CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973. 2
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG – Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 5
NGƯỜI GIEO GIỐNG – Chú giải của Fiches Donimicales. 10
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG – Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 12
TÍNH HỮU HIỆU CỦA LỜI CHÚA (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
SINH HOA KẾT QUẢ – Suy niệm của Noel Quession. 29
TÂM TÌNH NGƯỜI ĐI GIEO – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 34
ĐÓN NHẬN NHỮNG HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 38
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 43
XÂY NỀN VỮNG CHẮC – Lm Giuse Đinh tất Quý. 54
MẢNH ĐẤT TỐT CHO LỜI CHÚA – Lm Giuse Đinh tất Quý. 59
HÃY ĐÓN NHẬN VÀ GIEO CÁCH HÀO PHÓNG – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 63
HẠT GIỐNG CÓ MẦM SỐNG – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 66
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Trích Logos A.. 70
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Is 55, 10-11
“Chúng làm cho đất phì nhiêu”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13. 14
Đáp: Hạt giống rơi vào đất tốt, và sinh hoa kết quả (Lc 8, 8).
1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. – Đáp.
2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất. Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất. – Đáp.
3) Chúa đã ban cho một năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Ngài khơi nguồn phong phú. Đống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi vận xiêm-y hoan hỉ. – Đáp.
4) Đồng ruộng đông chật những đàn chiên dê, và các thung lũng được che lợp bằng ngũ cốc; muôn loài đều hát xướng và hoan ca. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 18-23
“Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Đấng đã bắt nó phải tùng phục với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 1-9 hoặc 1-23
“Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
“Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe”.
Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Người đáp lại: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: ‘Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành’. Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
“Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi”. Đó là lời Chúa.
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG – Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Người lấy dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều”: Matthêu thường dùng động từ nói (lalein) khi Chúa Giêsu thốt ra các dụ ngôn; vì đây không còn là rao giảng (kêrussein), là loan báo công bố Nước Trời, nhưng là giáo huấn về Nước đó. Một kiện quan trọng: giáo huấn này được ban bố cho các đám đông nhưng chỉ có các môn đồ là hiểu được. Đây không phải một giáo huấn bí truyền dành riêng cho một nhóm người được khai đạo như trong phái Essêni, cũng chẳng phải là các chân lý tổng quát mà quần chúng có thể đồng hóa trực tiếp, song là các dụ ngôn được đưa ra cho hết thảy mọi người. Trong hy ngữ, danh từ parabolô dịch chữ hy bá mâshâl là tiếng chỉ mọi loại giáo huấn dưới hình thức so sánh, nhiều khi khó hiểu: người ký lục “cố moi ra nghĩa bí ẩn của các câu ví, lăn lộn với những câu thai của dụ ngôn” (Hc 39, 3). Tư tưởng của ba Tin Mừng nhất lãm là: Việc Chúa Giêsu chọn hình thức giảng huấn cho quần chúng là một điều đáng ngạc nhiên.
“Này người gieo giống đi ra”: Dù ít được khai triển hơn chủ đề mùa gặt, chủ đề gieo giống cũng được Cựu ước biết đến (Hs 2, 25; Gr 31, 27; Dcr 6, 12- 13). Ở đây dụ ngôn kể lại một sự kiện đã xảy ra; mọi động từ đều ở thì aoriste; không có vì cho thấy đó là một quá trình phi thời gian. Kỳ thực, Chúa Giêsu loan báo một biến cố cánh chung: thời sau hết đã bắt đầu, Thiên Chúa đã gieo Hạt giống của Người (Chúa Giêsu) trên trái đất. Từ đây điều quan trọng là cái kết quả cuối cùng của việc gieo giống đó.
Các câu 4-8 thật khó chú giải. Dụ ngôn nhấn mạnh trên điểm nào, trên thất bại tạm thời của việc gieo vãi hay trên thành công tối hậu? Nếu nhấn mạnh đến sự thành công là biến dụ ngôn thành một lời khích lệ: giờ Thiên Chúa đã đến và cùng với giờ đó là cả một vụ mùa phì nhiêu không thể tưởng; dù thất bại và bị chống đối, Thiên Chúa vẫn làm xuất hiện từ những bước đầu chẳng mấy hy vọng đó một chung cục huy hoàng vĩ đại như Ngài đã hứa (Jeremias). Lối giải thích này đặc biệt dựa trên câu cuối cùng là câu nói đến năng suất 100, 60 và 30 một năng suất coi như khổng lồ, so với các con số Dalman đưa ra, theo đó thì năng suất trung bình thường khoảng 7, 5).
Nhưng lối giải thích này đụng phải một vài khó khăn:
1/ Một sử gia về kinh tế, K.D.White (“The Parable of ‘the Sower”, JTS 15~1964) 33-37-bài báo đã được Léon Dufour trích dẫn), cho thấy cách tính của Dalman vô giá trị năng suất 100 hay 400 trên 1 không có gì lạ lùng, vì vẫn thấy có trong vùng Giléad, gần Gadara chẳng hạn.
2/ Nếu Matthêu muốn nhấn mạnh đến sự phong nhiêu của mùa gặt, có lẽ ông đã nhấn mạnh theo chiều đi lên (30, 60, 100) thay vì đi xuống (100, 60, 30), vì như thế sẽ phá vỡ tính cách lạc quan của dụ ngôn và làm yếu đi bài học tín thác mà ông muốn đưa ra.
3/ Trong 5 câu của dụ ngôn, đã có 4 câu mô tả sự thất bại trong việc gieo vãi; nơi lời giải thích dụ ngôn, cũng tương đương như vậy.
4/ Việc nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống ăn khớp hơn nhiều với văn mạch chung của các chương ấy trong Tin Mừng Matthêu, đặc biệt hai chương 11-12 miêu tả phong trào chống đối ngày càng đi lên trước các việc quyền năng trong các chương 8-9.
Thành thử xem ra phải đọc lại dụ ngôn trong viễn ảnh này. Dĩ nhiên nó không tuyệt đối loại bỏ lối chú giải “lạc quan” (Jeremias, G.Dehn v.v…) vì quả thực hành động của Đấng Messia sẽ khải hoàn vinh thắng cách bất ngờ. Nhưng vì các người đồng thời của Chúa Giêsu liên kết (cách tự nhiên) Đấng Mêssia với thành công, nên đấy chắc không phải là khía cạnh Người muốn nhấn mạnh trong các dụ ngôn của Người. Điều làm nên “mầu nhiệm vương quốc”, mầu nhiệm mà chỉ một nhóm nhỏ gồm các “người bé mọn” mới có thể hiểu, chính là việc Đấng Messia chỉ thành công sau khi đã gặp thất bại. Do đó có thể tóm kết ý nghĩa của dụ ngôn như sau: Như người gieo giống (xứ Palestine) chỉ thành công sau khi trải qua biết bao khó khăn trở ngại, thì cũng vậy, Nước Thiên Chúa do Chúa Giêsu khai dựng chỉ có thể thiết lập sau khi đã trải qua nhiều thất bại ê chề. Và chính đó là điều mà người Biệt phái cũng như đám đông không thể “hiểu”.
“Đã ban cho các con biết những mầu nhiệm Nước Trời”: Trong các Tin Mừng, chỉ ở đây mới có thành ngữ “mầu nhiệm Nước Trời”. Theo văn mạch của đoạn văn, thành ngữ này ám chỉ nhiệm cục của Thiên Chúa theo đó việc khai mạc Nước Trời được thực hiện xuyên qua các thất bại và thử thách của Chúa Giêsu. Hình thức parfait của động từ cho biểu lộ đây là sự hiểu biết mà các môn đồ đang có bây giờ, vì trong quá khứ nó đã được ban cho họ, nhờ và trong sự hiểu biết Chúa Giêsu; đây không phải là một mặc khải đặc biệt được thêm vào kiến thức của họ về Chúa Giêsu từ trước. Khi chấp nhận trở thành ké “bé mọn”, khi đặt niềm tin vào Chúa Giêsu mà họ đang thấy (dưới những khía cạnh nhiều khi rất đáng ngạc nhiên), họ đi vào mầu nhiệm Nước Trời, mà Chúa Giêsu là tâm điểm và là chìa khóa giải thích.
“Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm”: Ai biết ngoan ngoãn khiêm nhu và rộng mở lòng mình đối với Thiên Chúa, sẽ được ban cho ơn hiểu biết dồi dào về mầu nhiệm của Ngài; nhưng kẻ nào chỉ khư khư nắm giữ các quan niệm chật hẹp và quá nhân loại về Thiên Chúa, sẽ bị cất mất cả cái điều mà họ tưởng đang có; ngày phán xét, họ sẽ bị tước đoạt tất cả.
“Mắt các con có phúc…”: Lời trích dẫn Isaia trong câu trước nói tới những kẻ nhìn và nghe mà không hiểu. Để theo đúng lối tương phản Chúa Giêsu muốn, phải chú giải mối phúc này như sau: các con có phúc không những vì đã nhìn và nghe cái mà mọi người đều nghe và nhìn. (Nghĩa là bản thân Ta và các công việc của Ta), nhưng còn nhìn và hiểu nữa.
“Vậy các con hãy nghe dụ ngôn người gieo giống”: Lời giải thích dụ ngôn đi theo một hướng hơi khác với hướng của dụ ngôn (đó là điểm mà, ngoài một số sự kiện liên hệ đến ngữ học làm ta tin rằng đây là một kiểu chú giải khuyến thiện do Giáo Hội sơ khai đưa ra, nhưng giả thuyết này không được chứng minh). Trong dụ ngôn, chính sự kiện gieo giống, nghĩa là hành động của Thiên Chúa trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, nằm hàng đầu. Trong khi ở phần giải thích, đó lại là cách thế đón nhận Lời, là khía cạnh chủ quan, là lời đáp trả của mỗi người. Tâm điểm đã bị xê dịch: từ một giáo huấn về mầu nhiệm của một Đấng Messia chịu thất bại về phương diện nhân loại người ta đi sang việc khuyến cáo đề phòng, sang lời huấn dụ hãy biết đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù sao, giữa dụ ngôn và lời giải thích, không có đối nghịch mà chỉ có khác biệt về trung tâm phải nhấn mạnh thôi.
KẾT LUẬN
Khi nghe dụ ngôn này, quần chúng có thể nhận ra mình trong ba loại đất cằn cỗi kia, và đi từ suy tư đó, họ có thể hồi tâm lại, mặc những tâm tình xứng hợp để hiểu (vì ánh sáng nửa vời của dụ ngôn vẫn là “một ân huệ, một lời mời gọi hãy cầu xin nhiều hơn và nhận lãnh nhiều hơn ” chú thích của BJ). Còn các môn đồ vừa được chất vấn vừa được trấn an: được chất vấn để trở nên mảnh đất tốt hầu sinh hoa quả đến mức tối đa, và được trấn an nhờ việc Chúa Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người ý thức các thất bại của mình và cho thấy chúng đã được tiên liệu trong kế hoạch của Thiên Chúa. Dụ ngôn cỏ lùng tiếp liền dụ ngôn người gieo giống loan báo các thất bại đó sẽ không ngăn cản nổi chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa trong ngày mùa sau hết.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Biết bao chính nhân và ngôn sứ Cựu ước, quảng đại và sẵn sàng hơn ta, đã suốt đời trông chờ sự mặc khải đã ban cho ta, mà không được. Họ mong ước nghe, thấy điều ta nghe thấy, nhưng không có gl được ban cho họ cả. Còn chúng ta ngày nay được Chúa tỏ lộ cho “các mầu nhiệm Nước Trời ” qua tiếng nói của Giáo Hội.
2) Chúa Kitô đến đảo lộn lịch sử thế giới bằng cách gieo vào đó hạt giống Lời Người. Thế giới này trước kia cằn cỗi và đông ngóng ơn cứu độ, bây giờ có thể trở thành phong nhiêu và sinh được hoa trái. Cũng thế, Lời Chúa mà ta nghe mỗi Chúa Nhật phải đến đảo lộn cuộc đời của ta, kéo nó ra khỏi vùng sa mạc cằn cỗi, để làm nó đơm hoa trong các việc thiện và trong niềm vui.
3) Đôi khi ta giống như con đường trong dụ ngôn: nhận lãnh nhiều dấu chỉ của Chúa, nghe nhiều lần lời Tin Mừng, nhưng lời đó chẳng nói gì với ta, ta như người không hiểu.
4) Trái lại nhiều lúc khác ta nghe và vui vẻ đón nhận lời Tin Mừng, nhưng giống như vùng đất sỏi đá của dụ ngôn. Lời Chúa chạm đến ta như một luồng sáng, như một điều hiển nhiên, như một ao ước thực hiện ngay tức khắc. Nhưng trước khi ta bắt tay hành động, thì các trở ngại đã đến chồng chất, dù đôi khi không quan trọng mấy. Vì lời chế giễu của một người thân, vì nể nang kẻ khác mà tất cả tan tành như mây khói.
5) Cũng có khi ta đã bắt đầu sống thực một lời Tin Mừng khó khăn nào đó. Nhưng các trách vụ, các lo lắng thường nhật, đời sống xã hội với những yêu sách trần tục của nó đã làm ta chỉ trung tín trong chốc lát. Và lời Chúa đã thành phụ tùy.
6) Thỉnh thoảng ta là mảnh đất tốt, và rất lâu, có lẽ trong nhiều năm ta cảm nghiệm được niềm vui sâu xa được trọn vẹn thuộc về Chúa và anh em. Đó là một ân huệ lớn lao, ta phải khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.
7) Mảnh đất tốt là những người, như các môn đồ, tín thác vào Chúa dù Lời Ngươi gặp nhiều thất bại nhất thời như. Giáo Hội bị bách hại, một số linh mục sống bê bối, nhiều Kitô hữu ít sống Tin Mừng, tội lỗi của bản thân ta, những cám dỗ thường trực thúc giục ta sống đời ích kỷ.
8) Có nhiều dị biệt trong việc hiểu Lời Chúa. Tất cả những kẻ đạt đến đức tin không nhất thiết đạt đến sự trưởng thành Kitô giáo của người môn đồ đích thực của Chúa Giêsu. Đức tin có thể coi như mầm kiến thức và khôn ngoan của- Thiên Chúa. Nhưng chính mức độ yêu thương và từ bỏ của mỗi người chúng ta mới quyết định mức độ thâm sâu mà Thiên Chúa đưa ta vào tròng lãnh vực thâm giao với Ngài.
9) Không ai có thể xét đoán sự phong nhiêu của kẻ khác. Nào ai biết được bề trong các trở ngại mà người bên cạnh gặp trong cuộc: sống Kitô hữu của họ (chim trời, Satan, gai góc, mặt trời. nóng cháy của dụ ngôn)? Biết đâu khi gặp cùng một khó khăn như thế, chính ta lại cằn cỗi hơn…
10) Niềm vui vỡ bờ của môn đồ Chúa Giêsu là biết rằng: dù gặp trở ngại, Lời Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng trong các tâm hồn và làm phát sinh một vụ mùa phì nhiêu. Trong lúc chờ đợi mỗi người hãy tìm cách sống Lời Chúa trong chính cuộc sống của mình.
NGƯỜI GIEO GIỐNG – Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Hiệu quả của Hạt giống Lời Chúa.
Ta đã kết thúc “bài diễn từ sai đi” bằng kinh nguyện truyền giáo của Đức Giêsu. Một lời nguyện tạ ơn, trái ngược hẳn với sự tiếp đón hờ hững lời Người giảng dạy tại Galilê. Với chương 13, ta lại gặp nhau trong một đoạn mới của Phúc âm thứ nhất (12,22; 16,20) mà sợi chỉ đỏ là căn tính thực sự của Đức Giêsu. Căn tính ấy đạt tới cao điểm trong lời tuyên xưng của Phêrô ở chương 16,16. Trong lúc các luật sĩ và biệt phái không ngừng lún sâu vào con đường mù quáng. Họ tuyên bố. “Người này trừ quỉ nhân thân Belzébolul, tướng quỉ”.
Những tâm hồn “bé nhỏ” lại mở rộng đón tiếp mầu nhiệm bản thân và sứ vụ của Ngài. Họ tự hỏi “Phải chăng người này là con vua Đavit. Trong bối cảnh này, Matthêu đặt bài diễn từ thứ ba của Đức Giêsu, bài “diễn từ bằng dụ ngôn một tập họp bảy dụ ngôn và bốn là của riêng ngài (dụ ngôn cỏ lùng, viên ngọc và lưới cá). Trong các dụ ngôn, Đức Giêsu biểu dương một “tài năng không ai bắt chước được, một người kể chuyện độc đáo” như J. Potin nhận định. “Dụ ngôn kích thích óc tò nó nắm bắt thực tại của cuộc sống hằng ngày, tách ra một mảng, dàn dựng thành cảnh để hướng thính giả về một thực tại vô hình? phụ thuộc vào điều mắt thấy tai nghe hằng ngày. Ngồi trên thuyền, Đức Giêsu thấy một đám đông mênh mông chen chúc nhau trên bờ hồ. Ngài bất đầu giảng dụ ngôn người gieo giống. Một dụ ngôn nói với những người thất vọng vì kết quả ít ỏi của lời Người giảng dạy, nói với các môn đệ vì họ có cảm tưởng rằng Lời Người chỉ gặp thuần thất bại. Một đụ ngôn của niềm hy vọng, rất hiện thực, vì như J. Dupont viết: “Những thất bại ấy, ngày nay đâu thiếu, cũng không thiếu những Kitô hữu chán nản. Đức Giêsu muốn thông truyền niềm tin không gì lay chuyển được của Người. Được Đức Chúa Cha sai, Người đã đến khai mạc Nước Thiên Chúa: “Này người gieo giống đi gieo”. Và, bất chấp những khó khăn, chậm chạp, thất bại, mùa gặt cũng sẽ tới. Dường như Thiên Chúa gieo thuần trong thất bại? Nhưng từ những khởi đầu ít hứa hẹn ấy, sẽ bừng lên một mùa thu hoạch vượt quá mọi niềm by vọng: huê lợi kỳ diệu của hạt giống rơi trên “đất tốt”, sẽ đền bù rộng rãi những thất bại. J. Potin nói tiếp: “Đức Giêsu không phải không biết đến hoàn cảnh phức tạp của con người trong đó Thiên Chúa muốn gieo mầm mống Nước Trời. Cách thế gieo hạt ở Palestine đã cho Ngài cơ hội giải thích nước Trời, người ta gieo trước khi cày ruộng. Người qua kẻ lại băng ngang làm đất chai lì, không cho hạt giống mọc lên. Đất không mầu mỡ hoài hoài. Đá trồi, gai mọc bóp nghẹt cây lúa trước khi nó kịp nẩy nở. Nhưng dù huê lợi không đồng đều đất mầu mỡ vẫn có. Người gieo, tức Thiên Chúa, ước lượng rằng hạt giống có mất mát, mùa gặt vẫn bội thu. Đức Giêsu khẳng định Nước Thiên Chúa sẽ đạt đến viên mãn dù có những chướng ngại. Đến mùa gặt, Thiên Chúa sẽ có lý do để mừng vui. Trong viễn tượng này, ta cảm thấy Đức Giêsu reo lên vui mừng. Ta đoán được điều đó trong các kết quả tăng dần: 30, 60, 100 cho một hạt. Hành động của Thiên Chúa không thể dẫn đến thất bại. Hành động ấy có hiệu quả, như “Lời của Người”.
- Những thửa đất khác nhau.
Tự thân dụ ngôn, dụ ngôn của niềm hy vọng, tập trung vào giạt giống – Lời Chúa và hiệu quả của nó. Việc giải thích dụ ngôn cho cộng đoàn ở các câu 10 và tiếp theo lại nhấn mạnh đến tính chất khác biệt của các thửa đất và phẩm chất đón nhận của chúng. Tin vào hiệu quả của Lời Chúa không được làm quên đi trách nhiệm của những kẻ nghe lời: Kết quả cụ thể của việc gieo hạt tuỳ thuộc vào thái độ đón nhận của họ. J. Potin kết luận: “Giáo Hội đã, nhân dụ ngôn này, tố cáo những thiếu sót tinh thần ngăn cản sự tiến bộ của đời sống Kitô hữu… ở mỗi thửa đất, ta dễ dàng thấy những thái độ mà các nhà giảng thuyết tố cáo: sa chước cám dỗ của Satan, nhất là trong lúc bị bắt bớ, sự hời hợt của đức tin, gắn bó với của cải vật chất.
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG – Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9), tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban “bài sai” cho các sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê (ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người. Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái giáo, ch. 13 đề cập tới “mầu nhiệm” Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:
– đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
– đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để xác nhận thái độ không tin của họ; và điều thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nho a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo cấu trúc chuyển hoán);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
– dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có đọng từ paraballô có nghĩa là “so sánh, đối chiếu”. Kể một dụ ngôn (parabolê, hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc biệt ghi nhận các nét “khác thường” thì mới hiểu được bài học căn bản.
– có những hạt rơi xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến khía cạnh “khác thường” của lối xử sự của người gieo giống.
– hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White) cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng, chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc (30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích “lạc quan” (Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm nên “mầu nhiệm Nước Trời”, mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn “những kẻ bé mọn” mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc mà đặt cho dụ ngôn nhan đề “Người gieo giống” (Mt 13,18). Thật ra người gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ ngôn về “Lời rao giảng Nước Trời”. Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18). Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40). Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh “hoa quả”, tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là 30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
– các mầu nhiệm Nước Trời (11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
– Hễ ai nghe lời … đó là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn “Người gieo giống” đã được chuyển thành dụ ngôn “Lời rao giảng về Nước Trời”. Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích, là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc 4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b, “điều đã được gieo trong lòng” hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, “điều (CGKPV: “kẻ”) được gieo” là “kẻ nghe”. Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là “Lời rao giảng về Nước Trời”.
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x. Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc 4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn về thời gian, “hôm ấy” (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là “dân chúng”, lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi “nhà” và đi đến bờ hồ (c. 1). Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức Giêsu “rời bỏ nhà”. Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh Người, đều phải chấp nhận “bỏ nhà” (10,35-36; 19,21).
Nới chốn là “Biển Hồ” (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một “chiếc thuyền”, mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13; 15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng “ngồi” (2 lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị thầy. Đám đông thì “đứng”: đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia đình Đức Giêsu “đứng bên ngoài” (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào dân chúng chiến chỗ của những người đứng bên ngoài.
Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không dùng từ “didaskeô, “dạy” của TM Mc, mà dùng động từ “nói” (laleô, “to speak”), bởi vì ngài thường dùng động từ “dạy” cho việc giải nghĩa Lề Luật và công bố cung cách sống luân lý, thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55; 28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng “dụ ngôn” (x. cc. 3.10.13). Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.
* Dụ ngôn Người gieo giống (3b-9)
Đọc bài dụ ngôn, ta ghi nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là “người gieo giống” (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ “siêu đẳng”. Ông đi vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc, mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một “hành động biểu tượng” được minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, …; nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả. Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả “các con đường” khô cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng người, không phải chỉ cho những người “tốt”, nhưng cho mọi người. Sứ mạng của Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt, nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ, giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí, Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô chồi nhất vẫn có thể trở thành đất “tốt”.
Trong khi biện minh cho các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không thể “hiểu” được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.241.31) kéo dài khá lâu trong khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ đợi. Chúng giúp “giải thích” vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do-thái thì không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở 11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi “cho” (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo văn mạch, “anh em” là các môn đệ, còn “họ” là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do-thái, Hội Thánh sơ khai thấy là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động (trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ “ban/cho” nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời “tâm sự” này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản văn của Isaia (6,9-10). Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c. 13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn sứ, “bởi vì” (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn “thấy và nghe” những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường. Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì ngài gán cho Đấng Cứu thế ý định trừng phạt: “để [hina mục đích] họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy” (Mc 4,11)2.
Mt rút bản văn Is 6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể Israel. Như thế, nếu công việc của ông không đạt được kết quả mong ước, lỗi thuộc về con cái Israel. Đức Giêsu cũng thấy sứ mạng của Người đang đi vào con đường đó. Nhưng khi họ từ chối Đấng Mêsia, họ đã làm cho lời sấm ngôn nên trọn (c. 14). Ngôn sứ Isaia dĩ nhiên không nghĩ tới lời giảng của Đức Giêsu, nhưng điều này không ngăn cản Mt thấy rằng vị ngôn sứ cũng đã báo trước về số phận của lời rao giảng này.
Tác giả đang “cay cú” với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi (5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (18-23)
Phần “giải thích” lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9) về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới. Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời, … đã có một ý nghĩa biểu tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng tương lai của Nước thiên sai; đề tài của “phần giải thích” lại nhìn đến số phận của lời nơi mỗi thính giả. “Dụ ngôn Người gieo giống” đã chuyển thành dụ ngôn về “Lời rao giảng Nước Trời” (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần, trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là “sự kiên trì” khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, “có những [hạt]”, alla, “có những [hạt] khác” (cc. 4-8) bằng từ số đơn (“ai nghe”: cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau (“nghe” theo nghĩa Kinh Thánh là “hiểu”, tức là gắn bó về trí thức, và “vâng lời”, tức gắn bó bằng đời sống. Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy, sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Quả thật, thành công đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.
- Hoạt động của Đức Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành “đất tốt” nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự hoạc cứng cỏi của các thính giả.
- Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x. 3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả, mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
- Đời sống Kitô hữu sẽ gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ điệp của Đức Kitô.
TÍNH HỮU HIỆU CỦA LỜI CHÚA (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên năm A này là tính hữu hiệu của Lời Chúa.
Is 55: 10-11
Trong đoạn trích của tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này, Lời Chúa được sánh ví với ơn mưa móc làm cho hạt giống, nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc và đem lại cơm bánh cho con người.
Rm 8: 18-23
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô kêu mời suy gẫm, bên kia mầu nhiệm đau khổ, số mệnh vinh quang đang chờ đón không chỉ con cái Thiên Chúa nhưng còn muôn loài thụ tạo nữa.
Mt 13: 1-23
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Người Gieo Giống”. Chúa Giê-su sánh ví Lời Ngài với hạt giống. Hạt giống được gieo vào những mảnh đất tốt, chắc chắn sản sinh một vụ mùa bội thu.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 10-11)
Bản văn này gợi lên tính hữu hiệu của lời Chúa có thể sánh ví với tính hữu hiệu của ơn mưa móc làm cho đất phì nhiêu. Bản văn này được chọn vì mối liên hệ gần gũi của nó với dụ ngôn“Người Gieo Giống” trong Tin Mừng hôm nay. Bản văn này được trích từ chương cuối tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon này an ủi những người đồng hương bất hạnh của ông khi hứa với họ rằng Đức Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
1.Tính hữu hiệu của Lời Chúa:
Vị ngôn sứ khẳng định rằng những gì Chúa đã hứa như thế không thể nào là dối trá được, vì Lời Chúa nhất thiết phải phát sinh thành quả của mình, chắc chắn như ơn mưa mốc từ trời xuống đem lại sự phong nhiêu cho đất đai và phúc lộc cho con người trước khi trở về trời cao. Những hình ảnh được dùng để so sánh ở đây không thuần túy là thi ca: “mưa trời và sương sa là dấu chỉ ơn cứu độ nhưng không”. Ở đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ đã nhắc nhớ rằng nước mà trời ban thì không phải trả đồng nào. Từ đó, ông lại kêu gọi dân chúng hãy tin tưởng. Tính hữu hiệu của Lời Chúa được minh chứng một cách tuyệt vời nhất đó sẽ là cuộc giải thoát sắp đến cho những người lưu đày. Ông kêu to lên ngay sau đoạn trích này:
“Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ hân hoan,
rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự” (Is 55: 12)
2.Nhân cách hóa lời Chúa:
Trong bản văn này, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa; Lời Chúa được sánh ví như một sứ giả ra đi để chu toàn sứ mạng và sẽ chỉ trở về khi sứ mạng được hoàn thành. Đức Giê-su sẽ hiện thân Lời Chúa này. Ngài sẽ trở về nhà Cha chỉ khi Ngài chu toàn sứ mạng cứu độ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 18-23)
Chúng ta tiếp tục đọc chương 8 được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân vừa mới chứng tỏ rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu được liên kết với vận mệnh của Đức Ki-tô. Chính nhờ Ngài và trong Ngài mà chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đồng thừa tự với Ngài.
1.Vận mệnh vinh quang của con cái Thiên Chúa:
“Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ, sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa đã mặc khải nơi chúng ta”. Kiểu nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ”, có thể được hiểu là những hoàn cảnh trần thế mà người Ki-tô hữu đang sống, nhưng chắc chắn là những gian nan thử thách mà họ phải chịu trong cuộc chiến đấu chống tội lỗi. Đau khổ tự nó là một điều dữ không thể nào phát sinh vinh quang được; tuy nhiên, đau khổ lại trở nên nguồn mạch vinh quang chỉ khi nào được liên kết với Đức Giê-su, vì chính ở nơi Ngài mà đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của một mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”.
2.Muôn loài mong chờ được giải thoát:
Những gì được thánh Phao-lô khai triển ở đây không xuất phát từ một hệ thống triết học, cũng không từ một quan niệm khoa học về vũ trụ, nhưng được đặt trên nền tảng Kinh Thánh. Thế giới đã được sáng tạo cho con người; vì thế, nó liên đới với vận mệnh của con người; tất nhiên, nó đã bị nguyền rủa do tội lỗi của con người: “Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra” (St 3: 17). Chính dựa trên lời nguyền này mà thánh Phao-lô đã quả quyết: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng vì Thiên Chúa bắt chịu vậy”. Theo thánh Phao-lô, chính trong kế hoạch của Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật, vì được liên kết với án phạt của con người, cũng được dự phần vào ơn cứu độ và được giải thoát khỏi cảnh hư nát. Các ngôn sứ đã loan báo:
“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo” (Is 65: 17-18; x. 11: 6-9).
Thánh Phao-lô ám chí đến lời loan báo này: “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài trong vũ trụ cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh con”.
Vả lại, văn chương khải huyền đã mở rộng những niềm hy vọng vào thời Mê-si-a vượt quá cái khung chủ nghĩa quốc gia chật hẹp để đạt đến toàn thể nhân loại, và thậm chí đến muôn vật vô tri vô giác.“Thế giới tương lai” được mô tả như một thế giới thay hình đổi dạng nhờ những thực tại thiên giới đột nhập vào. Thư thứ hai của thánh Phê-rô gợi lên viễn cảnh này bằng những ngôn từ khải huyền: “Trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ cháy tan ra trong lửa hồng. Nhưng theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3: 12-13).
Trong các thư được viết trong cảnh bị giam cầm, thánh Phao-lô sẽ lấy lại cùng viễn cảnh vĩ đại này, bằng những biểu thức ngắn gọn hơn; chẳng hạn như trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô chúc tụng Đức Ki-tô là thủ lãnh vũ trụ, nhờ Ngài và cho Ngài “Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1: 20). Đây cũng là những điểm nhấn trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô (1: 9-13).
3.Vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tư tưởng của thánh Phao-lô dựa trên thần học Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, theo đó vai trò của Chúa Thánh Thần không thể nào vắng bóng được. Chính Chúa Thánh Thần đã khởi sự rồi trong chúng ta sự biến đổi này và cho phép chúng ta hy vọng về “một sự giải phóng thân xác chúng ta trong tương lai”. Cũng cách thức như vậy đối với muôn loài muôn vật, tức là toàn thể thế giới hữu hình biệt phân với loài người. Vì thế, tư tưởng của thánh Phao-lô ngược lại với tư tưởng Hy-lạp. Trong khi tư tưởng Hy-lạp mong muốn giải thoát tinh thần khỏi vật chất, thì thánh Phao-lô nhắm đến khôi phục vật chất nhờ Chúa Thánh Thần.
Giáo Hội đã tiếp nhận viễn cảnh của thánh Phao-lô. Công Đồng Vatican II được khơi nguồn cảm hứng từ viễn cảnh này (cũng một phần từ cha Teilhard de Chardin như trong tác phẩm “Cảnh Vực Thần Linh”).
TIN MỪNG (Mt 13: 1-23)
Trong chương này, thánh Mát-thêu tập hợp bảy dụ ngôn, trong đó bốn dụ ngôn: “cỏ lùng”, “kho báu”,“ngọc quý” và “chiếc lưới” thuộc nguồn riêng của thánh nhân, còn hai dụ ngôn: “người gieo giống” và“hạt cải” thì có chung nguồn với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, trong khi dụ ngôn “men trong bột” thì có chung với thánh Lu-ca. Bảy dụ ngôn này hình thành nên một tổng thể thuần nhất: cả bảy dụ ngôn đều có mối liên hệ tới “Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay chỉ trích dẫn dụ ngôn “Người Gieo Giống”.
Các dụ ngôn là những thực tại thường ngày dễ thấy được dùng để nói về những thực tại tinh thần vốn cao siêu mầu nhiệm khó nắm bắt được. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư thường sử dụng phương thức này để đánh động sự chú ý của thính giả và khơi dậy những suy tư của họ. Thật ra, các ngôn sứ đã sử dụng phương thức này rồi và truyền thống đã gán cho vua Sa-lô-mon là nhà khai sinh phương thức giảng thuyết bằng dụ ngôn.
1.Người gieo giống chính là Đức Giê-su:
Khi dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với thính giả Ga-li-lê của Ngài, Chúa Giê-su mô tả số phận của mỗi hạt giống tùy thuộc vào vùng đất tiếp nhận nó. Trước hết, hạt giống gặp phải không chỉ những khó khăn nội tại do từ các loại đất: vệ đường chai cứng, đất đầy sỏi đá, đất đầy bụi gai, nhưng còn những chướng ngại đến từ bên ngoài: chim trời, nắng cháy. Tuy thế, “có những hạt giống rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”. Hình ảnh được diễn tả ở đây rất mạnh, vì ở miền đất Pa-lét-tin, vào những vụ mùa bội thu nhất, sản lượng không vượt quá mười đến mười hai hạt lúa cho mỗi hạt giống.
Qua những gợi ý này, Đức Giê-su muốn đám đông cũng như các môn đệ Ngài hiểu rằng chính Ngài là“người gieo giống” ra đi gieo Lời Thiên Chúa, như thánh Mát-thêu giới thiệu ngay từ đầu: “Hôm ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra”. Như người nông dân gieo hạt giống trên khắp cánh đồng với đủ loại đất, Đức Giê-su gieo Lời Hằng Sống của Ngài một cách hào phóng cho hết mọi hạng người, không trừ một ai. Tuy nhiên, chỉ những ai mở rộng lòng mình đón nhận lời Ngài thì lời Ngài mới sinh hoa kết quả.
2.Cách thức tiếp đón Lời:
Các môn đệ không thể hiểu ngay tư tưởng của Đức Giê-su, vì thế các ông hỏi Ngài: “Thưa Thầy, sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”. Câu trả lời của Đức Giê-su thì thật rõ ràng: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Đây là lần duy nhất và vào dịp duy nhất này mà trong các sách Tin Mừng xuất hiện từ “mầu nhiệm”. Tiếp đó, Đức Giê-su còn trở nên nghiêm khắc hơn khi trích dẫn một câu ngạn ngữ và áp dụng câu ngạn ngữ này vào việc tiếp đón Lời Ngài: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ còn dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, thì cũng sẽ bị lấy mất”. Chỉ ai thành tâm thiện chí mở rộng lòng mình ra trước ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng đón nhận nhiều ánh sáng hơn nữa; nhưng nếu ai không màng chi đến ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng trở nên tăm tối hơn.
3.Mục đích Chúa Giê-su rao giảng bằng dụ ngôn:
Khi rao giảng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su không cố ý làm cho lời dạy của Ngài trở nên bí nhiệm để làm nhụt chí thính giả của Ngài. Trái lại, với những hình ảnh thân quen và những ngôn từ cụ thể, Ngài muốn thính giả của Ngài nắm bắt được những chân lý cao siêu mà Ngài thông truyền cho họ. Quả thật, ngay liền sau đó, thánh Mát-thêu nhấn mạnh như vậy khi trích dẫn Tv 78: 2:
“Mở miệng ra, tôi sẽ đôi lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa xưa”.
Tuy vậy, đám đông này lắng nghe lời Ngài, nhưng không thực tâm muốn hiểu đúng sứ điệp của Ngài mà lại theo sở thích của họ, theo những ước muốn của họ, theo những nhu cầu tư lợi của họ. Trước những tâm trí mù lòa của họ, Ngài đã phải thốt lên những lời cay đắng: “Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”, và Ngài sánh ví đám thính giả này với dân chúng mà ngôn sứ I-sai-a đã gặp rồi vào thế kỷ VIII tCn: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành” (Mt 13: 14-15; x. Is 6: 9-10).
Sấm ngôn I-sai-a này được cả ba Tin Mừng nhất lãm (Mt 13: 14-15; Mc 4: 12; Lc 8: 10) và Tin Mừng Gioan (Ga 12: 40) trích dẫn, cũng như được dùng để kết thúc sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 28: 26-27). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng sấm ngôn này đã được ứng nghiệm: việc dân Do thái từ chối là một sự kiện không thể chối cãi trong thời Giáo Hội tiên khởi, vì thế “ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại” (Cv 28: 28).
Sấm ngôn I-sai-a này được trích từ bài trình thuật về ơn gọi của vị ngôn sứ. Đức Chúa báo trước cho vị ngôn sứ biết rằng sứ mạng của ông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì ông sẽ phải ngỏ lời với một dân cố tình nhắm mắt bịt tai và rồi thế nào sứ mạng của ông cũng sẽ phải thất bại. Đây là kiểu nói mang đậm sắc thái sê-mít nhằm bày tỏ sự hờn dỗi, nhưng dễ hiểu lầm, như ở Việt Nam chúng ta khi cha mẹ nói với con cái mình với giọng giận hờn: “Đồ ngoan cố cứng đầu, nói mấy cũng không chịu nghe, chết đi cho khuất mắt”. Vì thế, để có thể giúp cho người thời nay hiểu được câu nói bí nhiệm này, có người đề nghị thay mệnh đề “kẻo (less)” bằng “trừ phi (unless)” như sau: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt,trừ phi mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành”. Dù thế nào, hoàn cảnh của vị ngôn sứ cũng tương tự như hoàn cảnh của Đức Giê-su trước lòng chai dạ đá của con người.
4.Những người gieo giống tương lai:
Tương phản với những viễn cảnh bi quan này, Đức Giê-su gặp thấy niềm vui mà niềm tin của nhóm nhỏ môn đệ Ngài đem lại cho Ngài, những người mà Ngài sắp làm cho họ trở thành những người gieo Lời Ngài trong tương lai. Họ sẽ vấp phải những khó khăn tương tự, nhưng trên những mảnh đất tốt họ sẽ thu hoạch một vụ mùa kỳ diệu. Chúa Giê-su lập lại những con số thật choáng ngợp: “kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba mươi”. Bởi vì không ai có thể nghi ngờ về tính hữu hiệu của Lời Chúa. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giê-su sẽ dùng hình ảnh hạt giống để diễn tả sứ mạng của chính Ngài: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12: 24). Để có được một vụ mùa bội thu, hạt giống cần phải chết đi. Cái chết đem lại một vụ mùa bội thu này sẽ là cái chết của chính Ngài.
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt
SINH HOA KẾT QUẢ – Suy niệm của Noel Quession
Trong ba Chúa nhật của mùa hè đang đến, chúng ta sẽ đọc bảy bài dụ ngôn mà Thánh Matthêu đã tập họp trong bài giảng dài thứ ba của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu đi qua một khúc quanh trong sứ vụ của Người: Người đụng phải sự thù ghét công khai của các thủ lãnh tôn giáo. Họ quyết định loại trừ Người (Mt 12,14)… Những đám đông, sau nhiệt tình dễ dàng lúc ban đầu, đã thất vọng bởi vì Đấng Mêsia ấy từ chối bước qua hành động chính trị.
Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven biển hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.
“Dụ ngôn” dịch từ “mâchâl” của tiếng Do Thái, có nghĩa là “một chuyện kể tượng trưng dùng để làm cho người ta khám phá một ý nghĩa ẩn giấu”: Thế giới tạo vật đầy những biểu tượng. Khi quan sát những thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày. Đức Giêsu nhìn qua chúng, những thực tại thánh thiêng. Ví dụ như công việc của những nông dân làm Người nghĩ đến một sự việc khác… Các bạn thử đoán việc gì nào?
Người nói: “Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt…”
Những hạt giống tội nghiệp! Và người gieo hạt đáng thương! Tại sao Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một loạt những thất bại ấy? Cho đến bây giờ công việc của người gieo hạt hoàn toàn vô ích.
Chúng ta cũng thế, thường trong những thực tế nào đó của cuộc sống, chúng ta có ấn tượng đã thất bại thảm hại… ngay từ đầu, và sau một thời gian ngắn nẩy mầm hoặc sau một thời dài hơn thành công. Tất cả những thất bại này, Đức Giêsu đã gặp. Trong lúc kể lại dụ ngôn này, Người nghĩ đến những thất bại trong việc tông đồ của chính mình. Không che giấu mọi sự thất bại đó Đức Giêsu phân tích chúng một cách sáng suốt…
Nhưng Người muốn đi tới đâu? Người gieo hạt phải chăng đã mất thời gian vô ích?
Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa, kết quả: hạt dược gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.
Vậy đây là một bài học phi thường về lòng trông cậy mà Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Khi bạn nhìn đời sống đáng thương của bạn, khi bạn nhìn Giáo Hội, hoặc thế giới bạn chớ ở lại trong những nhận định bi quan và nản chí: bất chấp mọi thất bại, một mùa gặt sẽ đến. Các bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn với con cái mình, xin các ông bà chớ từ chối gieo hạt. Giới trẻ chưa thành công trong công việc của mình, các bạn hãy lắng nghe sứ điệp lạc quan và thực tế của Đức Giêsu. Mặc dù sứ điệp đã được công bố hai ngàn năm nay, nó vẫn giữ được mọi sự mới mẻ hợp thời đại. Thế giới ngày nay luôn cần đến sứ điệp ấy.
Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết phân biệt các hạt giống nào… hứa hẹn những mùa gặt… bất chấp mọi vẻ bề ngoài trái ngược.
Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ, Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa! còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.
Không đi vào việc giải thích chuyên môn đoạn văn khó hiểu này, ít nhất chúng ta hãy nhận ra chân lý rất hiện đại của nhận định ấy… Có những thời kỳ người ta có sự nhất trí trong đức tin và toàn thể những người được dạy giáo lý xem ra đều gắn đức tin ấy với đức tin được giảng dạy. Ngày nay, chúng ta tìm thấy tình hình mà Đức Giêsu gợi ra: người ta có thể “tiếp nhận” hoặc “từ khước” lời đề nghị của đức tin. Đức Giêsu phân biệt rõ ràng hai loại thính giả: những người nhìn, nghe và hiểu… và những người không nhìn, không nghe. Đức Giêsu đã không chọn lựa để Người trở nên khó hiểu? Người không nói: “bằng dụ ngôn” để che giấu một số chân lý cho lột số người.
Thật ra, Đức Giêsu không thể nói về Thiên Chúa cách nào khác với dụ ngôn. Sự thuyết giáo của Người mạc khải những “mầu nhiệm” vượt quá con người một cách vô cùng tận, và một phần lớn vẫn còn bị “che giấu”… Chính trong phần không rõ ràng này mà tự do của con người được kêu gọi. Người ta không “tự do” trước điều gì đã hiển nhiên. Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa, trong tất cả sự phong phú của nó, không phải là một chân lý được áp đặt. Đó là một bí mật chỉ được bày tỏ cho những tấm lòng sẵn sàng lắng nghe. Một dụ ngôn không rõ ràng… Phải tìm kiếm… Phải ước muốn.
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Và lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”.
Chúng ta cảm thấy sự đau khổ của Đức Giêsu nhiều dường nào trước những sự từ khước ấy! Người đã đến để đem lại cho họ ánh sáng, để mở mắt họ ra… để chữa cho họ bệnh mù lòa. Nhưng Người không thể cũng không muốn “ép buộc” họ. Người tôn trọng tự do của họ.
Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.
Vâng, Lạy Chúa, con muốn lắng nghe. Xin Chúa cho con đôi tai tinh tế và đôi mắt mới mẻ.
Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ được gieo bên vệ đường.
Trong việc giải thích dụ ngôn, điểm nhấn mạnh không được đặt trên khả năng của hạt giống hay niềm hy vọng không gì thắng nổi của người gieo hạt (như chúng ta đã ghi nhận)… nhưng đặt trên sự khác nhau của đất, nghĩa là trên những thiên hướng của những người đón nhận “lời Thiên Chúa”… Trong nhóm người thứ nhất đức tin không bám, không đâm rễ, hạt giống cũng không nẩy mầm… bởi vì chim chóc đã đến ăn mất hạt trên đường.
Bên trên những hình ảnh cụ thể. Đức Giêsu còn nhìn rất xa: người lắng nghe Lời Chúa có một kẻ thù. Chúng ta đã quên điều đó sao? Một kẻ thù đáng ngại mà Đức Giêsu gọi là “quỷ dữ”. Đàng sau con người không đạt được đức tin, có một thứ vực thẳm mầu nhiệm, và cũng như chính đức tin nó không hoàn toàn trở thành hợp lý được: nó là một quyền lực ẩn giấu mà con người không làm chủ được. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ!
Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay…
Sau kẻ không tin vì đức tin chưa được nẩy mầm, giờ đây cũng theo Đức Giêsu, là người tín hữu “bỏ ngũ”, người ấy bỏ đạo như cách nói rõ ràng của Thánh Luca trong đoạn văn song song (Lc 8,18). Thiếu rễ cây? Người ấy nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ; ngược đãi ập đến. Than ôi! Chúng ta biết rõ hoàn cảnh này thường xảy đến. Lạy Chúa, xin cho con được bám rễ trong Chúa!
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì…
Giờ đây là “người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin”… bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Đức Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại. Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Đức tin bị bóp nghẹt? Đức tin dần dần xanh xao vì thiếu hơi thở và một ngày kia bị chết nghẹt. Phần còn lại, tất cả đã chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống: “Các bạn biết đấy? Làm sao tôi có thể đi nghe Lời Chúa ngày Chúa nhật! Tôi còn đi xem đá banh, đi chơi lướt ván… và vì tôi quá mệt với tuần lễ của tôi, vậy thì tôi phải tranh thủ ngày nghỉ “cuối tuần”… Và chính điều chủ yếu phải vượt qua mọi thứ khác!
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự quyến rũ của thế gian và bả vinh hoa phú quý.
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.
Sinh hoa kết quả!
Đó là điều mong ước mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43). Một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Đức Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa, kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài. Thông qua sự phân tích về các mức độ lác nhau của đức tin chúng ta đoán ra rằng không có gì vĩnh viễn là chung cuộc. Đó là điều mà ngày hôm nay chúng ta nhận định xung quanh chúng ta và ở trong chúng ta. Đức tin là một “đời sống”, một ngày nào đó được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa quả… nhưng là một đời sống mong manh phải được phát triển ở giữa nhiều nghịch cảnh đang tấn công nó…
Nếu chúng ta cần làm cho đức tin phát triển… thì chúng ta cũng phải trở thành những “người gieo vãi Phúc Âm”, và chuẩn bị đất đai, ngõ hầu tấm lòng của anh em mình trở thành một mảnh đất tốt sinh ra gấp trăm. Chúng ta quan tâm đến chính hạnh phúc của họ: “Phúc thay ai lắng nghe Lời và đem ra thực hành!”
TÂM TÌNH NGƯỜI ĐI GIEO – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.
Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.
Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.
Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.
Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.
Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.
Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.
Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.
Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.
Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.
Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.
Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.
Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.
Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?
2- Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?
3- Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?
ĐÓN NHẬN NHỮNG HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Anh chị em thân mến
Chúng ta đều biết ảnh hưởng của lời nói : có những lời nói khiến ta sung sướng vô cùng, nhưng cũng có những lời nói làm lòng ta đau nhói ; lời của những bậc khôn ngoan dạy ta nhiều điều hay lẽ phải, còn lời đường mật của những người xấu có thể dụ ta đến những thiệt hại khôn lường.
Hôm nay, Chúa bảo ta hãy lưu ý đến Lời của Chúa. Đó là những hạt giống tốt có khả năng sinh những hoa trái rất tốt lành.
Xin Chúa giúp chúng ta trở thành những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa gieo vào sinh hoa kết quả tốt đẹp.
– Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc học hỏi Lời Chúa trong Tin Mừng.
– Rất nhiều hạt giống lời Chúa gieo vào lòng chúng ta đã uổng phí vì chúng ta không thành tâm đón nhận.
– Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng thi hành thì rất ít.
Đoạn trích này thuộc về phần thứ II của sách Isaia, phần này được gọi là “Sách an ủi”. Ngôn sứ Đệ nhị Isaia nói rằng Thiên Chúa đã hứa sẽ cho dân do thái thoát khỏi cảnh lưu đày và được trở về quê hương.
Thế nhưng nhiều người do thái tỏ ra không tin vào lời hứa đó. Ngôn sứ lưu ý họ hãy nhớ rằng Lời của Thiên Chúa luôn luôn hữu hiệu : Ngài đã nói thì thế nào cũng xảy ra đúng như lời Ngài nói ; Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện.
Lịch sử đã chứng minh cho điều Đệ nhị Isaia nói : dân do thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên.
Thánh vịnh 64 ca tụng Thiên Chúa Tạo Hoá : sau khi tạo dựng trái đất, Ngài thường xuyên thăm viếng, tưới gội, để cho trái đất thấm nhuần mầu mỡ, cây trái đâm chồi nẩy lộc sinh hoa kết quả, gia súc sinh sản và lớn lên, muôn loài hát xướng hoan ca.
Phụng vụ chọn những lời ca tụng này như một bức màn nền để làm nổi bật ý nghĩa dụ ngôn Tin Mừng về việc gieo những hạt giống lời Chúa.
Dụ ngôn này đã quá quen thuộc với chúng ta. Chúng ta hãy để ý đến vài chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt :
– Người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nầy mầm mọc lên à Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban Lời Ngài cho mọi người và ban cách rất quảng đại dồi dào.
– Dụ ngôn kể ra 4 loại đất, trong đó có tới 3 là đất xấu à Thực tế đáng buồn là rất nhiều người đã không đón nhận Lời Chúa và làm cho Lời ấy sinh kết quả.
– Lời Đức Giêsu trích dẫn sách Isaia “Các ngươi lắng lai mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì” à Tâm thế của những người lòng chai dạ đá trước Lời Chúa. Đối với họ, Lời Chúa như “đàn gãy tai trâu” và như “nước đổ lá môn” chẳng chút hiệu quả.
– Nhưng đối với người biết đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành thì kết quả rất phi thường : một hạt sinh ra 30, 60, 100 hạt khác.
Đoạn thư này chứa đựng một ý tưởng khá mới lạ của Thánh Phaolô, đó là có một sự liên đới số phận giữa con người và các thụ tạo khác : khi con người phạm tội và do đó bị rơi vào vòng nô lệ tội lỗi thì các thụ tạo cũng bị lôi cuốn vào vòng nô lệ đó ; hiện nay con người ngóng chờ ơn giải thoát thì các thụ tạo cũng ngóng trông như vậy.
Một Rabbi do thái kia rất thích dùng các câu chuyện để giải thích những chân lý. Có một môn sinh hỏi ông tại sao ông thích dùng cách đó. Thay cho câu trả lời, ông lại kể một câu chuyện như sau :
Ngày xửa ngày xưa, chàng Sự Thật đi rảo khắp nơi, không mặc quần áo mà cũng chẳng trang sức gì cả, cho nên ai nấy vừa thấy chàng là mắc cỡ đỏ mặt và chạy trốn hết. Sự Thật buồn lắm. Một hôm chàng gặp nàng Dụ Ngôn mặc một chiếc áo muôn màu tuyệt đẹp.
– Anh Sự Thật ơi, sao anh buồn thế ?
– Tôi buồn vì tôi vừa già vừa xấu, không ai muốn nhìn tôi.
– Không phải thế đâu. Nàng Dụ Ngôn cười đáp. Đây anh hãy mượn chiếc áo của tôi mặc vào. Rồi anh sẽ thấy điều gì xảy ra.
Chàng Sự Thật mặc chiếc áo muôn màu của nàng Dụ Ngôn vào. Và chàng đi đâu cũng được mọi người niềm nở tiếp đón.
Kể xong câu chuyện, Vị Rabbi kết luận : Người ta rất khó đón nhận sự thật “trần trụi”, nhưng rất dễ đón nhận sự thật được diễn tả bằng dụ ngôn.
Có câu ca dao : “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Câu này có thể gợi ý cho một câu khác : “… Lựa lời mà nghe sao cho có phúc”
Chúng ta phải lựa lời để nghe, bởi vì có những lời toàn gây thiệt hại và có những lời đem lại phúc thật.
Lời Chúa rất đáng cho chúng ta lựa để nghe, vì :
– luôn đúng sự thật, không sai bao giờ, bởi Chúa chính là Sự Thật.
– Chúa không gạt gẫm chúng ta bao giờ. Ngài nói gì cho chúng ta nghe đều chỉ vì lợi ích cho chúng ta.
– Lời Ngài là ánh sáng chỉ đường, lời Ngài là sự sống.
– Lời Chúa rất quý trọng, đến nỗi Ngôi Hai Thiên Chúa được gọi là Ngôi Lời.
Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng : họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng lãnh nhận các bí tích và bằng tham dự các lễ nghi.
Đúng vậy, người công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo ! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp để sống đạo đâu ! Và nếu sống đạo bằng tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ ! Vả lại, đạo ở trong các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Đạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này, Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi, Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích.
Chúng ta hãy nghe chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa :
– Đất vệ đường : những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
– Đất lẫn sỏi đá : những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.
– Đất có nhiều gai : những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.
– Đất tốt : những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.
Mỗi ngày Chúa Nhựt chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.
– Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.
– Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.
– Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.
– Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.
Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không ?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”… Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được : Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”.
CT : Anh chị em thân mến
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. Với tâm tình yêu mến lời Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Lời Chúa là nền tảng đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội Thánh / biết ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa / cũng như cố gắng đọc thường xuyên / và đem ra thực hành trong đời sống thường ngày.
2- Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa / là cuốn sách được in ra nhiều nhất / được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất / và được đọc nhiều nhất trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết trân trọng bộ sách quý báu này.
3- Thường thì những người rao giảng Lời Chúa / hay gặp nhiều thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn che chở giữ gìn các vị ấy / để các ngài có thể chu toàn trọng trách của mình.
4- Sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ sẽ / biết cố gắng sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng / để đời sống đức tin ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
CT : Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự Thánh lễ, xin cho chúng con luôn biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng và chăm chú lắng nghe, để Lời Chúa được công bố thực sự trở nên nguồn dinh dưỡng quý báu cho đời sống đức tin của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Lời Chúa là đèn soi bước đường chúng ta đi, là ánh sáng chỉ đường trong đêm tối và là lương thực nuôi linh hồn chúng ta. Lời Chúa được ví như hạt giống, tự nó có sức phát triển mạnh mẽ, nhưng hạt giống ấy, tuy là hạt giống hảo hạng có sức mạnh vô song, cũng cần có điều kiện thuận lợi để phát triển. Chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho hạt giống ấy nảy nở và phát triển. Chúa đòi chúng ta phải cộng tác vào trong công việc này.
Hạt giống Lời Chúa được gieo vãi khắp nơi một cách dồi dào, nhất là gieo vào lòng người. Hạt giống ấy có được tiếp nhận hay không, hoặc được tiếp nhận một cách ơ hờ lạnh nhạt, hoặc được tiếp nhận một cách trân trọng, thì hạt giống ấy được phát triển tùy theo thái độ của từng người. Chúng ta cố gắng biến thành thửa đất tốt để đón nhận hạt giống Lời Chúa, hy vọng hạt giống ấy sẽ sinh hoa kết quả, hạt sinh 30, hạt sinh 60 hay sinh 100 hạt khác.
Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào là vô ích. Nhưng để thửa ruộng là mảnh đất phì nhiêu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải ra công cầy xới. Đương nhiên cuộc cầy xới nào mà không đòi phải vất vả, long đong. Tâm hồn chúng ta sẽ không là mảnh đất sinh hoa trái nếu chúng ta không chịu hy sinh, mất mát lo cầy xới, gạn lọc, nhổ hết gai góc, nhặt đi những sỏi đá của ích kỷ hẹp hòi, của những đam mê hư hèn, của gian tham lừa lọc, của thù hận ghen tương.
Như vậy Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng để tâm hồn mình thành sỏi đá, đường đi bởi do lòng ích kỷ và thói vô tâm, cũng đừng để tâm hồn mình là bụi gai bởi lòng tham những của hư hèn và tính ươn lười ngại hy sinh cố gắng, nhưng là hãy ra công cầy xới cho hồn mình là mảnh đất phì nhiêu.
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 55,10-11.
Dân Do thái đang phải sống trong cảnh lưu đầy, niềm tin đang lụi dần, tiên tri Isaia được sai đến an ủi, khuyến khích và nói cho dân biết rằng Thiên Chúa đã hứa cho dân thoát cảnh lưu đầy và được trở về quê hương.
Tuy thế, nhiều người Do thái tỏ ra nghi ngờ lời hứa đó, họ không thể tin được. Tiên tri Isaia phải nói cho họ biết tính chất phong phú của lời Chúa giống như mưa và tuyết thấm vào đất làm cho đất nên phì nhiêu thế nào thì lời Chúa luôn luôn hữu hiệu như vậy : Ngài đã nói thì thế nào cũng xẩy ra đúng như lời Ngài đã nói, Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện. Lịch sử đã minh chứng cho lời tiên tri Isaia : dân Do thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên đúng như lời đã báo trước.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,18-23 (Chủ đề phụ).
Trong đoạn thư gửi tín hữu Rôma mà phụng vụ hôm nay ghi lại, thánh Phaolô cố cho chúng ta hiểu thế nào là niềm hy vọng của người Kitô hữu. Tuy mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô. Niềm hy vọng của Kitô giáo là một sự chờ đợi, được thực hiện trong nước mắt khổ đau như một cuộc vượt qua cái chết.
Tuy sống trong cuộc đời đầy đau khổ nhưng Kitô hữu luôn lạc quan hướng về tương lai, chờ đợi ngày được hưởng ơn cứu độ viên mãn trong Nước Trời.
+ Bài Tin mừng : Mt 13,1-23.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người gieo giống đi gieo lúa, để dạy rằng cũng một lời Chúa rao giảng nhưng sinh nhiều hiệu quả khác nhau là tùy theo thái độ đón nhận của các tâm hồn người nghe.
Để ý nhận xét, ta thấy người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nảy mầm mọc lên. Điều đó có ý nói Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban lời Ngài cho mọi người và ban cách quảng đại dồi dào.
Một nhận xét nữa là dụ ngôn kể ra 4 loại đất trong đó có tới 3 loại đất xấu. Điều đó có ý nói là có rất nhiều người không sẵn sàng đón nhận lời Chúa để cho lời ấy sinh hoa kết quả. Nhưng cũng có những người thiện chí biết đón nhận lời Chúa và đem ra thực hành để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào : hạt sinh 30, 60, 100 hạt khác.
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta phải nhận thức giá trị thiêng liêng của Lời Chúa, để nhờ đó chúng ta biết tha thiết lắng nghe và chăm chỉ đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời Chúa sinh hoa kết quả.
Khi đi truyền giáo, Chúa Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời. Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các tông đồ nồng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Để diễn tả về Nước Trời, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giảng dạy, mỗi dụ ngôn diễn tả được một khía cạnh của Nước Trời. Đây là một lối giảng dạy rất cụ thể , dễ hiểu, hấp dẫn, động não để đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng mà các nhà hiền triết thời xưa thường dùng.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống của Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người : có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA
1. Lời Chúa trong Thánh Kinh.
Thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, Giáo hội đã khuyên nhủ chúng ta :”Thánh công đồng Vatican 2 nhiệt liệt cổ vũ các tín hữu chuyên cần lắng nghe và đọc Thánh Kinh, suy gẫm và sống Lời Chúa, vì đó là khoa học cao siêu dạy về Chúa Kitô. Vì theo thánh Giêrônimô :”Dốt Thánh Kinh là không hiểu biết về Chúa Kitô”(cf Verbum Dei # 25). Thánh Kinh dạy cho chúng ta hiểu biết về Chúa, am tường về các mầu nhiệm cao cả của Nước Trời, hay nói cách khác ,Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với chúng ta, tỏ cho chúng ta thánh ý của Ngài.
2.Ba bước đón nhậnLời Chúa.
Theo Mark Link, có ba bước trong việc lắng nghe Lời Chúa, mỗi buớc một tiến hơn :
* Bước thứ nhất là nghe Lời Chúa. Chúng ta có thể gọi đây là bước của trí não. Bước này bao hàm việc chăm chú lắng nghe, đọc và giải thích Kinh thánh.
* Bước thứ hai là trân trọng tích giữ Lời Chúa. Bước này có thể được gọi là bước của trái tim, bao hàm việc ghi sâu vào lòng lời ta vừa nghe, và suy nghĩ xem có cách nào áp dụng lời ấy vào cuộc sống và làm sao để lời ấy biến cuộc sống của chúng ta nên tốt đẹp hơn. Bước thứ hai này không nhất thiết xẩy ra tại nhà thờ. Nó có thể khởi sự tại nhà thờ nhưng thường kéo dài suốt tuần lễ sau khi chúng ta suy nghĩ Lời Chúa đã nghe hôm Chúa nhật.
* Bước thứ ba là đem Lời Chúa ra thực hành. Nếu chúng ta gọi bước thư nhất là của “trí não”, bước thứ hai là của “trái tim”, thì chúng ta có thể gọi bước thứ ba là bước của “linh hồn”. Bước này bao hàm tác động lên những gì trí óc chúng ta lãnh nhận và con tim chúng ta tích chứa giữ gìn.
3.Bốn thái độ tiếp nhận Lời Chúa.
Theo bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống vào. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa :
* Đất vệ đường : những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị qủi dữ cướp đi.
* Đất lẫn sỏi đá : những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không qúi chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.
* Đất có nhiều gai : những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải…Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngẹït.
* Đất tốt : những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.
Mỗi người phải chuẩn bị đất tốt để đón nhận hạt giống Lời Chúa :
. Đất phải xốp : không cứng như vệ đường, tức là phải có tinh thần khao khát Lời Chúa như một nhu cầu của sức sống để lắng nghe, tìm hiểu và thực hành lời Chúa.
. Đất không có sỏi đá : tức là phải cất những chướng ngại vật như : sự lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng Lời Chúa, bỏ các thành kiến, khuynh hướng xấu trong tâm hồn.
. Đất không có gai : tức là tâm hồn phải thanh thỏa, không có những bồn chồn lo lắng về những sự ở đời như thú vui xác thịt, danh vọng, của cải vật chất… vì những cái đó là những gai góc bóp chết lời Chúa.
. Đất tốt : là tâm hồn khiêm nhường biết tin tưởng, trông cậy và yêu mến Lời Chúa để biến đổi đời sống.
(Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 218).
II.SỐNG THEO LỜI CHÚA..
1.Sức mạnh của Lời Chúa.
Hạt giống lời Chúa là thứ hạt giống tốt có thể phát triển mạnh. Lời Chúa có thể thay đổi được lòng người nhưng Chúa không muốn can thiệp vào đời tư của con người một cách thô bạo. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người.
Lời Chúa tự nó có sức mạnh vô biên. Ta có thể ví lời Chúa như nước chảy, nước rất mềm, nhưng có thể làm cho đá mòn như người ta thường nói :”Nuớc chảy đá mòn” (tục ngữ). Lời Chúa tuy êm ái nhẹ nhàng nhưng có sức bào mòn những gì gồ ghề trong tâm hồn để trở nên những viên đá tròn trịa.
Thiên Chúa cứ gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng người, còn việc hạt giống đó có phát triển được hay không là do thái độ của tùng người có muốn cộng tác hay không.
Truyện : nước làm sạch rổ rau.
Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn làm người chồng khó chịu. Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời Chúa.
Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ :
– Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì ?
Bà vợ trả lời :
– Được nhiều lắm, anh ạ.
Chồng hỏi tiếp :
– Được cái gì ?
Vợ thản nhiên đáp :
– Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em !
Chồng trợn mắt :
– Rửa sạch ?
Vợ chỉ tay vào rổ rau mới rửa, trả lời :
– Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn !
Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ !
2.Sống đạo bằng gì ?
Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng : họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng nhận lãnh các bí tích và bằêng tham dự các lễ nghi.
Đúng vậy, người Công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo ! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích thì có bao nhiêu dịp sống đạo đâu ! Và nếu sống đạo bằng cách tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ ! Vả lại, đạo ở các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
Đạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này. Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi. Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 387-388).
Truyện : Lời Chúa khắc ghi trong lòng.
Hôm ấy, một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi :
– Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran ?
Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giao. Nhà truyền giáo nói thêm :
– Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không ?
Cậu bé đáp :
– Thưa cha, không được ! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi khắc trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
III. PHỔ BIẾN LỜI CHÚA.
Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là điều cần thiết nhưng chưa đủ, chúng ta còn có sứ mạng rao giảng Lời Chúa cho người khác. Chúa Giêsu đã nói :”Nếu các con đã lành nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không” (Mt 11,08). Nếu bản chất của Hội thánh là truyền giáo thì bản chất của những thành viên trong đó cũng phải là truyền giáo.
Lời Chúa phải được chúng ta loan truyền để mang lại nhiều mùa gặt khác. Cũng như những hạt giống được gió đưa đi, rơi xuống và nảy mầm ở nơi xa, hạt giống Phúc âm phải được rải ra từ chính tấm lòng của chúng ta vào trong lòng anh em chúng ta. Nếu chúng ta giữ Lời Chúa cho riêng chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ mất Lời Chúa. Hạt giống không phải được tạo ra để nằm trong một góc của bồ lúa, mà là để được nảy sinh trong những cánh đồng và cuối cùng là trên khắp thế gian.
Mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi , địa vị, chức vụ và khả năng, đều được Chúa mời gọi lãnh nhận sứ vụ rao giảng Lời Chúa, như hạt giống được gieo vào hồn chúng ta, như sức sống nuôi dưỡng làm cho triển nở tới thời sung mãn, để rồi sau đó lại phải gieo rắc sự dư tràn đó vào lòng những người khác. Đó là sứ mạng Chúa ủy thác cho mỗi người chúng ta phải chu toàn.
Truyện : rao giảng bằng cuộc sống.
Khi một người ra đi gieo Lời Chúa, người ấy không biết rõ việc mình đang làm và kết quả của hạt giống đó sẽ ra thế nào thì ông H.L. Gee đã thuật lại cho chúng ta câu chuyện sau đây :
Trong xóm đạo của ông, có một cụ già cô độc tên là Tôma. Cụ thọ hơn bạn bè của cụ nên không còn ai biết cụ nữa. Khi cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng không ai đi đưa đám cụ nên ông quyết định đi để còn có người đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không có ai đi đưa cả, hôm đó trời lại mưa dầm ướt lạnh. Khi quan tài đến nghĩa trang, có một quân nhân đứng ở cổng chờ, đó là một sĩ quan nhưng trên áo mưa không thấy quân hàm. Quân nhân đó đứng bên huyệt dự lễ an táng. Xong lễ, ông ta tiến đến bên huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi ông Gee và quân nhân đó ra về.
Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee thấy quân hàm của ông ta, quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với ông Gee :
– Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi làm gì ở đây. Nhiều năm trước đây cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở trường tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ. Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi nhưng cả đời tôi mang ơn cụ, và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn cụ lần cuối.
Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay nhà truyền giáo nào biết được. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho Chúa định liệu.
Khi một người đi gieo giống, anh ta không thể và không được trông đợi có kết quả tức khắc. Trong thiên nhiên, sự tăng trưởng không bao giờ vội vã, phải mất một thời gian dài để hạt giống đơm bông kết trái, và có thể còn phải mất thời gian dài hơn nữa để hạt giống nảy mầm trong lòng người.
Chúng ta tin chắc rằng hạt giống Lời Chúa có sức tăng trưởng phi thường trong những môi trường thuận lợi. Công việc chúng ta là gieo, cứ gieo rồi để hạt giống mọc lên và khi đã mọc lên thì phát triển mạnh mẽ để sinh hoa trái dồi dào
Truyện : hạt giống bông lau.
Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp chủng quốc, phải kể đến Benjamin Flanklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản ; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo và chẳng bao lâu, Hoa kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin Franklin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
Sau khi đã tìm hiểu lời Chúa, chúng phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác. Muốn cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông dân luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cầy bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
XÂY NỀN VỮNG CHẮC – Lm Giuse Đinh tất Quý
“Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.”(Mt 13,23)
Dụ ngôn người gieo giống là một trong những dụ ngôn rất hay của Chúa. Đây là dụ ngôn được chính Chúa giải thích.
Dụ ngôn cho thấy nguời ta có thể có nhiều thái độ khác nhau đối với Lời Chúa
Ta có thể kể đến bốn thái độ :
– Không hiểu nên không đón nhận.
– Đón nhận dễ dàng nhưng lại mau bỏ cuộc.
– Đón nhận nhưng rồi hạt giống bị lo âu trần thế bóp chết.
– Đón nhận và đem thực hành, nhờ đó sinh hoa kết quả, gấp mười gấp trăm.
Thử duyệt qua từng thái độ một.
- KHÔNG HIỂU NÊN KHÔNG ĐÓN NHẬN
Đây là những người đã được nghe Tin Mừng, nhưng không hiểu hoặc chưa hiểu.
Tuy nhiên chúng ta đừng vội kết án, bởi vì tình trạng này có thể có nhiều nguyên nhân rất khác nhau. Không phải ai cũng là người chủ tâm tự khép kín, khước tử hạt giống. Thật ra có nhiều người còn đang trên đường tìm kiếm. Cuộc tìm kiếm của họ chưa xong, còn đang tiếp diễn. Vì thành thật với lương tâm, họ chưa có thể chấp nhận điều mà họ chưa thật sự xác tín.
Trong quyển “Tự thuật” Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương “Bất bạo động” và là người đã giải phóng Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh, ông đã kể lại rằng:
Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi, ông say mê Kinh thánh và vô cùng cảm kích về “Bài giảng trên núi” của Chúa Giêsu. Chính 8 mối phúc thật đã gợi hứng cho chủ trương bất bạo động của ông. Mahatma Gandhi xác tín rằng Kitô Giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn Độ từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ tới việc gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ khi đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thật thất vọng. Ông vừa vào đến cửa nhà thờ, thì một người da trắng chặn ông lại và nói: “Nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến nhà thờ dành cho người da màu”
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông không bao giờ trở lại với bất cứ nhà thờ nào nữa. Thế là Chúa đã mất đi một người, một người có thể làm cho cả một dân tộc trở vể với Chúa.
Câu chuyện trên đáng cho chúng ta suy nghĩ. Vô tình hay hữu ý. Ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật cho nhiều người muốn tìm đến Giáo hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống đi ngược lại với tinh thần của Tin Mừng đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi cửa nhà thờ.
- ĐÓN NHẬN DỄ DÀNG NHƯNG MAU BỎ CUỘC
Không ít tín hữu đã rơi vào trường hợp này. Đức tin chưa kịp bám rễ đã chết non. Có lên đường và khởi hành, nhưng đã chóng quặt sang ngả khác, chẳng đi được bao xa. Có nhiều người nghĩ rằng mọi cái trong Giáo hội và nơi người tín hữu đều hoàn hảo. Họ chưa thấy rằng thực tế khác với lý tưởng, cũng chưa thấy trước những khó khăn của cuộc đời đi theo Chúa nên khi bước vào Giáo hội thấy nhiều cái khác với mình tưởng, gặp khó khăn thì sinh nản lòng. Trường hợp một số môn đệ đã bỏ Chúa sau bài giảng về Bánh Hằng sống là một thí dụ.
- HẠT GIỐNG BÁM RỄ NHƯNG BỊ GAI VÔ HIỆU HÓA
Cỏ dại, gai góc là những lo lắng, đam mê trần thế thường chế ngự con người.
Đây là tình trạng sống đạo nửa vời. Lời Chúa còn nằm bên lề cuộc sống, chưa thành động lực thúc đẩy từ bên trong.
Đây có lẽ là tình trạng chung của rất nhiều tín hữu. Nhiều tín hữu sống đạo không rõ rệt, dứt khoát. Sống trong tình trạng chân trong, chân ngoài, (chân ngoài dài hơn chân trong). Có thể chỉ muốn là một tín hữu “bình thường’, “coi được”, “trung bình”, chứ không sẵn sàng trả một giá cao, tương xứng với ơn gọi làm một Kitô hữu xác tín. Muốn đạt tới Nước Trời nhưng với một giá rẻ mạt. Đức Phaolô VI gọi lối giữ đạo đó là một thứ “Kitô giáo không Thập giá”. Trường hợp người thanh niên giầu có trong Tin Mừng Mathêô là một thí dụ.(Mt 19,22)
- ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA RỒI ĐEM THỰC HÀNH
Đây là một thái độ Kitô Giáo đích thực. Điều mà Chúa Giêsu đòi mỗi tín hữu là phải thực hiện. Không chỉ nghe mà thôi, nhưng là thực hành. Lời Chúa không còn là một thứ trang trí bên ngoài, nhưng trở thành động lực thôi thúc bên trong, trở thành đòi hỏi cụ thể phải quyết định hoặc chấp nhận hoặc khước từ, không thế lẩn tránh.
Chúa Giêsu luôn lấy việc thực hành ý Chúa Cha làm lương thực nuôi sống mình. Cũng vậy người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi nào ý Chúa trở thành đòi hỏi khẩn thiết nhất, ưu tiên cao nhất trong ưu tư, dự định của đời mình.
Nhà thần học Leonardo Boff khi còn làm linh mục đã thuật lại câu chuyện thư sau:
Một hôm, có một người đàn bà mà tôi quen biết từ nhiều năm gọi tôi ra một nơi và nói nhỏ với tôi:
– Thưa cha, con muốn tiết lộ cho cha một bí mật. Xin cha hãy đến nhà con.
Đến nhà bà ta, tôi được mời vào phòng ngủ đứa con bà. Đó chính là một quái thai. Đầu đứa nhỏ to như đầu người lớn, nhưng thân mình nó lại bé tí xíu. Đôi mắt đứa nhỏ nhìn chằm chằm lên trần nhà. Lưỡi nó thò ra thụt vào trông như lưỡi rắn. Tôi rùng mình thốt lên:
– Chúa ơi!
Bà ta nói :
– Thưa cha từ tám năm nay, con đã săn sóc đứa con này. Nó chỉ biết có một mình con thôi, và con rất hài lòng vì nó. Hầu như không một người nào khác biết sự hiện diện của nó .
Rồi bà ta kêu lớn tiếng:
– Chúa là Đấng nhân lành. Ngài là Cha…
Bà ta nhìn lên trời, nói tiếp với giọng bình thản:
– Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời!
Tôi rời nhà bà ta, không nói được câu nào. Đầu tôi cúi xuống, kinh hoàng vì đứa trẻ quái thai đó, ngỡ ngàng vì thái độ can đảm của bà mẹ. Rồi bất chợt một câu Kinh Thánh xuất hiện trong trí óc tôi, lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà có đứa con gái bị quỷ ám khốn cực lắm: “Hỡi người đàn bà kia, bà có đức tin rất lớn” (Mt 15, 28).
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
MẢNH ĐẤT TỐT CHO LỜI CHÚA – Lm Giuse Đinh tất Quý
Giảng lễ Thiếu nhi
“Còn kẻ được gieo trên đất tốt,
sinh hoa kết quả, kẻ được gấp trăm,
kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.”(Mt 13,23)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một bài dụ ngôn rất quen thuộc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Đây là một trong những bài dụ ngôn hay nhất của Chúa. Chính Chúa đã đích thân giải nghĩa dụ ngôn này. Trong ít phút vắn vỏi này, cha chỉ xin đưa ra một vài nhận xét để rồi mỗi người chúng ta có thể tự tìm ra cho mình những ý nghĩa có ích cho chính mỗi người chúng ta.
- Dụ ngôn kể.
* Có một người ra đi.
Ra đi để làm một công việc. Ra đi để gieo hạt giống. Công việc xem ra rất tầm thường, nhưng kết quả của nó rất quan trọng vì nó đem lại lương thực nuôi sống con người. Không có lương thực con người không thể sống.
* Gieo ở đâu chúng con?
+ Trong dụ ngôn Chúa bảo gieo ở một mảnh đất không được tốt lắm….
Tại sao thế? Thưa vì mảnh đất ấy có chổ khô cằn như vệ đường. Lại có chỗ có nhiều gai góc. Có chỗ đầy sỏi đá. Rất may là có chỗ đất tốt.
Cha thấy Chúa ở đất nước Do thái có được một chỗ để gieo như thế cũng là quí lắm rồi vì nước Do thái quê hương của Chúa là nước phần lớn là sa mạc.
- Bây giờ ta xem kết quả như thế nào? – Kết quả rất khác nhau chúng con.Tại sao thế ?
Hạt rơi vào mảnh đất khô cằn như vệ đường thì làm sao mà mọc lên được. Không mọc lên thì làm sao có kết quả. Nó sẽ thành mồi ngon cho chim trời
Hạt rơi và chỗ đầy sói đá cũng vậy. Dù hạt giống có nảy mầm nhưng làm sao mà lớn lên được. Kết quả là cũng héo khô mà thôi.
Hạt rơi vào chỗ có bụi gai cũng như thế.
Chỉ có những hạt rơi vào đất tốt mới có thể đem lại kết quả. Chúa bảo có hạt được ba mươi, hạt được sáu mươi và hạt được một trăm.
Tới đây thì chúng con có thể thấy: Hạt giống có sinh hoa kết quả được hay không, không phải do người gieo, vì cùng một người.
Cũng không phải do thời tiết khí hậu. Vì thửa ruông mà hạt giống được gieo vào tương đối nhỏ…khó có thể có sự khác biệt về khí hậu và thời tiết.
Vậy thì tại đâu chúng con? Dụ ngôn không cho chúng ta những chỉ dẫn rõ ràng nhưng lại cho chúng ta những chi tiết thật thú vị …qua đó chúng ta có thể thấy được lý do tại sao. Chúng ta có thể nói trắng ra là tại nơi mà hạt giống rơi xuống.Tùy ở chỗ hạt giống rơi xuống có đủ điều kiện cho hạt giống nảy mầm, phát triển và đâm bông để hạt giống có đem lại kết quả tốt hay không.
+ Nơi đất khô, vệ đường….hạt giống không thể nảy mầm….tệ hơn còn bị chim trời đến ăn mất.
+ Nơi chỗ có sỏi đá. Có điều kiện để nảy mầm, nhưng không có điều kiện để phát triển…cho nên không thể đem lại kết quả.
+ Nơi đất có bụi gai…có điều kiện để bén rễ, nảy mầm nhưng vì bị chèn ép cho nên không thể phát triển đúng mức và vì thế hạt giống cũng không thể đem lại kết quả được.
+ Nơi đất tốt...hạt giống đủ điều kiện để nảy mầm, phát triển tốt và đã đem lại những kết quả rốt. Ở đây có một chi tiết khá thú vị….đó là kết quả không đồng đều…hạt được 30, hạt được 60 và hạt được 100. Chúa Giêsu bỏ ngỏ không giải thích tại sao lại có sự sai biệt về kết quả trong khi các hạt giống đã có cùng một điều kiện như nhau như thế này. Như vậy chúng ta thấy vẫn còn một yếu tố khác từ bên ngoài. Chẳng cần phải giải thích dài dòng chúng ta cũng có thể thấy được là đó chính là Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói “Apolo trồng, Phaolô tưới, Thiên Chúa cho mọc lên” Quan niệm thông thường của Cha Ông chúng ta cũng thường nói “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Đúng như thế chúng con. Dù con người có tài tình tới đâu đi nữa mà nếu Thiên Chúa không ban ơn thì mọi sự sẽ thành vô ích. Bởi vậy lúc nào chúng ta cũng phải nhớ đến Chúa để biết ơn Người.
C- Áp dụng.
Chúa đã đến và gieo giữa lòng thế giới Lời Hằng Sống của Ngài. Nhưng có phải là Lời của Chúa lúc nào cũng đem lại kết quả tốt đẹp như lòng Chúa mong ước hay không? Chắc là không. Có kết quả hay không hoặc kết quả nhiều hay ít là tùy ở thái độ và sự đón nhận của con người.
Ngay trong đời sống hằng ngày chúng con cũng đã thấy điều đó.
Trong Tin Mừng chúng con thấy có những con người mà lời của Chúa không thể có một chút ảnh hưởng gì tới họ. Đó là những người lòng chai dạ đá, đầu óc đã có sẵn những thành kiến, những ý nghĩa xấu đối với Chúa. Họ đã trở thành chai lỳ…..và hạt giống Lời Chúa không những đã không gây được một ảnh hưởng tốt nào mà ngược lại còn làm cho họ chai lì thêm.Trong Tin Mừng ta thấy một số những người Biệt phái và luật sĩ thuộc vào hạng người này.
Cũng có những người nghe Lời của Chúa mà chẳng hiểu….Chúng con nhớ lại lúc Chúa giảng bài giảng về bánh hằng sống….Một số môn đệ đã phản ứng rồi sau đó họ đã bỏ Chúa.
Một số khác có đón nhận nhưng như Chúa nói những lo lắng trần gian làm cho Lời Chúa không thấm nhập được vào lòng họ……Chúng con hãy nhớ câu truyện của chàng thanh niên giầu có….Anh ta đã bỏ cuộc trên con đường theo Chúa mặc dầu anh rất mến Chúa.
Một số người khác thì có những kết quả thật đẹp. Chúng ta có thể kể ra ở đây trường hợp của đa số các môn đệ của Chúa, trường hợp của Maria Madalena, trường hợp của Giakêu, trường hợp của Nicôđêmô…. và sau này …Augustinô, Phanxicô Xavie, Têrêxa Hài đồng Giêsu….vv.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Cha Jean Weslay một nhà giảng thuyết lừng danh kể rằng….Một ngày kia có một bác nông phu đến nghe cha giảng. Đề tài hôm đó là vấn đề sử dụng của cải. Bài được chia làm 4 phần.
Phần 1 ngài kêu gọi hãy cố gắng lao động để tạo ra của cải. Điều này làm cho bác nông phu hài lòng. Bác húych củi chỏ tay vào người bên cạnh và nói nhỏ “Hay quá, thật là tuyệt vời”
Phần 2 ……phải biết dành dụm của cải …..Bác nhìn Cha và như nuốt từng lời Cha nói. Bác ngồi thẳng lên, rồi như không thể kiềm chế được Bác buột miệng “Tuyệt cú! Chính mình cũng chủ trương như vậy mà”
Phần 3….Cha khuyên đừng xài phí. Bác nông dân gật gù tỏ vẻ hài lòng. Bác nói nhỏ: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa. Con vẫn nghĩ và hành động như vậy”
- Phần thứ tưbàn về vấn đề tình liên đới được thể hiện qua việc rộng rãi chia sẻ của cải một cách quảng đại cho những người cùng khốn. Nghe đến đây, Bác nhăn mặt khó chịu, bác thở dài và đứng lên bỏ ra về.
Cha đố chúng con tâm hồn của bác nông phu này thuộc về loại đất nào trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe?
– Vệ đường?
– Đất có sỏi đá?
– Đất nhiều gai góc?
– Đất tốt?
………………
Chúng con hãy xin Chúa biết tâm hồn chúng ta thành mảnh đất tốt để cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả và làm cho cuộc đời của mỗi người chúng ta xứng đáng với lòng yêu thương của Chúa hơn. Amen.
HÃY ĐÓN NHẬN VÀ GIEO CÁCH HÀO PHÓNG – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
“Dụ Ngôn Người Gieo Giống” của Chúa Giêsu được thánh Matthêu trình bày tuy bình dân, nhưng chứa đựng một sứ điệp rất quan trọng liên quan đến người kể và người nghe. Người gieo giống ở đây không ai khác ngoài Thiên Chúa, hạt giống là Chúa Giêsu, đã được Chúa Cha gieo vào trần gian một cách hào phòng. Ngài gieo Lời cứu độ là chính Con Ngài xuống trên chúng ta, bất kể chúng ta thờ ơ, từ chối, nhưng chắc chắn ai đón nhận, nơi ấy hạt sẽ đâm rễ và mọc lên.
Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa đi gieo hạt giống là chính thân mình vào trần gian, chôn vùi vào lòng đất khi nhập thể làm người, mục nát đi khi chịu chết và chôn trong mồ, mong có ngày bội thu là phục sinh cứu độ hết thảy mọi người. Nên dụ ngôn tự sự này có sức cuốn hút người nghe cách đặc biệt.
Bài đọc I, Lời Chúa được tiên tri Isaia ví “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất” (Is 55,10). Mưa và tuyết vốn là những điều kiện thiết yếu cho hạt giống nảy mầm, lớn lên và kết hạt. Hình ảnh mưa và tuyết nói rõ: “tưới gội mặt đất, làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói của bánh ăn” (Is 55,10). Đó là những hình ảnh đẹp, sống động và rất gần gũi với giới bình dân chúng ta, diễn tả cho chúng ta Lời Chúa phục vụ sự sống như thế nào; bởi vì Lời Chúa là Sự Sống của ta, là Ánh Sáng đời ta, hạnh phúc cho đời ta hôm nay và mãi mãi.
Lời của ngôn sứ Isaia giúp chúng ta hiểu đúng hướng dụ ngôn Người Gieo Giống. Thông điệp thật rõ ràng: Thiên Chúa là người đi gieo giống, Ngài gieo cách hào phóng, nhưng kết quả cụ thể còn tùy thuộc vào thời tiết và cách thức gieo giống cũng như tự do của thửa đất đón nhận hạt giống là chúng ta. Kinh nghiệm thường ngày của nhà nông quả quyết rằng, kết quả tùy thuộc vào thửa đất, nơi gieo hạt. Ví dụ, trong số những sinh viên chung một lớp, học cùng trường, được thầy giáo dạy cũng một môn về tôn giáo, nhưng người này tin còn người kia vô thần. Dù cả lớp đều nghe giáo viên giảng những điều tương tự nhưng hạt giống đã rơi lại rơi vào mảnh đất là những người khác nhau. Chúng ta cũng thế, tất cả vừa cùng nghe sứ điệp Lời Chúa, nhưng ra về mỗi người sống khác nhau.
Thửa đất tốt là tâm hồn chúng ta, do Thiên Chúa dựng nên cách tự nhiên, Ngài đã phú ban nó cho chúng ta, chúng ta tự do đón nhận hay từ chối là quyền của ý chí của chúng ta. Có những người thích tận hưởng cuộc sống thay vì trở nên tốt hơn. Có những kẻ mê đắm sự đời thế gian, “Lời Chúa bị bóp nghẹt không mang lại hoa trái” (Mt 13,22) .
Nhưng trái lại, đối với một số người, vì muốn giữ giá trị của chính mình, họ đón nhận Lời Chúa với lòng yêu mến thế là đơm hoa kết trái là trăm số việc lành, cho dù phải hy sinh. Chúa Giêsu nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 12,24). Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta rằng, con đường dẫn đến sự cứu rỗi là con đường vào qua cửa hẹp (Mt 7,14): tất cả đều có giá của nó. Chúng ta sẽ không bao giờ có giá trị nếu chúng ta không cố gắng.
Ai bị ước muốn sự đời hướng dẫn, người ấy sẽ có trái tim giống như một khu rừng nhiệt đới. Ngược lại như cây ăn quả, cây tốt ắt sẽ sinh trái tốt. Vì thế, các thánh đã không có cuộc sống dễ dàng, họ đã trở nên mẫu gương cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Piô XII nói: “Chắc chắn không phải tất cả chúng ta đều được kêu gọi chịu tử vì Đạo. Nhưng tất cả chúng ta được kêu gọi để có nhân đức Kitô giáo. Chúng ta kiên trì hoạt động, đừng chểnh mảng cho đến hết đời. Chính vì thế người ta cũng có thể nói về một tử đạo chậm và kéo dài”.
Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những điều không thể : chúng ta hãy vui lòng làm như Chúa, gieo cách hào phóng bằng lời nói và gương sáng, ngay cả trong sự khác biệt; hãy tin rằng sẽ luôn có cái gì đó thúc đẩy hạt giống mọc lên đúng thời vụ ; bởi vì Lời từ miệng Chúa phán ra sẽ không trở lại với Chúa nhưng theo ý Chúa mà sinh kết quả (x. Is 55, 10-11).
Điều căn bản là chúng ta cần chuẩn bị để chính mình là một thửa đất tốt để đón nhận hạt giống, đồng thời phải chăm sóc để nó có thể đơm hoa kết trái. Có người không muốn mình bị thử thách hay gặp khó khăn, người ấy sẽ có ngàn lý do để từ chối. Nhưng ai “ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả” (Mt 13, 23).
Tất cả đều nghe dụ ngôn, nhưng người hiểu được là người mang nơi mình và trân trọng như một tài sản quý giá, người ấy sẽ hạnh phúc nếu nghe những gì Chúa nói và nghiêm túc hoán cải theo tiếng Chúa gọi : Ngài sẽ chữa lành và làm cho họ được sống, “giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 21), chúng ta sẽ đơm hoa kết trái.
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như bậc thầy của việc lắng nghe Lời Chúa cách sâu sắc và kiên trì thực hành. Xin Mẹ giúp chúng ta theo gương Mẹ, trở nên “đất tốt”, để hạt gống Lời Chúa có thể sinh nhiều bông hạt, ngõ hầu chúng ta tiếp tục sứ mạng tông đồ đi gieo vãi Lời Cứu Rỗi khắp mọi nơi cho anh em. Amen.
HẠT GIỐNG CÓ MẦM SỐNG – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ, thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đang bán ở quày hàng này. Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim.
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Lm. Anthony de Mello. SJ).
Tin mừng hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thành cây xanh tốt được?
Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.
- Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào, ông quảng đại muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiện chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11). Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,10-12).
Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
- Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.
Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.
Lời Chúa ví như hạt mưa. Khí hậu dù khắc nghiệt mấy cũng không triệt tiêu được hạt mưa. Giá rét, hạt mưa biến thành tuyết. Gió bão, hạt mưa biến thành bụi sương. Nóng rát, hạt mưa biến thành thể khí bay là là trên cát nóng. Rơi xuống sông biển hạt mưa hoà mình trong nước, trên đất khô hạt mưa thẩm thấu vào lòng đất.
- Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.
Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).
Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa (GLCG # 1724).
Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.
Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.
Có một mãnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: “Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó”. Ông Tư trả lời: “Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây”.
Có gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó. Thánh Phaolô viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6,7-9).
Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt và sinh hoa trái tốt. Chúa Giêsu xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12,33; Lc 6,44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Đời sống tinh thần cần có “hạt giống tâm hồn”. Đời sống tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.
Lời Chúa chính là ngọn đèn soi bước đường đi, là ánh sáng chỉ đường trong đêm tối và là lương thực nuôi linh hồn chúng ta. Lời Chúa như hạt giống, tự nó có sức phát triển mạnh mẽ, nhưng hạt giống ấy, tuy là hạt giống hảo hạng nhưng cũng cần có điều kiện thuận lợi để phát triển. Chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho hạt giống ấy nảy nở và phát triển. Chúa đòi chúng ta phải cộng tác vào trong công việc này.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta đi gieo hạt giống Lời Chúa, gieo hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Gieo bác ái chúng ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập đời sống hàng ngày.
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – Trích Logos A
Ngày kia, tại một khu rừng, các con thú tham dự một buổi họp quan trọng dưới sự chủ tọa của chúa tể sơn lâm là sư tử. Nội dung buổi họp là : Làm thế nào để chống lại loài người. Các ý kiến được đóng góp rất sôi nổi và các phương án được đề ra để chống lại loài người.
Giữa lúc đó, một người thợ săn xuất hiện. Sư tử liền xông ra, gầm lên một tiếng rung chuyển cả núi rừng. Người thợ săn giương cung lên và nói : “Hỡi sư tử, hãy xem đây !”. Người thợ săn vừa nói xong, mũi tên bay vút đi, cắm vào lưng con sư tử. Sư tử đau đớn quá, quay đầu bỏ chạy vào rừng sâu. Còn các con vật khác thì chạy tán loạn khắp nơi.
Khi đến nơi an toàn, con cáo mới đến gần sư tử và nói : “Thưa chúa tể sơn lâm, sao ngài hoảng sợ và chạy trốn như thế ? Vậy thì làm sao chúng ta chống lại được con người ?”. Sư tử rên rỉ trong cơn đau đớn : “Ngươi không thấy sao, chỉ một lời nói của con người thôi, đã làm ta đau đớn như thế này. Làm sao chúng ta có đủ sức để chống lại loài người ?”.
Lời nói luôn có sức mạnh và ảnh hưởng lớn lao. Có những lời nói làm ta hài lòng sung sướng, nhưng cũng có những lời nói làm lòng ta đau nhói. Lời của bậc thánh hiền dạy ta làm điều hay lẽ phải, còn lời của những kẻ xấu xa đưa đến những thiệt hại khôn lường. Nếu lời nói rất quan trọng trong đời sống con người, thì lời Chúa lại càng quan trọng hơn trong đời sống Kitô hữu.
Hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy tầm quan trọng của lời Chúa. Những ai biết đón nhận lời Chúa, thì lời Chúa sẽ sinh hoa kết trái trong lòng người ấy.
Qua dụ ngôn “Người gieo giống” mà thánh Matthêu thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh “người đi gieo hạt” để diễn tả việc loan báo lời Chúa và việc đón nhận lời Chúa. Thiên Chúa đã gieo hạt giống là lời của Người trong tâm hồn mọi người qua bàn tay yêu thương của Chúa Giêsu. Quả thật, dụ ngôn “Người gieo giống” chứa đựng những hình ảnh tuy mộc mạc, nhưng giàu ý nghĩa :
Chúa Giêsu, người gieo hạt tốt lành.
Chúa Giêsu là “người nông phu” cần mẫn, đi gieo vãi hạt giống Tin Mừng trên mọi nẻo đường đất nước Palestina. Chúa gieo hạt lời Ngài trong mọi hoàn cảnh : Ngài công bố lời Thiên Chúa trên núi cao hay trên bờ biển, trong hội đường hay dọc đường đi. Chúa rao giảng lời Ngài cho những người giàu sang, trí thức và cho cả những người nghèo khó, thất học. Chúa kiên trì gieo vãi lời Ngài, dù lời Ngài được đón nhận hay bị khước từ, được khao khát lắng nghe, hay bị chống đối, nhạo cười. Chúa loan báo lời Thiên Chúa trong tiếng hoan hô chúc tụng, và ngay cả trên cây thập giá đau thương.
Chúa Giêsu là người gieo hạt quảng đại đến “phung phí ” : Ngài gieo hạt giống lời Chúa bên vệ đường, trên đá sỏi, ngay cả trong bụi gai. Ngài là người nông phu “liều lĩnh” đến nỗi “đầu tư ” tất cả vốn liếng để trông chờ một mùa lúa bội thu. Ngài là người nông phu đi gieo hạt trong nước mắt để mong mỏi trở về trong hân hoan với bó lúa chín vàng trên vai (Tv 126, 5 – 6).
Ngài còn là người nông phu hiền lành đến nỗi gieo vãi những hạt giống tốt, nhưng kẻ thù lại lén gieo cỏ lùng vào giữa lúa (Mt 13, 24 – 25). Tuy thế, Ngài vẫn gieo vãi niềm tin vào những tấm lòng chai cứng, gieo vãi hy vọng vào những trái tim buồn phiền, gieo vãi yêu thương vào những tâm hồn đau khổ. Mãi mãi, Ngài là người gieo hạt tốt lành, gieo vãi sự sống và tình yêu, gieo vãi chính những giọt máu mình để đổi lấy một mùa lúa chín vàng.
Sau cùng, Ngài đã trở nên chính hạt giống thần linh, là Lời được gieo vào lòng nhân thế, chịu thối mục đi để đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Hạt giống chỉ có thể nảy mầm vươn lên và mọc thành cây, rồi trổ sinh hoa trái, nếu nó được mảnh đất tiếp nhận. Hạt giống sẽ mãi mãi là hạt giống, nếu không được chôn vùi xuống đất. Các nhà khảo cổ đã tìm được ít hạt lúa mì trong ngôi mộ của một ông vua Ai Cập cổ đại. Họ gieo những hạt lúa mì ấy xuống đất và tưới nước cho chúng. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, những hạt giống đã nảy mầm vươn lên sau năm ngàn năm nằm yên trong ngôi mộ.
Cũng thế, hạt giống lời Chúa cần được mảnh đất tâm hồn đón nhận. Tiếc thay, hạt giống lời Chúa được gieo vãi vào lòng mọi người, nhưng có rất ít người biết đón nhận lời Chúa và để cho lời Chúa sinh hoa kết trái.
Bài Tin Mừng hôm nay kể ra ba loại đất xấu, chỉ có một loại đất tốt biết tiếp nhận hạt giống lời Chúa và sinh hoa kết trái. Phải chăng đó là con số tượng trưng nói lên rằng : Thế giới hôm nay chỉ có một phần nhỏ số người biết đón nhận lời Chúa và để lời Chúa đem lại lợi ích thiêng liêng cho mình ? Phải chăng lời Chúa như những hạt giống đang bị mất đi, hoặc chết khô nơi những tâm hồn “vệ đường”, những trái tim “sỏi đá”, hay những cõi lòng “gai góc” ?
Qua bàn tay yêu thương của người gieo hạt tốt lành là Chúa Giêsu, những hạt giống lời Chúa đã được gieo vãi vào mảnh đất tâm hồn chúng ta. Để những hạt giống ấy nảy mầm và sinh bông hạt, tâm hồn chúng ta phải được “cày bừa” trong hy sinh, được “tưới gội” trong ân sủng, được “vun xới” trong yêu thương. Hãy nhổ đi những “cỏ dại” lỗi lầm, hãy “chăm bón” bằng sự phục vụ quên mình, hãy trừ khử những “con sâu” tội lỗi. Khi ấy, tâm hồn chúng ta sẽ sẵn sàng cho hạt giống lời Chúa sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.
Những người đi gieo hạt hôm nay.
Các môn đệ đã được Chúa Giêsu sai đi gieo hạt giống Tin Mừng khắp nơi. Các ngài đã ra đi rao giảng lời Chúa không biết mệt mỏi theo gương Thầy mình. Các ngài đã hy sinh cả mạng sống, lấy mồ hôi, nước mắt và cả máu mình mà tưới gội cho những hạt giống nảy mầm.
Chúng ta cũng được mời gọi để trở nên người gieo hạt giống Tin Mừng cho thời đại hôm nay. Hãy biết gieo vãi trong kiên trì, nhẫn nại; gieo vãi với lòng quảng đại, hy sinh. Chúng ta tin rằng : Hạt giống lời Chúa được gieo trong âm thầm lặng lẽ, một ngày kia sẽ nhú lên những mầm xanh hy vọng, báo hiệu một mùa lúa dồi dào.
Hôm nay, trong bài đọc I, tiên tri Isaia đã phác họa một bức tranh vừa tươi đẹp, vừa củng cố niềm tin cho những người đi gieo hạt : Như mưa và tuyết rơi xuống trên đất, làm cho đất trở nên phì nhiêu màu mỡ, lời Chúa cũng sẽ đem đến những hiệu quả tốt đẹp theo ý Chúa.
Năm 1525, chàng Phanxicô Xaviê là một sinh viên rất thành công trên con đường học vấn. Thành công làm cho chàng trở thành một con người đầy tham vọng, ham mê giàu sang chức tước và vênh vang tự đắc.
Lúc ấy, người bạn thân của Phanxicô là thánh Inhaxiô, một người đạo đức thánh thiện, muốn lôi kéo Phanxicô trở về với Chúa, nên lặp đi lặp lại bên tai Phanxicô lời Chúa : “Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn được ích gì ?” (Mc 8, 36). Hạt giống lời Chúa đó tưởng chừng như sẽ chết khô nơi tâm hồn khô cằn sỏi đá của Phanxicô.
Nhưng rồi một ngày kia, hạt giống ấy đã vươn lên và sinh bông hạt. Phanxicô đã được hoán cải, trở thành một nhà truyền giáo vĩ đại, một vị thánh lừng danh.
Từ đó, thánh Phanxicô Xaviê trở thành người đi gieo hạt không ngơi nghỉ trên khắp cánh đồng truyền giáo rộng lớn của Á Châu và làm nên một mùa gặt rực rỡ sáng ngời.
Mỗi ngày, chúng ta hãy mở rộng lòng để đón nhận lời Chúa và hãy để lời Chúa đơm bông kết trái thiêng liêng trên mảnh đất cuộc đời chúng ta.