CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TÌNH YÊU: SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 5
ĐỨC TIN TRONG ĐỨC GIÊSU – Chú giải của Noel Quesson. 9
KHÍA CẠNH BA NGÔI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 17
MẠC KHẢI BẤT NGỜ CỦA PHÚC ÂM- Chú giải của Fiches Dominicales 29
THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN TÌNH YÊU- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 37
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 50
THIÊN CHÚA TÌNH YÊU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 58
MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI ĐƯỢC MẠC KHẢI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 62
NHÂN DANH CHUA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 68
TÌNH YÊU DIỆU VỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 74
TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG – Lm. Trần Ngà. 82
TRÁI TIM TÌNH YÊU VÀ SỰ SỐNG- Trích Logos A.. 85
HUYỀN NHIỆM TÌNH YÊU- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 90
BA NGÔI, MẦU NHIỆM TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn 95
———————————————————–
CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Thiên Chúa là Đấng thống trị, từ bi và nhân hậu”.
Bài trích sách Xuất Hành.
Ngày ấy, từ sáng sớm, Môsê chỗi dậy và lên núi Sinai, như Chúa đã truyền dạy cho ông, ông mang theo hai bia đá. Khi Thiên Chúa ngự trên đám mây, Môsê đứng trước mặt Chúa và kêu cầu danh Chúa. Chúa đi qua trước mặt ông và hô: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa thương xót và từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành”. Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy và thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu con có ơn nghĩa trước nhan thánh Chúa, thì xin Chúa hãy đi cùng với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), xin xoá mọi gian ác và tội lỗi chúng con, xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Đáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
BÀI ĐỌC II: 2 Cr 13, 11-13
“Ân sủng của Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”.
Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và hoà thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và tình yêu, sẽ ở với anh em. Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện. Tất cả các thánh ở đây gởi lời chào anh em. Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em. Amen.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Kh 1, 8
All. All. – Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần; sáng danh Thiên Chúa Đấng đang có, đã có và sẽ đến. – All.
PHÚC ÂM: Ga 3, 16-18
“Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa”.
Đó là lời Chúa
———————————————————–
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI – NĂM A
TÌNH YÊU: SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi …”: Công trình cứu rỗi được nối kết với nguyên lý tối hậu của nó là tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian. Việc sai phái Chúa Con, như là dấu tích tình yêu của Thiên Chúa, đã được lựa 4,9-10.16.19 làm nổi bật. Tư tưởng này, tiềm tàng trong Tin Mừng thứ tư, đã được khai triển trong chương 13 và các chương kế tiếp.
“Vì Thiên Chúa không sai Con đến trong thế gian để xử án thế gian”: Câu này xác định mục đích sứ mệnh của Chúa Con đối với thế gian: không phải để xét xử, nhưng để cứu rỗi thế gian (Ga 4,42; 1Ga 4,14). Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại quả quyết trong 9,39: “Chính để xét xử mà Ta đã đến trong thế gian”. Thưa điều Thiên Chúa muốn là cứu rỗi thế gian; tuy nhiên việc Chúa Con đến nhất thiết gây nên quyết định chọn lựa dứt khoát của con người, sự chọn lựa này làm nên việc xét xử. Quyết định chính yếu ấy của tất cả đời người, chính là việc gắn bó vào “Con Một của Thiên Chúa” (c.18) bằng đức tin, hay trái lại là sự chối từ không chịu tin. Câu 18 dịch sát chữ là “Kẻ tin vào Người thì không bị án xử (trong các câu 17-18, BJ cả 3 lần đều dịch “luận phạt”, trong lúc bản Hy lạp là “án xử”); kẻ không tin thì đã bị “xét xử rồi”. Án xử thành ra không tự Chúa Con mà đến, nhưng tự thế gian đã không chịu đón nhận ơn cứu độ mà Chúa Kitô đem tới cho. Thế gian khép lòng trước tình yêu của Chúa Cha tỏ hiện trong việc sai phái Chúa Con, nó loại bỏ Đấng Trung gian duy nhất là Đấng có thể đưa nó đến sự sống. Thành ra, vì ích kỷ, thế gian đã chọn lựa ở lại trong sự chết. Một án quyết sẽ có thể long trọng công bố, xác nhận tình trạng này (x. cuộc phán xét cánh chung vào ngày Quang lâm trong các Tin Mừng Nhất lãm) nhưng sẽ không thay đổi tình trạng đó nữa.
KẾT LUẬN
Không được chần chừ lần lựa hoặc giả diếc làm ngơ trước mặc khải trực tiếp nhất, hồng ân cứu độ cao quý nhất và tình yêu tuyệt đối này của Thiên Chúa. Vì hãy nhớ rằng cái chết của Chúa Giêsu mặc cho mọi phản ứng của con người ý nghĩa cánh chung đích thực của nó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
– Niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi có được là nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Mọi giáo huấn về Thiên Chúa đều được chứa đựng trong con người của Chúa. Từ đó việc tin vào Chúa Con dã hàm chứa việc tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế Tin Mừng đã nói: “Phàm ai tin vào Người thì không phải hư đi nhưng được sự sống đời đời”. Sự kiện trong ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội chọn một bản văn có chủ ý nhấn mạnh tầm quan trọng của niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho thấy khởi điểm lộ trình và mục đích của niềm tin đã được bao hàm trong việc gắn bó sống động vào Chúa Kitô. Ai đến với Chúa Kitô thì cũng đến với Chúa Cha và được như thế là nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
– Nhưng đây còn một vấn nạn khác mà Tin Mừng muốn trả lời: Thiên Chúa cứu thế gian bằng cách nào? bằng cách sai Con của Ngài đến trong thế gian. Thế nhưng ngày nay Chúa Kitô đến trong thế gian bằng con đường đặc biệt nào? Bằng Giáo Hội. Do đó Giáo Hội có sứ mệnh làm cho Chúa Kitô hiện điện trong thế gian. Giáo Hội phải thông đạt một sự hiện diện đích thực chứ không chỉ giảng dạy, đưa ra học thuyết, giáo huấn mà thôi. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tự trở nên gần gũi với nhân loại trong con người Chúa Giêsu Kitô, Đấng được mặc khải trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
– Kẻ tin vào Chúa Giêsu đến nỗi sẵn sàng chia sẻ số phận tử nạn và phục sinh của Người, thì được vào trong mầu nhiệm sống động của Thiên Chúa. Điều này giải thích tại sao sứ điệp của các sứ đồ, ở thời đầu Giáo Hội, không phải là một bài giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng là lời loan báo về Chúa Giêsu Kitô. Suốt giòng lịch sử Giáo Hội, và nhất là qua các Công Đồng, Giáo Hội sẽ cố gắng công thức hóa cho mình một tư tưởng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng việc chính của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội (trong mỗi người chúng ta) là làm sao cho Giáo Hội trở thành và mãi mãi là kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô.
-“Ai tin vào Con Người thì chẳng bị án xử ; ai không tin thì đã bị án xử rồi vì đã chẳng tin”. Đây là nghịch lý của một sự tự do chỉ có thể chọn lựa giữa sự sống và cái chết. Không có nhiều cách sống, nên không thể có sự chọn lựa giữa nhiều giả thuyết khác nhau. Hoặc được tất cả hoặc mất tất cả. Tình yêu của Chúa Cha biểu lộ trong Chúa Con và kích động trong ta nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, xem ra bi thảm vì có tính cách quyết định. Tình yêu không phải là cái gì có thể chọn lựa tuỳ ý giữa bao cái khác. Nó là sự sống của con người. Sự tự do mà Thiên Chúa ban cho con người là tiếng mời gọi diệu kỳ nhất, mời gọi đi đến với tình yêu, đồng thời cũng là khả năng hủy diệt nguy hiểm nhất. Nhiều kẻ đã sợ tự do; có lẽ họ thích đừng phải đương đầu với một chọn lựa như thế, vì họ coi sự chọn lựa đó dã man hơn là dịu dàng và tế nhị. Tuy nhiên, chính khi tự do yêu thương mà con người thực sự là người. Nếu không có sự chọn lựa ấy (với nhiều khía cạnh bi thảm của nó) thì con người chỉ còn là một người máy đã bị quy định trước. Nhưng đối với ai lựa chọn theo Chúa Giêsu, đối với ai nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, “đã tin vào Danh Con Một Thiên Chúa” thì thật hạnh phúc dường nào! Tất cả trở thành bình an và vui sướng trong sự hiệp thông mà Chúa Thánh Thần đã thực hiện.
————————————————————
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
ĐỨC TIN TRONG ĐỨC GIÊSU – Chú giải của Noel Quesson
Phải mất ba thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới định nghĩa chính xác Ba Ngôi. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã được đem đến trong Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan. Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà chúng ta đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn, thật sự đã làm cho chúng ta khám phá một điều gì đó chủ yếu: “tranh luận” hẳn là không đi tới đâu, phải đi theo Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi trường trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10)… Tuy nhiên ông không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ mà một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Và tình yêu này mang một khuôn mặt: Đức Giêsu trên thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối mặt với cảnh tượng ấy của tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch trên đồi Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu “được gương cao” khỏi mặt đất trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói với chúng ta sự suy niệm ấy. Đồng thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính của Đức Giêsu.
“Thiên Chúa yêu đến nỗi…”
Trước khi đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ ấy thấm vào người tôi.
Vậy ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu sẽ làm những chuyện điên rồ người ta đã đoán ra điều đó trong trạng từ “đến nỗi”…
Israel biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu ước là một chung cư về điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta nghe lại mặc khải với Môsê trong sa mạc Sinai:”Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ Kinh Thánh đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không một ai có thể đoán được tình yêu ấy đi tới mức nào?
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…”
Từ thế gian mà trong tiếng Hy Lạp là “kosmos”, trong Tin Mừng Thánh Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần biết rằng thế gian, toàn vũ trụ được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra. Người ta thương yêu cái gì mình đã làm ra. Nhưng cần biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt những khuôn mặt cụ thể được yêu thương hoặc không… trên những từ ấy. Thiên Chúa đã yêu thương anh X. đến nỗi… Thiên Chúa yêu thương chị Y đến nỗi.
‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban…”
Hai động từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định trong ngôn ngữ Hy lạp và dịch thì quá khứ trong tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu” và “đã ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là một hành động chính xác, có ngày giờ nơi chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con của Bà Maria, con người thật đã can thiệp vào lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong một xã hội của Đế quốc La mã đồng thời đó cũng là một biến cố của hoàn vũ đã biến đổi triệt để lịch sử của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không phải là một chuỗi các ý tưởng, nhưng là một chuỗi “sự kiện”: Thiên Chúa đã sáng thế, Đức Giêsu đã được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người đã đau khổ, đã chết đã sống lại…
Phụng vụ của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý tưởng: Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh đệ và cả đức tin. Cách nói: “lễ đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học thuyết, là một “tường thuật kể lại các biến cố… mà tác giả là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là “chủ thể” của hành động: Người yêu… Người ban…
“Người đã ban Con Một…”
Nếu đọc lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ nghĩ đến sự Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính từ nhỏ: Con “Một” tính từ ấy xem ra có thể tầm thường với bất cứ người nào không biết Kinh Thánh. Vả lại, đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con, Con Một) nhắc đến một đoạn văn của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi người: vị đại tổ phụ sáng lập đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế con trai, con duy nhất của ông (St 22,2-22,16). Đối với Gioan điều này ám chỉ đến sự “tận hiến” trên đồi Golgotha, chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu trước, Gioan đã nói với chúng ta rằng: “Con Người phải được giương lên như con rắn đồng trong sa mạc” (Ga 3,14). Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” ( Rm 8,32). Tình yêu ấy là vô cùng tận! sự điên rồ của tình yêu.
“Để ai tin vào con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”. Mọi sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ, để có tình yêu, nếu chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai phía chưa đủ … mà phải có sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, … đức tin là lời đáp lại của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa: người ta trao đức tin cho người khác, người ta làm cho người ấy tin tưởng, tín thác cho nhau, người ta được “đính hôn”!
Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng: vấn đề là chết hay sống: “ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Đó là một song luận khắc nghiệt: hoặc là …hoặc là.. đó là một chọn lựa quyết định: trong trường hợp này người ta không sống, trong trường hợp kia người ta được sống… không có con đường trung bình mà là sự phân đôi triệt để khốc liệt. Hoặc người ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính của Thiên Chúa hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm chúng ta trở thành “Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và “không” (nn.. non) ông nước đôi đó nói “có” khi bắt đầu nói “không”.
“Quả vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ con của Người mà được cứu độ”.
Tư tưởng này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do Thái cùng thời với Đức Giêsu , người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đến tiêu diệt thế giới tội lỗi. Các thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của phái Manikêu: con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái của bóng tối trong một cuộc chiến đấu một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét xử (Mt 3,10-12).
Nhưng quan điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân bình hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan, bịt mắt trước sự xấu ác và không nghe thấy khát vọng bao la về một “thế giới tốt đẹp hơn”… cũng không phải là quan điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế giới thì xấu xa… nhưng là một quan điểm “cứu độ” thừa nhận sự xấu ác của thế gian nhưng không phải lên án nó, nhưng để cứu nó! Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt vời!
Còn chúng ta thì sao? có phải chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa là bằng sự đấu tranh chống lại điều ác và tội lỗi của thế gian để cứu độ nó. Tình yêu thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không? nghĩa là trước hết phải thực hiện và sáng suốt trên những khuyết điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta cũng phải có đủ lòng nhân hậu để cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho họ cơ hội để đổi mới…
Tôi còn phải cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán xét’ mà hãy ‘cứu’.
“Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án…”
Đối với Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể sự phán xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và đặt vào đôi tay của con người: chính con người tự phán xét mình. Và Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét ấy: “ai tin là người được cứu, còn ai không muốn tin đã bị lên án rồi…”
“Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”.
Chúng ta thấy những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta nghĩ đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà con hoặc trong chính gia đình chúng ta, và trong thế giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn toàn không có được khả năng biết Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ ra khỏi Tin Mừng các công thức căn bản ở đó con người bị thúc bách phải chọn lựa “theo” hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có sự phân biệt chủ yếu:
-Khi gởi đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng đức tin, thì lời cảnh báo nghiêm khắc ấy tức là không được chối bỏ đức tin mà mình đã tuyên xưng là một lời mời gọi không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy bằng cách mỗi ngày canh tân sự chọn lựa sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là “phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!”.
– Về phần mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội chọn lựa Đức Giêsu một cách thật sự có ý thức, cá nhân là trưởng thành… thì điều mà chúng ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian mà để cứu độ nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng nhiều người trong số những người thực tế ‘không theo Đức Giêsu cũng đã theo Người dù họ không biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho họ) bằng cách sống làm người của họ “theo Đức Giêsu Kitô” nghĩa là “phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!”
“Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”
Và một lần nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn thiết như thế nào… ngay từ bây giờ. Nhưng trong một đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói rằng một “kỳ hạn của ân sủng” sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ đến ngày sau hết mà “lời của Đức Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối Người (Ga 12,47-50). Điều đó không loại bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay… nhưng tất cả đời sống của chúng ta mỗi ngày là sự phán xét của chúng ta…
Để kết thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao trang Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề mà người ta đề cập như một sự trình bày lý thuyết và trừu tượng… đó là một thực tại của tình yêu người ta bước vào thực tại ấy để sống tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong Đức Giêsu.
——————————————————
CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI- NĂM A
KHÍA CẠNH BA NGÔI (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Ba Ngôi. Lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Chiếm một chỗ xác định trong lịch phụng vụ, cuộc cử hành nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ nầy một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành nầy ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.
Xh 34: 4-6, 8-9
Bài Đọc I là đoạn trích dẫn nổi tiếng từ sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài: “Đức Chúa” và định nghĩa chính mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
2Cr 13: 11-13
Đây là Phần Kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Phần Kết này chứa đựng một trong những công thức Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.
Ga 3: 16-18
Đoạn trích Tin Mừng Gioan hôm nay gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Ở nơi sự hiệp thông tình yêu mật thiết giữa Cha và Con và sự tuôn tràn của tình yêu nầy về thụ tạo, Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.
BÀI ĐỌC I (Xh 34: 4-6, 8-9).
Sách Xuất Hành thuật lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố nầy được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 tCn. Nhưng bài trình thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.
Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải nầy, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nên nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (được các tư tế biên soạn, và Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).
Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật Tư Tế (Xh 6: 2-5); lần thứ ba ở nơi bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi hôm nay, theo trình thuật Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa là “Gia-vê”, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới danh xưng nầy trước đây rồi, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động này những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương, hay tha thứ và giàu lòng nhân hậu.
Thần Hiển trên núi:
“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay”. Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Xi-nai và đã lãnh nhận ở đó hai tấm bia đá ghi khắc Lề Luật rồi. Nhưng trong lúc xuống núi, ông đã đau đớn khi sửng sốt nhìn thấy cảnh tượng dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng” và xưng tụng nó như vị thần linh đã giải thoát mình khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Tức giận, ông đã ném vỡ hai tấm bia Lề Luật (Xh 32: 19).
Chương 34, mà bài trình thuật hôm nay được trích dẫn, mô tả việc tái lập Giao Ước. Thật ra, bài trình thuật nầy là một bài trình thuật nhị trùng với bài trình thuật Giao Ước thứ nhất. Nhà biên soạn sau cùng của sách Xuất Hành đã toan tính hòa hợp các bài trình thuật thuộc nhiều chứng liệu khác nhau vào đây. Khi định vị bài trình thuật thuộc chứng liệu Gia-vít về việc tái lập Giao Ước sau tội bội giáo của dân vào đây, ông đã cho bài trình thuật nầy một nét riêng: “Đức Chúa là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
Những chi tiết của bài trình thuật này mang dấu ấn của tác giả Gia-vít. Cũng chính tác giả này trong sách Sáng Thế trình bày Đức Chúa “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” (St 3: 8); cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng nầy vừa báo hiệu những đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, qua hình ảnh này, tác giả diễn tả sự gần gũi thân tình của Thiên Chúa, nhưng đồng thời sự siêu việt khôn tả của Ngài; và cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả Thiên Chúa “đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.
Người ta đã đặt nhan đề cho sách Xuất Hành là “Tin Mừng Cựu Ước”. Sách xứng đáng với tên gọi nầy: Thiên Chúa ngự xuống và đứng bên cạnh con người để mặc khải tình yêu của Ngài và loan báo sự tha thứ của Ngài.
Danh Thiên Chúa:
“Người xưng danh Người là Gia-vê”. Danh Thiên Chúa là “Gia-vê” được diễn tả bởi bốn phụ âm thánh: YHWH do hình thức cổ xưa của động từ “là”. Danh nầy khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên là chính người mang tên ấy, biết tên của một vị thần linh, chính là có quyền điều khiển vị thần linh mang tên đó theo ý muốn của mình. Thiên Chúa không phải trao phó mình vào trong tay con người. Như thế, điều này muốn nói rằng Danh Thiên Chúa thì khôn tả, một mầu nhiệm khôn dò của Ngài. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt đối, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.
Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Danh nầy được thay thế bằng một tước hiệu cao quý khác theo tiếng Do thái “Adonai” hay theo tiếng Hy lạp “Kurios”. Bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, vì muốn gìn giữ sự tôn kính danh Thiên Chúa theo văn hóa dân Do thái, đã thay thế danh Thiên Chúa này bằng danh xưng “Đức Chúa”.
Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.
Dù danh Thiên Chúa được hiểu như thế nào, thì Thiên Chúa cũng tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê ngay liền sau đó: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”. Trong ngữ cảnh trực tiếp, qua lời giới thiệu này, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê là Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên. Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải nầy được ghi khắc như cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Mặc khải này loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc khải này đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.
Lời cầu bầu của ông Mô-sê:
Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa chí thánh và một dân tội lỗi. Trước nỗi xao xuyến của ông Mô-sê về tội lỗi của dân mình, Thiên Chúa đáp trả bằng cách nêu ra lòng từ bi nhân hậu của Ngài. Như được yên tâm, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.
Lời cầu bầu này thật có ý nghĩa trong bối cảnh vừa mới xảy ra trước đây: dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7) và những kẻ dựng tượng bò vàng là muốn “có một vị thần minh mà họ thấy được dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en quá siêu việt đến nổi phải thay thế Ngài bằng một ngẫu tượng vật chất để mà dân có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa? Thế nên, ông Mô-sê bạo gan khẩn nguyện cùng Chúa: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân nầy là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài”. Đó là tất cả ý nghĩa của Giao Ước Xi-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13).
Thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn trích dẫn hôm nay là Phần Kết thúc của thư nầy.
Những lời khích lệ:
Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Cũng vậy, trong lời kết của bức thư này, thánh nhân mời gọi họ hãy vui mừng và nổ lực nên hoàn thiện, tiếp đó hãy đồng tâm nhất trí với nhau và ăn ở hòa thuận. Lời khuyên bảo này ám chỉ cách kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, bây giờ mọi việc đã qua rồi.
“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện”. Đó là dấu chỉ của tình bạn. Thánh nhân thường khuyên đem lại cho nụ hôn huynh đệ nầy tất cả ý nghĩa của nó (x. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Rm 16: 16). Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gởi lời chào anh em”. Các tín hữu nầy là cộng đồng Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô viết bức thư này gởi cho họ khi thánh nhân ở Trô-a hay đúng hơn, ở Ma-xê-đô-ni-a.
Lời chúc kết thư:
Lời chúc kết thư được diễn tả bởi biểu thức Ba Ngôi, một trong những biểu thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc nầy có thể bắt nguồn phụng vụ, điều nầy làm chứng cho tính cổ xưa của nó.
Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính với lời chào nầy mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Biểu thức cổ xưa đơn giản là biểu thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Biểu thức nầy cũng là Ba Ngôi nhưng không nhất thiết đón tiếp Cộng Đoàn.
TIN MỪNG (Ga 3: 16-18).
Đoạn trích Tin Mừng Gioan vào Lễ Ba Ngôi hôm nay là phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một nhân vật Biệt Phái có thế giá đến gặp gỡ Đức Giê-su vào ban đêm.
Tiến trình của đức tin:
Thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một nhân vật Biệt Phái thế giá có thiện cảm với Đức Giê-su. Ông đến gặp gỡ Đức Giê-su để được hiểu thêm nữa về Ngài, nhưng lại đến vào ban đêm vì ông sợ giai cấp lãnh Do thái dị nghị về mình. Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su không úp mở nói thẳng với ông về những khó khăn để tin. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ “niềm tin” theo cách trừu tượng và ở trạng thái tỉnh, nhưng luôn luôn dùng động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động đầy tính năng động của việc gắn bó keo sơn bền chặc. Phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7). Phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận “sự siêu thăng của Ngài” trên thập giá (3: 13-14). Một tiến trình như thế được Thần Khí dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.
Tình yêu của Chúa Cha:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người”. Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của tác giả Tin Mừng? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với Tựa Ngôn của sách Tin Mừng cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.
Từ ngữ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ý nghĩa tiêu cực để chỉ những con cái của bóng tối tìm cách chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng rõ ràng đó không là trường hợp của đoạn Tin Mừng hôm nay. Ở đây, thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa yêu thương đến mức đã sai Con của Ngài đến“để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Chúng ta nhận ra ở nơi lời phát biểu này kiểu nói sê-mít, theo đó để tăng cường sự khẳng định bằng cách đi kèm theo khía cạnh phủ định của nó. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh qua cách diễn tả: “Ngài đã ban Con Một của Ngài”. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất dùng danh xưng “Con Một” (hai lần trong Tựa Ngôn Tin Mừng 1: 16 và 18, hai lần trong đọan văn nầy và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Ga 4: 6.). Danh xưng nầy gợi ra tức khắc I-xa-ác, người con một rất mực thiết thân của ông Áp-ra-ham. Trong câu chuyện của sách Sáng Thế (22: 1-14), chính người cha đã đích thân dẫn đứa con duy nhất của mình đến cái chết (St 22: 1-14), trong đó, nỗi đau thầm lặng tận đáy lòng của người cha chỉ gợi ý. Cũng như trong bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau tận đáy lòng của Chúa Cha, Đấng trao nộp Con Một của Ngài vào tay con người cho đến tận cái chết, như lời khẳng định của thánh Phao-lô: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32), và sau này lời nhận định của Giáo Phụ Ô-ri-giê-nê: “Cuộc Tử Nạn nầy của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu”.
Đấng cứu độ chứ không là vị Thẩm Phán:
“Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. Truyền thống Do thái dự kiến rằng Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-Thẩm Phán, tức là kỷ nguyên thiên sai khai mở ngày Chung Thẩm. Thánh Gioan Tẩy Giả đã mạnh mẽ nhắc lại điều nầy: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa… Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 10 và 12).
Thần học Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh ký đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su, mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử. Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là Thẫm Phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời”. Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai trong một thế giới sắp đến, nhưng còn dự phần vào sự sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.
Chiều kích nội tâm của việc xét xử:
Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người, họ phải chọn lựa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi.”
Lời cảnh báo được gởi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 nầy, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm thảm kịch của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái cũng như cho mọi người Do thái khi đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Người và những dấu chỉ mà Người ban làm chứng Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, khăng khăng nhất mực từ chối ánh sáng, thái độ nầy sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng nầy.
Khía cạnh Ba Ngôi:
Chúng ta có thể ngạc nhiên về việc chọn lựa bản văn nầy vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất và Ngôi thứ hai được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba xem ra không thấy nói đến. Quả thật, tác giả Tin Mừng tô thật đậm tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con, tình yêu tuôn tràn trên nhân loại, chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con”. Thánh Thần là Đấng thông truyền và khuếch trương cuộc sống Thiên Chúa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
———————————————————————-
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- Năm A
MẠC KHẢI BẤT NGỜ CỦA PHÚC ÂM- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tình yêu của Chúa Cha trong Con,Đức Giêsu Kitô, được biểu lộ.
Trong năm A này, sách bài đọc đã mượn bài Phúc âm trong chương 3 của thánh Gioan, phần cuối của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô. Dựa vào giai thoại “con rắn đồng” (Ds 21,4-9), Đức Giêsu đi đến cử hành tế lễ treo trên thập giá như là đỉnh cao của mặc khải về tình yêu, tiếng nói đầu tiên và cuối cùng của ý định của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình: vì thế ai tin vào Ngài sẽ không chết nhưng được sống đời đời. Cụm từ “Con Một” gợi lên lễ hiến tế của Abraharn (Gen 22,2-12). Còn về việc “Nâng cao Con Người lên” (Ga 3,14) nơi thánh Gioan, bao gồm vừa là cái chết của Đức Kitô trên thập giá vừa là sự tôn vinh Người bên hữu Chúa Cha, và theo X.lon Dufour, “bao gồm rộng hơn nữa, cả hành trình của Ngài ở trần gian” (Đọc Tin Mừng thánh Gioan Tom I, Ed. du Seuil p.306-307). Thánh giá này là nguồn sống của tín hữu, không phải do khía cạnh hiến tế và đổ máu, nhưng theo A. Marchadour, là cách diễn tả cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa”. Ông viết tiếp: “Không như một vài người nhìn thánh giá như là nơi diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, khi Chúa Cha từ bỏ Chúa Con để chuộc tội loài người. Ở đây, Con và Cha hiệp thông với nhau trong cùng một tình yêu đối với thế gian (Tin Mừng Gioan, Centurion, p.69). Dự án tình yêu nhưng không của Thiên Chúa Cha mà Đức Giêsu mặc khải, mang tính phổ quát: “cho thế gian”, chứ không chỉ dành riêng cho một ít người. X.lon Dufour nhận xét: “Ba câu này liên kết mật thiết với nhau, hai câu đầu nói lên động cơ (3,16) và mục đích (3,16-l7) của ơn Chúa hay việc Cha sai Con Một mình. Trong chương trình này, lần thứ nhất, hai lần Thiên Chúa là “chủ từ”. Thiên Chúa được coi là nguồn gốc của hành động cứu rỗi, vì tình yêu cao cả ngất ngây của Ngài. Ở trung tâm của tất cả, nhất là trung tâm vai trò của Con Người và con đường dẫn tới thập giá, người ta tìm thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Sự khẳng định đó coi Thiên chúa và tình yêu của Ngài như là thực tại nền tảng và tuyệt đối … Tình yêu đi trước tất cả, như trong lời mở đầu của thánh Gioan ánh sáng thiên linh đã hiện hữu vì con người trước khi có tối tăm. Thiên Chúa tình thương chỉ có một mục đích là cứu rỗi và ban sự sống (O.C. p.305-306).
Kêu gọi câu trả lời tự do của chúng ta “bây giờ”
Nhưng không, vô điều kiện, phổ quát, tình yêu Chúa Cha tỏ hiện trong Con Một, đòi hỏi một câu trả lời tự do của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải tình yêu Chúa Cha, đòi hỏi mọi người ‘bây giờ phải chọn lựa, một sự chọn lựa sẽ quyết định cho số phận của mình’.
Với kẻ kết hiệp trong đức tin, với Thiên Chúa tình yêu được bày tỏ trong Đức Giêsu Kitô, với kẻ tin “nhân danh Con Một”, thì được hiệp thông với “sự sống đời đời”. Từ hôm nay họ được dẫn vào sự duy nhất vĩnh viễn và trong sự thân mật hoàn hảo của Chúa Cha và Chúa Con: “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng nên một với Ta” (Ga 17). Còn với “ai không muốn tin” thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào Con Thiên Chúa”. X. lon Dufour nhấn mạnh: “sự sống đời đời và án phạt không dành cho ngày sau hết mà thôi (phán xét chung thẩm): cả hai được thể hiện trong hiện tại khi gặp gỡ Đức Kitô. Tin vào Ngài tức thì “có sự sống”, trái lại, từ chối không tin là tự định đoạt cho mình phải chết” (O.C. p.308-309).
BÀI ĐỌC THÊM:
“Sống và yêu theo nhịp Chúa Ba Ngôi” (J.N. Bezencon, trong, “Babor p.131-132).
Mặc khải về Chúa Ba Ngôi không chỉ là sự bổ sung vào ý niệm chung về Thiên Chúa. Sẽ không đủ nếu chỉ thêm thắt vào ý niệm về Thiên Chúa của các tôn giáo khác. Mặc khải về Chúa Con và Chúa Thánh Thần để từ đó khám phá ra Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. So với tôn giáo độc thần của Do Thái mà một Chúa Ba Ngôi là sự hoàn thành, ý niệm Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu là cả một cuộc cách mạng trong sự hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế trong kinh Tin Kính của Kitô giáo, không có một đoạn đầu chung chung nói về Thiên Chúa trong những từ mà chúng ta có thể chia sẻ với anh em Do Thái giáo hay Hồi giáo. Chức làm Cha của Thiên Chúa, quyền năng vô biên của Ngài, hành động sáng tạo của Ngài, quyền làm Chúa của Ngài trên vũ trụ phải được đọc dưới ánh sáng của Đức Giêsu và thập giá của Ngài. Đức tin Kitô giáo, đức tin vào Chúa Ba Ngôi, không chỉ khác bởi nội dung của nó, như thể là trong danh mục các chân lý phải tin, chỉ cần thêm vào, cho là ở đâu đi nữa, một chương về Ba Ngôi là đủ. Chính đức tin đã khác biệt rồi, khác trong chính kết cấu, trong năng động. Đức tin cách nào đó, đảo ngược: khi tôi nói tôi xây dựng cuộc sống tôi trên Ngài, trước hết tôi muốn nói trong Ngài là nguồn suối, Ngài tin ở con người và phó thác cho tôi, ràng buộc mình với chúng ta, và tuỳ may rủi, Ngài chọn xây dựng tất cả dự tính tình yêu của Ngài, và chia sẻ, dựa trên sự đáp trả tự do và mong manh của chúng ta: Đức tin của chúng ta, tiếng Amen của chúng ta là câu trả lời như tiếng dội của lòng tin của Thiên Chúa. Nói Ngài là Cha là mẹ (đứa trẻ nói: Thiên Chúa là người Cha, thương yêu như người mẹ) điều đó muốn nói chính Ngài luôn luôn đi bước đầu. Huấn giáo (catécalèse) không có điểm xuất phát nào ngoài phát minh làm chóng mặt rằng một ai đó đã tin tôi đến nỗi làm cho tôi sống: “Con là con Ta, trong con Ta đặt tất cả tình yêu”. Bởi thế ngay lập tức, đức tin ấy là tin vào Chúa Ba Ngôi. Dựa vào huấn giáo là đặt mình ở điểm chính xác nơi mà Lời của Thiên Chúa có thể tìm thấy tiếng dội trong con người. Đó là đi vào kinh nghiệm làm con của Đức Giêsu. Cuối cùng huấn giáo là huấn giáo về Chúa Ba Ngôi vì đời sống Kitô giáo là tin vào Chúa Ba Ngôi: ở chỗ để Thánh Thần chiếm đoạt, đến nỗi nên một với Đức Giêsu mà Chúa Cha hằng sinh ra. Từ đó huấn giáo các bí tích mà người Kitô giáo học sống sự hiệp thông Ba Ngôi là rất quan trọng. Đó là dịp để quảng diễn các kinh trong sách nghi lễ, với điều kiện là đừng bắt đầu cách loại bỏ những gì mà tất cả những ai được giáo huấn (catéchisés) cho rằng không hiểu. Một nhóm nhỏ làm công tác giáo huấn làm ta nghĩ đến bức tượng thánh Icône của André Roublev, ba thiên thần được Abraham đón tiếp, truyền thống công nhận đó là hình ảnh tiên báo về Chúa Ba Ngôi. Tất cả Giáo Hội, tất cả mọi tế bào của Giáo Hội, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi nếu như mỗi người đều hướng về kẻ khác trong sự chia sẻ và trong sự hiệp thông. Trong một êkip làm công tác huấn giáo, trong đó mỗi người đều biết đón nhận những gì mà người khác nói và làm ở đó, những lúc thinh lặng và cầu nguyện thật là những giây phút hiệp thông, một cái gì đó sống, đồng thời cũng có giá ăn mặc khải mầu nhiệm của Thiên Chúa như là cái nhìn nhau giữa các thiên thần của bức tượng thánh của Roublev. Sự tuần hoàn của tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, được anh em Hy Lạp gọi là “Périchorèse” (một thứ vũ vòng quanh, cũng có gốc với từ chorégraphie). Thiên Chúa không bất động. Và vì Ngài luôn luôn là chuyển động và chia sẻ chính Ngài, Ngài là chuyển động hướng về chúng ta. Huấn giáo là nơi mà trẻ con, chúng biết chúng không bao giờ ở yên, được mời gọi đi vào chuyển động điệu múa Ba Ngôi, học sống và yêu với nhịp điệu của Cha, Con và Thánh Thần…”.
“Giáo Hội nói những gì Giáo Hội làm” (Pour dire le Credo, Cerf).
Nhìn Giáo Hội trong những gì Giáo Hội là, không phải là chuyện dễ dàng đâu. Giáo Hội loan báo Phúc âm, Tin Mừng của Đức Kitô vì hạnh phúc con người, và Giáo Hội làm cho con người sống các bí tích mà Đức Kitô đã truyền lại, đặc biệt và ngay từ đầu, Giáo Hội làm cho con người sống bí tích Thanh Tẩy. Giáo Hội hiện hữu là thế đó, nghĩa là như một công đồng của những ai, nam cũng như nữ, chấp nhận tình yêu Chúa Cha và liều mình sống đời sống của Ngài. “Hãy đi khắp muôn dân thu tập các môn đệ, làm phép rửa cho họ” (Mt 28,19). Nhiều khi chúng ta cho lời nói của Giáo Hội có tầm quan trọng (sự can thiệp của Đức Thánh Cha, các tuyên bố của các giám mục) hơn là việc làm của Giáo Hội, và chúng ta có cảm tưởng Giáo Hội là một tổ chức để nói, một bà già rất đáng kính nói hơi nhiều. Phải rồi Giáo Hội nói, và Giáo hội phải làm thế để nói lại với loài người vẻ đẹp của lời dạy của Đức Giêsu, và giúp họ thay lòng đổi dạ. Nhưng trong chân lý sâu thẳm của mình, trước hết Giáo Hội hành động, và khi suy nghĩ đến hành động của mình, Giáo Hội nói và khám phá ra những gì Giáo Hội đã làm. Như thế Giáo Hội kiểm tra lại sự thật của hành động mình, và cắt nghĩa giá trị của hành động ấy. Giáo Hội làm phép rửa, một hành động huyền bí cho phép con người nhận ra mình được Cha yêu thương và được hợp nhất với Đức Giêsu, nhờ ơn sức mạnh của Thánh Thần của Đức Giêsu…,được trở nên chứng nhân của tình yêu phổ quát của Cha. Chúng ta luôn phải tái khám phá ra vẻ đẹp và sự quan trọng của phép Rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Và trong dây liên kết chặt chẽ với hành động chịu phép rửa mà Giáo Hội đã đề ra kinh Tin Kính, để cho mọi người sẽ chịu phép rửa, cùng nhau nhận ra kho tàng họ được chia sẻ không do công lệnh gì của họ. Phải luôn lặp lại lời thánh Phaolô: “Nhờ ơn thánh mà anh em được cứu chuộc, anh em chẳng có công trạng gì trong đó cả, chỉ là một ơn huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Kinh Tin Kính là bản đồ đi đường chỉ cho chúng ta thấy vẻ đẹp của thế giới mới trên bờ bến mà bí tích rửa tội đã đưa chúng ta tới. Việc tuyên xưng đức tin bắt đầu trong ngây ngất (của tâm hồn) và trong lời kinh tạ ơn.
“Hội Thánh của Thiên Chúa Ba Ngôi”. (B. Franck, trong “La Croix”, 12/2/1995, p.27).
Nếu Giáo Hội thật là một hiệp thông (koinonia), nếu từ cơ bản Giáo Hội là “dân Thiên Chúa”, “thân thể Đức Kitô và đền thờ Chúa Thánh Thần, nếu Thiên Chúa Ba Ngôi vừa là nguồn gốc vừa là khuôn mẫu của sự sống của Giáo Hội, nếu những người chịu phép (giáo sĩ, giáo dân, tận hiến) phải được đào tạo theo mẫu những liên hệ nối kết Ba Ngôi Thiên Chúa, khi ấy Giáo Hội phải cố gắng phản ảnh lên trái đất, giữa các Kitô hữu, những mối liên hệ bình đẳng hỗ tương và bác ái, mối liên hệ giữa Cha, Con và Thánh Thần. Giữa Ba Ngôi, không có trên cũng không có dưới, không có Đấng quyết định và Đấng thi hành quyết định, Ba Ngôi với nhau, hoạt động với nhau sống với nhau mà vẫn giữ được căn tính của mình và Ngôi vị riêng biệt, tuy mỗi Đấng có một sứ mệnh đặc trưng có một không hai.
Giáo Hội tự mình muốn và tự nói mình là “bức tượng thánh của Ba Ngôi”. Giáo Hội phải luôn cố gắng hướng tới để trở nên cái mà mình phải là, chứ không phải luôn làm biến dạng khuôn mặt Ba Ngôi mà Giáo Hội tự cho mình là hình ảnh.
——————————————————————————
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- Năm A
THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN TÌNH YÊU- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng : Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha : “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.
Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ để đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Xh 34, 4-6.8-9.
Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.
Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu Kitô.
Bài đọc 2 : 2Cr 13,11-13.
Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin : Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha :”Cha ơi”.
Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau ; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.
Bài Tin mừng : Ga 3,16-18.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài Cựu ước ở trên : Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước : Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này : Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau :
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự :
– Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó :
– Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói :
– Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý : Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.(D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).
* Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo :
. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
. Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
* Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán :”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)
* Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi :
Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói :”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng : thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể ? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta ? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt…(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180)
Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.
Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung :TÔI TIN”, vì đây là một mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà ! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói :
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.(Ca dao)
Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình không ? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.
Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi ? Ta chỉ có thể rút ra được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.
Bài học về yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định :”Thiên Chúa là Tình thương” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói :”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình thương nữa.
Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài người và đã cho loài người tất cả : trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người :”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.
Chúng ta biết do đức tin : Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian… cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)
Truyện : Tình yêu hiến thân.
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng :”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.
Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
Bài học về Hiệp nhất.
Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan làm phép rửa cho mình : lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ trên không trung có tiếng phán ra rằng :”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc : Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.
Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau : Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi : Ngôi nhất khác , Ngôi hai khác, Ngôi ba khác… Đức Chuá Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời… Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời… Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả mọi phương diện… Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.
Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.
Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là :”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả” : Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa : Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật..
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Truyện : Bài học từ loài ngỗng.
Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V , bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một .
Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.
Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)
Một vài thực hành.
* Kinh Sáng danh : Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc kinh Sáng Danh , ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.
* Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu nguyện :”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” . Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng : có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập gíá vì tất cả chúng ta.
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nĩi của Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ”. Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
Truyện : Tình yêu của Thiên Chúa
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo :
-Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt :
– Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
—————————————————————-
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
– Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
– Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
LỜI CHÚA
Bài đọc Cựu Ước : Xh 34,4-6.8-9
Trong đoạn sách Xuất hành này, Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là một Thiên Chúa giàu lòng thương xót :
– Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ. Nhưng họ lại phản bội Ngài đi thờ lạy tượng bò vàng. Môsê đã tha thiết nài xin Thiên Chúa tha thứ cho họ.
– Đáp lại, Thiên Chúa nói Ngài là “Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
Đáp ca : Đn 3,52-56
Đây là trích đoạn bài ca của ba trẻ trong lò lửa. Các em chúc tụng Thiên Chúa đã yêu thương che chở và giải thoát những kẻ đặt niềm tin vào Ngài.
Tin Mừng : Ga 3,16-18
Bài Tin Mừng lặp lại ý tưởng của bài đọc Cựu Ước, nhưng cho biết cụ thể hơn : Thiên Chúa đã tỏ ra Ngài là Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời.
Bài đọc Tân Ước : 2Cr 13,11-13
Thánh Phaolô rút ra hệ luận từ niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi : Kitô hữu hãy vui mừng và sống hòa thuận thương yêu nhau, bởi vì họ được Thiên Chúa yêu thương và ban cho dư đầy ân sủng.
GỢI Ý GIẢNG
Tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi có gì hay ?
Có lẽ từ trước tới nay, chúng ta nghĩ tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi quá khô khan, như một công thức toán : một Chúa ba Ngôi, ba Ngôi một Chúa !
Nhưng có đi sâu vào nội dung tín điều này thì chúng ta mới thấy chúng ta thật hạnh phúc khi Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi :
– Ngài là Cha chứ không phải là một vị thần độc đoán.
– Chúng ta thờ Ngài, nhưng không phải trong tâm tình sợ sệt, mà trong tâm tình yêu mến như Đức Giêsu, Con của Ngài.
– Ngài không ở xa chúng ta, nhưng ở ngay trong lòng chúng ta, bằng Chúa Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.
– Ngài là Ba Ngôi, nghĩa là Ngài sống tập thể, yêu thương nhau, kết hợp với nhau và luôn trao ban cho nhau. Do đó Ngài không phải là một mẫu khô cứng để ta tôn thờ, nhưng là một cuộc sống để chúng ta sống theo.
Sửa lại hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa
Lời Chúa hôm nay vẽ lên một hình ảnh Thiên Chúa rất dễ thương, có lẽ khác hẳn hình ảnh méo mó lệch lạc trong đầu chúng ta bấy lâu nay : Ngài là Thiên Chúa yêu thương, với những biểu hiện rất cụ thể của tình yêu
– Yêu thương là Cho : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian”
– Yêu thương là làm cho Sống và sống dồi dào : “… để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
– Yêu thương là Tha thứ : Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
– Yêu thương là ở chung, sống chung, đi chung : Môsê đã nài xin và được Thiên Chúa chấp nhận “Dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi”. Thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết Thiên Chúa “sẽ ở cùng anh em”.
Mầu nhiệm Ba Ngôi
Ai trong chúng ta cũng biết cầu chuyện về Thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố sức lấy một chiếc vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang. Thánh nhân đã chê cười cậu bé. Nhưng cậu đã đáp lại : việc tôi làm không đáng chê cười bằng việc Ngài muốn dùng trí khôn loài người để tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm là sự thật vượt quá tầm hiểu của trí khôn loài người. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta không thể biết tí gì về mầu nhiệm ấy. Mặc dù Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm, nhưng Thiên Chúa cũng cho chúng ta hiểu biết đôi điều về mầu nhiệm ấy :
– Ngài đã ban rất nhiều dấu chỉ trong vũ trụ thiên nhiên. Voltaire đã nói : “Chỉ cần mở mắt ra là ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Abraham Lincoln giải thích rõ hơn : “Tôi không hiểu làm sao người ta có thể là người vô thần được khi nhìn xuống mặt đất. Tôi cũng không thể hình dung được một người nào đó nhìn lên trời mà nói rằng không có Thiên Chúa”.
– Qua những trang Sách Thánh, Thiên Chúa còn cho ta biết thêm rằng Ngài có Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần ; rằng Ngài yêu thương loài người đến nỗi ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta ; rằng chúng ta được Ngài nhận làm con và có quyền gọi Ngài là Cha ; rằng chúng ta có thể nói chuyện thân mật với Ngài khi cầu nguyện ; rằng Ngài để dành sẵn hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta trong nhà Ngài… Tóm lại là Ngài yêu thương chúng ta vô cùng.
“Hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện”
Nụ hôn bình an trong Thánh lễ đã có từ thời Thánh Phaolô. Sau đó nó bị bỏ đi một thời gian. Rồi từ việc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, nó lại được tái lập.
Tại sao Giáo Hội tái lập nụ hôn bình an ? Vì đó là một cử chỉ yêu thương, đoàn kết, thông hiệp. Cử chỉ này vừa biểu lộ niềm tin của chúng ta vào một Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nhau, vừa nhắc nhở chúng ta phải sống yêu thương như Thiên Chúa chúng ta tôn thờ.
Khi hôn bình an trong Thánh lễ, chúng ta đừng thờ ơ chỉ làm cho xong một chi tiết lễ nghi phụng vụ, cũng đừng hôn nhau mà lòng còn đố kỵ nhau. Hãy hôn nhau “một cách thánh thiện” với nguyện ước sẽ hết lòng yêu thương người mình hôn theo gương mẫu tình yêu của chính Thiên Chúa.
Chuyện minh họa
Thiên Chúa mời gọi
Một tu sĩ tên là Rublev đã vẽ một bức tranh rất đặc biệt về Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi ngồi quanh một cái bàn, và trên bàn có một đĩa thức ăn. Nhưng nét đặc biệt là có một chiếc ghế trống. Chiếc ghế trống ấy ngụ ý một sự mời mọc, một sự sẵn sàng. Bàn ăn của Ba Ngôi còn một chiếc ghế trống nghĩa là Ba Ngôi sẵn sàng đón tiếp bất cứ ai đến thông chia sự thân mật và tình yêu thương của các Ngài.
Thiên Chúa ở trong ta
Một người dân gypsy đứng gần một cái giếng uống rượu. Chốc chốc ông lại nhìn xuống giếng như nhìn một người nào đó. Một cậu bé nảy giờ quan sát người gypsy này, ngạc nhiên hỏi :
– Ai ở dưới đó vậy ?
– Thiên Chúa.
– Vậy cháu có thể nhìn Chúa không ?
– Đương nhiên rồi.
Thế rồi người gypsy bế cậu bé lên để cậu nhìn xuống giếng. Cậu bé :
– Nhưng cháu chỉ thấy mặt cháu thôi.
– Đó cũng là mặt Chúa. Chúa ở trong chúng ta mà !
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu : một tình yêu sáng tạo, một tình yêu cứu độ và một tình yêu thánh hóa. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
- Trong lịch sử / nhiều khi hình ảnh của Hội Thánh bị méo mó lệch lạc / vì đời sống không gương mẫu của các kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nmọi thành viên trong đại gia đình Hội Thánh / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / mà trình bày khuôn mặt đích thực của Hội Thánh cho mọi người.
- Mỗi ngày có biết bao nỗ lực của những người có trách nhiệm / nhằm đem lại hòa bình cho thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa soi sáng / và hướng dẫn những nhà lãnh đạo các dân tộc / để họ biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / và chân thành cộng tác với hau / hầu mang lại hòa bình thực sự cho thế giới.
- Từ xưa đến nay / lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / luôn sẵn sàng hy sinh mọi sự / kể cả tính mạng của mình / và dùng tình thương để xoa dịu đau khổ của những người bất hạnh trong các trại phong / các bệnh viện tâm thần / các nhà nuôi người già / cũng như nơi các nhà nuôi trẻ mồ côi / các trẻ em đường phố / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những con người nhiệt thành ấy.
- Đời sống người kitô hữu phải phản ánh trung thực đời sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn chân thành yêu thương nhau / cũng như hiệp nhất và nâng đỡ nhau trong mọi tình huống của đời sống thường ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, Chúa đã để lại cho chúng con một điều răn mới : “Anh em hãy thương yêu nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mới này. Chúa hằng sống và hiển
————————————————————————–
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
THIÊN CHÚA TÌNH YÊU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
———————————————————————————
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI ĐƯỢC MẠC KHẢI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Sau khi mừng những mầu nhiệm long trọng như Phục sinh, Thăng Thiên của Chúa Giêsu, và Hiện xuống của Chúa Thánh Thần, Phụng vụ Giáo hội mừng mầu nhiệm Chúa Ba ngôi như đỉnh cao của mạc khải của Thiên Chúa cho con người. Mầu nhiệm Thiên Chúa là mầu nhiệm ẩn dấu từ đời đời, mầu nhiệm đáng sợ, nhưng đã được mạc khải, nhờ đó loài người thấp hèn của chúng ta được Thiên Chúa yêu thương mời gọi hiệp thông sự sống thần linh. Thiên Chúa biểu lộ tình yêu cứu độ của người qua việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa và việc ban tặng Thánh Thần Thiên Chúa cho loài người, bảo đảm cho con người sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Từ nay không một trở ngại nào dù là sự chết có thể cất đi khỏi con người tình yêu và sự sống của Thiên Chúa được ban tặng qua sự chết và phục sinh của Con một Thiên Chúa và ân sủng Thánh Thần của người Con một Thiên Chúa.
Thực vậy, hiện hữu của con người được bao bọc bằng tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa từ tạo dựng đến cứu độ. Từ tạo dựng, con người đã được mời gọi tham dự vào hiện hữu của Thiên Chúa, và Thiên Chúa còn nâng con người đến chỗ tham dự vào sự sống vĩnh cửu của chính Ba ngôi Thiên Chúa. Tiến trình mạc khải cũng chính là tiến trình mà Thiên Chúa đến với con người, làm người, chia sẻ chung một thân phận với con người để lôi kéo con người đến với Thiên Chúa. Trong tiến trình giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, đã diễn ra những lối giải thích lệch lạc trong Giáo hội khiến Giáo hội phải xác định định thức mầu nhiệm Ba ngôi Thiên Chúa đồng bản thể. Những lạc thuyết này có thể kể đến Hạ phục thuyết và Hình thái thuyết. Lạc thuyết Hạ phục diễn ra cách gay gắt vào thế kỷ thứ 4, khi linh mục Ariô ở giáo phận Alexandria giảng dạy rằng Chúa Con chỉ là Thiên Chúa được thừa nhận bởi Chúa Cha hay là Chúa Con là nghĩa tử. Chúa Con không có bản tính Thiên Chúa như là Chúa Cha, bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất, nên không thể có hiện hữu nào ngoài Thiên Chúa Cha có thể chia sẻ bản tính thần linh, dù là Ngôi Lời là Con Thiên Chúa. Một hình thức lạc thuyết nguy hiểm khác là Hình thái thuyết giảng dạy rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất, nên Chúa Con và Thánh Thần chỉ là những biểu lộ trong thời gian của Chúa Cha mà thôi. Chung qui chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Chúa Con và Thánh Thần không thực sự hiện hữu, chỉ là những biểu lộ của sức mạnh của Cha trong nhiệm cuộc cứu độ, sau đó, những sức mạnh này lại trở về với Chúa Cha.
Giáo hội đã mạnh mẽ khẳng định sự hiện hữu thực sự của Chúa Con và Chúa Thánh Thần với những công đồng Nixê (325) và Constantinốp (381) và những tín biểu đức tin này được chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính các ngày Chúa nhật. Định thức Ba ngôi đồng bản thể được Giáo hội tuyên xưng một cách bình lặng sau đó vào năm 382 tức là sau khi đã khẳng định thần tính của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và được toàn thể Giáo hội Đông phương và Tây phương đồng thanh đón nhận. Định thức này muốn khẳng định sự hiểu biết và giải thích của Giáo hội về mầu nhiệm Thiên Chúa, dựa trên những gì mà Thiên Chúa biểu lộ chính mình cho con người trong lịch sử. Chúa Con và Thánh Thần thực sự hiện hữu từ đời đời nơi Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa phải thực sự vốn là như thế theo như những gì Thiên Chúa biểu lộ cho con người trong lịch sử, nếu không thì con người không thực sự được cứu độ. Chúa Con được sinh hạ từ vĩnh cửu nơi Thiên Chúa và Thánh Thần là tình yêu và sức mạnh trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con. Hồng ân tình yêu, sức mạnh và sự sống này, vốn là Thánh Thần nơi Thiên Chúa, không chỉ khép kín nơi Chúa Cha và Chúa Con mà được thông truyền cho loài người chúng ta bởi Chúa Con.
Bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành chương 34 cho chúng ta cảm nghiệm phần nào mầu nhiệm Thiên Chúa mạc khải. Môisen là vị lãnh tụ do thái, đã được vinh dự đón nhận mạc khải của Thiên Chúa. Bấy giờ Môisen lên núi vào tảng sáng và nhận được một mạc khải : Thiên Chúa hiện ra với Môisen và ông nghe những tiếng tung hô « Thiên Chúa thương xót, nhân từ, bao dung, đầy ân nghĩa và thành tín ». Bấy giờ, Môisen đã cầu nguyện với Chúa, « xin Thiên Chúa ở với ông và dân tộc ông, nâng đỡ, xóa bỏ mọi tội ác của họ và nhận họ làm gia nghiệp của Chúa ». Tường thuật này đánh dấu cách quyết định sự dấn thân của Thiên Chúa đối với Dân Chúa chọn. Israel được vinh dự làm dân Chúa chọn, được Thiên Chúa ở với họ, nâng đỡ họ và chọn họ làm dân riêng của Chúa. Israel cũng được chính Chúa cho biết Thiên Chúa là Đấng thành tín, nhân từ, tha thứ mọi lỗi lầm của họ. Vì thế họ hãy vững vàng tin tưởng để dấn thân theo Thiên Chúa. Mạc khải này ở núi Sinai cho Môisen chưa phải là trọn vẹn, nhưng dù sao cũng là bước đầu trong tiến trình mạc khải tiệm tiến của Thiên Chúa cho con người và xác định tương quan thân mật giữa Thiên Chúa và Israel là dân Chúa chọn.
Bài Tin mừng theo Phúc âm Gioan cho chúng ta những hiểu biết quyết định hơn qua câu chuyện trao đổi giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô. Nicôđêmô là một người do thái, ông chân thành tìm đến nói chuyện với Chúa Giêsu ban đêm. Và điều Chúa Giêsu muốn nói với ông là hãy cố gắng đón nhận và tin vào người Con mà Thiên Chúa gửi đến. Tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi việc sai người Con một Thiên Chúa đến với loài người, không phải để lên án họ, nhưng là để cho họ được sống. Sự dấn thân của Thiên Chúa với con người không chỉ là ủng hộ hay nâng đỡ xa xa, nhưng là đến ở với con người một cách thực sự để cho con người có thể thấy người Con này của Thiên Chúa. Dầu vậy, Thiên Chúa cũng đòi hỏi con người một quyết định và dấn thân chọn lựa. Con người phải chọn lựa tin vào người Con này của Thiên Chúa để được sống đời đời. Tin và đón nhận người Con của Thiên Chúa là tin và đón nhận chính Thiên Chúa.
Trong bài đọc hai từ thư thứ hai gửi giáo đoàn Corintô chương 13 của thánh Phaolô, chúng ta có thể thấy lời chúc của thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn. Lời chúc này lại là một định thức Ba ngôi, làm cho chúng ta hiểu được tầm vóc của nhận thức của thánh tông đồ và của Giáo hội thời kỳ đầu. Chính nhận thức về mầu nhiệm Chúa Ba ngôi này đã được đúc kết và tuyên xưng trong lời chào chúc này, muốn tuyên xưng rằng tất cả đều phát xuất từ tình yêu của Chúa Cha, được biểu lộ cho chúng ta qua người Con một của Thiên Chúa, nhập thể chết và phục sinh để ban ơn cứu độ và trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, vốn là Thần khí Thiên Chúa đang nối kết và làm sinh động cộng đoàn tín hữu. Cả Ba ngôi Thiên Chúa cùng hành động hiệp nhất trong công trình cứu độ vì con người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi không phải chỉ là một định thức thần học lý thuyết, nhưng định thức thần học này để nhắc nhở Giáo hội và mỗi người tín hữu, chúng ta thực sự được hiểu biết Thiên Chúa, vốn là mầu nhiệm ẩn kín từ muôn thuở. Sự hiểu biết này không chỉ là nhận thức trí thức, nhưng là sự hiệp thông sự sống thần linh. Thiên Chúa không phải chỉ đóng kín trong vinh quang vĩnh cửu mà từ đời đời, Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa đến với con người chúng ta và lôi kéo chúng ta vào sự hiệp thông sự sống thần linh của Thiên Chúa, nhờ bởi Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
——————————————————————————————
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
NHÂN DANH CHUA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa.
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Mục đích của Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên : « Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta » ( Ca nhập lễ).
Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết : « Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được ».
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá : Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người « kitô hữu », nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
– Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
– Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được « vẽ » và « ghi » dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
– Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
– Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
– Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc : « Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần ». Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với « tha nhân ».
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang : ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được « nâng đỡ » bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái : « yêu tha nhân là yêu chính Chúa ».
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không ?
Hai điều cần thiết : là mến Chúa và yêu người ». Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần : “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
————————————————————————————–
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
TÌNH YÊU DIỆU VỜI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Một sinh viên vô thần nói với một vị linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi là “mầu nhiệm Ba Ngôi”. Phải hiểu thế nào kiểu nói “Thiên Chúa có một bản tính nhưng ba ngôi vị”? Một mà ba, ba mà một! Thật khó hiểu, nếu không nói là phi lý!.
Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang sống kinh nghiệm tình yêu?
Ủa! Sao cha hỏi lại thế ? Đúng là tôi đang yêu thật!
Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải có những gì?
Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên! Tự ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!
Đúng lắm! Nhưng tình yêu hướng đến cái gì?
Hướng đến sự hiệp nhất! Tất cả phải nên một! Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống. Tình đồng chí, tình bằng hữu… hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!
Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao giờ đạt được chăng?
Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng. Ví dụ, những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì “anh nói em nghe, em nói anh nghe”, nhưng năm sau thì “cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!”. Trong một tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.
Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.
Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?
Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị có chân thật và bền vững không?
Thưa không! Tình yêu chúng tôi phải chảy tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là tình yêu mình trong người bạn đời của mình. Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải rộng cho mọi người chung quanh nữa!
Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi. Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau :Đố ai biết lúa mấy cây,Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.Đố ai quét sạch lá rừng,Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định : Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Kinh thánh mạc khải cho biết “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Mà nếu Chúa là tình yêu, thì tình yêu không thể hiện hữu một mình. Yêu là phải cho đi, phải san sẻ; và yêu cũng phải là đón nhận.Thánh Augustinô đã ví Chúa Cha là nguồn mạch, là điểm phát xuất của Tình Yêu; Chúa Con là hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu.
Tình yêu xuất phát từ Chúa Cha, đến với Chúa Con, qua Chuá Thánh Thần. Trong mầu nhiệm tình yêu, Cha trao tất cả cho Con; Con dâng hiến tất cả cho Cha; và Thánh Thần là sự hiệp thông của trao ban và lãnh nhận hai chiều giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha không hiện hữu cho chính mình, nhưng cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Chúa Con không hiện hữu cho mình, nhưng cho Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện hữu vì Chúa Cha và Chúa Con.
Qua con người và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận rằng Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ, giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu. Ngài có thể làm tất cả vì Ngài Toàn Năng, nhưng đúng hơn, Ngài chỉ có thể làm những gì mà tình yêu có thể làm, và Ngài không thể làm những gì trái với tình yêu, vì bản chất của Ngài là yêu thương.
Không ai lý giải cặn kẽ được tình yêu nhưng vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài nên cứ nhìn vào tấm gương tình yêu phản chiếu nơi con người, ta có thể bập bẹ đôi điều về Thiên Chúa :
Yêu là ra khỏi mình để hướng tới người khác :
Nói đến yêu là chúng ta nói đến người thứ hai, thứ ba, là nói đến một đối tượng khác với chúng ta. Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu mà Ngài chỉ yêu một thân mình Ngài thì đó là ích kỷ, và như vậy không phải là Thiên Chúa của tình yêu. Nếu “Thiên Chúa là Tình Yêu” thì Thiên Chúa ấy không cô độc một mình. Từ đời đời Ngài đã hướng về Chúa Con, đã yêu thương Chúa Con bằng Tình Yêu khôn tả là chính Chúa Thánh Thần.
Yêu là chấp nhận sự khác biệt của nhau :
Nếu chúng ta chỉ yêu cái gì giống mình, cái gì hợp với sở thích của mình, chỉ yêu những người tốt bụng thì không phải là yêu người mà chỉ là yêu mình, là chúng ta đã bóp chết tình yêu, không làm nảy nở tình yêu. Yêu thương là chấp nhận cái hay lẫn cái dở, sự giàu có lẫn sự nghèo nàn của người mình yêu vì họ khác với mình.Chúa Cha yêu Chúa Con, nghĩa là Chúa Cha khác với Chúa Con. Chúa Con phải là một Ngôi Vị khác với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa mới là Tình Yêu.
Yêu nhau là muốn nên một với nhau :
Càng yêu nhau thì càng hài hòa trong chính sự khác biệt, vì “yêu nhau củ ấu cũng tròn”. Chúng ta vẫn thường nói về tình yêu vợ chồng: “Ta với mình tuy hai mà một”. Bản chất con người là giới hạn nên sự hiệp nhất của con người không toàn vẹn, song quyền năng vô hạn của Thiên Chúa làm cho sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là trọn vẹn tuyệt đối. Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau hết mình, yêu đến quên mình nên đã trở nên một trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần.
Như thế chỉ trong tình yêu, chúng ta mới dễ hiểu : tự bản chất, Thiên Chúa không thể là một ngôi vị đơn độc; và rằng chỉ trong tình yêu ‘chín bỏ làm mười’, chúng ta mới hiểu được Thiên Chúa vừa là ba, lại vừa là một.
Chúng ta có thể quan niệm mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một gia đình: Gia Đình Thiên Chúa. Gia đình tuy có ba thành phần khác nhau, song luôn luôn hiệp nhất với nhau. Yếu tố nòng cốt để có sự hiệp nhất trong gia đình chính là tình yêu, và tình yêu làm nên hạnh phúc, mà bản chất của Thiên Chúa lại là Tình yêu. Chúng ta cũng thuộc về Gia Đình Thiên Chúa khi sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, sống yêu thương là sống ở trong Thiên Chúa; và đó là Nước Trời, vì “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Gia đình yêu thương là làm cho hạnh phúc ngắn hạn của trần gian này được biến đổi trở thành hạnh phúc vĩnh cửu trong Gia Đình Thiên Chúa (x. Mầu nhiệm Ba ngôi, Giáo lý GP Đà lạt).
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.Ba Ngôi là một gia đình.Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống, đó là tình yêu thần linh.Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.Với chúng ta, sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua Thánh Thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẻ chén hiệp thông của Ba Ngôi,chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).
Người tín hữu đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Đức Hồng y Henry de Lubac diễn tả: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa,tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu,không gặp mâu thuẫn và đau khổ.Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x.Rm 8,15), em của Chúa Con (x.Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x.1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế GH 4). Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong gia đình, cha mẹ, con cái yêu thương nhau thì càng hiệp nhất nên một. Tình yêu là dây liên kết mọi người nên một gia đình hạnh phúc ấm êm. Gia đình là nơi sống và diễn tả huyền nhiệm Ba Ngôi rõ nét nhất.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, sống tình yêu thương trong cuộc sống hàng ngày của mình.
—————————————————————————-
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI – NĂM A
TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG – Lm. Trần Ngà
Sau nhiều năm trời mòn mỏi đợi trông, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc có con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả niềm hy vọng của Cụ. (Sáng thế 22, 1-18)
Thế mà, oái oăm thay, Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con quý yêu để tế lễ cho Ngài. Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.
Phải tự tay sát tế đứa con một rất đỗi yêu dấu là một nỗi đau thương làm tan nát cõi lòng, thế nhưng vì tình thương và lòng thần phục đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham đã chấp nhận hy sinh.
Tuy nhiên, Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha già phải gánh chịu một nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trao ban Người Con Một
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay (Gioan 3, 16-18) cũng đề cập đến một người Cha khác, đó là Thiên Chúa, đã thực hiện một hy sinh lớn lao hơn nhiều, chỉ vì tình yêu thương.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh trầm luân muôn đời vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Người Con Một yêu dấu của mình, cho Con Một chết thay cho nhân loại lầm than và để cho những ai tin vào Con của Ngài thì được sống muôn đời:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao oan nghiệt của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Thiên Chúa, nhưng đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại và để ban lại cho muôn dân được sống đời đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã ban Người Con Một…
Là một nghịch lý
Người tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang… là điều dễ chấp nhận; Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người. Chỉ vì quá đỗi yêu thương loài người, Thiên Chúa mới có thể hy sinh đến thế.
“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đền đáp hồng ân
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng. Người nào quên đền ơn đáp nghĩa sẽ bị xem là kẻ không biết điều.
Thế thì khi được Chúa Trời ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giê-su hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn trời biển đó chưa?
Để đền đáp phần nào tình thương bao la của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giê-su đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự. Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “Đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.
———————————————————————————————–
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
TRÁI TIM TÌNH YÊU VÀ SỰ SỐNG- Trích Logos A
Trong một cuộc thi vẽ tranh dành cho các em học sinh, ban giám khảo của nhà trường đưa ra chủ đề : “Em hãy vẽ một trái tim hoàn hảo, kèm theo lời thuyết minh”.
Sau khi các em học sinh vẽ xong, các bức tranh được treo lên. Đa số các bức tranh vẽ thật xuất sắc. Các em vẽ trái tim đúng như những gì các em đã học biết, với những lời thuyết minh chính xác. Cùng với màu sắc, các em còn tô vẽ trái tim rất giống trái tim thật.
Tuy nhiên, ban giám khảo rất ngạc nhiên khi đứng trước một bức tranh kỳ lạ : trên bức tranh là một trái tim chắp vá nhiều mảnh và có nhiều vết sứt sẹo. Phía dưới là hàng chữ thuyết minh như sau : “Trái tim hoàn hảo là trái tim biết cho đi và nhận lãnh. Trái tim đẹp nhất là trái tim biết xẻ ra để trao tặng cho nhau, là trái tim mang vết tích tình yêu”.
Xét về mặt mỹ thuật và ý nghĩa, bức tranh đó đã được ban giám khảo chấm giải nhất.
Ba Ngôi, trái tim được chia sẻ.
Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta biết rằng : Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Tuy nhiên, đây cũng là một mầu nhiệm cao cả, vượt trên trí hiểu của loài người.
Vì thế, nhờ mạc khải, ta mới biết Thiên Chúa Ba Ngôi. Người ta dùng nhiều hình ảnh để diễn tả bản tính cũng như đời sống nội tại của Ba Ngôi. Nhưng để nói về hoạt động và tương quan giữa Ba Ngôi và con người, chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh của một trái tim : một trái tim hoàn hảo, trái tim được chia sẻ cho nhân loại.
Thánh Gioan đã định nghĩa : “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16). Trái tim là biểu tượng của tình yêu và sự sống. Vì thế, qua hình ảnh và hoạt động của trái tim, chúng ta có thể nhận ra phần nào dung mạo và hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một cách tượng trưng, trái tim thường được coi là trung tâm phát xuất tình yêu và sự sống nơi cơ thể con người. Vì thế, chúng ta mượn hình ảnh trái tim để diễn tả hoạt động và tương quan giữa Ba Ngôi và con người : Cha là nguồn mạch tình yêu và sự sống, được trao ban tất cả cho con người qua Con là dòng máu lưu chuyển khắp cơ thể. Thánh Thần chính là nhịp đập con tim, làm cho dòng máu được truyền đi khắp châu thân.
Con người biết yêu thương và sống được khi trái tim còn đập, để đưa dòng máu đi nuôi dưỡng toàn thân. Cũng thế, từ Thiên Chúa Ba Ngôi luôn tuôn trào tình yêu và sự sống cho con người. Ngày nào con người tách lìa khỏi đời sống Ba Ngôi, con người sẽ mất khả năng yêu thương và không thể tồn tại.
Ba Ngôi, nguồn mạch tình yêu và sự sống.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, đó là lời mạc khải sâu sắc nhất về tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa thật cao cả và con người lại quá thấp hèn. Khi con người không thể với lên đến Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã cúi xuống với con người. Người đã xóa bỏ khoảng cách mà con người không thể vượt qua, để đến với con người qua mầu nhiệm Nhập Thể. Thiên Chúa đã làm người để con người có thể đến với Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu của Người. Thiên Chúa đã ban Con Một Người, để qua Người Con ấy, con người có thể yêu mến Thiên Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là tự nơi Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn gốc của mọi tình yêu. Vì tình yêu, Chúa Cha sinh ra Chúa Con và trao cho Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình. Sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa Thánh Thần. Vì thế, trong Ba Ngôi, tình yêu luôn được trao hiến, được đón nhận trong sự hiệp thông sâu thẳm.
Đối với con người, trái tim là biểu tượng của tình yêu. Từ trái tim xuất phát ra sự rung động khiến con người luôn mong muốn yêu và được yêu. Cũng vậy, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi không tự đóng kín nơi bản thân mình, nhưng vượt qua mọi ranh giới, lan tỏa đến khắp nơi và ấp ủ muôn loài. Thiên Chúa Ba Ngôi thật gần gũi với con người, trao ban tình yêu và thăng hoa con người.
Đối với con người, trái tim còn là biểu tượng của sự sống. Từ trái tim, dòng máu truyền đi khắp cơ thể, đem sự sống đến cho con người. Trái tim không thể lưu giữ dòng máu lại cho riêng mình, nhưng luôn cho đi và tiếp nhận trong hệ tuần hoàn của sự sống. Cũng vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, luôn tuôn trào ra cho nhân loại. Nếu gắn chặt đời mình vào đời sống Ba Ngôi, con người sẽ được sống và sống dồi dào.
Sống mầu nhiệm Ba Ngôi.
Nơi cơ thể con người, những chi thể mà mạch máu không lưu thông được, sẽ bị hoại tử và thối rữa. Cũng vậy, nếu tâm hồn ta không tiếp nhận sự sống Ba Ngôi, tâm hồn ta sẽ héo tàn. Từ nguồn mạch tình yêu và sự sống của Thiên Chúa, ta hãy để cho Đức Kitô hòa nhập vào cuộc đời ta, qua nhịp đập của Chúa Thánh Thần. Có như thế, chúng ta mới được thăng tiến trong tình yêu và sự sống của Thiên Chúa.
Ông Môisen đã cầu khẩn cùng Thiên Chúa, để Người luôn đồng hành với ông và ban sức mạnh cho ông trước những thử thách (Bài đọc I, trích sách Xuất Hành). Chúng ta cũng hãy xin Thiên Chúa Ba Ngôi luôn đi cùng chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, nâng đỡ và ban thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những thử thách hàng ngày.
Mặt khác, để sống mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy thể hiện tình yêu Ba Ngôi ngay trong cuộc sống gia đình, như lời thánh Phaolô khuyên bảo : “Anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và hòa thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn mạch sự bình an và tình yêu sẽ ở với anh em” (Bài đọc II, trích thư thứ 2 Côrintô).
Như một trái tim vĩ đại, luôn có đủ chỗ cho mọi người, đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa luôn mở rộng để đón nhận mọi người chúng ta. Chúng ta hãy đến với Thiên Chúa Ba Ngôi qua các thánh lễ, các giờ kinh nguyện, để được Người ấp ủ và yêu thương.
Có một tu sĩ người Nga tên là Rublev đã vẽ một bức tranh rất đặc biệt, diễn tả hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Bức tranh vẽ ba người ngồi quanh một cái bàn, trên bàn có một đĩa thức ăn. Điều đặc biệt là tại bàn ăn có một chiếc ghế trống. Chiếc ghế trống tượng trưng cho lời mời gọi tha thiết của Ba Ngôi. Ba Ngôi sẵn sàng đón tiếp bất cứ ai, để chia sẻ tình yêu và sự sống cho họ.
Mỗi ngày, khi làm dấu thánh giá, ta hãy nhớ rằng : Thiên Chúa Ba Ngôi luôn dành một chỗ trống cho ta trong trái tim yêu thương của Người.
—————————————————————————————–
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- Năm A
HUYỀN NHIỆM TÌNH YÊU- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của thánh Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng được xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần dà với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu”. Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Phong hủi! Phong hủi!”
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
– Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
– Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
– Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
– Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
– “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!”
Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm tình thương cho anh em của mình. Amen.
———————————
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN- CHÚA BA NGÔI- NĂM A
BA NGÔI, MẦU NHIỆM TÌNH YÊU- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Trong một lớp thần học kia, sau một giảng khoá về Chúa Ba Ngôi, cha giáo phụ trách đã hỏi: “Anh em có hiểu gì không?”. Cả lớp hầu như đồng thanh đáp: “Thưa cha, hiểu.”. Thế là cha giáo liền nói: “Vậy là anh em giỏi hơn tôi rồi. Tôi chẳng hiểu gì cả”. Câu trả lời của cha giáo xem ra có vẻ ngược đời, nhưng qua đó, ngài muốn nói: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng kính hôm nay vượt quá lý trí của con người. Với lý trí hữu hạn của con người, chúng ta không thể đạt thấu mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Tuy trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhưng với con tim và với ơn Chúa mạc khải, chúng ta có thể phần nào cảm nghiệm được mầu nhiệm này. Thiên Chúa đã dùng chính Con của Ngài để tỏ bày mầu nhiệm này cho chúng ta. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ; Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1, 18). Vâng chính Chúa Giêsu đã đến trong thế gian và mạc khải cho ta biết về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và đó là mầu nhiệm của tình yêu.
Vâng, Lời Chúa hôm nay đã vẽ lên một hình ảnh Thiên Chúa rất dễ thương, có lẽ khác hẳn hình ảnh méo mó lệch lạc trong đầu chúng ta bấy lâu nay: Ngài là Thiên Chúa yêu thương, với những biểu hiện rất cụ thể của tình yêu .
Có lẽ từ trước tới nay, chúng ta nghĩ tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi quá khô khan, như một công thức toán học: một Chúa ba Ngôi, ba Ngôi một Chúa !
Nhưng có đi sâu vào nội dung tín điều này thì chúng ta mới thấy chúng ta thật hạnh phúc khi Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi :
– Ngài là Cha chứ không phải là một vị thần độc đoán.
– Chúng ta tôn thờ Ngài, không phải trong tâm tình sợ sệt, mà trong tâm tình yêu mến như Đức Giêsu, Con của Ngài.
– Ngài không ở xa chúng ta, nhưng ở ngay trong lòng chúng ta, bằng Chúa Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.
– Ngài là ba Ngôi, nghĩa là Ngài sống tập thể, yêu thương nhau, kết hợp với nhau và luôn trao ban cho nhau. Do đó Ngài không phải là một mẫu khô cứng để ta tôn thờ, nhưng là một cuộc sống để chúng ta sống theo.
Yêu thương là trao ban
Một trong những đặc điểm của tình yêu là trao ban. Hai người yêu nhau không thể không tặng nhau thứ gì. Tình yêu của người cha, người mẹ được thể hiện qua tấm bánh, cái kẹo cho con mỗi khi đi xa về. Giữa hai người nam nữ đó là tấm thiệp hay một món quà nho nhỏ, xinh xinh nhân một ngày kỷ niệm. Đậm hơn họ có thể trao cho nhau chiếc nhẫn, cái hôn. Khi đến cao điểm yêu thương thì họ tặng luôn cho nhau trái tim và cuộc đời. Chính qua món quà được trao tặng, người ta nhận ra được tình cảm của nhau. Với món quà được trao ban, người ta thể hiện tấm lòng của mình đang hướng về người mình yêu. Vì yêu thương, cha mẹ có thể hy sinh sức khoẻ, thời giờ của mình cho con cái.
Phải, yêu thương là cho đi. Càng yêu nhiều, người ta càng cho nhiều. Càng yêu hết lòng, người ta càng cho đi những gì là quý giá nhất của mình. Tương tự như thế: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian”. Vì yêu chúng ta, Ngài đã cho chúng ta điều quý giá nhất của Ngài, đó chính là Người Con Một yêu dấu của Ngài, hay có thể nói, cùng với Người Con Một của mình, Thiên Chúa đã trao ban chính bản thân Ngài cho chúng ta, và đó chẳng phải là một minh chứng hùng hồn cho tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người chúng ta sao? Và cùng với Người Con đó, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được thông phần sự sống của Ngài như lời Đức Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “… để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”
Yêu thương là tha thứ và ở cùng:
Khi yêu ai, người ta khát mong được gặp gỡ, được ở cùng và trở nên một với người mình yêu. Cũng thế, tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã lên đến tột đỉnh khi Ngài hạ mình đến ở với chúng ta trong thân phận con người (x. Ga 1, 14). Ngài sẵn sàng tha thứ những bội bạc bất trung của chúng ta để cùng đồng hành với chúng ta. Bài sách Xuất hành mà chúng ta vừa nghe là một thí dụ điển hình, mặc cho những phản bội, ngông cuồng của dân Do Thái, cuối cùng Thiên Chúa vẫn cùng đi với họ. Ngài tự ràng buộc với họ bằng giao ước Sinai, qua đó, Ngài nhận họ làm dân của Ngài và Ngài làm Chúa của họ. Thiên Chúa quả thật, là Đấng “thương xót và từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành”. Tình yêu của Thiên Chúa thật vĩ đại. Tình yêu ấy vượt trên cả tội lỗi của chúng ta.
Sống mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi:
Khi mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, chắc hẳn Thiên Chúa chẳng mong muốn gì hơn là từng người chúng ta cũng sống yêu thương theo khuôn mẫu của Ba Ngôi. Ngài muốn chúng ta cũng biết sống tình yêu vị tha đối nhau. Để thể hiện tình yêu đó, Giáo hội đã mời gọi từng người chúng ta trao ban bình an cho nhau, trong phần chuẩn bị hiệp lễ.
Nụ hôn bình an trong Thánh lễ đã có từ thời Thánh Phaolô như trong bài đọc hai chúng ta vừa nghe: “Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện”. Sau đó nó bị bỏ đi một thời gian. Rồi từ việc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, nó lại được tái lập.
Vì thế, khi chào chúc bình an trong Thánh lễ, chúng ta đừng thờ ơ chỉ làm cho xong một chi tiết lễ nghi phụng vụ, cũng đừng chúc bình an cho nhau mà lòng còn đố kỵ nhau. Hãy chào nhau “một cách thánh thiện” với nguyện ước sẽ hết lòng yêu thương người mình chào chúc theo gương mẫu tình yêu của chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và hòa thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và tình yêu, sẽ ở cùng với anh em”.
Nói đến đây tôi nhớ một bức tranh rất đẹp vẽ về Chúa Ba Ngôi của tu sĩ Rublev. Trong bức tranh đó, Ba Ngôi ngồi quanh một cái bàn, và trên bàn có một đĩa thức ăn. Nhưng nét đặc biệt là có một chiếc ghế trống. Chiếc ghế trống ấy ngụ ý một sự mời mọc, một sự sẵn sàng. Bàn ăn của Ba Ngôi còn một chiếc ghế trống nghĩa là Ba Ngôi sẵn sàng đón tiếp bất cứ ai đến thông chia sự thân mật và tình yêu thương của các Ngài.
Chớ gì tất cả chúng ta đều có mặt để ngồi vào bàn ăn của Ba Ngôi, để được chia sẻ tình yêu và sự sống của Ba Ngôi. Để rồi đến lượt mình, từng người chúng ta cũng sẵn sàng mở rộng lòng mình để đón nhận trong tình yêu tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc: từ trong gia đình cho đến khu xóm; trong giáo xứ và cả nơi chúng ta làm việc.
Cuối cùng để kết thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lời của thánh Phaolô trong bài đọc hai để cầu chúc cho anh chị em: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”. Amen.