CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỘT TRAO ĐỔI KHÔN LƯỜNG- Chú giải của Achille Degeest 8
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ – Chú giải của Noel Quesson. 10
LỜI HỨ BAN SỰ SỐNG (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 18
SỰ SỐNG PHÁT XUẤT TỪ VIỆC TRAO BAN SỰ SỐNG- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long 28
ĐỨC GIÊSU, BÁNH HÓA NHIỀU- Chú giải của Fiches Dominicales. 40
BÁNH HẰNG SỐNG BỞI TRỜI- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 48
THIÊN CHÚA LÀ LƯƠNG THỰC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 61
TẤM BÁNH TÌNH YÊU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 71
THÁNH THỂ, QUÀ TẶNG CỦA TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 74
NÀY LÀ MÌNH THẦY…NÀY LÀ MÁU THẦY HIẾN TẾ VÌ ANH EM– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 80
NHỮNG TÊN GỌI TẦM THƯỜNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 85
ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI – Lm. Trần Ngà. 92
BÁNH HẰNG SỐNG- Trích Logos A.. 96
TIN NHẮN YÊU THƯƠNG- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 101
————————————————————–
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ– NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Đnl 8, 2-3. 14b-16a
“Người sẽ ban cho các ngươi của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới”.
Bài trích sách Đệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc suốt bốn mươi năm, để rèn luyện và thử thách các ngươi, để biết các điều bí ẩn trong lòng các ngươi và xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Người hay không? Người đã để các ngươi vất vả thiếu thốn, và ban cho các ngươi manna làm của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới, để tỏ cho các ngươi thấy rằng: Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. “Các ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Đấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Đấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Đáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 10, 16-17
“Có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ là một thân thể”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.
Đó là lời Chúa.
CA TIẾP LIÊN: “Lauda Sion: Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen”
Trước Alleluia, có thể hát hoặc đọc Ca Tiếp Liên này, tất cả hoặc từ câu 21 (“Này đây bánh”) cho đến hết.
– Hỡi Sion, hãy ngợi khen Đấng cứu độ ngươi, Đấng lãnh đạo và mục tử của ngươi / với những bài vãn và những khúc ca!/ 2. Ngươi có sức chừng nào, hãy rán ngợi khen chừng nấy, vì Người vĩ đại hơn mọi lời khen ngợi, và ngươi cũng không đủ sức ngợi khen Người./ 3. Đề tài của sự ngợi khen đặc biệt, đó là bánh sống và tác thành sự sống, ngày hôm nay đã đặt ra cho ngươi./ 4. Đó là bánh mà trên bàn tiệc thánh, cho đoàn thể mười hai người anh em, Chúa đã ban tặng chẳng khá nghi ngờ./ 5. Hãy xướng lên lời ca khen ngợi đầy đủ, lời ca hoan hỉ và râm ran, tâm thần hãy vui mừng rạng rỡ!/ 6. Vì đây là ngày trọng thể, ngày kỷ niệm bàn tiệc thánh / lần đầu tiên được thiết lập ra./ 7. Tại bàn tiệc này của Đấng Tân Vương, lễ Vượt Qua mới theo luật pháp mới / chấm dứt lễ Vượt Qua của thời đại cũ./ 8. Lễ nghi cũ nhường chỗ cho sự thực; đêm tối tăm nhường chỗ cho sự sáng sủa./ 9. Điều mà Chúa Kitô đã làm trong bữa tiệc ly, thì Người đã ra lệnh cho thực thi điều đó để nhớ lại Người./ 10. Nhờ lời thánh huấn của Người dạy bảo, chúng ta làm phép cho bánh và rượu / trở nên lễ vật hy sinh ban ơn cứu độ./ 11. Đây là tín điều dạy người Kitô hữu rằng / bánh trở nên thịt Chúa, và rượu trở nên máu Người./ 12. Điều bạn không hiểu, không xem thấy, thì đức tin mạnh mẽ xác nhận xảy ra, ngoài luật lệ thiên nhiên./ 13. Dưới những hình sắc khác nhau, chúng chỉ là biểu hiệu, không còn thực chất, có ẩn nấp những thực tại cao siêu./ 14. Thịt Chúa là của ăn, máu Người là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới mỗi sắc hình./ 15. Người không bị kẻ lãnh nhận nghiền nát, không bị bẻ gẫy, không bị phân chia, nhưng Người được thiên hạ lãnh nhận toàn thân./ 16. Một người lãnh nhận, ngàn người lãnh nhận, những người này cũng lãnh bằng những người kia, thiên hạ ăn thịt Người mà Người không bị tiêu hao./ 17. Người lương thiện lãnh, kẻ ác nhân cũng lãnh, nhưng số phận họ không đồng đều: hoặc được sống hay là phải chết./ 18. Kẻ ác nhân phải chết, người lương thiện được sống; hãy coi, cùng một của ăn như nhau, mà kết quả khác xa biết mấy./ 19. Hình bánh bị vỡ, chớ khá lo âu, nhưng hãy nhớ rằng / trong miếng vỡ cũng như trong toàn thể / Chúa vẫn hiện diện đầy đủ như nhau./ 20. Bản chất không hề bị bẻ vỡ, duy có biểu hiệu bị phân chia, nhưng không giảm thiểu tình trạng và dáng vóc của Đấng ẩn dật bên trong.
– Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thực là bánh của những người con cái, không nên ném cho loài khuyển./ 22. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế Isaac, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng manna./ 23. Lạy Chúa Giêsu là mục thủ tốt lành, là bánh thực, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy / những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh./ 24. Chúa là Đấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận / với những công dân thánh của nước trời. Amen. Alleluia.
ALLELUIA: Ga 6, 51-52
All. All. – Chúa phán: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”. – All.
PHÚC ÂM: Ga 6, 51-59
“Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Đó là lời Chúa.
————————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
MỘT TRAO ĐỔI KHÔN LƯỜNG- Chú giải của Achille Degeest
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hoá bánh ra nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể của Ngài và quyền phân phát vô tận lương thực thần linh, mà bánh hoá nhiều là biểu tượng. Như đối với phần đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây được đề ra.
Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh” cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới… Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.
—————————————————————————–
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ – Chú giải của Noel Quesson
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ năm Tuần Thánh. Nhưng sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về “bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời”…
Theo một văn phong điểm hình của thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ –chìa khoá: ăn (8 lần); uống (4 lần); thịt (5 lần); máu (4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút vào giọng nói có nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”
Bánh? Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa trung hải, “bánh” (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự sống. Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng ta được phóng lên trên những từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực nuôi sống. Hơn thế nữa Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống. Và đó là bánh hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn Thánh Thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sở thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì?
“Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Có nhiều trình độ sống khác nhau. Pascal đã nói đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của xác phàm, những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện; “gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu nhiên”. (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: “Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu, người ta thấy mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến “đời sống thánh thiêng, đời sống muôn đời” như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Những thánh sử khác dùng một từ khác: “Này là mình Thầy”. Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã sử dụng chữ “thịt” được dịch ra tiếng Việt là ‘người phàm’. “Và Ngôi Lời đã trở thành người phàm” (Ga 1,14). “Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm” (1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi là thịt, xác thịt; mà là toàn bộ “hữu thể sống”, là ngôi Vị trọn vẹn “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi”. Khi nói về “thịt tôi đây”, như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người. Người phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên “điên rồ!” Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”.
Không nao núng. Đức Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc này, Người chỉ nói “ăn” thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải “uống” máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ “máu” chuyển tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là “thân thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển của Thánh Phaolô: “Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình thể nấy… Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí…” (l Cô-rin-tô 15,37-42).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ “phagein”, “ăn” mà ngài đã dùng cho đến lúc này… bằng từ “trôgei” mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là “nhai”! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua, con cái Israel được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật; nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân thể.
“Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”.
Từ “thật” được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát vọng sự viên mãn. Điều mà con người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sự dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho:..Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Một trong những lời tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
“Nhai thịt”; “uống máu”; khi Gioan viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân biệt: “Này là Mình Thầy bị nộp” “Này là Máu Thầy đổ ra”
Thịt… Máu… Làm thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh lễ đưa chúng ta về Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
Và đó là “ở lại” trong Đức Giêsu.
Và đó là “sự sống” theo Đức Giêsu: sự sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và một cách cụ thể của mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có ý nghĩa là gì.
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”.
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống. Tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với Người?
“Đây là bánh từ trời xuống không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng. Chỉ thế thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời. Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói khát Thiên Chúa không? Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na đi làm dịu cơn đói của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
————————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ – NĂM A
LỜI HỨA BAN SỰ SỐNG (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Đức Kitô, Phụng Vụ Lời Chúa cử hành sự kiện Thiên Chúa ban tặng bánh từ trời làm lương thực cho nhân loại.
Đnl 8: 2-3, 14-16
Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại ân ban bánh Man-na kỳ diệu từ trời xuống mà Đức Chúa ban cho dân Do thái để nuôi dưỡng họ trong suốt cuộc hành trình qua sa mạc.
1Cr 10: 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nêu lên Bí Tích Thánh Thể, Bí tích hiệp nhất mọi Kitô hữu khi cho họ dự phần vào chỉ một tấm bánh là Thân Thể Đức Giê-su.
Ga 6: 51-58
Tin Mừng Gioan trích từ diễn từ về “Bánh Hằng Sống” trong đó Đức Giê-su tuyên bố Ngài chính là “Bánh Hằng Sống”, bánh ban sự sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (Đnl 8: 2-3, 14-16).
Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, cũng được gọi là “Sách Luật” (Tô-ra). Tuy nhiên, thuật ngữ Tô-ra theo tiếng Do thái không có nghĩa pháp lý, nhưng là giáo huấn giúp soi sáng, hướng dẫn cách ăn nếp ở.
Nhan đề sách “Đệ Nhị Luật,” có nghĩa “Luật thứ hai” hay “Thứ Luật” (tiếng Hy lạp: Deuteros: lần thứ hai, và nomos: luật). Tác phẩm này là “ôn cổ tri tân”, nghĩa là nhắc lại những lời dạy của Mô-sê để dân biết phải sống như thế nào khi ở trong Đất Hứa. Thật ra, sách này được biên soạn vào thế kỷ thứ 8 hay thứ 7 tCn, khi dân Ít-ra-en đã an cư lạc nghiệp qua nhiều thế kỷ ở đất Ca-na-an và có chiều hướng quên Giao Ước cũng như những huấn lệnh tôn giáo và luân lý.
Sách Đệ Nhị Luật chủ yếu bao gồm những diễn từ, được gán cho ông Mô-sê, nhân vật được xem như đang ngỏ lời với dân Do thái trước ngưỡng cửa Đất Hứa, để cảnh giác họ về những mối nguy hiểm đang rình rập họ khi sống trong môi trường ngoại giáo tại đất Hứa, cũng như để khẩn khoản nài van họ một mực trung thành với những giới luật của Thiên Chúa.
Cái khung hư cấu nầy cho phép trình bày Giáo Lý đích thật về Giao Ước. Bản văn hôm nay, được trích từ chương 8 gồm hai phần: 8: 2-3 và 8: 14b-16, nhấn mạnh những bài học Lịch Sử, đặc biệt những ngày tháng lang thang trong sa mạc. Cả hai phần trích dẫn đều bắt đầu với những lời nhắc nhở: “Anh em hãy nhớ lại” và “Anh em đừng quên” bánh Man-na là một thiên ân.
“Anh em hãy nhớ” (8: 2-3)
Phần trích dẫn thứ nhất mở ra với lời mời gọi dân Ít-ra-en hãy “nhớ lại” những thử thách trong sa mạc: “Anh em hãy nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi trong sa mạc suốt bốn mươi năm qua”, vì thời gian thử thách là cách thức Thiên Chúa giáo huấn dân Ngài khỏi mọi ảnh hưởng xa lạ. Chính khi sống trong khung cảnh nghèo khó, kham khổ và gian nan vất vả mà con cái Ít-ra-en thấy mình hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa. Bánh Man-na đã là một ân ban đặc biệt, lương thực do Lời sáng tạo của Thiên Chúa, để cho con người hiểu rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi điều từ miệng Chúa phán ra”. Có một sự đồng hóa và hầu như đồng nhất giữa bánh Man-na và Lời Thiên Chúa, vì Lời Chúa cũng là lương thực ban sự sống cho con người. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giê-su cho Xa-tan khi Ngài chịu những chước cám dỗ trong hoang địa (Mt 4: 4).
“Anh em đừng quên” (8: 14-16)
Phần trích dẫn thứ hai kêu gọi “đừng quên” những ân phúc Thiên Chúa ban cho dân Ngài trong sa mạc khi phải đối mặt với biết bao nguy hiểm. Lời ghi nhận nầy cũng gợi nhớ ơn Quan Phòng lạ lùng, tức là bánh Man-na.
Bánh Man-na:
Người ta không biết chính xác bánh Man-na là gì. Sách Xuất Hành nói với chúng ta, mỗi buổi sáng, dân Do thái lượm trên mặt đất “một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối” (Xh 16: 14), còn sách Dân Số thì nói “như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” (Ds 11: 7). Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc vào cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu, bánh có mùi vị như bánh chiên dầu (Ds 11: 8).
Phần trích dẫn thứ nhất nhấn mạnh nguồn gốc từ trời của bánh Man-na, trong khi phần trích dẫn thứ hai nhấn mạnh giá trị dấu chỉ của bánh Man-na, dấu chỉ của việc Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt, nhờ đó dân Ngài được sống.
Bánh Man-na có thể từ một thứ nhựa cây rỉ ra và đông cứng lại. Loại cây sa mạc thuộc gia đình liễu bách này, khi bị côn trùng chích vào, liền tiết ra một thứ nhựa và đông cứng lại trong khí lạnh ban đêm và khi mặt trời mọc lên những hạt nhựa này rơi xuống đất như những hạt nhỏ có vị mật ong. Đây là lương thực mới lạ mà dân Do thái bất ngờ gặp thấy cho đến lúc đó, vì thế tên gọi Man-na có nghĩa “Cái gì đây?” (Xh 16: 15). Từ đó, bánh Man-na là lương thực hằng ngày của họ cho đến cuối cuộc hành trình băng qua sa mạc. Thánh vịnh 78 gợi lên bánh Man-na là “ bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi dịch “bánh của các thiên thần.” Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh Man-na sẽ là thức ăn của thời thiên sai. Đức Giê-su trình bày bánh Man-na là hình ảnh báo trước bánh ban sự sống đích thật, tức là Bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 16-17)
Cùng chung một bàn ăn, cùng chia sẻ một tấm bánh, tạo nên “tình liên đới” giữa những người đồng bàn. Nghi thức Thánh Thể là một nghi thức “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”, “sống chết có nhau”. “Bánh Thánh Thể” không là bất cứ bánh nào mà người ta chia sẻ với nhau; “rượu Thánh Thể” cũng không là bất cứ rượu nào mà người ta chuyền tay cho nhau. Bánh mà người ta ăn, chính là “Thân Thể Đức Kitô”, rượu mà người ta uống chính là “Máu Đức Kitô”, nghĩa là thiết lập mối liên hệ vừa vật chất vừa mầu nhiệm giữa các tín hữu với nhau và với Đức Ki-tô. Thánh Thể là bí tích của sự hiệp nhất tuyệt vời. Đồng bàn với Đức Kitô, Chúa chúng ta, mọi người đều được dự phần vào cùng một thực tại siêu nhiên: nên một với Đức Kitô. Đức Kitô làm cho cộng đoàn Kitô hữu trở nên một thực thể duy nhất.
Đây là đạo lý căn bản của thánh Phao-lô. Trong cùng bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân khai triển chủ đề “liên đới” của mọi chi thể thành một thân thể với Đầu, Thủ Lãnh, là Đức Ki-tô, Ngài vừa nguyên lý của sự sống vừa là nguyên lý của sự hiệp nhất: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12: 27).
Thánh Phao-lô lại càng có lý do nhấn mạnh sự liên đới này hơn nữa vì các tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau. Thánh nhân muốn cho họ hiểu rằng họ không chỉ liên đới với nhau thành một cộng đồng duy nhất, nhưng còn với các cộng đoàn khác thành một Giáo Hội duy nhất bất khả phân chia.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Sau khi hóa bánh ra nhiều, ngày hôm sau Đức Giê-su trở lại Ca-phác-na-um, ở đó Ngài gặp lại đám đông mà Ngài đã cho họ ăn no nê. Trên bờ hồ, Đức Giê-su bắt đầu ngỏ lời với họ (Ga 6: 26); sau đó, trong hội đường Ca-phác-na-um (Ga 6: 59), Ngài hoàn tất bài diễn từ của Ngài, được gọi là diễn từ về “Bánh Hằng Sống”,.
Bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” (6: 26-58) được chia làm hai phần. Phần thứ nhất được gọi là “diễn từ về Lời Chúa” (6: 26-51b) trong đó Đức Giê-su tự giới thiệu Ngài là “Lời từ trời xuống ban sự sống đời đời”. Phần thứ hai được gọi là “diễn từ về Thánh Thể” (6: 51c-58) trong đó Ngài giới thiệu Mình và Máu Ngài là “của ăn thức uống đích thật ban sự sống đời đời”. Toàn bộ câu 51 đóng chức năng nối kết hai phần của một diễn từ: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Đoạn trích dẫn hôm nay là phần thứ hai của diễn từ “Bánh Hằng Sống”. Trong phần thứ nhất, Đức Giê-su đòi hỏi phải tin vào Ngài như điều kiện tiên quyết, bởi vì Mặc Khải mà Ngài sắp ban lạ lùng đến nỗi nó đòi hỏi, trước hết, “phải tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến” và “tín thác vào Lời Ngài”. Tiếp đó, Đức Giê-su không úp mở khai triển phần thứ hai, phần trọng điểm lời công bố của Ngài. Đây là đoạn Tin Mừng được trích dẫn vào ngày lễ “Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô”.
Đức Giê-su đích thật là Bánh ban sự sống đời đời cho con người:
Trong suốt những lời tuyên bố gây kinh ngạc của Ngài: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, Đức Giê-su không ngừng gợi lên nguồn gốc thiên giới của Ngài và tử hệ thần linh của Ngài. Chính vì Ngài đến từ Chúa Cha và nên một với Chúa Cha, mà Ngài có thể tự mình ban phát sự sống thần linh cho nhân loại: “Bánh tôi sẽ cho, chính là thịt tôi ban, để thế gian được sống”.
Những lời nầy rất gần với những lời mà Đức Giê-su sẽ công bố khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26: 26; Mc 14: 22; Lc 22: 14; 1Cr 11: 24). Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan không dùng từ “sôma” (thân xác) như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng từ “sarx” (nhục thể, xác thịt), bởi vì từ “sôma” rất dễ hiểu lầm, quả thật, ý nghĩa đầu tiên của từ “sôma” là xác chết, thây ma (x. Lc 17: 37). Với từ “sarx” này, thánh Gioan nối kết Bí Tích Thánh Thể với Mầu Nhiệm Nhập Thể (Ga 1: 14). Ngôi lời nhập thể để trở nên bánh ban sự sống. Mầu nhiệm Nhập Thể là căn nguyên của ơn cứu độ.
Khó mà tin được:
“Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau”. Danh xưng “người Do thái” chung chung mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư. Danh xưng nầy được dùng để chỉ những người Do thái cứng lòng tin (trái lại, danh xưng “Ít-ra-en” được dành riêng cho những người gắn bó mật thiết với Đức Giê-su).
Quả thật, người Do thái càng tỏ thái độ nghi nan ngờ vực: “ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”, Đức Giê-su càng nhấn mạnh hơn nữa. Lời công bố của Ngài càng trở nên thách thức hơn nữa, vì Ngài không chỉ kể ra thịt của Ngài mà còn cả máu của Ngài nữa: “Quả thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì các ông không có sự sống nơi mình…”
Đối với người Do thái nghi nan ngờ vực, lời công bố này không thể nào tin được, nhưng còn quá kỳ chướng. Như chúng ta biết, dân Do thái bị nghiêm cấm triệt để không được ăn máu bởi vì máu là trung tâm sự sống được dành riêng cho Thiên Chúa. Vì thế, trong mỗi hy tế, máu phải được dâng hiến trọn vẹn lên Thiên Chúa.
Theo cách thức nầy, Đức Giê-su loan báo tính cách hy tế của Thánh Thể, cũng như mối hiệp nhất khả phân của ân ban thịt và máu của Ngài với cuộc Tử Nạn của Ngài.
Thịt và Máu “Con Người”:
Nhưng ở bên kia cuộc Tử Nạn của Ngài, Đức Giê-su gợi lên cuộc siêu tôn của Ngài khi quy chiếu đến danh xưng “Con Người”: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53). “Thịt và máu Con Người” thuộc trật tự khác với trật tự trần thế: Đức Giê-su sẽ ban cho con người “thịt và máu” của Ngài làm lương thực, đó chính là “thân thể vinh hiển” của Ngài. Sau diễn từ này, Ngài cũng sẽ quy chiếu theo cùng một cách như vậy khi ngỏ lời với các môn đệ đang xầm xì về vấn đề nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62).
Như vậy, khi loan báo ân ban Thánh Thể một cách hiện thực và khá mạnh bạo, Đức Giê-su thử làm cho hiểu rằng ân ban nầy sẽ được trình bày một cách mầu nhiệm, hoàn toàn đặc biệt (được ẩn dấu dưới kiểu nói: “bánh hằng sống từ trời xuống”).
Lời hứa ban sự sống:
Về thành quả của Bí Tích Thánh Thể, điểm nhấn được đặt trên sự sống: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy được sống lại… Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời”. Qua lời này, Đức Giê-su khẳng định cách rõ ràng sự sống siêu nhiên và ý nghĩa cánh chung của nghi thức Thánh Thể.
Hiệp thông mật thiết và nội tại:
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. Lời công bố này gợi lên sự hiệp thông mật thiết đến độ không gì có thể sánh ví được. Động từ “ở lại” là một động từ tâm đắc của thánh Gioan, qua đó thánh ký diễn tả tính thường hằng của sự sống siêu nhiên luân chuyển trong mỗi Kitô hữu và, một cách nào đó, tính nội tại của Vương Quốc.
Lễ Vượt Qua sắp đến.
Thánh ký đã xác định ngay từ đầu, dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” và diễn từ “Bánh Hằng Sống” được định vị vào thời gian sắp đến lễ Vượt Qua (Ga 6: 4). Đó là lý do tại sao có đông đảo người ở Ca-phác-na-um. Từ khắp nơi, người ta quy tụ với nhau ở đây để theo từng nhóm hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Như vậy, chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua mà Đức Giê-su ban cho đám đông Mặc Khải gây xôn xao của Ngài. Trong Tin Mừng thứ tư, lễ Vượt Qua sắp đến nầy là lễ Vượt Qua áp chót của Đức Giê-su. Vào lễ Vượt Qua năm tới, Ngài sẽ thực hiện lời hứa của Ngài khi thiết lập lễ Vượt Qua đích thật của Ngài, lễ Vượt Qua của Ki-tô giáo.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
—————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- Năm A
SỰ SỐNG PHÁT XUẤT TỪ VIỆC TRAO BAN SỰ SỐNG- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng mộtcâu nói của Đức Giêsu và mộtvấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ mộtcâu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến mộtmạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
– Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
-Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
– Triển khai đề tài (6,53-56);
– Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
Vài điểm chú giải
– từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
– bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ mộtvài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có mộttừ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram mộtý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi mộtxác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra mộttrật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
– làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
– ăn… uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
– thịt… máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
– Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
– ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là mộtđặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng mộtcông thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
– kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
– chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là mộtbằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiệp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
Gợi ý suy niệm
-Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
-Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
-Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
-Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng mộtbàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
———————————————————————————————
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- Năm A
ĐỨC GIÊSU, BÁNH HÓA NHIỀU- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tác giả Tin Mừng nói rõ, chúng ta ở vào thời kỳ “ít lâu trước lễ vượt qua, một đại lễ của người Do Thái”(6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều, bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội (sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích Thánh Thể). Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng “năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá” (6,9), như thế Ngài cho thấy rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm, họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách Đệ Nhị Luật (18,15): “Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi”. Thật vậy, trước những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói “chính Ngài là vị đại ngôn sứ phải đến trong thế gian”. Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ “toan bắt ép Ngài làm vua của họ” (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút lui một mình lên núi trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ của Ngài.
Chính “ở trong hội đường Capharnaum” (6.59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng cho họ một bài về bánh ban sự sống”, trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ. Đấng đã hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại. Câu 51 đến 58. đã được ghi trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không thể tách rời khỏi các câu trên, với sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
Cũng lời mở đầu: “Ta là bánh sự sống” (câu 35) và “Ta là Bánh hằng sống” (câu 51). Cũng lời cuối về sự sống vĩnh cửu: “Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời” ( câu 58).
Cùng lời quảng diễn về những xì xầm (đối chiếu với những “xì xầm” trong sách Xuất Hành, và những chống đối của người Do Thái) làm sao ông ta có thể nói: “Ta từ trời xuống” (câu 42), và làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn” (câu 52).
Nhưng trong lúc phần đầu của bài giảng trình bày “bánh sự sống” trong Đức Kitô với tư cách là Đấng mặc khải của Chúa Cha Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại quy chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình trước hết như là “Bánh sự sống” cho những ai tiếp nhận sứ điệp của ngài bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu ước đã nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có thể làm dịu cơn đói khát của con người: “Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ” (cf. Pro. 9,5,- Sir. 24,21).
Một giai đoạn mới đã vượt qua với phần hai của bài giảng.
Ở đây sự gợi lại cái chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn “bánh mà Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống. Và chữ “THỊT” làm nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. A. Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại. “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51). Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên tục mật thiết. (Phúc âm thánh Gioan “Centurion”, 1992, trang 108).
Và nếu, cho đến bây giờ cái tiếng chính là “TIN”, “ĐẾN VỚI TÔI” thì bây giờ chúng ta lại thấy những từ: “BAN”, “ĂN và UỐNG”. A. Marchadour viết tiếp: “Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể (eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ “ĂN” truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: “nhai, cắn” điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết. Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc âm thánh Gioan “Centurion”, p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là “thịt” Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian, ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong một ít câu) và “uống” máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời “ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian được sống” (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu 64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận liều mình trở nên “tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới”. (Đại hội Thánh Thể Lộ Đức, 1981).
BÀI ĐỌC THÊM:
Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, “Dossier biblique số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều người ta không thể hiểu nổi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại của Ngài. Cụm từ “bánh sự sống” trước hết là một cách nói về Đức Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5). Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: “ăn, uống, có sự sống”. Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về “Thánh Thể” chúng ta hãy quan sát. Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Từ “thịt” làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm (1,14). Chính việc nhập thể (incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục. Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà nghe được! (6,60). Ở câu 53-56, thay vì động từ “ăn”, Gioan dùng một từ rất mạnh: “nhai, cắn”. Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực của Thánh Thể: Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tỉnh trong Đức Giêsu, đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma thuật: chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi (Ga 6,56). Thánh Thể, Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm: sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy, người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống đời đời.
“Cao quý thay mầu nhiệm đức tin” (Mgr. L.Daloz trong “Chúng ta đã thấy vinh quang Ngài” Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời “xì xầm”: “Ta là bánh ban sự sống”. Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà người ta nại ra để chống lại Ngài: “Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại ai ăn bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm… bánh mà Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống… Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và thực tế: “Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài… ai ăn thịt Ta, và uống máu Ta… thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của sống… ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy…”. Không có lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế, Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã hết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum. Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được dặt vào tay chúng ta không một lời giải thích nào. “Cao cả thay nhầu nhiệm đức tin”.
“Hai bàn Tiệc” (J.Perron, trong “Đọc Kinh Thánh” số 52, trang 139-140).
Nếu tách rời những câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải để mở ra một nhân quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng. Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ nói đến người “tin vào”, phần hai nói đến người “tin hiệp-thông”, nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không thể nói đến “người hiệp thông” mà trước hết người ấy không phải là kẻ tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lê ma thuật. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là “bí tích đức tin” (sacra men ta fidei). Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ bí tích và hướng về đó” (A.Feuillet). Sự tình bày về Thánh Thể này cũng mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của chúng ta – cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến “hai bàn tiện trong Giáo Hội: “Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc thánh”. Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào cải cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề “bánh ban sự sống”.
———————————————————————————————
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KI TÔ- Năm A
BÁNH HẰNG SỐNG BỞI TRỜI- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Mặc dầu ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội đã kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, hôm nay Giáo hội tiếp tục cử hành lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô để giáo dân có nhiều thì giờ suy niệm về phép Thánh Thể, thúc giục giáo dân thêm lòng yêu mến tôn sùng. Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể này, đồng thời thúc giục chúng ta năng rước lễ để lãnh nhận Chúa Giêsu làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta trên bước đường đi về Quê Trời.
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy Thánh Thể thực sự đã được loan báo từ trước bằng những hình ảnh. Manna mà Thiên Chúa ban cho dân Israel dùng trong sa mạc suốt bốn mươi năm chẳng phải là hình bóng phép Thánh Thể mà Đức Giêsu đã lập sao ? Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho tín hữu Corintô tư tưởng trên : dân Israel đã được ăn manna, uống nước từ tảng đá… để nói lên rằng tòan dân Israel đã được thừa hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa.
Lời Chúa trong đọan Tin mừng thánh Gioan là những lời Đức Giêsu diễn giảng về Bánh hằng sống, Bánh từ trời, Bánh ban sự sống thần linh. Bánh đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thịt máu Ngài đã trở nên cơm bánh, trở thành lương thực, trở thành của ăn của uống giúp con người đi vào thế giới của Thiên Chúa kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Bánh này trổi vượt hơn Manna trong sa mạc mà tổ tiên dân Israel đều đã được ăn. Vì thế ai ăn bánh này sẽ được sống vĩnh cửu trong Vương quốc của Thiên Chúa.
Trung tâm đời sống Kitô hữu là Thánh Thể, mà Thánh Thể là một nhiệm tích tuyệt diệu làm cho Đức Kitô hiện diện thực sự với dân chúng trong mầu nhiệm Vượt qua. Trong bữa ăn sau hết, chính Ngài bị nộp, Ngài đã thiết lập hiến tế tạ ơn bằng Mình và Máu Ngài. Hiến tế của Tình yêu. Hiến tế của hiệp nhất, giây liên kết đức bác ái, bữa tiệc Vượt qua trong Đức Giêsu là của ăn. Xét theo phương diện này, hôm nay ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm nhiệm tích Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta :”Ta là bánh hằng sống từ trời ban xuống”(Ga 6,51).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Đnl 8,2-3.14-16.
Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, dẫn dắt họ suốt 40 năm trường trong sa mạc để vào đất hứa. Kết thúc cuộc hành trình, trước khi tiến vào Đâát Hứa, ông Maisen khuyên bảo dân đừng bao giờ quên những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho. Trong số những ơn lành Chúa đã ban, dân Chúa hãy nhớ lại việc Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng cách ban manna từ trời xuống và cũng làm cho nước từ tảng đá vọt ra để thỏa mãn cơn khát khao.
Nhưng đấy mới chỉ là thức ăn vật chất nuôi phần xác thôi, còn cần phải có một thức ăn thiêng liêng khác là Lời Chúa và Thánh Thể nuôi sống linh hồn loài người nữa.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 1o,16-17.
Nhận thấy trong cộng đoàn tín hữu ở Côrintô có sự bất hoà, chia rẽ, thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy đoàn kết lại, hiệp nhất trong tình yêu thương. Ngài cho biết : Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng cách phải hiệp nhất với nhau. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người cũng chỉ là một thân thể.
+ Bài Tin mừng : Ga 6,51-58.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, không nghĩ đến ăn uống. Thấy họ đói, Chúa Giêsu đã nuôi sống họ bằng cách làm cho bánh hoá nhiều. Dân chúng được ăn no nê thừa thãi thứ bánh vật chất mà Ngài vừa làm phép lạ cho có nhiều. Bây giờ Chúa muốn đưa họ đến một thứ lương thực cao qúi hơn. Vì thế, Ngài loan báo cho họ một thứ bánh khác. Bánh đó chính là Mình Máu Ngài, Bánh hằng sống mang lại ơn cứu độ cho thế gian.
Chúa Giêsu đã khẳng định mặc dầu người ta không hiểu cũng như không muốn hiểu :”Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống… Ai ăn thịt và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thánh Thể, nguồn sống thiêng liêng.
Trong lời mở đầu của thông điệp về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phalô II đã xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần , Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê Trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng”.
Công đồng Vatican II tuyên bố cách xác đáng rằng “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng” (P.O, số 5).
Thánh Thể đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8.9.1264, Đức Thánh Cha Urbanô ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.
Thánh Thể, nguồn sống của Kitô hữu.
Con người có hồn có xác. Cả hai liên kết chặt chẽ với nhau. Muốn sống cần phải có ăn, không ăn thì chết. Nhưng hồn và xác lại có những của ăn khác nhau. Xác cần có của ăn vật chất, hồn lại có của ăn thiêng liêng là chính Mình Máu thánh Chúa Kitô như lời Ngài đã dạy.
Của ăn thể xác.
Người ta thường nói :”Có thực mới vực được đạo” (Tục ngữ). Nói như thế có nghĩa là phải có của ăn phần xác nuôi sống đã , phải sống đã rồi mới có thể thực hiện việc đạo nghĩa được. Nhiều người nói quả quyết hơn :”Dĩ thực vi tiên” : phải lấy cái ăn làm đầu. Câu tục ngữ trên cũng có nghĩa tương đương với câu ngạn ngữ La tinh :”Manducare priusquam philosophare” : ăn đã rồi hãy nói triết lý , vì không có ăn thì lấy hơi đâu mà nói triết lý ?
Bất kỳ ai cũng phải ăn, không ăn nhiều thì ăn ít. Càng ăn nhiều thức ăn có độ dinh dưỡng cao thì người càng mập , béo , khỏe mạnh. Ăn uống thiếu chất dinh dưỡng thì người sẽ gầy còm, ốm o. Trung bình mỗi người lớn một ngày phải được cung cấp 2.600 calories, nhưng trong thực tế, trừ một số nước tiên tiến mỗi ngày được cung cấp tới 3,130 calories, khiến con người họ to cao, bép mập ; còn đa số dân chúng ở các nước kém mở mang chỉ được cung cấp dưới mức trung bình ấy. Một số nước mỗi người chỉ được cung cấp 1.700 calories mỗi ngày, và tệ hơn nữa, một số nước ở Phi châu chỉ được cung cấp 1.200 calories mỗi ngày. Theo tin tức của đài truyền hình cho biết : tính tứ năm 1975 đến nay, chiều cao của trẻ em Việt nam đã tăng thêm được vài centimét.
Trong kinh “Lạy Cha” chúng ta vẫn cầu xin Chúa cho chúng ta có của ăn hằng ngày :”Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lương thực đây phải hiểu là lương thực của phần xác và phần hồn. Nhưng dù sao chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta có của ăn của để, đừng để chúng ta thiếu thốn quá mà bỏ bề việc đạo.
Người Việt nam chúng ta rất thực tế, không ước ao được giầu sang phú qúi, của cải dư dật vì như thế có thể làm cho người ta dễ hư hỏng hoặc làm cho người ta thêm lo lắng đêm ngày :
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
Trong thực tế của đời sống hằng ngày, họ chỉ cần hai chữ “bình an”, họ chỉ ao ước được hưởng những hạnh phúc thông thường, như thế họ đã mãn nguyện :
Ăn được ngủ được là tiên,
Không ăn không ngủ mất tiền thêm lo,(Ca dao)
Của ăn phần hồn.
Nếu chúng ta nói : thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn ? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình máu Chúa Kitô.
Trong sa mạc, dân Israel đã được ăn manna hằng ngày để nuôi thể xác. Chúa Giêsu cũng làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi phần xác cho dân chúng khi đói. Ngoài bánh ấy ra, Chúa Giêsu còn hứa sẽ ban cho họ thứ bánh khác, không phải là thứ bánh họ đã ăn, bánh này ăn vào sẽ không bao giờ đói nữa :”Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta chẳng bao giờ khát “(Ga 6,35). Ngài hứa ban bánh hằng sống, dân chúng ước ao ăn bánh này cho khỏi đói khát nữa. Nhưng Chúa Giêsu còn muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài muốn nói về một thứ bánh hằng sống chân thật, đó là chính Thịt Máu Ngài.
Mặc dầu Ngài nói như thế, người ta sẽ không tin, còn làm cớ vấp phạm cho nhiều người đến nỗi có nhiều người bỏ đi vì thấy nó chói tai quá, kể cả môn đệ cũng có một số bỏ đi. Tuy thế, Ngài cứ nói, nói một cách thẳng thừng :”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con người thì các ngươi chẳng được sống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54-55).
Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thần hóa, nên cũng cần có một thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Chúa Giêsu ban cho :”Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Chúa Giêsu , Chúa Giêsu ngự vào lòng tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô :”Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hoà lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hòa với Chúa Kitô.
Chúng ta hãy suy nghĩ điều này và bắt đầu nhận htức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khao khát hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng CN năm A, tr 79).
Mỗi khi rước Chúa ngự vào lòng, chúng ta muốn được hoà tan trong Chúa, muốn được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, muốn được đổi mới con người của mình. Dĩ nhiên, sự đổi mới này chỉ có tính cách thiêng liêng, nghĩa là linh hồn chúng ta được đầy tràn ơn Chúa, được trở nên thánh thiện hơn, làm chiếu toả Chúa ra bằng cách sống hằng ngày, còn thân xác chúng ta thì không có gì thay đổi.
Truyện : Biến đổi trong Chúa.
Một người ngoại giáo hỏi người bạn Công giáo :
– Người Công giáo các bạn ăn Chúa Kitô phải không ?
– Vâng, người Công giáo trả lời.
Người kia hỏi tiếp :
– Vậy sao các bạn không trở nên như Chúa ?
Một lát sau, khi đi ngang qua trại heo, người Công giáo hỏi :
– Bạn có khi nào ăn thịt heo không ?
– Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy ?
– Sao bạn chưa biến đổi thành heo ?
Đó là câu trả lời cứng cỏi nhưng kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đdổi trong Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ.(GM Arthur Tonne, Góp nhặt, tr 8-9)
Thánh Thể là một mầu nhiệm.
Trong Thánh lễ, ngay sau truyền phép Mình thánh, Linh mục đã nhắc nhở cho giáo dân :”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Hội thánh muốn nhắc nhở cho giáo dân : Thánh Thể là một mầu nhiệm, không trí khôn nào có thể suy thấu, chỉ dùng con mắt đức tin mà chấp nhận. Với con mắt xác thịt, không ai có thể trông thấy Chúa trong hình bánh hình rượu với cả mình và máu, nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu, nhưng không thấy không có nghĩa là không có. Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy : ban ngày người mù đâu có thấy ánh sáng, nhưng không thấy ánh sáng thì không thể phủ nhận được sự hiện hữu của mặt trời. Mặt trời vẫn có đó.
Sau khi truyền phép Mình thánh, bánh và rượu đã trở nên mình máu Chúa Kitô. Cả con người của Chúa Giêsu ở trong đó : thịt và máu, nhân tính và thần tính. Chúa Giêsu đang hiện diện trong hình bánh hình rượu.
Chúng ta phải phân biệt hai sự hiện diện :
– Hiện diện tượng trưng (Presentia symbolica)
– Hiện diện thực sự (Presentia realis).
Hiện diện tượng trưng :
Là tin rằng Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh, coi như Ngài hiện diện trong đó, nhưng thực sự không có thịt máu Ngài trong đó. Như thế là chối bổ sự biến thể (transsubstantiatio) mà Giáo hội dạy : sau truyền phép thì bánh rượu chỉ còn hình dáng bề ngoài(species), còn bản thể (substantia) đã trở nên mình máu Chúa Kitô rồi. Đối với sự hiện diện tượng trưng này , mọi người dễ hiểu, dễ chấp nhận vì nó phù hợp với sự hiểu biết của lý trí con người, không cần dùng đến con mắt đức tin.
Hiện diện thực sự.
Đây là vấn đề gai góc. Hiện diện thực sự là có sự hiện diện thực của Chúa Giêsu với mình và máu, với nhân tính và thần tính của Người. Cả con người của Ngài hiện diện trong đó mặc dầu con mắt xác thịt chúng ta không thấy. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin.
Theo cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tường trình cho biết, chỉ có 1/3 giáo dân Công giáo Hoa kỳ tin có sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, số khác chỉ tin Bí tích Thánh Thể là biểu tượng cho sự hiện diện thật của Chúa Kitô.
Phản ứng trước cuộc thăm dò này, các Giám mục Hoa kỳ đã nhắc lại một thông tư trong hội nghị hội đồng Giám mục Hoa kỳ vào tháng 6/2001 “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể : Những câu hỏi và trả lời căn bản”. Trong bản văn này xác định lại một lần nữa trong Bí tích Thánh Thể “toàn thể con người Đức Kitô thật sự hiện hữu dưới hình thức bánh và rượu, thân xác, máu, linh hồn và thần linh”.
Truyện : Hiện diện thực sự.
Một linh mục và một mục sư Tin lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần. Ông tin hết mọi chân lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói :”Nếu tôi có thể tin được rằng tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời ; nhưng xem chừng tôi không thể tin được”.
Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng, Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Qùi gối bên giường, linh mục cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối. Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường. Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả. Rồi người hấp hối cứ nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa phều phào :”Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng cho toàn thế giới chân lý này”. Nói rồi, ông nhắm mắt thở hơi cuối cùng.(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 161-162)
Chúng ta may mắn vì được Chúa ban đức tin ngay từ khi mới sinh. Những người khác thường phải chiến đấu lâu ngày lâu tháng mới tin được những điều chúng ta không phải khó lòng gì mà đã tin.
Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu. Dấu chỉ tuyệt diệu nhất của tình yêu Thiên Chúa là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa , Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta – nơi BÍ TÍCH THÁNH THỂ. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin vào Người thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). Thiên Chúa yêu chúng ta nên đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô ; Chúa Giêsu Kitô yêu chúng ta nên đã “Chấp nhận thân phận tôi đòi”(Phl 2,7), đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh vinh hiển để đem lại Sự sống cho chúng ta, Ngài còn “Ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20) nơi Bí tích Thánh Thể ; tất cả chỉ vì yêu chúng ta.
—————————————————————————————————
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
THIÊN CHÚA LÀ LƯƠNG THỰC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Thánh lễ là Bàn tiệc. Rước lễ là ăn uống chính Mình và Máu Thánh Chúa, thứ lương thực tuyệt hảo nuôi sống và bổ dưỡng linh hồn chúng ta. Nếu linh hồn chúng ta yếu, Mình Máu Thánh Chúa sẽ bổ sức cho mạnh ; nếu ta đang chán nản, Chúa sẽ ban lại cho ta niềm hy vọng ; nếu chúng ta cảm thấy người khác khó thương, Ngài sẽ ban thêm cho ta lòng mến.
Chúng ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này, nhất là sốt sắng rước Chúa vào lòng để cho Ngài nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta lo tìm lương thực phần xác hơn là lương thực phần hồn.
– Chúng ta cùng tham dự một bàn tiệc Chúa, cùng ăn một thứ lương thực là Mình Máu Chúa, nhưng chúng ta không đoàn kết yêu thương nhau.
– Chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời, nhưng chúng ta còn quá lo lắng trước những khó khăn trần thế.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Đnl 8,2-3,14-16
Cuối cuộc hành trình trong sa mạc và trước khi bước vào Đất hứa, Môsê khuyên bảo dân đừng bao giờ quên những ơn lành Chúa đã ban cho họ, đặc biệt Ngài đã nuôi sống họ bằng Manna từ trời rơi xuống và nước từ tảng đá vọt ra.
Đáp ca : Tv 147
Thánh vịnh này kêu gọi tín hữu ca tụng Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Ngài ban xuống cho họ.
Bài đọc II : 1 Cr 10,16-17
Thánh Phaolô nhắc tín hữu Côrintô ý thức rằng vì họ cùng ăn một bánh và cùng uống một chén nên họ không được chia rẽ, trái lại phải đoàn kết yêu thương nhau.
Tin Mừng : Ga 6,51-58
Đây là bài diễn từ của Đức Giêsu sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Dân chúng đã được ăn no nê thừa thãi thư bánh vật chất mà Ngài vừa làm phép lạ cho có nhiều. Bây giờ Ngài hướng họ đến một thứ lương thực cao quý hơn, đó chính là Mình và Máu Ngài : “Tôi là bánh trường sinh… Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống…Ai ăn thịt và uống máu tôi thì sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.
GỢI Ý GIẢNG
Tại sao Thánh Thể là của ăn ?
Mỗi khi một nơi nào đó xảy ra nạn đói thì hầu như cả thế giới xúc động gởi thực phẩm đến tới tấp để cứu đói. Nhưng có mấy ai quan tâm đến những cái đói tinh thần : đói yêu thương, đói công bình, đói chân lý, đói tha thứ, đói cảm thông… ? Mà loại đói sau này không ai cứu nỗi, ngoại trừ một mình Đức Giêsu.
Tuy nhiên không phải hễ cứ rước lễ là chúng ta sẽ no. Muốn cho Đức Giêsu thực sự trở thành của ăn bổ dưỡng thì chúng ta cần phải kết hợp với Ngài, cũng như cành nho có kết hợp với cây nho thì mới nhận được nhựa sống truyền sang.
Người đói mới cần ăn
Theo quy định của Giáo Hội, người đang mang tội trọng trong mình thì không được rước lễ. Đúng vậy, vì rước lễ như thế là xúc phạm Mình Thánh Chúa.
Nhưng từ ý thức tôn trọng Mình Thánh Chúa trên đây, nhiều người đã vô tình xa cách thứ lương thực tuyệt vời Chúa ban : họ không dám rước lễ khi thấy mình yếu đuối về đức tin, chao đảo trong đức cậy và nguội lạnh về đức mến. Nghĩ vậy là sai, chẳng khác gì nghĩ rằng khi nào tôi đói thì tôi không được ăn.
Ngày xưa trong sa mạc, mặc dù dân do thái luôn làm Chúa buồn lòng, nhưng Ngài vẫn ban cho họ Manna mỗi ngày ; Trong Thánh lễ đầu tiên ở nhà Tiệc ly, Đức Giêsu đã cho tất cả các tông đồ rước Mình và Máu Ngài, mặc dù trước đó họ còn tranh cãi với nhau, và sau đó họ đã bỏ Chúa mà trốn chạy.
Đúng là chúng ta bất xứng, và sẽ mãi mãi còn bất xứng với Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ý thức bất xứng ấy không được làm chúng ta xa cách thứ lương thực tuyệt vời cứu chữa cho ta bớt bất xứng.
Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.
Thánh Thể là bí tích thông hiệp
Ngày xưa ở giáo đoàn Côrintô có một thói quen tốt, đó là mỗi khi cử hành bữa tiệc Thánh Thể, tức Thánh lễ (Cena), người ta cũng tổ chức một bữa ăn huynh đệ (Agape) : mọi người mang thức ăn đến góp chung để mọi người cùng ăn. Nhưng thói quen tốt này đã biến thành một tệ nạn là những người giàu đem nhiều thức ăn và toàn thức ăn ngon. Họ vội vã cùng nhau ăn trước, không chia sẻ cho những người nghèo. Bởi thế bữa ăn Agape này đã mất đi ý nghĩa yêu thương huynh đệ, trái lại là dịp gây chia rẽ đố kỵ nhau.
Thánh Phaolô rất buồn về tình trạng đó, nên trong đoạn thư này Ngài nhắc tín hữu mình nhớ đến ý nghĩa chung của bữa ăn : bữa ăn là dấu chỉ thông hiệp yêu thương. Tín hữu cùng tham dự một bữa ăn thì lẽ nào lại chia rẽ nhau ? Huống chi trong bữa tiệc Thánh Thể, họ cùng ăn một thức ăn chung là Mình Máu Thánh Đức Giêsu ! Vì thế mỗi khi tham dự Thánh Lễ, họ phải lưu ý đến việc thông hiệp : chẳng những thông hiệp với Đức Giêsu mà còn thông hiệp với nhau.
Hình như những ý nghĩa căn bản này không được chúng ta lưu ý lắm : mỗi khi dự lễ và rước lễ, nhiều người chỉ coi đó là một việc đạo đức mình phải làm. Họ không chú ý kết hiệp với Đức Giêsu bao nhiêu ; và càng không lưu ý thông hiệp với nhau bao nhiêu.
Bánh và những thứ đói
Đức Giêsu là một thứ Bánh có thể thoả mãn mọi cơn đói của loài người :
– Với những người theo Ngài trong sa mạc đã ba ngày và đang đói, Ngài đã cho họ bánh tự nhiên thỏa mãn cơn đói thể xác của họ.
– Với người cùi bị mọi người ghê tởm lánh xa, Ngài đã cho anh bánh chữa lành cơn bệnh.
– Với người phụ nữ nhiều chồng bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã cho chị thứ bánh nhân ái làm thỏa mãn cơn đói muốn được chấp nhận.
– Với những người tội lỗi, Ngài ban bánh thứ tha.
– Với những người bị xã hội ruồng bỏ, Ngài cùng ăn với họ và ban cho họ bánh cảm thông để thỏa mãn cơn đói muôn được người ta nhìn nhận phẩm giá của mình.
– Với người mẹ Naim đang đi chôn đứa con độc nhất của mình, và với Matta, Maria đang khóc vì Ladarô vừa mới chết, Ngài ban bánh sự sống cho người thân của họ sống lại.
– Với người thu thuế Giakêu bấy lâu nay đã quen ăn cắp phần bánh của người nghèo, Ngài đến nhà và ăn cùng bàn với ông, ban cho ông bánh một đời sống mới tốt đẹp hơn.
– Với tên trộm bên phải thập giá Ngài, Ngài ban cho hắn bánh hòa giải và một chỗ trên bàn tiệc thiên quốc.
Tuy nhiên, cũng có những người không rộng tay đón nhận bánh của Ngài :
– Đó là người thanh niên giàu có đã buồn bã bỏ đi khi Ngài khuyên anh từ bỏ tài sản.
– Đó là những người biệt phái và luật sĩ nhiều lần cố tình không muốn hiểu Tin Mừng của Ngài.
– Đó là dân thành Giêrusalem đã khiến Ngài phải khóc vì họ không đón nhận bình an Ngài mang tới.
– Và đó là Philatô đã mỉa mai khi Ngài xứng mình là chứng nhân của Sự Thật.
Ý nghĩa tấm bánh
Tấm bánh mà hằng ngày ta dâng lên trên bàn thờ và sau đó rước vào lòng chứa đựng rất nhiều ý nghĩa :
– Đó là thành quả của biết bao công lao : của đất, của ánh mặt trời, của những giọt mưa, của lao động và trí óc con người.
– Trước khi đến tay chúng ta, nó cũng đã qua tay người thợ gặt, người thợ xay và người thợ làm bánh.
– Và được nhiên chúng ta không thể quên vai trò của Thiên Chúa tạo dựng và quan phòng.
– Là một tấm bánh, nhưng nó là kết hợp của rất nhiều hạt bột từ rất nhiều hạt lúa rải rác trên các cánh đồng.
Bởi thế, khi chủ tế dâng bánh lên, ngài đã đọc : “Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và lao công của con người”.
Còn Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay thì coi tấm bánh ấy là biểu tượng của sự hợp nhất các tín hữu : “Chúng ta tuy nhiều người, nhưng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh”
Chuyện minh họa
Đói tình thương
Nước Êthiôpia phải chịu một nạn đói khủng khiếp trong những năm 1984 đến 1986. Đức Hồng Y Hume của giáo phận Wesminster kể về một câu chuyện xảy ra lúc ngài đến thăm xứ này giữa thời gian đó. Người ta đã dùng một chiếc trực thăng chở ngài đến một ngọn đồi nơi dân chúng đang tập trung chờ cứu trợ.
Khi ngài vừa bước xuống chiếc trực thăng thì một cậu bé khoảng 10 tuổi chạy đến níu lấy cánh tay của Ngài. Em chẳng mặc gì ngoài một chiếc khố. Em cũng chẳng biết ngoại ngữ nên chỉ làm cử điệu tay chân : tay trái em chỉ vào miệng, và tay phải em cầm lấy tay ngài đặt lên má em.
Đức Hồng Y hiểu : chỉ vào miệng nghĩa là em đói thức ăn, và đặt lên má nghĩa là em đói tình thương.
Người ta không chỉ đói thức ăn, mà còn đói nhiều thứ khác.
Không thể hiểu được
Một người đến gặp linh mục và muốn khôi hài một chút về niềm tin của mình, nên anh hỏi : “Làm thế nào mà bánh và rượu trở nên thịt và máu Chúa Giêsu được ?”
– Chẳng khó gì. Chính anh cũng biến đổi thức ăn thành thịt và máu. Tại sao Chúa Giêsu lại không làm được điều tương tự như vậy ?
Chưa chịu thua, anh hỏi : “Bằng cách nào mà Chúa Giêsu ngự trọn vẹn trong tấm bánh nhỏ như vậy ?”
– Cũng tương tự, quang cảnh bao la ở trước con mắt nhỏ bé của bạn.
Nhưng anh vẫn cố chấp : “Làm sao Chúa Giêsu có thể hiện diện ở tất cả các nhà thờ cùng một lúc ?”
Linh mục cầm chiếc gương, đập bể nát, rồi cho anh nhìn vào và nói : “Chỉ có một mình anh nhưng bây giờ anh có thể nhìn thấy mặt mình được phản chiếu trong mỗi mảnh gương vỡ này cùng một lúc”.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Lời Chúa cũng như Mình Máu Thánh Chúa Kitô là hai nguồn lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống đức tin của người kitô hữu. Với tâm tình mến yêu bí tích kỳ diệu này, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
- Hội Thánh không ngừng khuyên các kitô hữu tham dự thánh lễ một cách ý thức / linh động / tích cực và có hiệu quả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / hiểu được tầm quan trọng của thánh lễ trong đời sống đức tin / và tham dự thánh lễ đúng như Hội Thánh dạy.
- Trên thế giới ngày nay / việc phan phối tài nguyên thiên nhiên / cũng như của cải vật chất không đồng đều / vì thế có những vùng quá giàu / trong khi đó có những vùng lại quá nghèo / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nước giàu / biết quảng đại giúp đỡ các nước nghèo / mà một phần dân chúng phải sống dưới mức tối thiểu.
- Nghèo đói / lạc hậu / dốt nát / cũng là những thứ giặc mà mọi người cần phải hợp sức tận diệt / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết tích cực cộng tác với những người thành tâm thiện chí / để diệt trừ những thứ giặc đáng sợ này.
- “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những anh chị em nghèo đói / để mọi người đều có lương thực hằng ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng thánh lễ là trung tâm đời sống thờ phượng của Hội Thánh và của từng người chúng con, vì trong thánh lễ Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của chúng con, và dùng Mình Máu Thánh Chúa để bồi dưỡng đời sống đức tin ấy. Xin cho chúng con siêng năng tham dự thánh lễ với ý thức đầy đủ, và rước lễ một cách xứng đáng. Chúa hằng sống…
—————————————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
TẤM BÁNH TÌNH YÊU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
———————————————————————————————–
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
THÁNH THỂ, QUÀ TẶNG CỦA TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Mỗi năm Giáo hội long trọng mừng mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhở mỗi người tín hữu chúng ta lương thực thần linh, lương thực bởi trời mà Chúa Giêsu đã ban tặng, bí tích tình yêu mà người đã thiết lập trong tiệc ly, trước giờ Người ra đi chịu chết trên thập giá. Thánh Thể còn là quà tặng mà Chúa Giêsu đã thiết lập để hiện diện với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế, người đã muốn trở nên nhỏ bé để đến với mỗi người, hiện diện trong chúng ta một cách mầu nhiệm để kết hiệp chúng ta vào đời sống thần linh.
Quà tặng của tình yêu là quà tặng cao quí, quà tặng này còn là lương thực thần linh, Mình Máu Thánh Chúa. Cũng như cha mẹ yêu thương con cái, nên đã nghĩ nhiều về con của mình và lo lắng chăm sóc cho con cái, nhất là dành những gì quí nhất, cần thiết nhất cho con của mình. Thiên Chúa cũng đã nghĩ đến quà tặng cần thiết này là Thánh Thể cho con người từ xa xưa. Những sự kiện trong Cựu ước như tiệc Vượt qua, và manna trong sa mạc là những hình ảnh báo trước của Thánh Thể. Tiệc vượt qua là bữa tiệc cử hành hằng năm trong các gia đình do thái để tưởng niệm lại ngày Thiên Chúa giải thoát họ ra khỏi đất Ai cập với bàn tay mạnh mẽ để đưa họ vào đất hứa, làm cho họ được trở nên một dân tộc. Trong bữa tiệc tạ ơn này, người gia trưởng sẽ cầm bánh và chén rượu để đọc lời tạ ơn, và sau đó mọi người sẽ dùng bữa theo nghi thức. Đọc lại những tường thuật từ sách Xuất hành, chúng ta còn thấy đoàn dân do thái lang thang trong sa mạc không có lương thực, Thiên Chúa đã ban cho họ manna từ trời, chim cút để làm của ăn và nước uống từ tảng đá. Đây là những hình ảnh báo trước Thánh Thể. Vì thế, Môisen đã giải thích cho dân chúng hiểu rằng qua những gì mà Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ trong hành trình sa mạc với manna và nước từ tảng đá, họ cần phải nhớ lại và suy niệm để hiểu rằng không phải là họ chỉ sống nhờ bánh mà còn sống nhờ lương thực Thiên Chúa ban và lời Chúa.
Những tường thuật của Tin mừng về việc thiết lập Thánh Thể làm cho chúng ta hiểu Chúa Giêsu đã nghĩ nhiều về quà tặng Thánh Thể mà người muốn ban tặng cho con người. Chúa Giêsu sẽ làm cho những hình bóng được báo trước trong Cựu ước được hoàn tất và trở nên những thực tại đích thực. Chính trong khung cảnh tiệc tạ ơn của những người do thái hằng năm và cũng là lúc mà Chúa Giêsu sẵn sàng đón nhận cuộc khổ nạn và chịu chết, mà Chúa Giêsu đã nói những lời để làm cho bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh của người. Từ đây, Người đã bắt đầu tạ ơn cũng trên bánh rượu nhưng là chính Thịt và Máu của người đổ ra bằng cái chết trên thập giá. Bánh rượu mà những người do thái hằng năm vẫn dùng để tạ ơn chỉ là hình ảnh báo trước của Thánh Thể. Và giờ đây dấu chỉ đã trở nên Thánh Thể là Mình và Máu Thánh Chúa, bởi vì chính Chúa Giêsu sẽ hiến tế chính mình trên thập giá để trở nên lương thực cho mọi người. Do lời của Chúa Giêsu mà bánh rượu được trở nên Mình Máu Thánh Chúa, được mặc một bản thể mới do chính quyền năng của cuộc khổ nạn thập giá của Chúa Giêsu biến đổi. Chính Hiến tế Thập giá của Chúa Giêsu đã làm cho bánh rượu được biến đổi bản thể để trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu khi thiết lập Thánh Thể đã nói những lời long trọng : này là Mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em, này là chén máu thầy, sẽ đổ ra vì anh em, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến thầy ».
Trong Tin mừng Gioan (chương 6), Chúa Giêsu nói nhiều về Thánh Thể : « Tôi là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời, và bánh tôi ban chính là thịt tôi cho thế gian được sống ». Những lời nói này khiến những người do thái khó chịu, và ngay cả trong số những môn đệ của Chúa Giêsu cũng bỏ người. Để hiểu những lời này, cần thấy rằng đây là sáng kiến tình yêu của Chúa. Khi người ta yêu ai, người ta nghĩ nhiều về người yêu của mình, và nhất là muốn làm điều gì đó cho người yêu của mình được hạnh phúc. Hơn nữa, chúng ta cần thấy rằng, vì con người giới hạn, nên khi chúng ta cố gắng làm điều gì đó cho người mình yêu, chúng ta không thể cho hết chính mình, chúng ta chỉ cho đi điều gì đó bên ngoài mình. Thánh Thể là sáng kiến tình yêu của Chúa, và Chúa Giêsu không chỉ cho chúng ta một điều gì đó bên ngoài người mà người cho tất cả, cho đi chính con người của mình để trở nên lương thực cho chúng ta. Quà tặng Thánh Thể mà Chúa Giêsu trao ban hết chính mình và người tha thiết mời gọi con người đón nhận không phải để rồi không dẫn tới một mục đích nào cả, trái lại quà tặng này là lương thực thần linh, bánh ban sự sống, sẽ ban tặng sự sống đời đời cho ai đón nhận.
Cộng đoàn Kitô giáo đã bắt đầu cử hành nghi lễ bẻ bánh sau khi Chúa Giêsu Phục sinh để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa và hiện tại hóa công trình cứu chuộc của Chúa. Các tông đồ đã hiểu rằng giờ đây họ đang sống thực tại mới và quyết định, với những dấu chỉ của sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Giêsu và Thánh Thần ban sự sống. Do bởi cuộc khổ nạn và nhất là sự phục sinh của thầy Giêsu với những hiệu quả mà các tông đồ có thể kiểm nhận, họ không còn sống trong giai đoạn chờ đợi của những lời hứa nữa, mà họ đã sống thực tại viên mãn rồi. Vì thế họ không còn cử hành ngày sabát như những người do thái mà họ bắt đầu cử hành ngày của Chúa, họ đã qui tụ lại vào ngày Chúa nhật và cử hành lễ bẻ bánh tham dự bữa tiệc của Chúa với nhau để tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Chúa, và họ nhận thức rằng khi họ cùng nhau tham dự vào lễ bẻ bánh này là họ đã đón nhận Mình Máu Thánh Chúa như lời thầy Giêsu đã truyền cho họ trước khi người ra đi chịu chết, vì thế họ không được cử hành nghi lễ của Chúa một cách bất xứng. Thánh Phaolô (1Cr 11, 23tt) nhắc nhở trong bức thư gửi giáo đoàn Corintô : « Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền cái chết của Chúa cho tới khi người trở lại. Anh em ăn uống cách bất xứng là xúc phạm tới Mình và Máu Thánh Chúa ».
Bài ca tiếp liên là một Thánh thi rất đẹp và giàu tính chất thần học giúp chúng ta suy niệm chiều kích thần học của bí tích. Đây là Bánh sự sống của bàn tiệc vượt qua mới, chấm dứt lễ vượt qua của thời cũ. Do lời của Chúa truyền mà chúng ta cử hành nghi lễ này để tưởng niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng do cuộc khổ nạn này mà bánh và rượu giờ đây đã trở nên Mình Máu thánh Chúa. Dù giác quan của chúng ta giới hạn, vẫn còn nhìn thấy đây là bánh rượu với những dáng vẻ của nó, nhưng bản thể đã thay đổi để trở nên Mình Máu thánh Chúa. Và nếu, giác quan thiếu sót thì chúng ta hãy lấy đức tin để chiêm ngưỡng và thờ lạy bí tích tình yêu này. Thánh thể là lương thực được ban tặng cho chúng ta như những khách hành hương về quê trời, là bánh của con cái, là những người đã đón nhận đức tin. Bài ca tiếp liên kết thúc bằng một lời cầu nguyện, xin cho chúng con là những người còn lữ hành trần thế, nhờ tham dự tiệc thánh này, mai ngày cũng được trở nên những người đồng bàn cùng với các thánh trong nước trời. Quả thật quà tặng của Thánh Thể là quà tặng của Thiên Chúa cho con người. Chúa Giêsu đã muốn trở nên nhỏ bé trong Thánh Thể để ở với mỗi người chúng ta thật gần gũi, ở trong lòng mỗi người để làm cho chúng ta được nên một với Chúa. Tình yêu của Chúa lớn hơn những gì chúng ta có thể nghĩ tưởng.
————————————————————————————
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
NÀY LÀ MÌNH THẦY…NÀY LÀ MÁU THẦY HIẾN TẾ VÌ ANH EM– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, vào ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 còn gọi là lễ của Chúa, lễ Mình Máu Thánh Chúa. Vì hôm nay, Giáo hội không chỉ cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài : « Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê » (Ca nhập lễ – lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền công khai rằng : Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Chúa Kitô là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta : Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được ?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và dẫn dắt chúng ta trên đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa: « Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế » (Mt 28, 20). Người ở lại với chúng ta thế nào? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thực hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo hội quả quyết rằng : Sự hiện diện thật của Người trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức tin Công giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết : Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Vì thế, Người được các tín hữu ăn : « Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống » (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta : « Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: « Các con hãy lãnh nhận mà ăn… ». Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: « Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta » (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa » (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói : « Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy ». (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta : « Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta ». Người tan biến trong chúng ta, « làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài » (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là « Mặt Trời » : Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ « mặt nhật »)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc trên đường nhắc lại cuộc Rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
————————————————————————————–
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
NHỮNG TÊN GỌI TẦM THƯỜNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đất, nước, đá
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7).Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10).
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.
Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.
Bánh và rượu
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người. Chính vì thế, khi dâng Bánh, dâng Rượu, Giáo hội thay cho toàn thể con người để tôn vinh Thiên Chúa: Chúc tụng Chúa là Chúa tể càn khôn… Chúa đã rộng ban cho chúng con Bánh này là hoa màu ruộng đất và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở nên Bánh nuôi sống chúng con… Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn, vì Chúa đã rộng ban cho chúng con Rượu này là rượu bởi cây nho và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở thành của uống thiêng liêng cho chúng con.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Lương thực thần thiêng
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên. Thánh Thể, suối nguồn tình yêu của cuộc sống giáo hội là trường học của tình bác ái và liên đới. Ai nuôi mình bằng Bánh của Chúa Kitô thì người ấy sống những điều tầm thường hàng ngày một cách phi thường trong tin yêu.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
—————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- NĂM A
ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI – Lm. Trần Ngà
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống”. Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, [“Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?… Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì “khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân” (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là “ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời.” (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
———————————————————————————–
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ- NĂM A
BÁNH HẰNG SỐNG- Trích Logos A
Dưới thời vua Louis XIII, nước Pháp gặp một nạn đói lớn. Trong thời gian đó, hoàng hậu Anne d’ Autriche mở một bữa tiệc chiêu đãi tại lâu đài của bà. Hôm ấy, bà hoàng hậu đeo một sợi dây chuyền bằng ngọc qúi giá. Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng có mặt trong bữa tiệc hôm ấy. Ngài nói với bà hoàng hậu : “Thưa Hoàng hậu, nếu người muốn, người có thể làm một phép lạ”. Bà hoàng hậu rất ngạc nhiên vì câu nói này. Thánh Vinh Sơn chỉ vào sợi dây chuyền của hoàng hậu và nói : “Vâng, người có thể biến những viên ngọc này thành những tấm bánh mì cho người nghèo”.
Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra. Bà hoàng hậu đã trao cho thánh Vinh Sơn sợi dây chuyền để ngài bán lấy tiền mua bánh nuôi người nghèo.
Thật cảm động khi nghe câu chuyện bà hoàng hậu giàu tình thương, đã đổi những viên ngọc qúi thành bánh mì nuôi người nghèo. Những tấm bánh đó chính là “phép lạ” của tấm lòng nhân hậu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ cảm động biết bao khi suy gẫm về tình yêu Chúa nơi bí tích Thánh Thể : Ngài đã trở nên tấm bánh thần linh nuôi dưỡng chúng ta trên đường lữ thứ trần gian. Quả thật, bánh Thánh Thể luôn luôn là “phép lạ” trong cuộc sống chúng ta, biểu lộ tình yêu, trao ban sự sống và tạo nên sự hiệp thông toàn vẹn.
Bánh Thánh Thể, tình yêu cao vời.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã tuyên bố một điều thật kỳ lạ, khiến những người Do thái không thể hiểu được : “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Người Do Thái ngày xưa không thể hiểu được làm sao một con người có thể lấy thịt mình để nuôi người khác. Cho đến hôm nay, bí tích Thánh Thể vẫn là một huyền nhiệm lớn lao đối với chúng ta.
Tuy nhiên, nhìn qua lăng kính tình yêu, chúng ta có thể cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thánh Thể, qua hình ảnh tấm bánh là chính Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh được bẻ ra cho con người, chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu tiêu hoá trong con người. Đó là sáng kiến vừa lạ lùng, vừa độc đáo, vừa táo bạo của Chúa, để Ngài biểu lộ tình yêu tự hiến cao cả của Ngài.
Hôm nay, khi tuyên bố mình là “bánh bởi trời”, Chúa Giêsu muốn biểu lộ một tình yêu tha thiết và sâu thẳm. Ngài muốn hoà nhập vào máu thịt của nhân loại, khi trở nên lương thực nuôi dưỡng nhân loại. Còn tình yêu nào cao vời hơn thế ? Đúng như lời Chúa đã phán : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”.
Bánh Thánh Thể, sự sống muôn đời.
Chúa Giêsu còn là tấm bánh sự sống, như lời Chúa phán : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”.
Tấm bánh luôn gợi lên ý nghĩa của lương thực nuôi sống con người. Vì thế, bánh được coi là ân huệ của Thiên Chúa, là nguồn sinh lực của con người (Tv 104, 14t).
Bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay nhắc đến những ơn lành Thiên Chúa ban cho dân Do Thái trên đường về Đất Hứa. Trên cuộc hành trình ấy, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna, chim cút và nước chảy ra từ tảng đá (Xh 16, 1-16). Nhưng đó không phải là lương thực đem đến sự sống đời đời. Vượt lên trên lương thực vật chất, Chúa muốn trao ban cho con người chính Thân Mình Ngài như của ăn đem đến sự sống vĩnh cửu, như lời Chúa phán với người Do Thái hôm nay : “Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”.
Đúng vậy, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh sự sống. Tấm bánh ấy được bẻ ra từ thập giá thương đau. Tấm bánh ấy chịu đau đớn và hủy hoại để phát sinh sự sống mới cho con người. Tấm bánh ấy chịu biến tan đi để gieo mầm sự sống nơi trần thế. Tấm bánh ấy diễn tả mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa : Chúa chịu chết cho ta được sống.
Bánh Thánh Thể, sự hiệp thông toàn vẹn.
Chúa Giêsu trở thành tấm bánh kỳ diệu để đi vào chân tơ kẽ tóc con người. Ngài trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt con người. Thật là sự kết hợp sâu xa biết bao !
Ngoài ra, Chúa còn là tấm bánh để qui tụ chúng ta nên một. Ngài là tấm bánh duy nhất được bẻ ra cho mọi người. Tấm bánh càng bẻ ra, càng tạo nên sự hiệp thông. Tấm bánh càng được chia sẻ, càng tạo nên tình huynh đệ thắm thiết. Vì thế, hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Côrintô : “Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh”.
Hiệp thông luôn là ước mơ của Giáo hội. Trải qua bao thế kỷ, vết thương chưa lành của sự ly khai và chia rẽ luôn làm nhói đau Thân Thể mầu nhiệm của Chúa. Vì thế, Giáo Hội luôn tha thiết cầu nguyện trong các thánh lễ : “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một, khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô” (Kinh Tạ Ơn II).
Mỗi khi đi dự lễ, chúng ta cùng chia nhau một tấm bánh duy nhất là Đức Kitô. Điều đó làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn : ta được kết hiệp với Chúa và nên một với nhau, làm nên một thân thể không thể tách lìa. Chớ gì Đức Kitô là tấm bánh mãi mãi được bẻ ra đến tận cùng, để làm nên sự hiệp nhất toàn vẹn trong thế giới hôm nay.
Phép lạ trong đời thường.
Ngày xưa, từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5 ngàn người ăn (Ga 6, 5-11).
Hôm nay, Chúa tiếp tục làm phép lạ để từ một tấm bánh duy nhất là Thân Mình Chúa được bẻ ra để nuôi dưỡng mọi người. Đáp lại lời Chúa : “Các con hãy cho họ ăn” (Mc 6, 37), các môn đệ của Chúa hôm nay vẫn đang tiếp tục bẻ tấm bánh đời mình chia sẻ cho tha nhân, tiếp tục làm cho “phép lạ hóa bánh” được tiếp diễn trong cuộc sống hàng ngày.
Vào năm 1983, mẹ Têrêsa Calcutta được tham dự thánh lễ với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại nhà nguyện riêng của ngài. Sau thánh lễ, Đức Giáo Hoàng trao cho mẹ Têrêsa chìa khóa chiếc xe hơi mới mà ngài tặng riêng cho mẹ. Ngay sau đó, mẹ Têrêsa đã bán chiếc xe để lấy tiền giúp cho người bất hạnh và cùng khổ tại Ấn Độ. Quả thực, qua bàn tay mẹ Têrêsa, “phép lạ hóa bánh” đã được tiếp tục diễn ra : chiếc xe đã biến thành bánh cho người nghèo, thành nơi nương thân cho những kẻ khốn cùng.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói một câu rất ý nghĩa : “Chúa Giêsu đã bẻ vỡ chính thân mình Ngài để ban cho chúng ta như lương thực, thì chúng ta cũng phải phân chia và san sẻ chính mình cho người khác”.
Trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa, cũng như trong suốt cuộc đời, chúng ta hãy trở nên tấm bánh tình yêu, hiến dâng cho Chúa và chia sẻ cho tha nhân hằng ngày.
—————————————————————————-
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- Năm A
TIN NHẮN YÊU THƯƠNG- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có những hình ảnh, những vật đã trở thành biểu tượng của tình yêu trên khắp thế giới, giúp những người đang yêu bày tỏ tình cảm một cách vô cùng lãng mạn mà không cần nói bằng lời. Với một trái tim đỏ thắm hoặc hình trái tim bị mũi tên đâm xuyên qua đều là biểu tượng cho tình yêu. Trái tim đỏ thắm nói: tôi xin dâng tặng cả trái tim này! Một trái tim có mũi tên đâm qua như muốn nói: Tôi đã yêu đơn phương! Hai trái tim có mũi tên xuyên qua diễn tả: Chúng mình đã gắn kết với nhau bởi tình yêu!
Hoa hồng cũng là biểu tượng tình yêu. Theo truyền thuyết kể rằng: có một thiếu nữ tên Rodanthe. Nàng đẹp kiều diễm nên rất nhiều chàng trai theo đuổi. Thấy nàng bị dồn ép quá mức, nữ thần săn bắn Diana biến nàng thành một bông hồng rực rỡ và ngát hương, biến những chàng trai yêu cô thành những gai nhọn tua tủa. Một truyền thuyết khác lại cho rằng những bông hoa hồng này sinh ra từ những giọt rượu tiên mà Thần Tình Yêu Cupid đã vô tình đánh rớt xuống mặt đất. Tình yêu đẹp, tình yêu nồng nàn nhưng cũng đầy đau khổ . . .
Bí tích thánh thể cũng là biểu tượng tình yêu mà chính Chúa Giê-su đã thiết lập. Ngài không dùng những hình tượng bên ngoài nên dấu chỉ tình yêu mà Ngài dùng chính Thân Thể Ngài trở thành tình yêu tự hiến cho con người. Thật cụ thể. Thật gần gũi. Qua tấm bánh Chúa ở lại với con người và hiến dâng thân mình nên thần lương nuôi sống cho con người. Thánh Thể Ngài thực sự trở thành một biểu tượng tình yêu tự hiến đến tan biến cho người mình yêu.
Quả thực, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người tự hiến vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giê-su không dừng lại ở việc chết cho người mình yêu mà còn hiến ban chính Thánh Thể Ngài nên nguồn sức sống cho con người. Vì yêu con người nên Ngài đã nhỏ những giọt rượu tiên ân phúc xuống cho dương gian. Từ đây “ai ăn và uống máu Ngài thì sẽ có sự sống đời đời”. Từ đây qua bí tích Thánh Thể Ngài sẽ ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế.
Điều tâm huyết mà Chúa muốn nơi chúng ta thực thi đó chính là “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Khi Chúa cầm bánh và rượu dâng lên và trao ban cho các môn đệ Ngài đều tha thiết mời gọi : “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đó là việc của hiến tế, việc của yêu thương đến trao ban chính máu thịt mình cho anh em. Chúa muốn người môn sinh của Chúa lập lại hằng ngày trên mọi nẻo đường dương gian hành vi của yêu thương và tự hiến cho người mình yêu.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chính là hãy bẻ đời mình ra như tấm bánh đem lại niềm vui, sức sống, hạnh phúc cho tha nhân. Có lẽ ai cũng đã từng nâng niu chiếc bánh. Ai cũng từng vui sướng khi mẹ trao cho tấm bánh. Tấm bánh nào cũng có những giá trị riêng. Tấm bánh nào cũng mang lại niềm vui cho người được nhận miễn là tấm bánh tự bản thân tự hiến cho con người. Do đó, cuộc đời người tín hữu Chúa cũng mời gọi hãy là tấm bánh mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cuộc đời người tín hữu cũng trở nên tự hiến để yêu thương và phục vụ con người. Không có yêu thương phục vụ thì đời người tín hữu không có giá trị như tấm bánh đã hết date hay đã không còn sử dụng làm của ăn cho con người.
Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.
Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.
Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: “Một đứa bé! Có một đứa bé!”.
Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”.
Một tin nhắn thật cảm động. Cảm động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua bí tích Thánh Thể Chúa Giê-su cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Chúa Giê-su không chỉ muốn chúng ta hãy nhớ rằng Ngài rất yêu thương chúng ta mà Ngài còn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục thi thố tình yêu ấy đến cho anh em.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy làm cho tình yêu của Chúa được hiện tại hóa qua đời sống yêu thương phục vụ của mình. Ước gì từng lời nói, từng việc làm của chúng ta cũng để lại một tin nhắn cho anh em chính là tin nhắn của tình yêu tự hiến cho anh em. Amen