CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TINH MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 6
KINH TẠ ƠN CỦA CHÚA GIÊSU– Chú giải của Fiches Donimicales 13
THÁNH THI NGỢI CA (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG KẺ BÉ MỌN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 33
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 41
HỌC CÙNG ĐỨC GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 58
KHIÊM NHƯỜNG – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 67
HÃY HỌC CÙNG TA VÌ TA HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG TRONG LÒNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 71
MẠC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN– Radio Veritas. 77
Ở HIỀN GẶP LÀNH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 81
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU – Lm. Trần Ngà 85
HIỀ LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG- Trích Logos A.. 89
HỌC TRƯỜNG GIÊSU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 96
————————————————————————–
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Này vua ngươi khiêm tốn đến với ngươi”.
Bài trích sách Tiên tri Dacaria.
Đây Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14
Đáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1).
1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 9. 11-13
“Nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được hành động của xác thịt, thì anh em sẽ được sống”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 17
All. All. – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – All.
PHÚC ÂM: Mt 11, 25-30
“Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. – Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Đó là lời Chúa.
—————————————————–
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN- Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thuở ấy”. Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ “đơn hèn” nhận ra vậy.
“Con xin ngợi khen Cha”: Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.
“Lạy Cha”: Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr” (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.
“Chúa trời đất”: Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.
“Đã che giấu”: Cặp động từ “che giấu-mặc khải” nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.
“Điều ấy”: Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan” và “thông thái” cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé mọn” chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người “tội lỗi” mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.
“Không ai biết được Cha trừ ra Con”: Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự “hiểu biết” đó sao (St 17, 25…)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.
“Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng”. Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa “gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề” lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: “mang lấy ách” là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v… xem chú thích BJ). “Ta sẽ nâng đỡ các con”: Hy ngữ: anapausô – dịch sát chữ là: “Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức”.
“Hãy mang lấy ách của Ta”: Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: “Lịnh truyền của Người không nặng nề” (1Ga 5, 3) và “chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi” (Rm 13, 9).
“Ta hiền lành”: Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.
“Ách Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng”: Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. “Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ” thánh Augustin đã nói như thế.
KẾT LUẬN
Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-Giống hạng người “khôn ngoan, thông thái” mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng “mắt chúng ta sẽ mở ra” và “chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa” bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.
– Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.
– Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.
– Ngày nay những kẻ “bé mọn” là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?
-“Ách dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.
– Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
KINH TẠ ƠN CỦA CHÚA GIÊSU– Chú giải của Fiches Donimicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo, Matthêu viết: “Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.
Đối diện với các sứ giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng”. Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”. Khi “những sứ giả của Gioan đi rồi”, Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.
Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Matthêu đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với “Chúa trời đất”. Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là “Cha”, đã tự nhận mình là “Con”: một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan “Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: “Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một “bài ca tán tụng”. Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những “người bé nhỏ”, những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.
Cl Tassin ghi nhận: “Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.
…và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. “Gánh” mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng”hoàn thành”, Người “chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ”. Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất “nhân lành và khiêm nhường trong lòng” đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
-Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu “chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người – trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã “chúc tụng” Ngài nói “Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một… ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này. Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho “những ai đơn sơ”: vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa “là Cha” Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, Con chúc tụng Cha”.
-Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Lời nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn…”. Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần… Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: “Con chúc tụng Cha…vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. “Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: -“Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là “Đấng vượt trên tất cả”. Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. “Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho….Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người… Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.
———————————————————
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
THÁNH THI NGỢI CA (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này trổi lên khúc nhạc hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của đức khiêm tốn. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, tức là sự sống trên sự chết.
Dcr 9: 9-10
Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ lại viếng thăm họ, Ngài là vị Vua Thiên Sai khiêm tốn và hòa bình, cỡi trên một con lừa con.
Rm 8: 9; 11-13
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11: 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giê-su vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những bí nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9: 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a mà tác giả không phải là chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon.
Phần thứ hai của sách (ch. 9-14) hiện nay mang lấy tên của vị ngôn sứ này nhưng thật ra được biên soạn cách khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần thứ hai này là một phần hỗn hợp nhiều mảnh văn khác nhau, không có tên tác giả và không có niên biểu. Phần này thuộc vào thời kỳ được định vị vào thời điểm biến mất truyền thống ngôn sứ và khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích họ và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân. Phần thứ hai này được gán cho một tác giả, hay đúng hơn nhiều tác giả, dưới biệt danh “Da-ca-ri-a đệ nhị”.
Một mối giây liên kết những yếu tố rời rạc giữa chúng là chủ đề thiên sai. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng thường quy chiếu đến: dung mạo thứ nhất là vị Vua khiêm hạ và hòa bình; dung mạo thứ hai là vị Mục Tử nhân lành bị các thủ lãnh của dân Ngài loại bỏ; và dung mạo sau cùng là một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.
Bản văn được trích hôm nay nêu bật dung mạo về vị Vua khiêm hạ và hòa bình.
Vua Mê-si-a tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Bài hoan ca, loan báo việc Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng từ những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!
Vì kìa Đức Vua đến với ngươi”.
Hai đặc ngữ Do thái: “Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” được dùng để chỉ dân cư của thành thánh Giê-ru-sa-lem và đồi Xi-on. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ, chẳng hạn như:
“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu” (Tv 47: 2-3);
hay:
“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta
…….
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là đại vương trổi vượt chư thần” (Tv 95: 1, 3).
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã khai triển các thánh thi phụng vụ này rồi theo cùng một cách tương tự:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
…….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi,
Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.” (Xp 3: 14, 17).
Đấng Thiên Sai tiến vào Giê-ru-sa-lem trong dáng điệu rất mực khiêm tốn.
Vị vua khiêm tốn:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực”, “Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong trào lưu chính thống về vị Vua Thiên Sai (x. Is 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “Đấng được giải thoát khỏi những thù địch”. Tác giả ghi nhận Đấng Toàn Năng ở đây, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của vị Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.
Ngài “Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa hãy còn theo mẹ”. Con lừa là con vật các vị lãnh tụ đầu tiên của dân Ít-ra-en cỡi vào thời xưa; tiếp đó, con la đã thay thế con lừa; sau cùng, chiến mã cần thiết cho một vị vua lẫm liệt oai phong, nhất là trong cuộc khải hoàn trở về thành đô của mình. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – nếu như không kể đến những gợi ý về Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn của ông sẽ được Đức Giê-su thực hiện, khi Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con và trong tiếng reo hò của đám đông.
Vị Vua bình an:
Qua bức tranh mô tả:
“Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem,
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy”,
tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên thời Thiên Sai sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc, vương quốc miền Bắc: Ép-ra-im, và vương quốc miền Nam: Giê-ru-sa-lem, trong cảnh thái bình thịnh trị.
Trong cảnh thái bình thịnh trị này, tất cả mọi công cụ chiến tranh đều sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ được dùng ở đây nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh, chẳng hạn như ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:
“Ta sẽ không dùng cung nỏ,
gươm đao và chinh chiến mà cứu chúng,
cũng chẳng dùng chiến mã và kỵ binh” (Hs 1: 7; 2: 20).
Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:
“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).
Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Mê-si-a. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân”. Ngữ điệu này hoàn toàn mang tính kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất. Bất chấp dáng vẻ khiêm hạ bên ngoài, Đấng Mê-si-a hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của mình trên một lãnh địa rộng khắp “từ biển này qua biển nọ, và từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất”.
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đem lại niềm hy vọng chắc chắn cho dân Thiên Chúa vào việc khôi phục nền quân chủ khi vị Vua Thiên Sai ngự đến. Đây là niềm ước mơ bền bỉ mà Chúa Giê-su sẽ còn đụng phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn tượng của vị ngôn sứ này, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 9, 11-13)
Chúng ta đã đọc và suy gẫm đoạn trích thư này rồi vào Chúa Nhật V Mùa Chay. Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí, nguồn mạch của sự sống, đã hoạt động ở nơi cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô như thế nào, thì Ngài đảm bảo cùng một sự phục sinh cho con người phải chết của chúng ta cũng như vậy, khi Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài ở nơi chúng ta.
Sau khi đã gợi lên cuộc sống nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực thống trị của tội lỗi, khởi đi từ chương 8, thánh Phao-lô phác họa bức tranh về đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới, tức là sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những quyền lực của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí hiện diện ở nơi thân xác phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và giúp chúng ta sống cuộc sống con cái Thiên Chúa giữa thế sự thăng trầm trong coi đời hư nát này; chính Ngài đảm bảo sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11: 25-30)
Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giê-su ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca thuật lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào trong bối cảnh bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình. Chúa Giê-su cùng vui với họ và cám ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10: 21-22).
Khi trình bày lời cầu nguyện này trong bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giê-su vừa chịu những thất bại; sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din và Ngài đã tiên báo án đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
Thánh thi ngợi ca:
Ấy vậy, thay vì cảm thấy đắng lòng, Chúa Giê-su lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng lời cầu nguyện này được thốt lên bằng tiếng A-ram, được kết cấu theo lối nói thông thường của người Do thái, và có vần có điệu để giúp cho việc ghi nhớ được dể dàng.
Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giê-su ngợi khen Cha Ngài vì đã soi lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, nhưng lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái hiểu những bí nhiệm Nước Trời. Chúa Giê-su nhắm chính yếu đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, những người tự phụ về sự hiểu biết của mình mà giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này rồi, chẳng hạn như ngôn sứ I-sai-a công bố:
“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem theo cùng một cách như vậy:
“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
Theo văn mạch của thánh Mát-thêu, kiểu nói “Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giê-su – sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần – nhưng cũng chỉ ra những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, những người đơn sơ hiền lành và chất phát luôn luôn trong tư thế mở rộng lòng mình để đón nhận lời của Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ trong nhiều dịp khác. Chính xác là thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giê-su trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
Mối tương quan độc nhất vô nhị giữa Chúa Cha và Chúa Con:
Qua những lời mặc khải này: “Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”, Chúa Giê-su không còn cách nào có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa. Cung giọng của đoạn văn này rất gần với cung giọng của Tin Mừng thứ tư, trong đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần về những mối liên hệ duy nhất của Chúa Cha với Chúa Con trong hiểu biết và tình yêu.
Qua lời công bố “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giê-su xem ra báo trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh mà những lời này được định vị, chắc hẳn Chúa Giê-su gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và mặc khải cho các môn đệ biết về công trình này. Chúa Giê-su là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại trong công trình cứu độ này. Về vấn đề này, Tin Mừng thứ tư cung cấp một lời giải thích tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su được kèm theo với một bản văn được liệt vào số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
“Gánh” và “ách” là hai hình ảnh rất nổi tiếng của Do Thái giáo để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 nói rằng Lề Luật không chỉ được yêu mến, nhưng “quả thật là hoàn hảo, bổ sức cho tâm hồn” và “hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng” (Tv 18: 8-9). Nhưng vì phó mặc cho các nố giải nghi quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải về những tuân giữ nặng nề. Luật mới mang sức mạnh giải thoát, bởi vì khi người ta yêu mến ai, người ta ra sức làm hài lòng người ấy bằng cách tuân giữ những lời dặn dò của người ấy, như lời của thánh Gioan trong thư thứ nhất của mình: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
Qua lời kêu gọi được gởi tới các môn đệ: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giê-su mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Như vậy, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta không chỉ trở nên môn đệ Ngài, nhưng cũng còn phải “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, bởi vì chính Ngài cũng là Đấng hiền hậu và khiêm nhường. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng hiền hậu và khiêm nhường này của Đức Giê-su, khi chỉ một mình thánh ký trích dẫn bức chân dung của Người Tôi Trung của I-sai-a và áp dụng vào Đức Ki-tô: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét” (Mt 12: 18).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- Năm A
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG KẺ BÉ MỌN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
-Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
-Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
-Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
Vài điểm chú giải
– Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giớithiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
– ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
– bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
– những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
– điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
– biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
– trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
– mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi… Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …
– hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.
– ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.
Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong một lời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
Gợi ý suy niệm
-Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
-Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
-Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luạn, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
-Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đăt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
-Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- Năm A
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta còn dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.
Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô. Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ : sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành :”Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường” : lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật” :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Dcr 9,8-10.
Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết : Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.
Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt :
-Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
-Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
-Ngài rất hiền lành : không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.
Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,9.11-13.
Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.
Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.
+ Bài Tin mừng : Mt 11,25-30.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính :
- a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái đáng lẽ ra phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.
- b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.
Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Người hiền lành khiêm nhường
Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng : “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
NÓI VỀ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Nói về hiền lành.
Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người , có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ : Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.
Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”. Người ta từng nói :”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này :
Tảo cấp tắc bại sự
Nóng tính thì hỏng việc.
Nói về khiêm nhường.
Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy ; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.
Truyện : hoàng đế Napoléon kiêu ngạo.
Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ân độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này :”THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này :”CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa :”Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).
NGƯỜI ĐỜI NGHĨ THẾ NÀO ?
Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.
Thái độ hèn nhát.
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).
Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục .
Truyện : Anh chàng Tân Ti Tụ.
Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.
Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.
Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng :
– Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.
Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết. (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)
Thái độ can đảm
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói :”Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói :”
Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân
Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.
Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý : “Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.
Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục. Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.
Ông Gandhi nói :”… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.
Truyện : Lạn Tương Như và Liêm Pha.
Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như :
– Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.
Tương Như nói :
– Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?
Bọn xá nhân đáp :
– Không.
Tương Như nói :
– Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng :
– Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng :”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng :”Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.(Nguyễn duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)
CHÚNG TA NGHĨ SAO ?
Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?
Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.
Truyện : BEN HUR
Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô :
Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi :
– Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?
Đức Giêsu lặng thinh.
– Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?
Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.
– Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy…
Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên :
– Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?
Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.
Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.
Truyện : Đức Gioan 23 và bức thư.
Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.
Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.
Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.
Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo :”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó :
ANH là người tự biết mình.
HÙNG là người tự thắng mình.
Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.
Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Chúa Giêsu đã khẳng định :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Nếu người ta nói :”Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ? Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.
———————————————————————
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HỌC CÙNG ĐỨC GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Đức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà còn dạy chúng ta cách sống nhân bản. Làm theo giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ trở thành những con người rất dễ thương dễ mến và do đó sẽ dễ thành công trong cuộc đời. Hôm nay Đức Giêsu dạy ta học gương của Ngài sống Hiền lành và khiêm tốn. Chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Ngài và xin Ngài giúp ta thực hành được giáo huấn ấy.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Rất nhiều lần chúng ta nóng nảy, hung dữ với kẻ khác.
– Rất nhiều lần chúng ta kiêu căng : coi trọng mình và coi khinh kẻ khác.
– Rất ít khi chúng ta để ý xem Chúa đã sống như thế nào để tập sống theo gương Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Dcr 9,9-10)
Năm 333, Alexandre Đại đế chiến thắng đế quốc Babylon và đưa đế quốc Hy lạp lên ngôi bá chủ. Nhiều người do thái tự hỏi “Phải chăng đó là Vua Messia mà Thiên Chúa gởi đến ?”, “Nếu không phải như thế thì phải chăng Vua Messia sẽ đến cũng giống như Alexandre hùng mạnh này ?”
Ngôn sứ Dacaria trả lời : Đấng Messia sẽ đến cũng là một vì Vua nhưng với nhiều khác biệt rất cơ bản :
– Ngài không phải là một vị vua chiến tranh, mà là vua hòa bình.
– Ngài không kiêu kỳ, mà rất khiêm tốn
– Ngài rất hiền lành : không thích giết chết mà chỉ muốn cứu độ.
Hình ảnh tiêu biểu về Vua Messia là Ngài không cởi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
Đáp ca (Tv 144)
Những đức tính của Vua Messia cũng chính là những đức tính của Thiên Chúa : “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.
Tin Mừng (Mt 11,25-30)
Văn mạch : Sau một thời gian rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được những thành công nhưng cũng gặp phải nhiều thất bại. Thất bại là nơi những người tự nghĩ mình là thông thái, như biệt phái, luật sĩ và gần đoạn Tin Mừng này nhất là dân ở các thành ven bờ Biển Hồ (Mt 11,20-24) ; còn thành công là nơi những người nghèo nàn, ít học, thu thuế, tội lỗi… Ngài gọi chung họ là “những kẻ bé mọn”.
Phần đầu của đoạn Tin Mừng này ghi lại lời Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trước hết, Ngài nhìn nhận tất cả những thành công và thất bại ấy đều theo đúng kế hoạch của Chúa Cha. Kế đến, khi nhìn lại những thành công và thất bại ấy, Đức Giêsu khám phá ra rằng chính Chúa Cha đã đặc biệt yêu thương những kẻ bé mọn nên đã cho họ đón nhận Tin Mừng của Ngài. Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Đức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Sang phần thứ hai của đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài. Theo ách nói do thái, “mang ách của ai” là học với người đó ; còn “gánh” thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Đức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài :
– Học với ngài : học gương hiền lành và khiêm tốn
– Đón nhận luật Ngài là luật yêu thương
Bài đọc II (Rm 8,9.11-13) (Chủ đề phụ)
Đây là lập luận thứ ba cho luận đề “được công chính hóa nhờ đức tin”.
Cốt tuỷ của lập luận : trong con người có hai khuynh hướng đối nghịch nhau, một muốn làm lành và một muốn làm ác. Con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất nội tâm nhờ ơn của Thánh Thần.
Áp dụng : Kitô hữu đã được Chúa Thánh Thần đến ở trong mình cho nên đã có một cuộc sống mới, cho nên họ đừng sống theo cuộc sống cũ nữa :
– Cuộc sống cũ là sống theo xác thịt. Cuộc sống đó sẽ dẫn đến cái chết.
– Cuộc sống mới là sống theo Thánh Thần. Nó sẽ dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Thánh Augustinô đã tự thuật rằng chính đoạn thư này của Thánh Phaolô đã giúp Ngài hoán cải.
GỢI Ý GIẢNG
Thế nào là “hiền lành ?”
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, “hiền lành” bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
– Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã : nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Đón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại, chấp nhận sửa đổi.
– Phản ứng bên ngoài : nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành : trong lòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi ; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương, Ngài không bạo động.
Thế nào là “Khiêm tốn” ?
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận “đứng thấp”, “ở dưới”, “bị hạ xuống”, hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là” ấy thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về những chỗ ngồi (Lc 14,7-11) giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự :
– Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có : Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
– Danh dự của ta là do chính cái “là” của ta tạo cho ta : chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
– Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta : chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
Cuộc hoán cải của Augustinô
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manichéisme. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên “Tolle et lege” (Hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma : đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
“Hãy đến với Ta”
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại : Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp : Con sợ.
Hãy đến với Ta – Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta – Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta – Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp :
Con hãy đến… hãy ngồi xuống… hãy trút bỏ gánh nặng trên vai… Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha… Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha… Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa : “Ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng”. (Flot McCarthy)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Với ước muốn nên giống Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh là một bà mẹ hiền / luôn hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / cảm nghiệm được một cách rõ rệt tình thương bao la của Hội Thánh.
2- Chúa Giêsu nói / “Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết sống tinh thần tám mối phúc thật / nhờ đó / họ có thể trở thành những người kiến tạo hòa bình.
3- Trong đời sống thường ngày / khi gặp buồn phiền hay đau khổ / nhiều người đã đặt niềm tin không đúng chỗ / do đó bị lừa bịp và bị thiệt hại hết sức nặng nề / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp thử thách / chỉ chạy đến cùng Chúa để được Người nâng đỡ ủi an.
4- Chúa ghét kẻ kiêu căng / nhưng thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết noi gương Chúa Giêsu / sống hiền hậu và khiêm nhường.
CT : Lạy Chúa Giêsu, để nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời theo lời mời gọi của Chúa, chúng con phải lắng nghe Lời Chúa dạy và thực thi mệnh lệnh Chúa truyền. Xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để chúng con làm trọn những gì Chúa đòi hỏi nơi chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
—————————————————————-
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
KHIÊM NHƯỜNG – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Những dấu nào cho thấy sự khiêm nhường của Chúa?
- Có quyền ăn nói, nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho người khác. Có dễ không?
- Sức mạnh bùng nổ trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình.Đàng nào mạnh hơn?
- Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?
———————————————————————-
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HÃY HỌC CÙNG TA VÌ TA HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG TRONG LÒNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Sau những tuần lễ mừng những mầu nhiệm từ Phục sinh đến Ba ngôi, rồi Mình máu Thánh Chúa, chúng ta trở về với những tuần lễ thường niên với viễn tượng cứu độ và công cuộc rao giảng của Chúa Giêsu. Giữa những công việc rao giảng bề bộn và việc huấn luyện các môn đệ, Chúa Giêsu phải đối diện với sự cứng tin của nhiều người và những thành phố mà người đã khổ công rao giảng và làm nhiều phép lạ, ngoài ra người còn phải đối diện với những chất vấn của Gioan tẩy giả qua các môn đệ của ông. Dựa vào bối cảnh cụ thể này, chúng ta hiểu những lời cảnh báo của Chúa Giêsu qua cách nói trong lời cầu nguyện thân mật của người với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện và tạ ơn Cha vì đã dấu « những việc này » không cho những người khôn ngoan thông thái biết mà lại mạc khải cho những người bé mọn. Những việc này là gì ? Đó là những việc tàn phá sẽ đổ xuống cho những ai không biết trung thành với ý định tốt lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu trách những người và thành mà nơi đó người đã làm những việc lành trọng đại nhưng nhiều người đã không biết hoán cải. Ngược lại những người bé nhỏ là những người khi đón nhận mạc khải của Đức Giêsu rao giảng về Chúa Cha, thì đã biết sống trung tín và bắt đầu hưởng nếm Vương quốc bình an của Thiên Chúa. Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ xét xử những người bất tín và những người biết trung tín. Những người biết sống trung tín thì đến với người, học với người, đón nhận ách êm ái của người và tìm được sự nghỉ ngơi. Họ sẽ không còn phải sợ hãi lời xét xử của Đức Giêsu.
Đọc lại bài đọc I sách tiên tri Dacaria, tiên tri đã tiên báo thời đại đấng cứu thế và nhắc nhở mọi người, nhất là dân riêng của Chúa hãy có những tâm tình vui mừng phấn khởi vì Chúa là đấng cứu độ của họ sắp đến. Có một chi tiết mô tả đấng cứu thế là người khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, khác với những vị tướng oai hùng khác vẫn ngồi trên chiến mã uy nghi. Thế nhưng không vì thế mà đấng cứu thế yếu hèn hay nhu nhược bởi vì người sẽ loại bỏ mọi chiến xa cũng như ngựa chiến và sẽ công bố hòa bình trên vạn quốc.
Những người do thái hy vọng vào ơn cứu độ. Họ quan niệm đó là thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ thực thi công lý. Vì thế Gioan là vị tiền hô của Đấng cứu thế tiên báo một thời kỳ xét xử và luận phạt. Chúa Giêsu khai mạc thời kỳ cứu độ bằng một cung cách sống mới mẻ khiến cho Gioan phải phân vân, và nhiều người khác không tin. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hiểu được những lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Người tạ ơn Cha vì đã dấu những điều này đối với những người khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những người bé mọn. Lẽ ra những người khôn ngoan thông thái phải hiểu biết hơn những người bé mọn, thế nhưng đứng trước triều đại nước Thiên Chúa và Đấng cứu thế, sự hiểu biết tùy thuộc yếu tố khác, không dựa vào sự khôn ngoan thông thái của người đời, nhưng dựa vào sự khôn ngoan của những người biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Do đó mà những người bé mọn lại là những người tỏ ra thích hợp hơn với việc đón nhận nước Thiên Chúa. Họ thích hợp với nước Thiên Chúa bởi vì thái độ sống của họ phù hợp với thánh ý của Chúa Cha vốn yêu mến thái độ khiêm nhường, chân thật và hiền lành. Điều Chúa Giêsu tha thiết thực hiện trong công việc của người đó là làm sao để phù hợp với thánh ý của Cha. Ngay trong chính đời sống của người, người đã cố gắng sống khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Người cảm thấy rằng Chúa Cha không ủng hộ cho một đường lối cứu thế với những thành công bên ngoài qua những cảm nghiệm mà người có thể nhận thấy : thay vì những hình ảnh xét xử và trừng phạt như Gioan tẩy giả đã loan báo, thì lại là những việc khiêm tốn như rao giảng Tin mừng cho người nghèo, chữa lành những người què quặt, đui mù tàn tật.
Vì thế mà sau đó, chúng ta lại được nghe những lời cầu nguyện thân mật của Chúa Giêsu với Chúa Cha : « Cha đã trao phó mọi sự cho Con, không ai biết Con trừ ra Cha và không ai biết Cha trừ ra Con và những kẻ mà Con muốn mạc khải cho ». Đây là một lời cầu nguyện tạ ơn, đồng thời lại là một tiếng reo vui hạnh phúc khôn tả, một lời tuyên xưng. Tại sao lại tạ ơn như thế ? Có phải là Chúa Giêsu đã thất bại ? Thế nhưng nếu người thất bại, người không tạ ơn như thế được. Đúng ra phải nói là những người khôn ngoan thông thái đã thất bại, những người vốn tự cho mình nắm giữ đặc quyền của sự hiểu biết. Vì thế chúng ta mới hiểu đứng trước một hoàn cảnh khó khăn như thế, Chúa Giêsu tạ ơn vì những người bé mọn đã nhận biết Đấng cứu thế. Những người khiêm nhường và bé mọn này đã đón nhận người, đã nhận ra được điều bí mật của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ nơi người Con một yêu dấu. Vì thế mà sau đó Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy đến với người. Họ hãy khôn ngoan và sáng suốt để đến với người và học với người vì người thực sự khiêm nhường và hiền hậu, những ai đến với người sẽ tìm gặp được bình an và sự nghỉ ngơi.
Lời cầu nguyện tạ ơn của Chúa Giêsu vào một hoàn cảnh khó khăn của công việc của người phản ánh đánh giá đúng mức của người về công việc của mình và thái độ của dân chúng. Chúa Giêsu không đánh giá giả tạo hay lạc quan quá mức, nhưng người đánh giá cách chân thực và vững vàng thực hiện sứ vụ mà người đang theo đuổi và cố gắng chu toàn. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn lôi kéo chúng ta đến với người để học với người. Người nói ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta nhẹ nhàng. Ách và gánh ở đây có thể nói đến việc chu toàn những lề luật tôn giáo trong đời sống. Những người do thái đã cố gắng để chu toàn lề luật và nghĩ rằng họ trở nên hoàn thiện nhờ những việc chu toàn lề luật này. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận ách và gánh của người, tức một đời sống tôn giáo mới mẻ, dựa trên một sự hiểu biết mới do chính người hướng dẫn chúng ta. Đây là một sự công chính mới triệt để hơn, đòi hỏi hơn, nhưng lại nhẹ nhàng và êm ái hơn nhiều so với thái độ vụ luật cũ nhưng không hiệu quả, bởi vì khi học với người, chúng ta thực sự cảm nếm và hưởng nơi nguồn ơn cứu độ thực sự bắt nguồn từ chính Chúa Cha.
Một cách cụ thể, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu hãy sống đời sống mới này bằng cách sống theo Thánh Thần của Đức Kitô. Sống theo Thánh Thần của Đức Kitô là sống theo chính Đức Kitô, vì Thánh Thần của người sẽ hướng dẫn chúng ta sống phù hợp với cách sống của Đức Kitô. Đời sống này là một đời sống chiến đấu chống lại tội lỗi và xác thịt và sự kiêu căng tự mãn làm cho con người khép kín trong chính mình.
Bài Tin mừng với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu không có nghĩa Thiên Chúa đối xử phân biệt và từ chối Nước trời đối với ai. Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban tặng Nước Chúa cho mọi người. Thế nhưng con người chúng ta phải cảnh giác trước những nguy cơ của chính mình, những cách sống thánh Phaolô cảnh giác là thói đam mê xác thịt, và những thói kiêu căng tự mãn gọi là sự khôn ngoan người đời làm cho con người khép kín nơi chính mình. Đây không phải là sự hạ mình làm cho con người không còn khả năng triển nở sung mãn hay hạnh phúc, mà ngược lại đây chính là sự cao cả của con người bởi vì họ được hướng dẫn bởi một sự khôn ngoan mới, sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa nơi người con một hiền lành và khiêm nhượng, Đấng dẫn con người tới viễn tượng ơn cứu độ chân thực.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
MẠC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN– Radio Veritas
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”.(Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
————————————————————————-
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
Ở HIỀN GẶP LÀNH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Một câu nói rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta. Thế nhưng trên đời chúng ta lại thấy rất nhiều những điều ngược lại, người ở hiền thì không gặp lành, còn người ở ác lại hay gặp những điều may mắn. Có một người đã nói vơi tôi: “Cha ơi, sao con ở hiền mà con chẳng bao giờ gặp chuyện lành cả, toàn những chuyện tai ương hay khó khăn chồng chất thôi!”
Thực ra, ở hiền không phải là tránh được mọi tai ương. Sự dữ vẫn có thể đến với chúng ta. Sự dữ chính là tên quỷ dữ luôn tìm cách làm hại người lành. Nó có thể dùng linh hồn tha nhân để làm hại chúng ta. Hay như Jean-Paul Sartre đã từng nói: “con người là chó sói của con người”. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta hành động “ăn miếng trả miếng” theo kiểu thế gian. Người ky-tô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự thiện bằng sự hiền lành và khiêm nhường, cho dẫu có vì đó mà chúng ta chịu trăm ngàn khổ đau.
Hôm nay Chúa nói : “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm chén gạo của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi. Vì sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không chống cự, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, “oán báo oán, oán chập chùng” và còn tha thứ cho xúc phạm của tha nhân không chỉ “7 lần mà là 70 lần bảy”, nghĩa là mãi mãi. . .
Trong tám mối phúc, có mối phúc Chúa chúc phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính đó mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời.
Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.
Sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng với tha nhân. Tuy hai nhưng là một mục đích. Tạo cơ hội cho chúng ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài luôn có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người từ em bé đến người già. Từ người giầu có đến kẻ hèn. Từ người công chính đến tội lỗi.
Chân Phước Clément Hofbauer đã nêu cao gương hiền lành và khiêm nhường ấy một cách tuyệt vời. Vào khoảng năm 1800, ngài đi vào một quán ăn tại Varsovia để xin những thực khách tại đây giúp cho các trẻ mồ côi mà ngài đang coi sóc. Một thực khách, đang chơi bài, nhổ nước miếng vào mặt ngài. Vị linh mục thánh thiện nầy vừa chùi má, vừa nói:
“Thưa ông, đây là phần ông cho tôi; bây giờ, xin ông cho các em mồ côi một chút gì đi.”
Ông đánh bạc nầy quá xúc động, lấy tất cả tiền đánh bạc của mình ra và cho ngài. Vài ngày sau, ông nầy tìm đến ngài để xin xưng thú tội lỗi.
Hóa ra sự hiền lành có thể hóa giải lòng người. Sự hiền lành thể hiện sự bản lĩnh của kẻ mạnh. Sự hiền lành giúp cho con người sống nhường nhịn lẫn nhau, tha thứ cho nhau và cùng nhau xây dựng một xã hội đầy yêu thương.
Ước gì sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giê-su luôn là mẫu mực để chúng ta noi theo. Xin cho chúng ta luôn là chứng nhân cho lòng nhân hậu của Chúa giữa một thề giới đầy thù hận hôm nay. Amen
——————————————————
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU – Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù… Nhưng suy nghĩ như thế là thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người cho thấy những bạo chúa hung tàn bậc nhất như Nê-rô thời xưa, Hitler, Polpot thời nay hay bất kỳ một thế lực bạo tàn nào… dù họ nắm được quyền lực trong tay và dùng bạo lực cường quyền để uy hiếp người khác, nhưng rốt cuộc, họ đều bị hạ bệ, bị người đời lên án và chuốc lấy thất bại não nề.
Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King và nhiều hiền nhân khác đã biết dùng sự hiền hậu, dịu dàng để chiến thắng sự hung bạo cách hiệu quả và vẻ vang. Nhân loại qua bao thời vẫn nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết “dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường.” (Lão Tử)
Thế nên, mặc dù Chúa Giê-su có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Ngài kêu gọi mọi người nên học với Ngài là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. Qua Tin Mừng Mát-thêu chương 11 câu 29, Chúa Giê-su mời gọi: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp.” (Mt 5, 4)
Hiền hậu là lợi khí của người khôn
Trong vườn Dầu, khi Phê-rô tuốt gươm ra để bảo vệ Chúa trước đám đông binh lính xông đến bắt Ngài, Chúa Giê-su bảo ông: “Hãy xỏ gươm vào bao. Ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm.” (Mt 26,52)
Bạo lực không là giải pháp khôn ngoan, nên người khôn không bao giờ dùng bạo lực để kháng cự bạo lực, không dùng hận thù để trả đũa hận thù, nhưng biết dùng tính khiêm nhường hiền hậu để ứng xử với mọi người, ngay cả khi bị người khác đối xử tàn ác, thô bạo với mình. Hiền hậu là một lợi khí của người khôn để khuất phục kẻ thù.
Khi búa tạ tấn công vào đá; đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Đá thất bại hoàn toàn.
Khi búa tấn công nước; nước sẽ dùng sự mềm mại dịu hiền của mình để đối lại. Bằng cách nầy, nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Thế là nước thắng lớn, búa thua to.
Khi búa hung hăng đập vào tường; bức tường sẽ dùng sự cứng rắn của mình chống lại búa; thế là bức tường cao sẽ bị sụp đổ. Tường thất bại.
Thế nhưng, khi búa đập vào bức màn; tấm màn sẽ dùng sự dịu dàng của mình né tránh sự thô bạo của búa. Màn bình yên vô sự, còn búa sẽ bị mất thăng bằng và bị lao vào khoảng không. Thế là màn chiến thắng.
Như thế, với tấm lòng hiền hậu, khiêm nhường, nhu mì, dịu dàng, mềm mại, người ta có thể thắng được sự thô bạo, hung hăng của người khác.
Ngoài ra, với đức tính khiêm nhường hiền hậu, người ta không chỉ thắng được những lực đối kháng bên ngoài mà còn chinh phục được lòng người. Như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, thì lòng yêu thương quý mến của nhiều người khác cũng dồn về cho những người có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhường.
Gương hiền hậu, khiêm nhường của Chúa Giê-su,
Trong cuộc khổ nạn, tấm gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã được nêu cao: Mặc dù là Thiên Chúa quyền năng cao cả, là Con Một của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận cho người đời hèn mọn nhạo cười, phỉ báng, lăng nhục, khạc nhổ vào mặt, đánh đập tơi bời, lại còn chịu vác thập giá, chịu đóng đinh và chết ô nhục trên thập giá… mà vẫn không oán hờn hay kháng cự; hơn nữa, còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ cho mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Khiêm nhường và hiền hậu là tính cách nổi bật nhất nơi con người và cuộc đời của Chúa.
Khiêm nhường và hiền hậu là nhân đức được toả sáng trong cuộc thương khó của Ngài.
Khiêm nhường và hiền hậu là một trong những bài học quan trọng nhất mà Chúa kêu mời chúng con phải học với Chúa từng ngày.
Lẽ nào chúng con là những môn đệ đã chọn Chúa làm Thầy và là mẫu mực cho mình, lại gạt bỏ ra khỏi tâm trí mình bài học quý báu nầy; mà lại không noi gương bắt chước Thầy mình để sống khiêm nhường hiền hậu như Chúa sao!
———————————————————————–
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG- Trích Logos A
Ngày kia, vào lúc nhà hiền triết vĩ đại của Trung Hoa là Lão Tử đang hấp hối trên giường bệnh, các môn đệ của ông vây quanh, xin ông dạy bài học cuối cùng trước khi ông lìa đời. Lão Tử há miệng ra, rồi hỏi các học trò :
– Răng ta còn không ?
Các học trò đồng thanh đáp :
– Thưa thầy, răng thầy đã rụng hết !
Lão Tử lại hỏi :
– Lưỡi ta còn không ?
Các học trò đáp :
– Thưa thầy, lưỡi thầy vẫn còn !
Lão Tử nói :
– Răng cứng thì mất, lưỡi mềm thì còn. Như thế, nhu luôn thắng cương. Hãy lấy sự hiền lành mà đối lại với sự hung dữ.
Nói xong, Lão Tử nhắm mắt lìa đời.
Bài học của Lão Tử dẫn chúng ta vào bài học của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay : “…Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng …”. Chúa Giêsu không dạy bài học đó trên lý thuyết, nhưng bài học đó được rút ra từ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuốn sách mở ra biết bao bài học. Nhưng “bài học vỡ lòng” dành cho các môn đệ chính là sự hiền lành và khiêm nhường.
Bài học hiền lành.
Sự hiền lành của Chúa được thể hiện qua dung mạo Người Tôi tớ của Ngài : “Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng Người giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi” (Is 42, 2-3).
Với dung mạo hiền lành như thế, Chúa đã đến với mọi người mang theo một trái tim nhân hậu, một tấm lòng bao dung. Đặc biệt, đối với những kẻ hèn mọn, nghèo khó và cả những người tội lỗi, hư hỏng, Chúa luôn biểu lộ tình xót thương và lòng rộng lượng :
– Với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa hiền từ nói với chị : “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11).
– Với người thu thuế Giakêu đang leo cây sung để nhìn xem Chúa, Chúa đưa mắt nhân từ ngước lên và nói : “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta sẽ lưu lại nhà ông” (Lc 19, 5).
– Với người trộm lành, Chúa tỏ lòng khoan dung đại lượng : “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).
Sự hiền lành của Chúa còn được thể hiện qua hình ảnh Chúa bị dẫn ra trước đám đông dân chúng, với khuôn mặt đẫm máu, vòng gai quấn trên đầu, thân hình tan nát vì đòn vọt. Lúc ấy, Philatô nói với dân chúng : “Đây là người” (Ga 19, 5). Quả thật, khuôn mặt đau thương của Chúa đã phản chiếu trung thực dung mạo Người Tôi Tớ Giavê : “Người đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ ” (Is 50, 6).
Sau cùng, sự hiền lành của Chúa được diễn tả một cách rõ ràng nhất qua hình ảnh Ngài giang tay trên thánh giá, chết một cách lặng lẽ, không la hét, không chửi rủa, nhưng chỉ gục đầu trong sự nhẫn nại hiền lành.
Bài học khiêm nhường.
Biến cố nhập thể là bài học đầu tiên về sự tự hạ của Chúa. Ngài đến trần gian trong âm thầm lặng lẽ qua hình hài một bé thơ nghèo hèn. Chúa khiêm nhường nên ra đời giữa những kẻ bé mọn : Đức Maria, thánh Giuse, các mục đồng … Chúa khiêm nhường nên ẩn mình đi trong cái vỏ bề ngoài thật tầm thường. Vì khiêm nhường, Ngài chôn vùi vinh quang Thiên Chúa trong thân phận một người lao động. Vì khiêm nhường, Chúa hòa mình vào kiếp phàm nhân tội lỗi.
Chúa khiêm nhường, nên Ngài đứng về phía những kẻ bé mọn. Ngài chúc tụng Thiên Chúa Cha, vì đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Chúa không chọn cho mình những kẻ giàu sang phú quý, hay những người khôn ngoan thông thái, nhưng lại dành ưu tiên cho những người bị gạt ra bên lề xã hội. Người cùi bị mọi người lánh xa, thì Chúa lại đi tìm họ, chạm đến và chữa lành họ. Người thu thuế bị người ta coi là phường tội lỗi, Chúa lại tìm đến và ngồi đồng bàn với họ. Chúa bênh vực những kẻ hư hỏng và ân cần ưu ái với những người bị bỏ rơi và áp bức.
Chúa đã đi xuống tận cùng của sự khiêm nhường khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13, 1-13). Sự khiêm nhường đã đẩy Chúa xuống sự cùng cực của kiếp nô lệ. Vì khiêm nhường, Ngài đã trở thành người phục vụ hèn kém nhất. Ngài đã quên mất mình là một Thiên Chúa ! Chúa quỳ xuống để nâng mọi người đứng lên, Chúa cúi xuống để con người được vươn cao.
Ách êm ái, gánh nhẹ nhàng.
Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường không có nghĩa là Ngài cổ võ cho sự uỷ mị và nhu nhược. Trái lại, Ngài đứng lên để bênh vực sự thật, chống lại sự dữ. Ngài thẳng thắn kiện toàn những gì chưa hoàn thiện.
Hôm nay, Chúa mời gọi : “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi”.
Chúa nhìn thấy “những kẻ bé mọn” đang bị đè nặng dưới ách của lề luật cũ. Đó là thứ lề luật giam hãm con người trong sự giả hình và câu nệ. Chúa muốn cất bỏ cái ách và gánh nặng mà các luật sĩ và biệt phái đang đặt lên vai dân chúng. Ngài muốn thay vào đó “cái ách tình thương” của Ngài. Chúa muốn kiện toàn lề luật cũ trở thành lề luật yêu thương. Vì thế, Chúa đã mời gọi mọi người : “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta … vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh tôn giáo tại Ấn Độ, người ta đọc được biểu ngữ như sau : “Nếu chúng ta lấy mắt đền mắt, thì cả thế giới sẽ trở nên mù lòa”. Lề luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng” đã được Chúa thay thế bằng lề luật yêu thương : “Ai vả má bên phải, hãy đưa cả má bên trái nữa” (Mt 5, 38-39).
Quả thật, với lề luật yêu thương, Chúa đang làm cho thế giới hôm nay được hoàn thiện và tươi sáng hơn. Hãy mang lấy ách của Chúa và hãy học cùng Chúa bài học tình yêu ấy.
Hôm nay, trong bài đọc I, tiên tri Zacaria đã phác họa hình ảnh thật khiêm tốn của Vua Messia. Ngài không đến trên lưng con tuấn mã. Ngài không đến trong tiếng vó ngựa dồn dập. Nhưng Ngài đến âm thầm trên lưng con lừa hèn mọn. Ngài đến như một kẻ bé mọn nhất trong số những kẻ bé mọn. Chỉ có những người hiền lành và khiêm tốn mới gặp được Ngài.
Khi còn là một chủng sinh, thánh Gioan Vianney học hành rất kém. Một lần kia, thấy thầy Vianney quá kém cỏi, một cha giáo tức bực hét lên : “Thầy dốt như một con lừa !”. Thầy Vianney rất mực khiêm tốn trả lời : “Thưa cha giáo, ngày xưa, chỉ với một cái hàm của con lừa, Samson đã đánh đuổi cả đội quân Philitinh. Giờ đây, với cả một con lừa như con, chẳng lẽ không giúp ích gì được cho Hội Thánh sao ?”.
Thánh Vianney đã giúp ích rất nhiều cho Hội Thánh. Như một kẻ bé mọn hiền lành và khiêm tốn, ngài đã dẫn đưa nhiều tâm hồn về với Chúa.
Chúng ta hãy đến với Chúa như một kẻ bé mọn, hãy trút bỏ cho Ngài tất cả gánh nặng cuộc đời. Qua con đường hiền lành và khiêm nhường, chúng ta sẽ gặp gỡ được Ngài.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- Năm A
HỌC TRƯỜNG GIÊSU- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi Chúa cầm lấy chén, tạ ơn (x. Mt 26,27); Lời tạ ơn diễn tả tâm tình của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Chúa Kitô thường quen tạ ơn. Người tạ ơn vì biết trước rằng Chúa Cha đã nhận lời. Người tạ ơn vì sức mạnh uy quyền toàn năng của Thiên Chúa hiển hiện nơi Người để Người tỏ uy quyền toàn năng của Đấng Tạo Hóa ra trước mặt thiên hạ. Người tạ ơn vì công trình cứu chuộc Người đã hoàn tất, và Người tạ ơn vì việc Người làm để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Như vậy, hiện tại hóa hy tế đời đời của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh Lễ được hiểu như là một hành động tạ ơn cao cả nhất. Chính trong nghĩa đó mà từ “Thánh Thể” là hành động tạ ơn được nên trọn vẹn. Chúa Giêsu đã dâng hiến thân mình thay cho mọi tạo vật trên thế giới. Người cũng mời gọi các tạo vật phải tạ ơn Đấng Tạo Hóa cho xứng.
Tiếp theo hành động tạ ơn là lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến trường Giêsu và học bài “Hiền Lành Và Khiêm Nhường”. Bài đọc I cho thấy, Đấng Messia mà Giacaria nói tới trong Cựu Ước, Đấng ấy không đến trong quyền uy với vũ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ vũ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”. Vua hòa bình ngồi trên lưng lừa, không đến để giết chết mà để cứu sống (x. Dcr 9,8-10).
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài quí chuộng những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường. Chính Ngài đã mạc khải cho họ, trong khi lại giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy (x. Mt 11,25-30).
Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Chúa” và “hãy học cùng Chúa” bài học : “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
Hiền lành, theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Hiền lành hay hiền hậu là đức tính tốt lành của người có lòng thương người, không độc ác, nhưng có đức hạnh và hay làm điều thiện.
Lịch sử minh chứng, con người ở mọi nơi mọi thời thường say mê quyền lực và muốn thống trị, sai khiến người khác theo ý mình, nên theo một số người thì hiền lành và khiêm nhường có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Trái lại, cũng có rất nhiều người cho rằng, người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được nhân đức khiêm nhường và hiền lành, họ đáng được ca tụng.
Hiền lành và khiêm nhường ngày nay không còn được đánh giá cao như xưa. Trước kia, lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho người khác khi gọi họ là “người hiền lành khiêm nhường”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.
Người hiền triết và khôn ngoan, thường khó đi vào trong các mầu nhiệm Nước Trời, vì họ không mở lòng mình ra để đón nhận các mạc khải của Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng mạc khải chính mình, nhưng họ thì lại tự tin vào hiểu biết của chính mình; vì thế, mạc khải của Thiên Chúa không làm họ ngỡ ngàng được. Trái lại, người đơn sơ như trẻ nhỏ lại đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa; họ giống như tấm bọt biển khô hấp thấm nước vậy, họ ngỡ ngàng và thán phục trước mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, họ là học giả khôn ngoan, nhưng khiêm tốn trước Thiên Chúa, họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa.
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc hiền nhân quân tử có cái nhìn khác. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền lành chớ không phải bạo lực”.
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành).
Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
“Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” là thông điệp Đức Giêsu gửi đến mỗi người chúng ta. Người đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Người thôi.
Vậy, chúng ta hãy thực hiện được lời Chúa dạy, cố gắng vượt thắng tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.
Trong bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Chỉ có người theo học trường Giêsu, quyết học bài học hiền lành và khiêm nhường cả đời, chỉ có người biết cư xử với lòng khoan nhân, mới tìm được an bình và hạnh phúc trên cõi đời nầy cùng sự nghỉ ngơi miên viễn khi đã ‘ra trường’.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Amen.