài phần trình bày dụ ngôn còn có lời giải thích dụ ngôn có tính cách ẩn dụ. Tức là những yếu tố trong dụ ngôn là hình ảnh được giải thích như diễn tả một ý nghĩa nào đó, chẳng hạn ruộng được hiểu là thế giới, hạt giống tốt là những con cái Nước trời, cỏ lùng là con cái ma quỉ, mùa gặt là ngày tận thế. Cách giải thích này có ưu điểm là giải thích hết mọi yếu tố của dụ ngôn cách rõ ràng dễ hiểu, nhưng mặt khác cũng giới hạn ý nghĩa của dụ ngôn vào trong một ứng dụng xác định. Như thế, dụ ngôn về cỏ lùng trong ruộng được hiểu về ngày tận thế khi người lành được thưởng và người ác bị luận phạt. Thế nhưng, ngoài ý nghĩa này, chúng ta còn có thể đưa ra những giải thích khác chẳng hạn từ dụ ngôn này chúng ta có thể nhìn thực trạng của Giáo hội thời thánh Matthêu,và có thể cũng là hình ảnh cộng đoàn chúng ta, bao gồm vừa những thánh nhân cũng như tội nhân. Sự hiện diện của Nước Trời ở giữa chúng ta không loại trừ sự hàm hồ lẫn lộn những cỏ lùng tội nhân nơi đó ân sủng của Thiên Chúa chưa hoàn toàn chiến thắng. Như thế, dụ ngôn này muốn nói lên thực trạng khá thất vọng như thế đó. Những dụ ngôn khác về hạt cải và chút men trộn trong đấu bột nói lên chiều kích xem ra có vẻ bề ngoài vô nghĩa của Nước Trời khi mà chúng ta lại muốn hy vọng điều gì đó rõ ràng quyết định. Tuy nhiên, mặc dù khởi đầu nhỏ bé khiêm tốn, sự phát triển lớn mạnh của Nước Trời là không thể thay đổi và kết quả rất là đảo lộn.
Trong các dụ ngôn về Nước Trời này, điều chúng ta có thể nhận thấy là thành quả của Nước Trời luôn được bảo đảm dù có gặp nhiều trở ngại từ nhiều phía như kẻ thù và cỏ lùng. Sự bảo đảm này phát xuất từ phía Thiên Chúa là Ðấng luôn quan tâm chăm sóc, nhìn thấy hết mọi sự, đồng thời lại rất nhân từ nhẫn nại, xét đoán khoan dung, và khoan hồng tha thứ, cũng như rất công chính ngay thẳng khi phân tách người công chính với tội nhân. Bài đọc sách Khôn ngoan nhấn mạnh nhiều khía cạnh công minh nhân từ hiền hậu của Thiên Chúa để chúng ta tin tưởng và can đảm sống ngay thẳng theo thánh ý Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, chúng ta không nên bi quan thất vọng buông xuôi trong tội lỗi mà phải sáng suốt trong mọi hành động của mình, bởi vì Thiên Chúa nhẫn nại và khoan dung là để chúng ta hoán cải và đổi mới. Đồng thời, khi đối diện với những tội lỗi và sự ác thắng thế trong thế giới, cũng như nơi chính bản thần mình, chúng ta cũng không nên hùa theo tỗi lỗi và sự ác mà phải tỉnh táo kiên nhẫn để tự bảo vệ chính mình và lớn lên trong mọi nghịch cảnh.
Cả ba dụ ngôn của Tin mừng ngày Chúa nhật hôm nay đều có kết luận hướng về tương lai. Chỉ trong mùa gặt mà cỏ lùng mới bị thu lại và đốt đi, còn lúa tốt thì thu gặt lại và cất vào kho. Còn trong thời gian hiện tại, Nước Trời chấp nhận sự hiện diện của lúa và cỏ lùng. Hạt cải nhỏ bé được gieo xuống, nhưng trước khi chim trời có thể đến nương náu, nó cần phải lớn lên. Chút men được trộn vào trong bột, nhưng nó phải dậy lên để có thể nấu bánh. Mỗi dụ ngôn đều nói về một tiến trình đã khởi đầu nhưng kết quả thì còn phải chờ đợi ở tương lai. Với Chúa Giêsu, Nước Trời đã được khai mào, nhưng chưa được hoàn tất trọn vẹn.
Cả ba dụ ngôn này đều đặt việc Phán xét của Thiên Chúa vào viễn tượng tương lai: Thiên Chúa không xét xử tức thì lúc này, bài đọc thứ nhất nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa luôn nhẫn nại và bao dung nhân từ, và đây là nền tảng để chúng ta hy vọng. Thiên Chúa “quyền năng” lại được hiểu là nguồn của sự công chính. Vì thế, quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện một cách hoàn toàn khác với cách thế của chúng ta, quyền năng toàn vẹn nên Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi sự hoán cải của chúng ta. Ðiều này được mô tả trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng trong đó chủ đã khuyên các gia nhân không được nhổ cỏ lùng mà phải chờ cho chúng lớn lên chung với lúa. Như thế, nơi mỗi người chúng ta, chúng ta có thời gian để hoán cải, để làm cho hạt giống tốt được lớn lên trong tâm hồn mình. Nhiều khi chúng ta có khuynh hướng sợ hãi ngày Chúa phán xét. Chúng ta nghĩ mình là những cỏ lùng sẽ bị thiêu đốt và quả thật, trong đời sống hằng ngày, nhiều lần chúng ta đã sa ngã, không sống theo những đòi hỏi của Lời Chúa. Thế nhưng, nhịp sống của mầu nhiệm phục sinh, chết và sống lại, mời gọi chúng ta nhìn xa hơn những thời điểm hiện tại để nhìn thấy những khả năng hoán cải trong đời sống của chúng ta, để tin vào lòng nhân từ nhẫn nại của Thiên Chúa, và để mở rộng tâm hồn trước lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa. Cỏ lùng sẽ lớn lên. Nhưng Thiên Chúa luôn nhẫn nại. Nếu chúng ta nhớ rằng hạt giống tốt vẫn mọc lên cùng với cỏ lùng, và hạt cải nhỏ bé đang vươn lên cũng như chút men đang âm thầm làm cho khối bột dậy lên, thì chúng ta hãy tin tưởng hy vọng sự sống bên kia cái chết. Ðây chính là mầu nhiệm vượt qua mà chúng ta vẫn cử hành hằng ngày qua mầu nhiệm khổ nạn phục sinh của Chúa lôi kéo chúng ta theo vận hành hoán cải và đổi mới.
Một thái độ khác chúng ta cần phải lưu ý, đó là nhiều người có lương tâm quá sức dễ dãi,cho rằng không cần quan tâm nghĩ tới việc Thiên Chúa phán xét. Những thái độ này cần phải được sửa chữa, bởi vì thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa đồng thời cũng là thời gian bất ngờ. Thiên Chúa viếng thăm chúng ta vào lúc bất ngờ nhất, và khi đó chúng ta phải sẵn sàng để được đón nhận như là lúa tốt được gặt vào kho. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta Thiên Chúa vẫn hằng ban Thánh Thần để nâng đỡ hành trình của chúng ta. Thánh Thần Chúa vẫn được ban cho chúng ta như sức mạnh để chúng ta có thể lớn lên, giúp chúng ta có đời sống cầu nguyện nội tâm vững vàng trước những khó khăn của ruộng lúa thế gian với nhiều cám dỗ.
—————————————————————————
CHÚA NHẬT XV ITHƯỜNG NIÊN- NĂM A
THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ðến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.”(Mt 13,30)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba dụ ngôn. Một dụ ngôn dài và hai dụ ngôn ngắn. Dụ ngôn dài được chính Chúa cắt nghĩa. Chúa cắt nghĩa cho các môn đệ nhưng cũng là cắt nghĩa cho chúng ta. Chúng ta cố gắng tìm hiểu cả ba dụ ngôn xem Chúa muốn nhắn nhủ gì với chúng ta.
-Chúng ta bắt đầu với dụ ngôn hạt cải: “Nước trời giống như một hạt cải”(Mt 13,31)
Qua dụ ngôn này Chúa muốn nói với chúng ta về sự phát triển và trưởng thành của Giáo Hội.
* Như một hạt cải thật nhỏ bé được gieo vào lòng đất nhưng khi nó lớn lên nó có thể trở thành một cây thật lớn. Đức Ông Đạo hồi còn ở Roma có gửi cho tôi một ít hạt cải ở Đất thánh. Nó thật nhỏ bé. Tôi có cảm tưởng như nó chỉ bằng một phần tư viên bi ở đầu mỗi cây viết Bic chúng ta sử dụng hằng ngày. Thế nhưng khi được gieo vào lòng đất, nó từ từ nảy mầm, phát triển và lớn lên….đến độ chim trời có thể tụ tập nương náu dưới bóng của nó.
* Giáo Hội hay Nước Trời tại thế của Chúa cũng giống như thế.
– Nước trời có một nguồn gốc rất khiêm tốn, bắt đầu từ chính Chúa Giêsu mà cuộc đời của Chúa Giêsu xét về phương diện trần thế thì quả thật chẳng có gì đáng giá và hấp dẫn: Sinh ra nghèo khó, sống cũng khó nghèo, đi giảng đạo thì gặp rất nhiều thất bại, rồi cuối cùng chết như một tên tử tội.
– Sau Chúa Giêsu thì một nhóm môn đệ cũng thật nhỏ bé: Chỉ có 12-13 người nếu kể cả Phaolô. Họ là những người như thế nào thì anh chị em cũng đã quá biết. Vậy mà Giáo Hội cứ tự lớn lên xuyên qua thời gian, trải qua không biết bao nhiêu gian nan khốn khó. Theo lẽ tự nhiên mà xét thì quả thật không hiểu nổi. Vậy mà tới hôm nay Giáo Hội đã trở thành một cây thật lớn, đang làm nơi nương tựa cho biết bao nhiêu con người chúng ta. Chúng ta hãy cám ơn Chúa.
-Nước trời được Chúa ví như men trộn vào bột (Mt 13,33).
* Như một chút men xem ra không có gì đáng chú ý được trộn vào bột…Chúa Giêsu nói đến 3 đấu bột….khoảng chừng 60-70 kilos vậy mà chỉ cần một lượng men thật nhỏ, chúng cũng có thể biến đổi cả một khối lượng bột lớn như thế và làm cho tất cả được dậy men.
* Tin Mừng Nước trời của Chúa cũng có một sức biến đổi phi thường như thế.
Vào những thế kỷ đầu tiên, khi hạt giống Tin Mừng được gieo vào giữa trung tâm quyền lực của Đế quốc Roma, Hoàng Đế Néron đã thấy được cái “nguy cơ quyền lực của đế quốc có thể bị ảnh hưởng, Ông đã phát động một phong trào trong toàn cõi đế quốc nhằm tiêu diệt hết nhưng người mà ông gọi là theo tên “Kitô”…nhưng rồi ông đã thất bại cho dù là sau đó bao nhiêu bạo chúa ở Roma đã tiếp nối con đường của ông. Sau khi nhìn lại thời gian Giáo Hội bị tàn sát suốt 300 năm, vậy mà Giáo Hội vẫn tồn tại và phát triển, sử gia Tertulliano đã viết lên một nhận xét thật đẹp như thế này: “Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”
Đó là hai hình ảnh tôi nghĩ là rất đẹp về Giáo Hội hay Nước Trời của Chúa tại trần thế. Thế nhưng bên cạnh hai hình ảnh đẹp đó Chúa lại cho chúng ta thấy một hình ảnh khác chưa đẹp hay không đẹp tí nào.
Nước trời giống như một thửa ruộng vừa có lúa tốt nhưng cũng lại có cả cỏ lùng (Mt 13,24-25).
Về ý nghĩa dụ ngôn này thì chính Chúa đã cắt nghĩa. Ở đây tôi chỉ xin có một vài nhận xét thêm.
Thực tại Nước trời trong giai đoạn trần thế là một thực tại pha trộn. Rõ ràng trần thế nơi chúng ta, những con người đang sống là chỗ chung cho cả con cái của sự sáng và con cái của sự tối tăm. Vấn đề tôi muốn đặt ra ở đây là ai là người được coi là tốt và ai là người bị coi là xấu. Trong bài dụ ngôn Chúa có nói tới tình trạng không khác nhau gì mấy giữa lúa và cỏ lùng và xem chừng Ngài muốn dành độc quyền về sự phân loại cho Ngài khi Ngài đề cập đến vấn đề ấy chỉ xẩy ra vào ngày phán xét. Lúc đó thì mọi sự sẽ rõ ràng . Rồi cũng trong bài Tin Mừng Chúa có nói tới sự kiên nhẫn của Ông chủ mà Ông Chủ ở đây rõ ràng là chính Chúa. Chúa có ý bỏ ngỏ vấn đề để buộc chúng ta phải suy nghĩ.
Thật khó mà đánh giá được ai là người thực sự tốt trước mặt Chúa và ai là người bị coi là xấu trước mặt Ngài.Những ai đã từng xem cuốn phim Schindler’s List hẳn đều ghê tởm vai chính của phim đó, tên là Oskar Schindler, một đảng viên Đức quốc xã, đã từng giết hại rất nhiều người.
Thế nhưng nhiều người đã từng biết ông thì lại ca tụng ông như một ân nhân cứu mạng cho hàng ngàn người khỏi bị Đức quốc xã giết. Thậm chí có người còn nói: “Ông ta là cha, là mẹ và là niềm hy vọng độc nhất của chúng tôi”
Sự thật như thế nào? Sự thật, Oskar Schindler không phải là một vị thánh, mà là một con người với nhiều dằng co mâu thuẫn: trước hết ông là một người chồng bất trung đã bỏ vợ và chạy theo một cuộc sống ăn chơi thác loạn; ông cũng là một người công giáo nhưng lại không sống đạo; ông là đảng viên đảng Quốc xã Đức từng tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh do đảng này phát động; chính ông đã thú nhận rằng ông hy vọng khi chiến tranh thắng lợi thì ông sẽ có hai cái rương đầy vàng; ông còn hành hạ nhiều người Do thái…
Nhưng bên trong ông lại có một con người khác. Đó là một người tốt. Nhiều lần đang cư xử như một người xấu ông lại hướng về bên trong con người tốt ấy. Thấy những tù nhân bị hành hạ tàn nhẫn, ông không chịu nổi và nhiều lần dám đứng lên bênh vực họ. Hai lần ông đã bị bỏ tù vì những hành động như thế.
Sự thật về Oskar Schindler là như thế: vừa là quỷ dữ, vừa là thiên thần, trong lòng ông vừa có cỏ lùng vừa có lúa tốt.
Pascal nói: “Thường thì chúng ta hay phân chia con người ra thành hai dạng: Những người thánh thiện và những kẻ tội lỗi. Tôi không dám nói sự phân biệt như thế là sự phân biệt không có cơ sở, nhưng tôi cho rằng sự phân biệt như thế là sự phân biệt rất tương đối và đôi khi có thể là một ảo tưởng. Chính nơi bản thân mỗi người chúng ta, chúng ta thừa kinh nghiệm để thấy rằng sự thánh thiện và tội lỗi đang cùng có mặt ngay trong mỗi người chúng ta”
Chỉ có lòng nhân từ của Thiên Chúa mới có thể giúp chúng ta lớn lên trong ân nghĩa với Ngài và Ngài đang chờ đợi chúng ta như Ông chủ ruộng lúa đợi mùa gặt của mình.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết sống bao dung như Chúa vì Chúa vừa thấy được cả hiện tại lẫn tương lai, thấy được cả bề ngoài và thấy được cả bề trong.
Và khi cuộc đời của chúng con khép lại, xin bàn tay khôn ngoan của Chúa hãy sàng sẩy và chọn ra những gì đáng giữ lại; nhưng đối với những gì không đáng giữ lại, xin hãy thổi đi bằng hơi thở nhân từ của Chúa.
———————————————————————-
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CỨ ĐỂ CẢ HAI MỌC LÊN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nước Trời là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu đã mạc khải và thiết lập trong lịch sử nhân loại. Qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, gần gũi với cuộc sống, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy về Nước Trời.
Chúa nhật trước với dụ ngôn “người gieo giống”, Chúa Giêsu cho thấy Nước Trời đã khai mạc. Cũng như người gieo giống đi gieo hạt trên khắp cánh đồng, Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy tăng trưởng trổ sinh hoa trái nơi mỗi người ra sao là tùy thái độ đón nhận của từng người ấy.
Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giảng dạy về Nước Trời bằng dụ ngôn “lúa và cỏ lùng”. Như vậy, sau khi nói đến việc khai mạc Nước Trời, Người nói đến sự phát triển của Nước Trời trong lịch sử trần thế.
Chúa Giêsu đã khởi đầu công trình của Người với một nhóm nhỏ Mười Hai Tông Đồ. Sự khiêm tốn của “hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất bao la”. Sự khiêm tốn của “một nắm men bị vùi sâu vào ba đấu bột”. Điều kỳ diệu là “hạt bé hơn mọi thứ hạt giống” lại “trở thành cây cao bóng cả đến nỗi chim trời có thể đến nương náu nơi ngành nó”. Nắm men ít ỏi kia lại có khả năng làm dậy lên cả ba đấu bột chôn vùi nó. Cũng như vậy, Nước Trời sẽ vươn xa vươn rộng cho muôn dân nước đến nương nhờ. Hạt giống Nước Trời đã làm dậy lên cả thế giới bằng một tinh thần mới của Tin Mừng,biến đổi lịch sử trong tình thương và hòa bình.
Một vấn nạn luôn được đặt ra: Nếu Nước Trời đã được Chúa Giêsu thiết lập cách đây hơn 20 thế kỷ và nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu giàu lòng xót thương thì tại sao cho đến nay cuộc sống con người vẫn đầy dẫy bất công, bạo lực, khổ đau, chiến tranh tương tàn,và xem ra sự dữ có chiều hướng gia tăng ? Đôi khi những người xấu xa tội lỗi gian manh lại giàu có sung túc trong đời sống vật chất hơn những người lành ? Vấn nạn này vẫn luôn là trăn trở khôn nguôi người Kitô hữu ở mọi thời đại ! Dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” giải thích vấn nạn ấy.
Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt.Thiên Chúa đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện. Satan tới gieo cỏ lùng. Thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian. Người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Đang khi hạt giống được gieo giữa ban ngày thì Satan lại lợi dụng đêm tối khi mọi người đã mất cảnh giác để gieo rắc tội lỗi. Hành động thấp hèn. “Xấu” chưa chắc đã “hèn”, nhưng “hèn” thì chắc chắn là “xấu”, bởi lẽ nhiều tay “giang hồ”, bặm trợn, vẫn rất ghét thói “ném đá dấu tay”, trong khi động cơ, phương tiện và mục đích của những hành động lén lút, luôn là bỉ ổi, xấu xa và hại người.
Thế giới này giống như cánh đồng lúa đầy cỏ lùng xen vào. Những ông thánh sống lẫn lộn với những thằng quỷ, tốt xen lẫn với xấu. Tốt như những tổ chức nhân đạo, nhân quyền, hoà bình thế giới: UNESCO, UNICEP, FAO, OLYMPIC, WORLD CUP là những tổ chức xây dựng văn hoá, giáo dục tình thương bảo vệ sức khoẻ trẻ em, phát triển lương thực thế giới, thăng tiến những tài năng, chăm lo y tế. Nhưng lại có rất nhiều những tổ chức xấu xen vào như Mafia, buôn lậu, ma tuý, vũ khí, khủng bố, trộm cướp, du đãng, buôn bán trẻ em, phim ảnh sách báo đồi truỵ… Đồ thật, hàng tốt bị xen lẫn hàng xấu, đồ giả. Người lương thiện, chân chính bị lẫn lộn với kẻ tham ô, móc ngoặc, bất lương. Những thứ cỏ lùng gai góc đó không bao giờ hết, chỉ đến mùa gặt tận thế chúng mới bị quét sạch, đốt sạch. Tận thế sẽ thiêu đốt tất cả những thứ cỏ lùng đó, những kẻ xấu, kẻ dữ đó. Còn lúa thì được gánh về, chở về kho. Những thánh nhân, những người lương thiện, công chính sẽ sáng chói trong ngày vinh quang đó, họ được rước vào nước hạnh phúc đời đời.
Thấy cỏ lùng xuất hiện với lúa, các đầy tớ đến hỏi ông chủ : “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao ? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy ?”.Thấy sự dữ tràn lan trên thế giới, bao nhiêu người thắc mắc: sự dữ, sự ác bởi đâu ra ? Chúng ta nhiều lần thấy gian tà thắng ngay lành, bất công thắng công chính. Kẻ ác thắng kẻ thiện, cũng thất vọng kêu trách : Sao Chúa để kẻ dữ sống lâu, mạnh khoẻ, giàu sang, may mắn, còn kẻ lành phải khổ cực trăm chiều?
Trước những thắc mắc đó, Chúa đáp : “Kẻ thù đã làm đó!” Kẻ thù là ai ? Thánh kinh cho biết có hai thứ kẻ thù : kẻ thù ở trong ta và kẻ thù ở ngoài ta. Kẻ thù ở ngoài ta có những tên khác nhau : con rắn cám dỗ phỉnh gạt (St 3,2.13), con rồng, rắn xưa, quỷ, satan (Kh 12,9), con thuồng luồng Leviathan (Is 27,1), kẻ thù, kẻ chống đối (Mt 13,25; Lc 10,19; 2Cr 6,15). Những kẻ thù này ở ngoài con người, nhưng chúng xâm nhập vào con người sâu hiểm tới độ đồng hoá với bản tính nhân loại. Nhưng chúng sẽ bị “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn, bắt lấy con rồng, tức là con rắn xưa cũng là ma quỷ satan xích nó… quăng vào vực thẳm, rồi đóng cửa niêm phong lại” (Kh 20, 2-3). Nhưng một mình quỷ thôi, chúng sẽ bất lực như bất lực đối với Thánh Gióp. Chỉ khi có sự tiếp tay của ta như Eva tiếp nó, nó mới thành kẻ thù trong ta : nó trở nên kẻ nội thù ghê gớm. Nó mọc lên những cỏ lùng, bụi gai, đá sỏi, quỷ dữ (Mt 13,18-22). “Vì tự lòng phát xuất ra những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, chứng gian, vu khống” (Mt 15, 19). Khi chủ cho biết kẻ thù làm đó, thì đầy tớ xin nhổ đi, chủ sợ hại đến lúa, nên ông đáp : “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt”. Thái độ của chủ thật khôn ngoan, ông kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt, mới nhặt cỏ lùng đốt đi.
Có thể trong tâm tưởng nhiều người lại quy gán cho Thiên Chúa trách nhiệm về tình trạng khổ đau đó chẳng khác gì câu hỏi ngày xưa: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng ở đâu mà ra?” Một câu hỏi không lên án nhưng chứa đựng sự nghi ngờ.
Để trả lời cho vấn nạn đó, Chúa Giêsu đã lấy lại giáo huấn của sách Sáng Thế : Sự ác không đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ gieo hạt giống tốt lành vào mảnh đất người đời. Sự ác cũng không chỉ đến từ tâm trí con người nhưng nó đã có trước đó.Sự dữ cũng là một mầu nhiệm. Đối với Chúa Giêsu, con người là nạn nhân của sức mạnh mà Người gọi là ”Kẻ thù”, là ”Quỷ dữ” như cách diễn tả trong dụ ngôn : “Khi mọi người đang ngũ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng rồi đi mất”. Ở cội nguồn tội lỗi của con người,còn có một sức mạnh luôn tìm cách phá hoại công trình của Thiên Chúa và hành tung của nó rất bí mật. Đó là quỷ dữ lợi dụng đêm tối để gieo rắc tội lỗi rồi trốn đi.Thánh Phaolô đã nói về sự dữ trong thư Rôma : Công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tốt lành.Satan đã cám dỗ Adam, Eva, Nguyên Tổ sa ngã,tội lỗi sinh ra đau khổ và sự chết rồi nó như con bạch tuộc vươn vòi vào trần thế, con người nô lệ cho tội lỗi và nhận lấy án phạt là sự chết (x.Rm 1,20 -31 ;15,12).Ma quỷ luôn có mặt để gieo rắc sự xấu.
Thiên Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hòa bình. Đẹp biết bao khi mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng thực tế lại đáng buồn thay ! Cánh đồng hòa bình tươi xanh đã bị những cỏ dại của tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn đau vì không lúc nào mà không có chiến tranh.
Thế giới này sẽ tươi đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần chung tay xây dựng! Nhưng thật đáng tiếc,rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc hủy hoại, tha hóa, nô lệ hóa con người. Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt. Lúa tốt và cỏ lùng lẫn lộn trên cùng ruộng lúa. Cái tốt, cái xấu đan xen trong cuộc sống hàng ngày,nhất là trong tâm hồn mỗi người. Ở đó, hạt mầm sự sống và nọc độc sự chết cùng sống chung. Mỗi con người chắc chắn đều có kinh nghiệm bản thân như Thánh Phaolô đã từng kinh nghiệm “Điều lành tôi muốn làm tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn làm nhưng tôi lại cứ làm ( Rm 7,19). Con người có tự do để chọn lựa cái đúng cái sai, chọn cái tốt cái xấu. Nước Trời cũng gồm những con người có tự do, thì cũng có những người xấu do chọn lựa sai lầm. Cảm nhận được sự thật ấy trong tâm hồn mình để chúng ta biết khoan dung trong cách nhìn về người khác. Sự khoan dung không đồng nghĩa với đầu hàng cái ác nhưng phát xuất từ niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của Nước Trời: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”. Cho dù cỏ lùng có bóp nghẹt lúa tốt trong một thời gian dài, nhưng mùa gặt đến, cỏ lùng sẽ bị gom lại và đốt đi, còn lúa tốt được cất vào kho lẫm.
Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa tốt được,nhưng người xấu có thể hoán cải để nên người tốt.Thiên Chúa ghét tội lỗi nhưng lại yêu mến tội nhân vì Người chờ nơi họ lòng thống hối để được thứ tha (x.Rm 2,4). Chính vì thế mà Thiên Chúa kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì Thiên Chúa tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của con người. Chờ đợi vì Thiên Chúa nuôi một niềm hy vọng lớn lao.Thiên Chúa vẫn luôn nhẫn nại đợi chờ cho đến ngày tận thế “ cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt”.
Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở trong tim con người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa Thiên Thần và Satan.Tự do chọn lựa là quyền mỗi người.Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng trong con người. Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ con người thanh luyện dần dần và hy vọng mọi sự trong họ sẽ thành lúa tốt.
Lạy Chúa, xin cho con nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường ghập ghềnh cuộc đời, trong thác dốc tâm hồn với tất cả niềm tin và hy vọng. Amen.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HAI ĐẠO QUÂN – Lm. Trần Ngà
Tin mừng hôm nay cho thấy trần gian như một thửa ruộng lớn, trong đó có cả lúa tốt xen lẫn cỏ lùng.
Khi đến trần gian, Chúa Giê-su hoạt động như một người nông dân cần cù gieo hạt. Ngài liên tục gieo vào cánh đồng trần gian những hạt giống tốt như tình yêu thương thuận hoà, tinh thần hy sinh phục vụ… nhằm xây dựng thế giới nầy thành một đại gia đình hoà bình, yêu thương và hạnh phúc. Ngài kêu gọi nhiều người khác đầu quân vào đạo binh của Ngài, để cùng với Ngài tung gieo những hạt giống tốt lành khắp cánh đồng trần gian.
Trong lúc đó, Sa-tan là một thủ lãnh đáng gờm cùng với đội quân của y cũng hăng hái tung vào thế gian vô vàn hạt “cỏ lùng” độc hại, nhằm biến thế giới nầy thành chốn đau thương, chia rẽ, hận thù và huỷ diệt.
Sa-tan và đội quân của y tìm mọi cách để xoá bỏ điều thiện, dập tắt ánh sáng, hòng tôn cái ác lên ngôi và làm cho bóng tối lầm lạc vây phủ tâm hồn mọi người. Một khi con người bị đặt dưới quyền thống trị của điều ác thì nhân loại sẽ điêu tàn; một khi lòng trí con người bị bóng tối lầm lạc bao phủ, họ sẽ sa vào hố sâu của tội lỗi và khổ đau.
Xã hội hôm nay có nhiều dấu hiệu cho thấy đạo quân của Sa-tan đang thắng thế và gây nên nhiều hậu quả thảm khốc: Nếp sống đạo đức đang suy thoái trầm trọng, nạn ly dị gia tăng, hôn nhân đồng tính đang được hợp pháp hoá tại một số quốc gia phát triển, nạn phá thai xảy ra đến mức báo động, nạn buôn người xuyên quốc gia và mãi dâm đang là vấn đề nhức nhối, các án mạng thường xuyên xảy ra với mức độ tàn nhẫn tăng dần, tham ô đục khoét của công trở thành quốc nạn, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, danh dự, nhân phẩm của mình chỉ vì tham tiền và vô vàn tệ nạn khác đang lan tràn khắp nơi…
Đối lại, Thiên Chúa và đoàn con cái của Ngài cố công vun đắp điều thiện và xua trừ điều ác; cố công biểu dương ánh sáng và tìm cách đẩy lùi bóng tối… để cứu thoát con người khỏi những thảm hoạ do Sa-tan và đạo quân của y gây ra.
Tôi đầu quân vào đạo binh nào?
Trước thực trạng đáng tiếc này, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là chúng ta đang đầu quân vào đạo binh nào? Theo đạo quân của Chúa Giê-su để cùng Ngài gieo rắc những điều tốt hay đạo quân của Sa-tan để phát tán những điều xấu xa?
Gia đình chúng ta cũng là một “thửa ruộng” có cả “lúa tốt lẫn cỏ lùng”, nghĩa là có cả người tốt lẫn kẻ xấu, có những hành vi tốt và những việc làm xấu hoà trộn với nhau.
Đôi khi người cha, người mẹ vô tình gia nhập vào đội quân của Sa-tan để tiếp tay với y gieo vãi những hạt giống cỏ lùng ngay trong ruộng lúa nhà mình mà không hay biết.
Khi người cha chẳng lo làm việc mà cứ nhậu nhẹt say sưa tối ngày, hay văng tục chửi thề… là ông ta đang trở thành lính chiến của Sa-tan để gieo rắc cỏ lùng làm hại con cháu mình.
Khi người mẹ bài bạc quanh năm, lười biếng không làm việc, không quan tâm giáo dục con cái… là bà đang trở thành chiến binh của Sa-tan, tiếp tay với y để gieo vãi những hạt giống cỏ lùng, làm hư hỏng đoàn con như những cây lúa non đang lớn.
Khi người trong gia đình buôn bán gian dối, sản xuất thực phẩm độc hại… nhằm thu lợi cho mình bất chấp thiệt hại cho người khác… là họ đang trở thành thuộc hạ của Sa-tan, tiếp tay với Sa-tan để làm hại người nhà cũng như những biết bao người khác.
Nói tóm lại, khi chúng ta để cho những động cơ xấu xui khiến mình làm điều tai hại, gây ra gương xấu cho người chung quanh… là chúng ta đã đầu quân vào binh đội của Sa-tan và trở thành chiến binh đắc lực của y.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Người gieo hạt giống hoà bình yêu thương và Chúa kêu mời chúng con tiếp nối sứ mạng cao quý đó để hạt giống Tin mừng được gieo vãi khắp nơi.
Chúa là Đấng đem ánh sáng chân lý đến để xoá tan bóng tối lầm lạc vây phủ thế gian và Chúa kêu mời chúng con tiếp tay với Chúa làm cho ánh sáng ấy bừng lên trên khắp thế giới.
Xin cho chúng con trở nên những chiến sĩ nhiệt thành của Chúa để cùng Chúa gieo rắc hạt giống của Tin mừng.
Xin đừng để chúng con vô tình trở thành chiến binh của Sa-tan, tiếp tay với y để gieo rắc những hạt giống độc hại làm hư hỏng gia đình và làm suy đồi xã hội.
———————————————————————-
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CỎ LÙNG VÀ LÚA- Trích Logos A
“Nghìn Lẻ Một Đêm” là tập truyện dân gian nổi tiếng của Ả Rập. Tập truyện có nội dung như sau :
Ngày xưa, ở miền đông Ả Rập có ông vua tên Sariya. Vì hoàng hậu ngoại tình nên nhà vua từ một con người hiền lành đã trở nên hung bạo. Vua căm ghét tất cả các phụ nữ. Và để trả thù phụ nữ, mỗi ngày vua cưới một người vợ, qua một đêm chung sống, sáng hôm sau, vua ra lệnh giết chết người vợ ấy. Khắp nơi, dân chúng rên xiết trước sự tàn bạo của ông vua.
Một ngày nọ, có một thiếu nữ tên Sêhêrazat vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang, lại có tài kể chuyện, đã tình nguyện vào cung làm vợ vua để cảm hóa vua.
Đi với nàng còn có cô em gái, hai chị em thay phiên kể chuyện cho vua nghe. Mỗi đêm một truyện, đêm này qua đêm khác, truyện nào cũng hấp dẫn, truyện nọ liên quan đến truyện kia, khiến cho vua say sưa lắng nghe không sao dứt được. Cứ thế, suốt trong một nghìn lẻ một đêm, với tài kể chuyện, hai chị em đã cảm hóa được nhà vua, khiến ông quên khuấy việc giết người. Vua thay đổi tính tình, bãi bỏ lệnh bắt các thiếu nữ và cưới nàng Sêhêrazat làm vợ.
“Nghìn Lẻ Một Đêm” giống như một bức thảm Ba Tư tuyệt đẹp, được đan dệt bằng trăm nghìn câu truyện phong phú, vẽ tả một xã hội mà trong đó người tốt kẻ xấu lẫn lộn. Có người đang tốt trở nên xấu. Có người đang xấu trở nên tốt, như câu chuyện nàng Sêhêrazat mà chúng ta vừa nghe.
Câu chuyện dụ ngôn “Cỏ Lùng và Lúa” Chúa Giêsu kể trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay cũng diễn tả một thực tại tương tự : trần thế như cánh đồng bao la, trong đó, cỏ lùng và lúa lẫn lộn, người tốt kẻ xấu ở bên cạnh nhau. Tuy nhiên, người chủ ruộng đầy lòng kiên nhẫn, không tiêu diệt cỏ lùng ngay, nhưng chờ đợi đến mùa gặt. Cũng thế, Chúa đầy lòng nhẫn nại và khoan dung chờ đợi người tội lỗi hoán cải để được lãnh nhận tình thương cứu độ của Ngài.
Chúa Giêsu, người chủ ruộng khoan dung.
Chúa Giêsu chính là người chủ ruộng tốt lành. Ngài gieo vãi những hạt giống tốt trên thửa ruộng trần gian. Những hạt giống tốt là Lời Chúa, tình yêu, sự bình an, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người.
Nhưng đáng tiếc thay, kẻ thù của Chúa mang khuôn mặt của “cái ác”, là những thế lực của sự dữ, đã lén gieo vào thửa ruộng những hạt giống xấu : đó là mầm mống của tội lỗi, của bạo lực, của những đam mê dục vọng, của những khuynh hướng xấu. Chúng như cỏ lùng mọc lên giữa ruộng và đôi khi lấn át cả lúa tốt.
Nhiều người chỉ nhìn thấy dung mạo của một vị Thiên Chúa công minh chính trực, một người chủ ruộng nóng nảy và nghiêm khắc, mà quên mất Thiên Chúa còn mang khuôn mặt nhân từ và nhẫn nại, một người chủ ruộng đầy lòng khoan dung.
Nếu người chủ ruộng hấp tấp cho nhổ cỏ lùng ngay, sẽ làm hại đến lúa tốt. Kinh nghiệm nhà nông cho thấy : khi còn nhỏ, cỏ lùng trông rất giống lúa, người ta khó phân biệt giữa cỏ lùng và lúa. Đến khi cỏ lùng lớn lên giữa bụi lúa, nếu nhổ cỏ lùng sẽ làm bật gốc cả bụi lúa. Vì thế, người ta để cỏ lùng đến mùa gặt. Như người chủ ruộng tốt lành, Chúa cũng kiên nhẫn đợi chờ các tội nhân trở về với lòng thương xót của Ngài. Lòng nhân hậu bao dung của Chúa kéo dài mãi cho đến ngày tận cùng của thế giới.
Mầu nhiệm tình thương.
Chúa chống lại “cái ác” và “sự dữ ”, nhưng Ngài luôn tỏ lòng khoan dung với các tội nhân. Chúa không kết án người tội lỗi, nhưng luôn kêu gọi họ thống hối ăn năn và trở về. Vì Chúa “không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Mt 8, 13). Trước lòng khoan dung của Chúa, nhiều người tội lỗi đã được ơn hoán cải. Đó chính là mầu nhiệm của lòng thương xót.
– Lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho Giakêu, người thu thuế tham lam, được biến đổi trở thành một con người quảng đại, sẵn sàng “chia nửa phần gia tài cho người nghèo khó” (Lc 19, 8).
– Tình yêu của Chúa đã biến Augustinô từ một con người tội lỗi, hoang đàng trác táng trở thành một vị thánh. Ngài luôn cảm nhận được tình thương xót của Thiên Chúa : “Lạy Chúa, con biết Chúa quá muộn màng !”.
– Lòng bao dung của Chúa cũng biến đổi Phaolô từ một con người bắt bớ đạo Chúa trở thành một vị tông đồ dân ngoại vĩ đại. Ngài cũng luôn cảm nhận được lòng bao dung thương xót của Chúa, nên ngài đã hy sinh tất cả để rao giảng tình thương của Chúa.
Trong một thế giới đầy bạo lực và khủng bố như hôm nay, người ta càng nhận ra rõ hơn lòng kiên nhẫn và lòng từ bi của Thiên Chúa. Chính trong một xã hội đầy rẫy sự dữ và xấu xa, người ta càng thấy rõ tình thương của Chúa đang đánh động và thức tỉnh để làm cho nhiều “người con đi hoang” trở về.
Mầu nhiệm Nước Trời.
Chúa Giêsu còn kể thêm hai dụ ngôn “Hạt Cải” và “Nắm Men” : hai dụ ngôn này vừa cho thấy sức phát triển rất mạnh của Nước Trời, vừa nói lên lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài không nóng vội, nhưng kiên nhẫn chờ cho hạt cải thành cây lớn và nắm men làm dậy cả thúng bột.
Nước Trời hay Giáo Hội chính là một mầu nhiệm. Nhìn vào lịch sử cứu độ, ta nhận thấy : từ một nhóm nhỏ mười hai tông đồ, Giáo Hội không ngừng lớn mạnh và phát triển cho đến ngày nay.
Hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất, phải thối mục đi, phải đau đớn nứt mình ra cho chiếc mầm vươn lên và mọc thành cây. Cũng vậy, nắm men được vùi trong thúng bột, phải hy sinh tự huỷ chính mình trong quá trình lên men, để làm dậy cả thúng bột. Giáo Hội cũng đi theo con đường đau khổ để lớn mạnh và phát triển trong âm thầm lặng lẽ.
Như hạt cải bé nhỏ được gieo vào lòng đất, nhiều lúc Giáo Hội phải sống âm thầm và đau khổ trong những “hang toại đạo”, sống lén lút và trốn tránh mọi người.
Như nắm men tự huỷ trong thúng bột, Giáo Hội phải trải qua nhiều giai đoạn bị bách hại và đổ máu triền miên. Giáo Hội đã đi theo con đường đau khổ mà Chúa đã đi, đã tự huỷ để vươn mình lớn dậy. Mầu nhiệm Giáo Hội không gì khác hơn là mầu nhiệm đau khổ.
Hôm nay, trong bài đọc I, trích sách Khôn Ngoan, tác giả suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Chúa đã nhiều lần bị kẻ thù làm hại. Họ muốn Thiên Chúa ra tay tiêu diệt những kẻ thù ấy. Nhưng Ngài vẫn tỏ lòng khoan dung, vẫn kiên nhẫn chờ đợi những kẻ gian ác ăn năn sám hối và quay về.
Thế giới không thể quên vụ khủng bố kinh hoàng xảy ra tại thủ đô Luân Đôn, nước Anh vào ngày 07 tháng 7 năm 2005 : ba vụ đánh bom liều chết tại các ga xe điện ngầm và một vụ làm nổ tung chiếc xe buýt hai tầng, làm hơn 52 người chết và 700 người bị thương.
Điều đáng nói là : kết quả cuộc điều tra ban đầu đã làm cho người dân Anh phải giật mình : vì bốn tên đánh bom liều chết chính là những người dân Anh, ba người gốc Pakistan và một người gốc Jamaica, những kẻ đã từng chung sống bên cạnh họ. Mầm mống của “cái ác” ở ngay trong lòng họ khiến họ sửng sốt, bàng hoàng.
Trong mỗi người chúng ta luôn có sự giao tranh giữa thiện và ác. Chúng ta hãy vượt thắng chính mình để luôn trở thành người tốt trong Giáo Hội và xã hội. Đàng khác, chúng ta hãy học nơi Chúa tấm lòng khoan dung, để luôn biết đối xử với mọi người bằng tình yêu thương và lòng đại lượng.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN- Năm A
LÒNG CHÚA CAO CẢ HƠN LÒNG CHÚNG TA- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Tất cả chúng ta đều cần đến lòng nhân từ, thương xót và thứ tha thứ của Thiên Chúa, nhất là xin Ngài loại trừ sự dữ, sự tội và sự chết, nhất là kẻ xấu ra khỏi chúng ta. Nhưng lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta.
Với dụ ngôn tự sự “Người Gieo Giống” Chúa nhật tuần trước phác họa hình ảnh Một Thiên Chúa là Cha nhân lành, hào phóng đối với nhân loại khi gieo chính Lời cứu độ là Chúa Giêsu, Con Một Ngài xuống trần gian. Ngài gieo không tiếc xót, không tính toán, không loại trừ, gieo cả nơi sỏi đá, gai góc, cả lối mòn cũng không bị lãng quên. Thiên Chúa gieo vãi khắp nơi không biết mệt mỏi, bất kể ngày đêm, dù có nhiều người thờ ơ, từ chối và ít người đón nhận, nhưng Thiên Chúa vẫn cứ gieo, gieo trên người công chính cũng như kẻ bất lương.
Với dụ ngôn “Cỏ Lùng”. Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ cũng như dân chúng về lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với thế nhân có đủ hạng người, lành cũng như dữ. Đôi lúc thấy, sự dữ, kẻ dữ lấn án người lành, và cũng dễ thấy, người lành thánh ao ước có được một thiên đàng ngay trên trần thế, nên muốn Thiên Chúa diệt sạch kẻ ác ra khỏi thế gian. Lời thân thưa và tiếp đến là lời cầu xin của người đầy tớ với ông chủ trong dụ ngôn là một bằng chứng : “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruống ông sao ? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có? ” (Mt 13, 27) Nhiều người hôm nay vẫn hỏi Chúa : Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên mọi sự trong đó có con người, và Ngài đã chẳng thấy mọi sự đều tốt đẹp đó sao ? Vậy, sự dữ, người gian ác do đâu mà có ? Và họ khơi lên ước muốn trừng phạt : “nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ” (Mt 13, 28).
“Cỏ lùng” tiếng Do Thái, có gốc từ chữ “Satan” và nói đến việc chia rẽ. Tất cả chúng ta đều biết rằng quỷ dữ là người gieo cỏ lùng: luôn tìm cách gây chia rẽ con người với nhau, chia rẽ trong gia đình, hội đoàn, giáo họ, giáo xứ, quốc gia và dân tộc. Những người đầy tớ muốn nhổ cỏ xấu đi ngay lập tức, nhưng ông chủ ngăn cản vì sợ rằng khi nhổ cỏ lùng thì nhổ nhầm cả lúa. Bởi cỏ lùng, khi lớn lên, trông rất giống lúa tốt, nên dễ gây nhầm lẫn. Quỷ Dữ đến trong đêm để gieo cỏ lùng, trong đêm tối, trong sự hỗn loạn… Nơi đâu không có ánh sáng, quỷ sẽ đến để gieo cỏ lùng. Kẻ thù này rất tinh khôn: hắn gieo sự xấu vào giữa điều tốt, để chúng ta không thể nào tách biệt rõ ràng, nhưng Thiên Chúa sẽ làm điều đó.
Ông chủ trong dụ ngôn thật nhân hậu tuyệt vời, ông thận trọng thẳng thừng nói: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta” (Mt 13, 29-30).
Thiên Chúa của chúng ta là một người cha đầy lòng trắc ẩn, “Vì là chủ sức mạnh, nên Chúa xét xử hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung” (Kn 12, 16). Ngài luôn chờ đợi và chờ đợi với con tim rộng mở để đón chào, và tha thứ cho người có tội, kẻ gian ác muốn ăn năn. Ngài luôn tha thứ, nếu đến với Ngài… Chúa dạy : “ Người công chính phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối” (Kn 12, 19).
Thái độ của Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu rằng sự dữ không phải là điểm đầu và điểm kết. Có cái gì đó hơn thế nữa: nhờ niềm hy vọng đầy tình thương mến của Thiên Chúa mà chính cỏ lùng, là những con tim xấu xa, ngập tràn tội lỗi có thể trở nên hạt giống tốt. Vì lòng trắc ẩn không phải là làm ngơ trước sự xấu; hay là lẫn lộn giữa tốt và xấu!
Trước cỏ lùng đang hiện diện trên thế giới, cụ thể hơn, sống chung với kẻ vô đạo, kẻ gian ác, chống lại sự thiện, người môn đệ Chúa được mời gọi bắt chước Chúa, hy vọng với niềm tin vào chiến thắng chung cuộc của sự Thiện, là chính Thiên Chúa.
Thật vậy, chỉ trên mặt đất này mới có chỗ cho lúa và cỏ lùng mọc lên, chỉ trong cuộc sống nhân trần mới có bột cần chất men, nên ở trên Thiên Đàng, chỉ có Thiên Chúa là tất cả mọi sự trong mọi người.
Thánh Augustinô quan niệm : “Chính Giáo Hội là một cánh đồng có lúa và cỏ lùng, có kẻ xấu và người tốt đều chung sống với nhau, là nơi để chúng ta bắt chước gương nhẫn nại của Chúa. Những kẻ dữ hiện hữu trong thế gian này hoặc là để được cải hóa hay là nhờ họ mà những kẻ lành có thể luyện tập đức nhẫn nại”.
Vì thế, trước sự hiện hữu của cái ác, thái độ của các môn đệ Chúa Kitô là gì nếu không phải là kiên nhẫn với sự hiện hữu của cái ác trên thế giới.
Việc cần làm là tích cực gieo quanh chúng ta thật nhiều hạt tốt và gìn giữ chúng cho đến mùa thu hoạch như là (cầu nguyện, tĩnh tâm, việc lành phúc đức, giúp đỡ tha nhân…)
Tiếp đến là phải hành động với sự khôn ngoan, thận trọng khi đối đầu với sự ác, đồng thời cầu xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho, vì: “Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta”(Rm 8, 26).
Sau cùng, cần phải vững tin, hy vọng và sống bác ái; nghĩa là chinh phục cái ác bằng việc làm tốt, theo lời khuyên của thánh Tông đồ Phaolô: “Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12, 21).