CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HỨA BAN THẦN KHÍ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 6
TUÂN GIỮ CÁC ĐIỀU RĂN CỦA THẦY- Lm. FX Vũ Phan Long, OFM 11
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
YÊU MẾN VÀ GIỮ LỜI CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 30
CUỘC SỐNG MỚI CỦA TÍN HỮU TRONG CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 43
SỰ SỐNG MỚI – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 51
NGÔI LỜI TỎ TÌNH THIÊN CHÚA- PM. Cao Huy Hoàng. 55
YÊU MẾN THẦY THÌ HÃY GIỮ CÁC GIỚI RĂN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 61
LỜI CHÚA CĂN DẶN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 65
HÃY VÌ CHÚA MÀ YÊU MẾN THA NHÂN – Lm. Trần Ngà. 71
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU- Lm.Giuse Hoàng Kim Toan. 74
NHỮNG NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG- Trích Logos A.. 79
——————————————————–
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả.
Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa!
1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa!
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 3, 15-18
“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Đức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All. – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – All.
PHÚC ÂM: Ga 14, 15-21
“Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
HỨA BAN THẦN KHÍ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x. 15, 10).
“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa: Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).
“Và Ngài ở trong các con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.
“Ta sẽ không bỏ các con mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.
“Ai yêu mến Ta, sẽ được Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga 4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.
KẾT LUẬN
Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
-Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ… Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.
-“Thần khí… mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn, một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.
-“Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
-Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.
-Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
——————————————————
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
TUÂN GIỮ CÁC ĐIỀU RĂN CỦA THẦY– Lm. FX Vũ Phan Long, ofm
Tình yêu không hệ tại các lời nói, các tình cảm hoặc các kỷ niệm, nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng và bước theo.
Ngữ cảnh
Bản văn chúng ta đọc hôm nay cũng thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (Ga 13,31–14,31), tại điểm c triển khai thứ năm (Ga 14,15-24; xem bốn điểm trước: 13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14).
Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu hứa tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
-Thần Khí sự thật đến (14,15-17);
-Đức Giêsu đến (trở lại) (14,18-21).
Mở đầu và kết luận là hai câu nói về tình yêu đối với Đức Giêsu và sự cần thiết phải đi theo các giới răn của Người (c. 15 và c. 21).
Vài điểm chú giải
– giữ các điều răn (15): “Giữ” (têreô) có nghĩa là “chu toàn”, “thực hành”. Ở đây và ở c. 21, Đức Giêsu nói đến “các điều răn” (số phức), ngược lại với “điều răn mới” (số đơn) ở 13,34 (x. 15,10.12). Các điều răn của Người không phải chỉ là những giáo huấn về luân lý, mà là cả một lối sống trong tình hiệp thông yêu thương với Người. Ở đây chúng ta ghi nhận có một tiếng vọng của “điều răn lớn” của Dnl 6,4tt ở đây: các từ ngữ của đoạn văn này dựa vững chắc trên sách Đnl. Chúng ta đã thấy điểm giáo lý này trong Ga 5,41-44 và 8,41t: những ai yêu mến vì Thiên Chúa duy nhất chân thật, thì cũng yêu mến Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến; còn nếu họ từ chối cả hai tình yêu ấy, thì họ vẫn là những kẻ không tin (“con hoang”). Ở Ga 14,15tt, cũng vẫn một chiều hướng giáo lý như thế.
– Người sẽ ban cho (16): Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, điều này được diễn tả bằng hai kiểu nói: “Chúa Cha sẽ sai đến” (14,26) và “Thầy sẽ sai đến” (15,26; 16,7). Động từ “(ban) cho” (didômi) thường được Tân Ước nối kết với Chúa Thánh Thần (x.Rm 5,5), do đó “ân huệ” (dôrea, gift) đã trở thành một tên gọi của Thánh Thần (“ân ban Thánh Thần” = Thánh Thần là một ơn: x. Cv 2,38; 8,20; 10,45; 11,17).
– một Đấng Bảo Trợ khác (16): “Vị bảo trợ” (paraklêtos) là từ ngữ được dùng tại tòa án, có nghĩa là người đứng bên cạnh bị cáo, bên cạnh người đang gặp khó khăn. TM IV trình bày vụ kiện giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Đức Giêsu và những kẻ chống đối Người, giữa thế gian và các môn đệ, nhưng Đấng Bảo Trợ soi sáng hướng dẫn các môn đệ khi các ông ra trước tòa thế gian, chứ Người không đối đầu trực tiếp với thế gian. Những công việc của Người là “ở lại”, “ở với” và “ở trong” các môn đệ (14,16-17). Người dạy các ông mọi điều và giúp các ông nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói (14,26). Người làm chứng cho Đức Giêsu trước các môn đệ (15,26). Người làm cho các môn đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11). Người dẫn các môn đệ đi trong chân lý toàn vẹn (16,13). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các ông những gì là của Đức Giêsu (16,14).
Tuy bản văn Hy-lạp allon paraklêton có thể dịch là “một Đấng khác, một Đấng Bảo Trợ” [LÊ MINH THÔNG đề nghị chuyển ngữ là “Đấng Pa-rác-lê”, vì dịch sang tiếng Việt không diễn tả hết ý nghĩa (Tin Mừng thứ tư song ngữ Hy-lạp – Việt [2008] 15)], nhưng truyền thống chấp nhận kiểu dịch “một Đấng Bảo Trợ khác”. Vậy, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ đầu tiên. Thư 1 Ga (2,1) giới thiệu Đức Giêsu như là Đấng Bảo Trợ có vai trò chuyển cầu trước nhan Chúa Cha sau khi sống lại, nhưng Ga cũng hàm ý Đức Giêsu đã là một Đấng Bảo Trợ khi Người thi hành sứ vụ trên mặt đất. Thần Khí sự thật là một Đấng Bảo Trợ chính là vì Người hoàn tất công trình của Đức Giêsu.
– Thần Khí sự thật (17): Trong cụm từ to pneuma tês alêtheias, alêtheias là thuộc-cách chỉ đối tượng (objective genitive): Thần Khí thông ban sự thật (x. 16,13). Nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa thuộc-cách đồng-chức-ngữ (appositive genitive): Thần Khí là sự thật (1 Ga5,6[7]). Đây không phải là một mô tả về yếu tính của Thần Khí.
– Người luôn ở giữa anh em (17): Có Thánh Thần ở với và nhận biết Người, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
– mồ côi (18): Kiểu nói này không xa lạ với người đương thời: người ta quen nói là môn đệ của các kinh sư bị mồ côi khi các vị này qua đời. Kiểu nói này phù hợp với ngôn ngữ của Đức Giêsu trong Diễn từ cáo biệt, vì Người gọi các môn đệ là “những người con bé nhỏ của Thầy” (13,33).
– chẳng bao lâu nữa (19): Công thức này không cho biết gì về quãng thời gian dài ngắn cả, vì nó được dùng cả ở 7,33 để nói rằng Đức Giêsu còn sống sáu tháng, lẫn ở đây khi mà Đức Giêsu chỉ còn sống có vài giờ. Đây là một công thức của Cựu Ước được các ngôn sứ dùng để diễn tả niềm lạc quan khi thấy rằng chẳng còn bao lâu nữa rồi ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến (x. Is 10,25; Gr 51,33).
– Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống (19): Được thấy Đức Giêsu Phục Sinh và được sống, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
– Ngày đó (20): Công thức này xuất hiện 3 lần trong TM Ga (ở đây, và 16,23.26). Mặc dù trong Cựu Ước, “ngày đó” là một công thức truyền thống để mô tả lúc Thiên Chúa can thiệp lần cuối cùng (x. Mc 13,32), trong TM Ga, thành ngữ này dường như được áp dụng cho cuộc sống của người Kitô hữu đã đạt được nhờ “giờ” (= cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh) của Đức Giêsu.
– Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến (21): Trong cách trình bày nhị nguyên của Ga, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người được diễn tả bằng việc ban tặng Con của Ngài, nếu người ta quay lưng lại với Người Con, người ta không có tình yêu của Thiên Chúa.
Ýnghĩa của bản văn
Các môn đệ cảm thấy đau lòng bởi cuộc chia ly. Các ông tự hỏi là làm thế nào các ông có thể tiếp tục sống với Đức Giêsu nếu Người ra đi. Đức Giêsu hứa là Người sẽ không bỏ các môn đệ một mình, không người che chở, không ai hướng dẫn. Người loan báo có một sự trợ giúp khác sẽ đến, đó là Thần Khí sự thạt (14,15-17) và chính Người cũng sẽ đến (14,18-21). Người tuyên bố rằng tất cả những giáo huấn Người đã ban cho các ông từ trước đến nay sẽ không bị lỗi thời, nhưng vẫn có giá trị mãi mãi. Chỉ người nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha.
* Thần Khí sự thật đến (15-17)
Ở chỗ khởi đầu (c. 15) và ở cuối bản văn này (c. 21), Đức Giêsu nói đến tình yêu đối với Người và sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người. Trong nỗi đau đớn các môn đệ cảm thấy khi phải xa cách Thầy, các ông đã tỏ lộ tình yêu thương đối với Đức Giêsu. Nay các ông được biết là các ông phải chứng tỏ là các ông chân thành ước muốn có Đức Giêsu hiện diện và được hiệp thông với Người, bằng cách tuân giữ các điều răn của Người. Chỉ có lời khuyên yêu thương nhau được minh nhiên gọi là điều răn (x. 13,34). Nhưng cả những gì Đức Giêsu làm, trong lời nói và hành động, là lời nhắc và lời khuyên cho loài người chúng ta. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là lấy đức tin mà đón nhận toàn bộ Lời Người (x. 14,23-24), bằng cách ký thác bản thân cho Người dẫn dắt. Đức Giêsu luôn hiện diện trong Lời Người và trong lời nhắc về Người. Ai gắn bó với Đức Giêsu như thế, Thiên Chúa sẽ theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu mà ban Chúa Thánh Thần cho họ như là một Đấng trợ lực mới.
Các câu 16-17 là đoạn đầu trong năm đoạn nói về Đấng Bảo Trợ trong Diễn từ cáo biệt. Cho tới nay, Đức Giêsu đã là Đấng trợ giúp các môn đệ, săn sóc họ, hướng dẫn, khuyến khích họ, ban sức mạnh cho họ. Nay cho dù Đức Giêsu ra đi, các ông vẫn không bị bỏ mặc một mình, bởi vì Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho các ông, để Người ở luôn mãi với các ông, ở bên cạnh và ở trong các ông. Thánh Thần/Đấng Bảo Trợ khác Đức Giêsu Đấng Bảo Trợ ở chỗ người ta không thể thấy Thánh Thần theo cách thể lý và Người chỉ hiện diện bằng cách cư ngụ trong các môn đệ mà thôi. Đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (immanuel của Is 7,14) nay được thể hiện nơi Đấng Bảo Trợ/Thánh Thần, Đấng ở lại mãi mãi với các môn đệ, để che chở các ông trong những lúc gặp khó khăn.
Thánh Thần này được xác định như là “Thần Khí sự thật”. “Sự thật” đối với tác giả Ga luôn luôn có nghĩa là chính Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra qua Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ đưa vào trong “sự thật”, nghĩa là hoạt động trong tim chúng ta để chúng ta có thể chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Đức Giêsu. Ngài sẽ giữ các môn đệ ở lại trong sự thật đã được Đức Giêsu truyền đạt và sẽ che chở các ông khỏi các ông thầy gian tà và khỏi những chọn lựa sai lầm. Thế gian, vì khép kín lại với Đức Giêsu, thì không thể đón nhận Người. Chỉ khi tin vào Đức Giêsu và giữ kỹ các điều răn của Người, chúng ta mới mở ra với Chúa Thánh Thần và có thể nhận ra Người và có kinh nghiệm về hoạt động của Người. “Thế gian” đây là tất cả những ai đang còn nuôi thù hận, mưu toan trả thù; nhưng “thế gian” cũng chính là phần của trái tim chúng ta đang còn có những tâm tình gian ác đó. Thế gian có tinh thần của nó (x. 1 Cr 2,12), tinh thần này thúc bách chúng ta làm điều dữ, sống ích kỷ. Còn Thánh Thần Thiên Chúa thì thúc bách chúng ta yêu thương, quảng đại, phục vụ kẻ khác. Thế gian không thể đón nhận Thánh Thần này.
* Đức Giêsu đến (trở lại) (18-21)
Bây giờ, Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ là các ông sẽ không phải mồ côi, như khi cha mẹ chết thì họ vĩnh viễn mất cha mẹ. Đức Giêsu bỏ họ lại mà đi đến cái chết, nhưng rồi sẽ trở lại với họ. Người báo trước rằng họ sẽ gặp lại nhau, khi họ được gặp Người như là Đức Chúa Phục Sinh. Đức Giêsu chết, nhưng không biến mất trong cái chết. Người sẽ trở lại với các môn đệ, như Đấng vẫn sống, như là Đấng Phục Sinh, và họ sẽ được thông phần vào sự sống của Người. Điều kiện là các ông phải “có và tuân giữ các điều răn” của Đức Giêsu.
Có một sự song đối giữa phần này với phần trên:
-Những điều kiện cần thiết: yêu mến Đức Giêsu; giữ các điều răn Người: 15//21
-Ban Đấng Bảo Trợ; Đức Giêsu trở lại: 16//18
-Thế gian không thấy Đấng Bảo Trợ hoặc Đức Giêsu: 17//19
-Các môn đệ sẽ nhận biết Đấng Bảo Trợ và thấy Đức Giêsu: 17//19
-Đấng Bảo Trợ và Đức Giêsu sẽ ở trong các môn đệ: 17//20.
Đấy là cách tác giả Ga dùng để nói rằng sự hiện diện của Đức Giêsu sau khi Người trở về với Chúa Cha được thực hiện trong và qua Đấng Bảo Trợ. Đây không phải là hai sự hiện diện nhưng chỉ là một sự hiện diện duy nhất.
+ Kết luận
Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ rằng chỉ sau khi Người sống lại, các môn đệ mới thật sự hiểu sự hiệp thông của Người với Chúa Cha và với các ông. Qua sự Phục Sinh, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa ở bên cạnh Đức Giêsu với tất cả tình yêu và quyền lực của Thiên Chúa, và xác nhận giá trị các lời Người đã nói và các việc Người đã làm. Nhưng sự Phục Sinh cũng cho thấy rõ ràng dây liên kết đặc biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ: khi đó Người chỉ tỏ mình ra với các ông và được các ông nhận biết như là Đấng đang sống. Để đạt tới sự hiệp thông với Người, Đức Giêsu nhắc các môn đệ, cũng như nhắc toàn thể nhân loại mọi thời: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c. 21). Luôn luôn có giá trị việc đi tìm liên kết với Đức Giêsu mà dựa trên sự nhận biết các điều răn của Người và để cho các điều răn ấy tác động trên cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta sống như thế, chúng ta sẽ gặp được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Cha sẽ đón tiếp chúng ta. Chúng ta cũng sẽ gặp được tình yêu của Đức Giêsu, vì Người sẽ tỏ mình ra cho chúng ta để chúng ta nhận biết Người một rõ ràng hơn và sâu sắc hơn, để rồi chúng ta được liên kết với Người ngày càng bền chặt và sống động.
Gợi ý suy niệm
-Các môn đệ phải chứng tỏ rằng họ chân thành ao ước có Đức Giêsu hiện diện và được hiệp thông với Người qua việc giữ các điều răn của Người. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là tin tưởng đón nhận toàn bộ các lời nói của Đức Giêsu (x. 14,23-24), bằng cách để cho Người hướng dẫn. Tình yêu không hệ tại các lời nói, các tình cảm hoặc các kỷ niệm, nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng và bước theo.
-Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”, tức là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí thông ban sự thật và cũng là chính sự thật, sẽ giúp các môn đệ ở lại trong sự thật mà Đức Giêsu đã truyền đạt và bảo vệ họ khỏi những thầy xấu và những chọn lựa sai lạc. Nhưng để nhận được Thần Khí này, chúng ta phải mở ra với Đức Giêsu, tin vào Người và tuân giữ các điều răn của Người.
-Bằng cớ cho thấy Thánh Thần chân lý đang hiện diện trong Hội Thánh, đó là dọc theo các thời đại, đã có những linh mục, giám mục và thậm chí Đức giáo hoàng cư xử không đúng đắn, nhưng không một vị nào có thể làm cho Tin Mừng trở nên không đáng tin nữa. Thánh Thần không chỉ ngăn ngừa sai lầm trong việc truyền đạt sứ điệp của Đức Giêsu, Người còn đưa các môn đệ vào trong chân lý toàn vẹn.
-Với cái chết của Người, Đức Giêsu đã mãi mãi biến mất đối với thế gian: thế gian chỉ biết rằng Người đã chết trên thập giá. Thế gian chỉ biết cái chết chứ không biết sự sống. Đức Giêsu sẽ chỉ trở lại với các môn đệ và cho các ông thấy Người là Đấng (đang) Sống. Khi đó, các môn đệ sẽ hiểu rõ những lời Đức Giêsu đã nói và những hành vi Người đã làm trước đây.
-Chỉ Đức Giêsu mới là con đường dẫn đến với Chúa Cha. Mạc khải và các lời kêu gọi mà Người đã bày tỏ khi Người còn sống ở trần gian sẽ mãi mãi là con đường đưa tới Chúa Cha. Chỉ khi chúng ta gắn bó với những điều ấy và để cho những điều ấy hướng dẫn, chúng ta mới được nối kết với Đức Giêsu và mới sẵn sàng đón nhận ân huệ Thánh Thần và được hiêp thông trọn vẹn trong tình yêu với Chúa Con và Chúa Cha.
—————————————————–
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH – NĂM A
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.
Cv 8: 5-8; 14-17
Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.
1Pr 3: 15-18
Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.
Ga 14: 15-21
Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Kitô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17):
Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Kitô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của ông khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.
Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.
Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê:
Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ nầy, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.
“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ ngàn xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.
Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức:
Sách Công Vụ nhấn mạnh đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ nầy thường hoạt động cùng nhau.
Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau nầy chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.
BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)
Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh nầy, Bài Đọc 2 tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi cho những Kitô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích nầy dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.
Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em:
Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13 : “Các ngươi đừng sợ và đừng kinh hãi. Chính Đức Chúa các đạo binh là Đấng các ngươi phải nhìn nhân là Đấng Thánh. Chính Người là Đấng các ngươi phải kính sợ, chính Người là Đấng các ngươi phải kinh hãi”.
Vị ngôn sứ xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Đừng bận lòng nào khác ngoài làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời :
Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ và hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.
Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các tín hữu phải trải qua. Sau nầy vào lúc những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy một tính chất bi thảm.
Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.
Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Kitô hữu miền Tiểu Á bị cư xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản nầy: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Kitô.
TIN MỪNG (Ga 14 : 15-21)
Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.
Trung tín trong tình yêu:
Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.
Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đồng hành với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.
Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.
Đấng Bảo Trợ khác:
Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.
Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”. “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan, thế nên, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.
Thần Khí Sự Thật:
Đấng Bảo Trợ khác nầy cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là sự thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người: nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.
Đấng Bảo Trợ khác nầy cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Đấng duy nhất mới có thể cho các môn đệ biết Đức Giê-su thật sự là ai, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đức Giê-su Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.
“Thầy sẽ không để anh em mồ côi”:
Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.
Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. : “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.
“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện Thần Khí, trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
—————————————————
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH – Năm A
YÊU MẾN VÀ GIỮ LỜI CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Thi sĩ Xuân Diệu nói :”Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa có được một câu định nghĩa nào về tình yêu khả dĩ có thể bao hàm được mọi khía cạnh của tình yêu. Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chỉ nói được như thế :”Yêu là khó nói cho xuôi, bởi ai hiểu được sao trời lại xanh”. Thánh Gioan cũng chỉ có thể nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 13,7). Đức Giêsu chỉ khuyên người ta yêu nhau mà không hề định nghĩa tình yêu là gì, vì Ngài không muốn dùng đến những từ ngữ hay những tư tưởng trừu tượng mà chỉ khuyên người ta thực hành tình yêu thôi.
Với những lời tạ từ trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu chỉ dùng những lời thân tình mà khuyên các môn đệ :”Nếu các con yêu mếâân Thầy, các con hãy giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15). Nói như thế, Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, mông lung, hoa mỹ hoặc văn vẻ như trong tiểu thuyết, thi ca hay trong các nghệ thuật thứ bảy. Ngài muốn một tình yêu sinh động và cụ thể đối với Ngài và đối với nhau. Theo đó, tình yêu của chúng ta đối với Ngài là vâng phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các điều răn Ngài truyền, vì chính Ngài đã yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục và thi hành mệnh lệnh của Cha Ngài (Ga 15,10).
Kitô hữu đích thực là dồn tất cả tham vọng của mình vào việc mô phỏng theo Đức Kitô. Người ta thường nói :”Kitô hữu, đó là Đức Kitô khác : “Alter Christus”. Không có định nghĩa nào chính xác và hay đẹp hơn. Khi đã theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi. Tuân theo thánh ý Chúa và giữ các điều răn của Đức Kitô là đang đi trên con đường khổ giá và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 8,5-8.14-17.
Các tín hữu của cộng đoàn Giêrusalem bị các người Do thái bách hại đã lánh sang vùng Samaria của dân ngoại. Thầy phó tế Philipphê được sai đến rao giảng Tin Mừng. Dân chúng hoan hỉ đón nhận Tin Mừng này, và tiếng tăm đã đồn đến tai các tông đồ. Các ngài liền cử ông Phêrô và Gioan đến đặt tay ban Thánh Thần cho họ vì họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
+ Bài đọc 2 : 1Pr 3,15-18.
Thánh Phêrô gửi thư cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy cho họ cách thức thể hiện niềm tin và hy vọng của mình trước mặt lương dân. Người ta sẽ chất vấn về niềm tin của họ, thì phải trả lời cho họ bằng hai cách sau đây :
-Hãy trả lời cho họ bằng những lời lẽ ôn hòa và trong sự kính trọng.
-Hãy ăn ở công minh chính trực khiến cho những kẻ bách hại phải xấu hổ vì đã bách hại.
+ Bài Tin Mừng : Ga 14,15-21.
Đức Giêsu biết trước việc Ngài ra đi sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến nên trước khi đi vào cuộc tử nạn, đã yên ủi các ông một cách chân tình. Ngài khuyên các ông hãy yên tâm vì Ngài không để các ông sống chơ vơ như những đứa con mồ côi đâu, Ngài sẽ sai Đấng Phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi. Đấng Phù trợ khác mà Chúa Cha sẽ ban cho đây, chính là Chúa Thánh Thần mà các ông sẽ được lãnh nhận vào dịp lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các tông đồâ yêu mến Chúa và thi hành lời Ngài dạy.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề
NHỮNG LỜI NHẮN NHỦ THÂN TÌNH.
Trong bữa Tiệc ly, sau khi truyền cho các môn đệ phải yêu mến nhau và đặt việc yêu mến nhau như là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đối với Ngài. Mở đầu đọan trích Tin mừng hôm nay theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói :”Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ tuân giữ mệnh lệnh Thầy”(Ga 14,15).
Việc yêu mến đó được Đức Giêsu liên kết với việc tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Những ai yêu mến Đức Giêsu và giữ Lời Ngài sẽ được ở trong cộng đồng tình yêu của Thiên Chúa :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy”(Ga 14,21).
Ở đây cho thấy Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, chỉ bằng tình cảm mông lung, Ngài chủ trương một thứ tình yêu sống động và được biểu lộ trong sự tuân phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các giới răn Ngài truyền. Chính Đức Giêsu cũng đã yêu mến Chúa Cha bằng cách giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (Ga 15,10).
Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xẩy ra. Họ hẳn đã cảm nhận được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Đức Giêsu đã yên ủi họ :”Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác đến với các con luôn mãi… Thầy không để cho các con mồ côi đâu”(Ga 14, 16.18). Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của thầy thân yêu. Lúc Socrate chết, Platon nói về các môn sinh của Socrate rằng :” Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ sẽ chẳng biết phải làm gì”.
Nhưng Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế. Ngài phán : Thầy sẽ trở lại”. Ngài có ý nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Nhưng sự hiện diện của Ngài không thể dùng giác quan mà thấy nhưng phải dùng con maắt đức tin bởi vì Ngài hiện diện một cách vô hình.
Sau cùng, Đức Giêsu kết luận :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới lả kẻ yêu mên thầy… và sẽ được Cha Thầy yêu mến”(Ga 1421). Đây là một mạc khải của Đức Kitô về tình yêu của Chúa Cha. Mạc khải này cũng hé mở cho ta hiểu thêm về tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thật thâm sâu, mật thiết trên mọi bình diện (Ga 4,34; 6,38).
YÊU NHAU SINH TỬ CŨNG LIỀU.
Yêu mến và hành động.
Đức Giêsu luôn yêu thương các môn đệ của Ngài cả khi Ngài vắng mặt. Ngài hứa không để cho các ông sống vất vưởng như những đứa con mồ côi, nhưng sẽ sai Đấng Phù trợ đến ở với các ông để yên ủi, soi sáng, khích lệ và nâng đỡ các ông. Đáp lại, Đức Giêsu cũng đòi buộc các ông phải yêu Ngài. Tình yêu đối với Ngài không phải chỉ là những tình cảm hay một cảm xúc bồng bột nhất thời, nhưng tình yêu này phải được xây dựng trên ý chí, nghĩa là phải vâng theo lời Ngài, phải thực hiện lời Ngài trong cuộc sống vì ngài đã nói rõ :”Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ vâng giữ lời Thầy” (Ga 14,23).
Chữ “nếu” đây không phải là một việc làm tùy nghi nhưng là một điều kiện thiết yếu, một điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, không có không được. Từ ngữ “nếu” đây liên kết hai vế của “yêu Chúa” và “giữ lời Ngài”, hễ không có vế này thì không có vế kia. Giữ lời hay giữ giới răn không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic : nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống : tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là đều mà tôi làm. Nhưng thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây : từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của tim, mà là một cách cư xử (André Sève, Tin Mừng Chúa nhật, năm A, tr 164).
Tình yêu phải thể hiện ra bằng việc làm cụ thể, chính việc làm ấy mới bảo đảm cho tình yêu thật. Nếu yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi, hay chỉ là một cảm xúc nhất thời. Hành động đó phải được thể hiện ra trước mặt người yêu để người ấy vui lòng, và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt. Nếu không người ta sẽ nói :
hương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào.(Ca dao)
Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau : Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ :”Hãy hành động vì lòng mến”.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến :”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui, Phục sinh, tr 253).
Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Đức Giêsu đã chứùng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời. Ông Barett nói :”Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bầy tỏ ra bằng sự vâng lời”.
Chúng ta biết nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tính, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ. Vớùi Đức Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng “sự vâng lời chân thật”.
Hành động như thế nào.
Một người nọ đã từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy liền hỏi :”Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy” ? Vị thiên thần đột ngột đứng lại nhìn vào người ấy nói :”Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa”. Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong Tin Nừng hôm nay: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy”.
Có hai loại tình yêu : tình yêu vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.
Tình yêu vô vị lợi.
Đây là thứ tình yêu vị tha, một thứ tình yêu chỉ biết cho đi, chỉ lo tìm hạnh phúc cho người yêu, tình yêu không so đo tính toán, tình yêu quảng đại; và tình yêu vị tha lên đến chóp đỉnh là sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa Giêsu đã nói :”Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Tình yêu này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và đã được thực hiện nơi đức Giêsu chịu treo trên thập giá.
Người đời cũng nói lên được một phần nào thứ tình yêu vô vị lợi ấy :
Yêu anh cốt rũ xương tàn,
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.
hoặc :
Yêu nhau mỗi thứ mỗi cho,
Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi.(Ca dao)
Truyện : cha Maximilien Kolbe
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở : chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại đặt tay lên súng :
– Anh muốn gì ?
– Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Roma.
Tình yêu vị lợi (vị kỷ).
Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình ; còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện con thỏ và con cọp.
Câu truyện đó là con cáo không may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua, con cáo xin cứu đưa lên. Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều kiện : khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố. Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất. Cọp lên bờ buồn rầu than :”Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn”.
Như vậy, cọp đâu có thương con cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo ? Con người chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca dao :
Thương thay những kẻ quạt mồ,
Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng.(Ca dao)
Thái độ của ta đối với Chúa.
Nếu thánh Giacobê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được : tình yêu mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói :”nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.
Thánh Gioan tông đồ nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ luật Chúa lại với nhau.
Vậy giữ giới răn Chúa là gì ? Giữ giới răn Chúa, nói nôm na ra là giữ đạo, là sống đạo, sống nhân đức tin mà Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép Rửa tội. Chúa nhắc lại đến hai lần :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy”, và sau đó Ngài thêm :”Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thực hành điều Thầy truyền dạy”.
Qua lời mời của Chúa, chúng ta thấy rằng giữ giới răn, sống đạo, có thể có hai tâm trạng và hai thái độ : một là giữ đạo vì vụ lợi, giữ đạo cho có lệ gọi là có ; hai là giữ đạo vì yêu mến Chúa… Chắc chắn ai cũng giữ đạo vì yêu Chúa, yêu Chúa là chính, còn các mục tiêu khác chỉ là phụ tùy. Đối với từng người, tình yêu đối với Chúa cũng có cấp độ nên việc giữ giới răn cũng có cấp độ. Ta tạm chia thành ba cấp :
* Một là có đạo : Những người đã được chịu phép rửa tội đều được gọi là có đạo vì họ đã được thanh tẩy, đã được gia nhập Hội thánh Chúa. Nhưng họ sống hời hợt , chỉ có danh nghĩa là Kitô hữu, còn cuộc sống của họ nhiều khi như người ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, họ sống như người vô thần. Có những người chỉ đến nhà thờ 3 lần trong đời họ : ngày chịu phép rửa tội, ngày lễ hôn phối và ngày lễ an táng.
* Hai là giữ đạo : Những người này là những Kitô hữu bình thường, giữ luật Chúa, thi hành các bổn phận của một người Kitô hữu như đọc kinh, xem lề, xưng tội rước lễ, ăn chay kiêng thịt …không có gì đáng trách trong việc giữ đạo… Nhưng họ chỉ sống theo mức bình thường, mức tối thiểu, chưa vươn lên cao hơn.
* Ba là sống đạo : Những người này là những người sống trọn nhiệm vụ của những người Kitô hữu bình thường, nhưng họ còn vươn lên cao hơn, cuộc sống của họ là chứng nhân, những hiện thân của Chúa Kitô. Họ xứng đáng được gọi là Alter Christus. Cuộc sống của họ đã trở nên muối và ánh sáng cho đời. Họ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán :”Sự sáng của các con phải chiếu tỏa ra chung quanh để người ta trong việc lành các con làm mà phải ngượi khen Cha các con ở trên trời”.
——————————————————————
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
CUỘC SỐNG MỚI CỦA TÍN HỮU TRONG CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn một tuần lễ nữa là đến lễ Thăng thiên. Tin Mừng hôm nay thuật rằng trước khi Đức Giêsu lên trời, Ngài đã hứa gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta để giúp chúng ta chu toàn sứ mạng mà Ngài đã giao cho chúng ta, tức là loan báo Tin Mừng khắp thế giới. Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày được Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta có ý thức Ngài đang ở trong chúng ta không, và có nghe theo sự hướng dẫn của ngài không ?
GỢI Ý SÁM HỐI
– Mặc dù đã được rửa tội nhân danh Đức Giêsu và được thêm sức trong Chúa Thánh Thần, thế mà chúng ta vẫn sống một cuộc sống tầm thường không hơn những kẻ chưa được rửa tội bao nhiêu.
– Kitô hữu là người mang hy vọng, thế mà nhiều khi chúng ta để mình bị rơi vào thất vọng.
– Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ luôn bênh vực chúng ta. Nhưng chúng ta thường sợ hãi như không có Ngài.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Cv 8,5-8.14-17
Bị đuổi khỏi Giêrusalem do cuộc bách hại mà những người do thái phát động chống các kitô hữu, phó tế Philíp lánh sang miền Samari. Ông dùng dịp này để loan Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho dân Samari. Nhiều người Samari đã xin lãnh nhận phép rửa. Hoạt động truyền giáo của Philíp đã có tiếng vang đến tai các tông đồ, nên ít lâu sau, chính Phêrô và Gioan đích thân đến Samari và đặt tay xin Thánh Thần xuống trên các tân tòng Samari.
Đáp ca : Tv 65
Khi hồi tưởng biết bao ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho mình, dân Israel vui mừng cất tiếng tung hô Ngài và còn kêu mời cả trái đất hợp tiếng tung hô nữa.
So với dân Israel, dân kitô hữu chúng ta còn được Thiên Chúa ban nhiều ơn lành hơn gấp bội. Lẽ nào chúng ta không cất tiếng tung hô Ngài ?
Bài đọc II : 1 Pr 3,15-18
Bức thư 1 Pr do Thánh Phêrô gởi cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy họ cách làm chứng niềm tin giữa hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ấy :
– Khi người ta chất vấn về niềm tin của mình thì hãy sẵn sàng trả lời. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng.
– Phải sống tốt lành theo lương tâm ngay thẳng, khiến cho cuối cùng chính những kẻ bách hại cũng phải xấu hổ vì đã đối xử tệ với các tín hữu.
Bài Tin Mừng : Ga 14,15-21
Trước khi đi vào cuộc chịu nạn chịu chết, Đức Giêsu an ủi các môn đệ. Ngài sẽ không bỏ các ông bơ vơ như những đứa con mồ côi, nhưng Ngài sẽ ban cho họ một Đấng phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi, đó là Chúa Thánh Thần.
GỢI Ý GIẢNG
Đức tin luôn bị xử án
Bài đọc 2 hôm nay trích từ thư thứ nhất của Thánh Phêrô gởi các tín hữu để an ủi và khuyến khích họ giữ vững đức tin trong hoàn cảnh bị nghi kỵ, thù ghét và bách hại. Tại sao hôm nay Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại đoạn thư ấy ?
Thưa vì sự bách hại, dưới hình thức này hay hình thức khác, là điều tín hữu không thể tránh nếu họ thực sự sống Tin Mừng. Ta còn có thể nói : chịu bách hại là một thành phần của việc sống đức tin. Lịch sử đã cho thấy rằng khi Giáo Hội gặp bách hại thì đức tin của tín hữu mạnh thêm; còn khi Giáo Hội bình an thì đức tin yếu đi.
Bởi thế, trước tiên là Đức Giêsu, và kế đó là Thánh Phêrô trong đoạn thư hôm nay, không coi bách hại là một tai họa, nhưng trái lại là một mối phúc : “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,22-23).
Đức tin luôn bị xét xử ! Vì thế, khi đứng trước tòa án của dư luận, trước sự chỉ trích của những người chung quanh, người tín hữu đừng buồn và đừng sợ, nhưng hãy coi đây là dịp tốt để làm chứng về niềm hy vọng sống động của mình.
Nhưng để có thể bình thản và lạc quan như thế, chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói hôm nay : “Thầy không để anh em mồ côi đâu… Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho ánh em một Đấng Bào chữa khác đến với anh em luôn mãi… Ngài ở lại với anh em và trong anh em”.
Chúa Thánh Thần giúp ta trở thành Kitô hữu
Ngày xưa khi các tín hữu bị bách hại ở Giêrusalem phải trốn sang Antiôkhia, họ bị dân chúng miền này mỉa mai gọi họ là “Kitô hữu”, ngụ ý đó là những kẻ khờ dại sống theo giáo lý của một tên Giêsu nào đó xưng mình là Kitô. Nhưng không ngờ cái tên “Kitô hữu” ấy lại diễn đạt rất đúng tính cách của người tín hữu. Đúng vậy, tín hữu của Đức Giêsu là người muốn bắt chước Đức Kitô đến nỗi trở thành một Kitô khác.
Nhưng làm thế nào để được như vậy ? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần :
– Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, giúp ta ngày càng hiểu rõ Đức Kitô và những lời dạy của Ngài hơn.
– Chúa Thánh Thần là Đấng Phù trợ : Ngài ban sức mạnh giúp chúng ta sống. Sống một cách phi thường trong cuộc đời bình thường ; sống bình thản và lạc quan trong những lúc khó khăn ; sống quảng đại đang khi vác thập giá…
– Chúa Thánh Thần còn là nguồn tình yêu. Nhờ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta, cuộc sống chúng ta luôn là một màu hồng, cho dù khi thất bại, khi bị phụ bạc vô ơn, khi chịu đựng những tấn công của kẻ đố kị… giống như Đức Kitô ngày xưa trong cuộc chịu nạn.
Tình yêu thể hiện bằng hành động
Yêu không chỉ là cảm xúc mà còn là sống, cho nên yêu thì tất nhiên thể hiện ra bằng hành động : hành động trước mặt người mình yêu để người ấy vui lòng ; và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.
Bởi thế Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy”.
“Chẳng bao lâu nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy”
Có nhiều cuộc ra đi nhưng mang những ý nghĩa khác nhau :
– Có khi ra đi là bỏ lại, như một cha từ trần ra đi bỏ lại đám con côi cút. Hôm nay Đức Giêsu ra đi không có nghĩa là Ngài bỏ chúng ta mồ côi : “Thầy sẽ không để chúng con phải mồ côi”.
– Có khi ra đi là dứt bỏ, như một tên sở khanh bỏ mặc cô gái bị hắn lường gạt mà “quất ngựa truy phong”. Hôm nay Đức Giêsu ra đi cũng không có nghĩa đó.
– Có khi ra đi là cần thiết cho lợi ích của kẻ ra đi, như một người thất nghiệp đi đến nơi khác để có việc làm. Cuộc ra đi hôm nay của Đức Giêsu là như thế, Ngài ra đi để trở về nhà Cha mình. Cuộc ra đi này rất tốt cho Ngài.
– Có khi ra đi vừa tốt cho kẻ ra đi vừa tốt cho kẻ ở lại, như một người đi làm ăn rồi một thời gian sau trở lại đem tiền về cho gia đình. Thí dụ này càng đúng hơn nữa đối với Đức Giêsu. Hôm nay Ngài ra đi để được về với Cha mình, nhưng cũng để “dọn chỗ” cho các môn đệ, rồi sau đó Ngài sẽ trở lại rước các môn đệ cùng Ngài đến chỗ mới đó.
Đức Giêsu không bao giờ bỏ chúng ta ở lại trong cảnh mồ côi thiếu thốn. Ngài để lại cho chúng ta hai trợ lực rất hữu hiệu, một là Phép Thánh Thể mà chúng ta có thể đến hằng ngày, hai là Chúa Thánh Thần vẫn luôn ở bên cạnh để hỗ trợ chúng ta từng giây từng phút.
Loài chim biển
Một ngày lộng gió, tôi đứng trên bờ biển với cảm giác ớn lạnh.
Nhưng tôi thấy những con chim biển chẳng chút sợ gì những đợt gió mạnh ấy, trái lại còn thích thú nữa.
Có lúc chúng lướt theo gió, có lúc chúng bay ngược chiều gió, chúng lao vút lên trời, rồi chúng đâm nhào xuống đất. Nhưng lúc nào chúng cũng biết vận dụng sức gió, và có thể nói sức mạnh của chúng chính là sức mạnh của gió.
Rồi tôi chợt hiểu câu nói của Đức Giêsu : “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ban cho chúng con một Đấng Phù Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần”. (Flor McCarthy, “Learning from the sea-gulls”)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Trung thành tuân giữ các điều răn của Chúa là phương thế tốt nhất để bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Với tâm tình mến yêu Luật Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
- Hội Thánh luôn cần nhiều vị mục tử thánh thiện và khôn ngoan / để hướng dẫn và củng cố niềm tin của dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh Thần / soi sáng và nâng đỡ các vị mục tử trong đời sống mục vụ thường ngày.
- Hòa bình và phát triển là hai mục tiêu mà bất cứ ai đang sống trên trái đất đều mong muốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho thế giới một nền hòa bình thật sự / nhờ đó các quốc gia có thể phát triển / mọi người được an cư lạc nghiệp / và ấm no hạnh phúc.
- Người kitô hữu sẽ không bao giờ dám hiên ngang sống đức tin / cũng như sẽ khó trung thành với Chúa và Hội Thánh / nếu không có Chúa Thánh Thần thúc giục và nâng đỡ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần của Người / để soi sáng / hướng dẫn / và trợ giúp các tín hữu trong mọi lúc mọi nơi.
- Điều răn Chúa là rào chắn bảo vệ người tín hữu khỏi rơi xuống vực sâu tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn mến yêu và trung thành tuân giữ các điều răn của Chúa / nhờ đó mà tránh được những lỗi lầm tai hại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa hòa ban Thánh Thần cho các tông đồ để các ngài đi đến tận cùng trái đất làm chứng cho Chúa. Xin cũng ban Thánh Thần, để chúng con trở nên chứng nhân can trường của Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị…
—————————————————–
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
SỰ SỐNG MỚI – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
——————————————————-
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
NGÔI LỜI TỎ TÌNH THIÊN CHÚA- PM. Cao Huy Hoàng
Chung quanh chúng ta và ngay trong chúng ta, còn có rất nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhưng họ tin có Tình Yêu. Họ cũng đang yêu, đang khát khao được yêu. Họ đang sống nhờ tình yêu vợ chồng , cha mẹ, anh em, bạn hữu, và cả tình yêu tha nhân cộng đồng. Họ không thể thiếu tình yêu, nhưng họ chưa nhận ra Thiên Chúa vì họ vẫn cho rằng tình yêu trong mỗi con người là một khả năng tự nhiên, một nhu cầu tự nhiên. Họ không hiểu được Cội Nguồn Siêu Nhiên của Tình Yêu là Thiên Chúa, và có thể, họ đã thể hiện cách yêu tự nhiên ở một cấp độ dưới bản tính con người.
Kitô hữu công giáo được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diễm phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi.
Bài Tin Mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Hội Thánh đưa vào Tin Mừng Phụng Vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của Tình Yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Nội dung bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,15-16).
Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là: yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại trong thế gian và trong mỗi tâm hồn; sẽ làm cho Lời Chúa Kitô trở nên nguồn sống dồi dào và sống động cho Hội Thánh Chúa và cách riêng cho mỗi tâm hồn sẵn sàng đón nhận Ngài như Đấng Bảo Trợ cho ơn cứu rỗi của mình; sẽ làm cho chúng ta khi đón nhận Ngài, trở nên can đảm sống Lời Chúa Kitô và hiên ngang làm chứng cho Thiên Chúa. Vì “Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”(Ga 14,17). Ôi! Còn hạnh phúc nào bằng khi được sống trong tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu như Chúa Giêsu yêu, dưới ánh sáng của Thánh Thần, để dìm mình trong tình yêu Thiên Chúa Cha. Còn hạnh phúc nào bằng khi tình yêu của Chúa Giêsu vẫn luôn liên tục, không gián đoạn, mà còn dồi dào hơn và kéo dài cho đến ngày Người lại đến: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 20-21).
Tình yêu của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa thật tha thiết và Ngài tỏ bày tình yêu ấy cách trọn vẹn chu đáo cho các tông đồ, cùng là cho mỗi chúng ta hôm nay. Mỗi người được mời gọi tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua việc Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người.
Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận Thần Khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người là yêu như Người đã yêu: Yêu thương người khác để người khác được sống và được sống lại
Nếu tình yêu của chúng ta là động lực để người khác sống được chỉ ở đời nầy mà thôi, thì ấy chưa phải là tình yêu của Chúa Giêsu. Việc bác ái đối với tha nhân nếu chỉ dừng lại ở việc xây cái nhà tình nghĩa, giúp đồng vốn vượt khó, giúp xóa nợ lâu năm… thì có thể nói, cũng chưa phải là việc bác ái Kitô Giáo đúng nghĩa. Tình yêu Chúa Giêsu đòi hỏi vượt xa hơn thế nữa: yêu người để người được sống và được phục sinh. Vì thế, làm cho người khác có một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thánh thiện, cuộc sống phục sinh ngay ở đời nầy là tiêu chuẩn của tình yêu và việc bác ái mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện. Rất tiếc, ở những đất nước đang sống trong một nền giáo dục không Thiên Chúa, con người cũng có tình yêu, tình yêu cũng được giáo dục, nhưng là loại tình yêu tự nhiên dừng lại ở những gì cho nhau ở đời nầy, và hầu như không màng đến cái chung cuộc ở đời sau. Thế hệ trẻ được giáo dục yêu nhau như người lớn đã yêu, và đã chết, không cần biết đi về đâu, miễn là đã yêu và đã sống trong cuộc đời nầy thoải mái. Tình yêu ấy, cách yêu ấy không phải là cách yêu của Chúa Giêsu, vì không bắt nguồn từ Thiên Chúa và càng không thể nào dẫn đến sự tan hòa trong Cội Nguồn Tình Yêu là Ba Ngôi Thiên Chúa để tình yêu ấy sống, và sống mãi muôn đời.
Để gia đình được sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, vợ chồng không chỉ yêu thương tôn trọng chung thủy và lo lắng cho nhau sống hạnh phúc đời nầy; cha mẹ không chỉ hy sinh lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái chữ…mà còn lo cả nhà sum họp trên nước trời, về với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Yêu như Chúa Giêsu là làm cho người khác sống và sống lại. Giữa xã hội tôn thờ vật chất ngày nay, đây là một thách thức không nhỏ. Giữa nền giáo dục loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng trí con người, đây là một thách thức không nhỏ. Nhận định của ban giáo lý GP. Qui nhơn: “Không còn trường Công Giáo. Xuất thân từ trường nhà nước, các bạn trẻ từ 40 tuổi trở xuống đã được trang bị những cái nhìn về Thiên Chúa, về con người, về vũ trụ, về lịch sử, về xã hội và về cuộc sống rất khác với cái nhìn Kitô giáo” làm cho những người làm cha mẹ phải nghĩ đến vế thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu “yêu là làm cho người khác phục sinh”. Người khác ấy chính là người bạn đời, con cái mình, trước tiên. Không chỉ người trẻ, mà có cả người lớn, cũng cần nhìn lại thực trạng đau lòng nầy: người ta cũng đang yêu, nhưng là tình yêu đưa nhau vào hố thẳm của tội lỗi, của sự chết ngàn thu; nhưng là tình yêu vun quén cho chính mình, cho tập đoàn mình, cho những người đồng tình, đồng phe, đồng đảng với mình những mối lợi mối mọt có thể gặm nhấm, những kho tàng không có sức phục sinh; nhưng là tình yêu thỏa mãn những thú tính…. Tình yêu phải là hoa quả của việc kết hiệp bản thân với Thiên Chúa, tiến đến việc giúp nhau nên thánh thiện nhờ việc tuân giữ toàn bộ Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng, để được chiếm hữu Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, để được sum họp với nhau một nhà ở đời sau, ấy mới là tình yêu của một nền giáo dục Kitô Giáo, tình yêu mà Chúa Giêsu tha thiết dặn dò trên trang Tin Mừng hôm nay.
Trở lại với trào lưu có tình yêu mà không tin có Thiên Chúa, và qua những suy tư trên đây, chúng ta có thể thấy được một âm mưu của thế lực chống lại Thiên Chúa dùng chính tình yêu làm nhãn hiệu cho một công cuộc thoái hóa, hoặc chống lại tình yêu đích thực. Sự rạn nứt nội tại nơi tâm hồn các tín hữu bắt nguồn từ tình yêu dành cho thế gian, vật chất nhiều hơn dành cho Thiên Chúa và dần dần lề luật của Thiên Chúa, lời dạy của Tin Mừng, bóng dáng của Thiên Chúa cũng mờ dần trong tâm trí họ-mờ dần rồi biến mất lúc nào không hay biết.
Vì thế, việc chân thành khao khát sống kết hiệp với Chúa Giêsu, giữ Lời Chúa dạy trong Tin Mừng làm mực thước, rước lấy Thánh Thể Chúa làm sức sống thiêng liêng mới là bảo đảm cho phần rỗi chúng ta và bảo đảm cho việc thực hiện các điều răn Chúa dạy, nhất là đức ái. Nói một cách khác, trước khi yêu người như Chúa muốn, hẳn chúng ta phải yêu Chúa để sống và yêu được như Chúa yêu, thì tình yêu cho đi, thì việc thực hiện các điều răn của Chúa mới thực mang lại cho chúng ta một giá trị cao cả: sống trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu mến Chúa Giêsu để nên thánh: chiếm hữu được Thiên Chúa. Tuân giữ điều răn Chúa: giúp cho người khác nên thánh, giúp cho người khác chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu không, hãy coi chừng tình yêu và việc bác ái của ta lại rơi vào kế hoạch của những giả dối, dẫn đến cái vô ích cho mình và cho tha nhân.
Lạy Chúa, chúng con thật diễm phúc được Chúa Giêsu dạy cho chúng con cách sống yêu, để cuộc đời chúng con nên một chuỗi ngày hạnh phúc vì khi sống yêu, là chúng con sống trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa chí ái. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người dạy để LỜI MẠC KHẢI, LỜI TỎ TÌNH THIÊN CHÚA của Người không trở nên uổng phí cho phần rỗi chúng con. Amen.
———————————————————
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
YÊU MẾN THẦY THÌ HÃY GIỮ CÁC GIỚI RĂN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi đến « giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha » (Ga 13, 1) . Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. « Tối hôm trước ngày chịu khổ hình ». Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.
Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.
Câu hỏi đặt ra : ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn ? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.
« Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy » (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói : các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là : khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác : nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.
Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy » (Ga 14, 21). Và Người cam kết : « Thầy sẽ xin Cha ». Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là ; nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì ?
Chúa Giêsu xin Cha điều gì ? Người xin Cha « ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác » (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một « Đấng Phù Trợ khác ». Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, « Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự » (Ga 14, 26).
Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý ? Khỏi phải lo, vì « thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài » (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm « còn các con, các con biết Ngài » (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không ? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha : « Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi » (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến : « Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con » (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.
Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói : « Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con ». Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con ; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. « Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con » (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.
Chúa Giêsu kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó» (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con : chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng « Abba, Lạy Cha » .
————————————————————-
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
LỜI CHÚA CĂN DẶN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng phải xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nỗ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con! Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…Khi yêu ai, mến thương ai, người ta luôn lưu giữ những hình ảnh, kỷ niệm và lời nói thân thương của người ấy.
Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã căn dặn, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài nói hết tâm tình, hết con tim của mình và muốn các môn sinh lưu giữ trong tâm hồn những lời tâm huyết này: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14,15); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, chúng ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài “Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
“Anh em có lòng yêu thương nhau”
Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với tha nhân là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi. Tình yêu thật sự, tình yêu chân thành thì cần phải có hy sinh, cần có quên mình. “Tình yêu mà không có hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa” (ĐGM.Bùi Tuần).
Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm cả cuộc đời về những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.
Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói : “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.
Gương sáng sống Lời Chúa
Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.
Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: “Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật sự và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi, mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.
Những ngày qua, các trang web Công giáo viết nhiều về gương sáng của vị Linh mục “Một bác sĩ Phật tử trở thành Linh mục vì người nghèo, bệnh nhân phong-sida, đã về với Chúa”. Thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn Viết Chung thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) ngày 13/5/2017, tại nhà thờ giáo xứ Phát Diệm, Sài gòn.
Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo kể về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp. Ðức Cha Jean Cassaigne trở thành thần tượng của chàng trai trẻ. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như lòng khát khao. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo và là một bác sĩ chuyên khoa Da liễu. Nhờ tin vào Đức Kitô nên vị bác sĩ đã theo Chúa và trở thành linh mục của Chúa vào ngày lễ truyền tin 25.3.2003. Sau ngày lãnh tác vụ linh mục, ngài dấn thân truyền giáo, phục vụ người nghèo, bệnh nhân phong. Vị mục tử không chỉ nặng mà nhiễm cả mùi chiên, máu chiên vào trong người. Nơi thân xác gầy guộc của ngài lại ẩn chứa sức mạnh ơn thánh và một tấm lòng nhân ái bao la. Ngài yêu mến Chúa nơi những con người đau khổ và yêu thương họ như yêu mến Chúa.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
HÃY VÌ CHÚA MÀ YÊU MẾN THA NHÂN – Lm. Inhaxio Trần Ngà
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)
Biết rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy truyền… là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Kế đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giêsu lặp lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.”
Qua những lời trên, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.
Đó cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến, xin hãy cùng khấn nguyện với nhau:
“Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
—————————————————
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU- Lm.Giuse Hoàng Kim Toan
Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có tình yêu, rất mới cũng bởi vì tình yêu vẫn là sự sống động trong thế giới hôm nay. Rất mới và rất cũ nhưng chẳng thể nào có thể hiểu nổi được tình yêu, tình yêu có muôn mặt của thủy chung và những bội phản, sự thực và lừa dối, tinh khiết và hoen úa, ngọt lịm và cay đắng. Tình yêu là một chủ đề hao tốn giấy mực và cũng hao gầy nhiều thân phận.
“Ở lại trong Tình Yêu của Thầy” Ga 14 là một chủ đề quan trọng và cũng tìm thấy trong di chúc của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Chúng ta chỉ thực sự yêu thương khi ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa.
Tình Yêu tiếng nói của Chúa Thánh Thần:
Tình yêu bao giờ cũng có những thể hiện bằng hành động: Hành động đầu tiên và trước tiên đó là sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa là sự khai mở, đó là bản chất của Tình Yêu. Sáng tạo là sự khai mở của Thiên Chúa để đưa các loài được tạo thành được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa. Các loài thụ tạo của Thiên Chúa được chia sẻ vinh quang của Người. Tình yêu đúng nghĩa bao giờ cũng là tình yêu mang đến hạnh phúc cho người mình yêu. Hạnh phúc không chỉ là một lời hứa mà còn là một con đường. Thiên Chúa đã đề nghị một con đường, con đường ấy là “Thực thi ý muốn của Thiên Chúa”; qua con đường giới răn thực thi ý muốn của Thiên Chúa mở ra con đường đối thoại tình yêu. Tình yêu làm nên những cái mới, chính là tác động của Chúa Thánh Thần, “Thần Khí ban sự sống” là gió là hơi thở của sự sống. Là gió là hơi thở “Chúa hà hơi, súc vật được sáng tạo và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104, 30). Hơi hở thần linh làm cho mùa màng được dồi dào thuận lợi, thời tiết thuận hòa, con người được vui sống. Ở lại trong Tình yêu nghĩa là ở lại trong sự sống Thánh Thần ban tặng, sống dồi dào nhờ hít thở trong bầu khí Thần Linh.
Thần Khí mới – Trái Tim mới:
Trái tim gợi lên đời sống tình cảm, người Do Thái quan niệm trái tim như tất cả những gì thuộc về nội tâm của con người. Đông Phương gọi đó là cái Tâm, Tâm vừa đóng vai trò chính của con người vừa là nơi xuất phát mọi hành vi của con người cũng như là nơi thụ nhận tất cả những gì thế giới giác quan mang lại. Tâm còn là nơi xuất phát niềm vui và hy vọng, dự định và kết quả một hành trình. Ở lại trong Tình Yêu, một lời mời gọi mang lấy và sống trong trái tim của Thiên Chúa. Châm ngôn nhắc tới: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh.” (Cn 4, 27). Trái tim còn là sự hiểu biết khôn ngoan: “Người ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ” (Hc 17, 6). Trong Thánh Thần chúng ta được sống và sự sống được hướng dẫn bằng Thần trí khôn ngoan, thông minh, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, dũng cảm và kính sợ. Ở lại trong Thầy mang một ý nghĩa đặc biệt trong vương quốc Thiên Chúa, những ân huệ của Chúa Thánh Thần làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc và thánh thiện.
Trái tim chai đá. Con người thích theo lối sống của mình, ưa thich tìm những lạc thú làm cho mỗi ngày trái tim trở nên chai cứng hơn. Trong đời sống của dân Thiên Chúa chọn cũng xảy ra tình trạng tráo trở này để ru ngủ mình trong tội lỗi bằng những phụng tự bên ngoài (Am 5, 21) với những lời lẽ sáo rỗng (Tv 78, 36) và bị lên án “dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn tâm hồn thì xa Ta” (Is 29, 13). Con người quyến luyến trong tội lỗi, bởi chẳng cần nỗ lực để sống thánh, chẳng cần thanh lọc để trở nên tinh trong, mặc dù vẫn biệt hậu quả của tội lỗi là đau khổ là sự chết, nhưng thà rằng như thế còn hơn là liên lạc với Thiên Chúa nghĩa là “liều bỏ tấm lòng mình” (Gier 30, 21). Trái tim xơ cứng chai đá của con người đã đến lúc cần phải đập vỡ nó ra, nhưng ý muốn ấy chỉ có thể đến từ phía con người, khi con người nhận ra mình không còn đủ sức chấp nhận đau khổ, bất hạnh và sự chết.
Cần có một quả tim mới: Khao khát này xuất phát từ nơi thẳm sâu đau khổ của tội lỗi gây nên, nếu không muốn trở thành con người cam chịu số phận. Con người đọc qua lịch sử của dân Israel và lịch sử đời mình hiểu rằng tôn giáo bề ngoài là một thứ tôn giáo bào mòn lòng yêu mến. Muốn thực sự thoát ra khỏi trái tim xơ cứng cần có một thay đổi quyết liệt, “tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tâm hồn” (Đnl 4, 29), muốn đầy đủ sức mạnh để chiến thắng sức ì của bản thân cần “Gắn chặt tấm lòng vào Giavê” (1Sm 7, 3) để thắp lên trong trái tim ngọn lửa “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức” (Đnl 6, 5).
Khao khát là vậy, lý tưởng là thế, nhưng vẫn chẳng thoát ra ngoài được con tim giả dối, tấm lòng bất trung từ nguyên thủy, chỉ còn có thể đến với Thiên Chúa “với tấm lòng tan nát rã rời” (Tv 51, 19) một tấm lòng tan nát khiêm cung để khấn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy” (Tv 51, 12).
Tình yêu không bao giờ là hủy diệt, Tình yêu luôn luôn là một chữa lành, rất nhiều người không biết Thiên Chúa rất lạ lẫm khi thấy những con người Kitô giáo vượt qua được thảm trạng tội lỗi của mình, mặc dầu đã biết rằng, những người ấy trước kia là một người tội lỗi, xấu xa, đê tiện. Điều rất lạ ấy xảy ra không chỉ do trái tim tan nát rã rời của hối nhân mà còn nguyên do sức mạnh từ nơi Thiên Chúa đã thực hiện cho con người khiêm nhượng “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi và Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, đặt vào lòng trí các ngươi một thần trì mới; cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá và ban tặng trái tim bằng thịt” (Ez 36, 25). Không có sức mạnh Thiên Chúa, thắng được chính mình chỉ là ảo tưởng và đôi khi trở nên quá khích khi diệt mất chính mình.
Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần và mời gọi ở lại trong Tình Yêu của Thầy, đó là một lời gọi đích thật để trái tim được tự do khỏi tội, để tấm lòng an vui hạnh phúc thật sự khi không còn bóng dáng tội lỗi, Chúa Giêsu chính là trái tim mới được ban cho nhân loại, và Thánh Thần là Đấng ban thần trí mới cho chúng ta.
Xin cho những bước chân đi hoang của con người chúng con vào những lúc bế tắc không nơi trọ, không nơi đón nhận, thì xin cho chúng con cũng biết khiêm cung với tấm lòng tan nát ở lại, lưu trú trong Tình Yêu của Người vì Tình Yêu của Người đón nhận, chịu đựng, hy sinh tha thứ và yêu thương tất cả.
———————————————————-
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- NĂM A
NHỮNG NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG- Trích Logos A
Vào ngày 02/4/2005, khi tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời được loan ra, số người tràn đến quảng trường thánh Phêrô, Rôma, càng lúc càng đông đảo. Lúc ấy, Đức Tổng giám mục Leonardo Sandri, phụ tá Quốc Vụ Khanh Toà Thánh tiến ra nói với dân chúng : “Chúng ta như đàn chiên mồ côi”.
Quả thực, vào thời điểm ấy, thời gian như ngừng trôi. Toàn thể Giáo Hội như phủ một màu đen tang tóc. Giáo Hội như đàn chiên mồ côi, không người chăn dắt.
Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ trong giây phút Chúa Giêsu từ giã các ông để đi vào cuộc tử nạn. Lòng các môn đệ tan nát vì buồn sầu trước cuộc chia ly đầy đau khổ. Nhưng lúc ấy, Chúa Giêsu đã an ủi và làm cho các môn đệ vững tin: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thầy sẽ đến với các con”.
Đúng như vậy, Chúa không để cho Giáo Hội như đàn chiên mồ côi, vì thiếu chủ chăn. Ngày 19/4/2005, Chúa ban cho Giáo Hội vị Tân Giáo Hoàng, Đức Bênêđictô XVI, sau 17 ngày vắng bóng vị mục tử trong Giáo Hội.
Ngày 24/4/2005, trong thánh lễ khai mạc sứ vụ mục tử, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã nhận dây Pallium bằng lông chiên choàng lên vai, một hình ảnh tượng trưng cho vị mục tử đang vác chiên trên vai. Qua vị Tân Giáo Hoàng, Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục đồng hành với Giáo Hội, vẫn tiếp tục hiện diện giữa Giáo Hội bằng Thánh Thần của Ngài.
Quả thực, Chúa Giêsu đã không để cho các môn đệ của Ngài phải mồ côi. Ngài sẽ đến và ở với họ luôn mãi. Nhưng Ngài không đến và ở với họ theo cách bình thường như trước đây. Ngài sẽ hiện diện với một cách thức mới mẻ hoàn toàn. Ngài đến và hiện diện giữa họ bằng Thánh Thần của Ngài : “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với chúng con luôn mãi”. “Đấng Phù Trợ khác” là chính Chúa Thánh Thần.
Trong suốt cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu luôn thao thức và trăn trở mong muốn thực hiện một việc : đó là dẫn đưa các môn đệ bước vào tương giao thân mật giữa Ngài và Thiên Chúa Cha : “Thầy ở trong Cha, các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con”. Đó là tương quan tình yêu thâm sâu nhất : “Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.
Quả đúng như thế, trước khi Chúa Giêsu ra đi, Ngài đã bắc nhịp cầu ngang qua dòng sông cách ngăn giữa nhân loại và Thiên Chúa, giữa hữu hình và vô hình. Chính Chúa Thánh Thần đã đóng vai trò của những nhịp cầu thiêng liêng đó :
Chúa Thánh Thần, nhịp cầu chân lý.
Chúa Thánh Thần là “Thần Chân Lý” được sai đến để hiện diện một cách sống động giữa các môn đệ cũng như trong lòng Giáo Hội. Nhưng đáng tiếc thay, sự hiện hiện của Ngài thật âm thầm lặng lẽ, nên thế gian đã lãng quên Ngài. Hay đúng hơn, như lời Chúa đã nói : “Thế gian đã không thể đón nhận, vì thế gian không thấy, cũng chẳng biết được Ngài”.
Chúa Thánh Thần là “Thần Chân Lý” được sai đến để nhắc lại cho các môn đệ những gì mà Chúa đã dạy. Chúa Thánh Thần là ký ức sống động của Giáo Hội, sẽ dẫn đưa Giáo Hội đến sự thật toàn vẹn (Ga 16, 13). Ngài là “nhịp cầu chân lý” cho một thế giới đang khao khát sự thật và niềm tin.
Hôm nay, giữa một xã hội đang bị mãnh lực của đồng tiền lôi cuốn, chúng ta đang bước đi giữa màn sương mù của sự giả trá đang che khuất đường đi. Ta hãy xin Chúa Thánh Thần soi sáng, cho chúng ta luôn đi đúng đường tìm đến với Thiên Chúa là chân lý duy nhất và toàn vẹn.
Chúa Thánh Thần, nhịp cầu tình yêu.
Qua “Thánh Thần tình yêu”, Chúa Giêsu dẫn đưa các môn đệ, cũng như Giáo Hội vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là ngọn lửa yêu mến nung đốt tâm can con người. Ngài sưởi ấm những tâm hồn giá băng, chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương.
Chúa Thánh Thần là “nhịp cầu tình yêu” dẫn đưa mọi người bước vào mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu”, nhưng nếu không có nhịp cầu nối liền giữa “giới hạn” và “vĩnh cửu”, thì con người không thể gặp gỡ được tình yêu huyền diệu của Thiên Chúa.
Để đáp lại tình yêu Thiên Chúa và để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta phải giữ giới răn Chúa, và tuân giữ lời Chúa dạy : “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”. Chúa còn xác quyết mạnh mẽ hơn : “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14, 23).
Chúa Thánh Thần sẽ lấy tất cả mọi sự nơi Chúa Giêsu mà truyền lại cho chúng ta (Ga 16, 14). Ngài sẽ dạy cho ta biết tuân giữ giới răn và Lời của Chúa.
Chúa Thánh Thần, nhịp cầu sự sống.
Qua “Thánh Thần sự sống”, Chúa Giêsu còn đưa các môn đệ và Giáo Hội vào sự sống viên mãn của Chúa Cha. Chúa Thánh Thần mở ra cánh cửa sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa trong sự kết hiệp mật thiết và sâu thẳm : như Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha : chúng ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Thánh Thần là “nhịp cầu sự sống” đưa ta vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi : Chúa Giêsu ở trong chúng ta, ta ở trong Chúa Giêsu, như vậy, ta cũng ở trong Chúa Cha. Và Chúa Giêsu ở trong ta, như thế, Chúa Cha cũng ở trong ta. Chính trong sự hiệp thông sâu xa đó mà ta lãnh nhận được sự sống sung mãn của Thiên Chúa.
– Chúa Thánh Thần không những là nhịp cầu đưa ta vào đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng còn là nhịp cầu để Thiên Chúa đến với con người. Ngài đến để đem cho họ ánh sáng chân lý, hương vị tình yêu và sức sống dồi dào.
– Với lòng nhiệt tâm rao giảng Đức Kitô cho muôn dân, các Tông Đồ ngày xưa đã bắc những nhịp cầu thiêng liêng ấy cho Chúa đến với những tâm hồn chưa nhận biết Chúa. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay đã thuật lại : Tông Đồ Philipphê đã rao giảng Tin Mừng Đức Kitô cho dân Samaria ngoại giáo. Họ đã đón nhận lời Thiên Chúa và nhận lãnh Thánh Thần.
– Hôm nay, chúng ta cũng hãy bắc những nhịp cầu đến với những tâm hồn chưa được niềm tin chiếu soi. Nhờ những nhịp cầu thiêng liêng đó, ta có thể tỏa ánh sáng chân lý, khơi lên ngọn lửa tình yêu, và đem đến cho họ sức sống thần linh của Thiên Chúa.
– Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục hiện diện bằng Thánh Thần của Ngài ở giữa chúng ta và trong lòng Giáo Hội. Thế gian không thấy Chúa, nhưng ta thấy Chúa và Chúa vẫn sống trong chúng ta bằng sức sống vừa mãnh liệt vừa trường tồn. “Ngài đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thánh Linh mà sống lại” (Bài đọc II, trích thư 1Pr). Ngài đã ra đi nhưng vẫn ở lại mãi với chúng ta.
Vào ngày 08/4/2005, thánh lễ an táng Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã được cử hành long trọng tại Rôma. Cũng trong ngày hôm ấy, ở Ba Lan, dân chúng đã tụ tập trong đền thờ Đức Bà tại Wadowice, nơi Đức Thánh Cha đã được rửa tội. Họ cử hành thánh lễ cầu nguyện cho ngài một cách trọng thể và đầy ấn tượng !
Trong nhà thờ, trên cung thánh, người ta đặt một chiếc ghế trống phủ cờ Vatican với dải khăn đen. Đó là chiếc ghế Đức Thánh Cha đã ngồi khi ngài về thăm quê hương năm 1999.
Chiếc ghế trống nói lên sự vắng mặt của người cha yêu dấu.
Chiếc ghế trống cũng nói lên rằng : Giáo Hội đang thiếu vắng vị chủ chăn.
Tuy nhiên, dù ngai tòa Phêrô bỏ trống, nhưng Chúa Thánh Thần không vắng mặt. Ngài vẫn hiện diện trong thầm lặng nhưng tràn đầy và thật mãnh liệt. Ngài tiếp tục làm việc và canh tân Giáo Hội với một sức sống luôn luôn mới mẻ, mới như khuôn mặt vừa uyên bác vừa khả ái của vị Tân Giáo Hoàng.