CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales 6
NHỮNG VIỆC LỚN HƠN NỮA-Chú giải của Noel Quession. 12
SỰ HIỆP THÔNG BỀN VỮNG- Lm. FX Vũ Phan Long, ofm.. 21
CON ĐƯỜNG GIÊSU (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 34
THEO ĐỨC KITÔ LÀ ĐƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 50
SỐNG TRONG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 64
ĐƯỜNG GIÊSU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 73
NHÀ CHA- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 76
HÃY TIN TƯỞNG VÀO CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 81
TRỞ NÊN HÌNH ẢNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxio Trần Ngà. 86
THIÊN CHÚA CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 90
ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA- Lm. Trịnh Ngọc Danh. 95
CHÚA GIÊSU, NGUỒN BÌNH AN- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn. 106
——————————————————————————
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: “Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa”.
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA:Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Đáp:Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.-Đáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.-Đáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.-Đáp.
BÀI ĐỌC II:1 Pr 2, 4-9
“Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Đức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: “Đây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn”. Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM:Ga 14, 1-12
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người”. Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê?Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha’? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”.
Đó là lời Chúa.
—————————————————
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Đường về với Chúa.
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như “ra đi”, “đi tới”, “trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này (“được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy”:14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài (“Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang – Dufour nhận xét “sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả” (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: “Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa”. Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ “dọn chỗ sẵn cho họ”. Từ chủ đề “ra đi” bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Chúa long trọng đáp “Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: ‘Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là “cửa” dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo” (p. 100)
Bày tỏ Chúa Cha.
Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha “Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.
Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.
Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu.” (p.l07)
BÀI ĐỌC THÊM:
Thiên Chúa thật gần”.
Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn “những biến cố” đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?
Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê “Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?” Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.
Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. (“Célébrer”, số 258, tr.34, tháng 3.l996)
Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?
Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha” Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là “nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là “một”!
Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.
———————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
NHỮNG VIỆC LỚN HƠN NỮA-Chú giải của Noel Quession
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến”.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
“Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: “Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
“Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa”. Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”.
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: “Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu…”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng… nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối… ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)… bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết…”. Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ‘ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa” một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy… Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…”.
Phải, đâu có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó… đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
————————————————————
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
SỰ HIỆP THÔNG BỀN VỮNG– Lm. FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Trong khối từ ch. 13 đến ch. 17 của TM Ga, tức phần đầu của “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (ch. 13–20), có ba Diễn từ cáo biệt: (1) 13,31–14,31; (2) 15,1–16,33; (3) 17,1-26. Bản văn chúng ta đọc trong Phụng vụ hôm nay thuộc về Diễn từ thứ nhất. Đức Giêsu sắp ra đi; Người nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Bài Diễn từ thứ nhất (13,31–14,31) có hình thức là một cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ, được triển khai thành năm điểm (13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14; 14,15-24), điểm này bổ túc cho điểm kia và mỗi điểm gồm ba thì. Mỗi lần, Đức Giêsu bắt đầu bằng một lời khẳng định huyền bí diễn tả bằng những từ ngữ có hai nghĩa khiến các môn đệ không hiểu: họ liền đặt câu hỏi. Câu hỏi này tạo cho Đức Giêsu cơ hội để tái khẳng định và xác định tư tưởng của Người bằng cách nâng các môn đệ lên bình diện mầu nhiệm bản thân Người và mầu nhiệm công trình Người. Đây là cách viết tiêu biểu các tác giả Ga, nhằm nói rằng: bỏ mặc cho sức riêng, chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của các biến cố và mầu nhiệm Đức Giêsu.
Bài Diễn từ được dùng để trả lời cho những vấn đề gây nên bởi sự ra đi này, tức những vấn đề sẽ xảy ra cho các môn đệ, chứ không phải là những vấn đề sẽ xảy ra cho Đức Giêsu (cuộc tôn vinh Người chỉ được nhắc qua thôi).
Bản văn của chúng ta thuộc về các điểm thứ ba và thứ tư của bài Diễn từ, trong đó Đức Giêsu trấn an các môn đệ, bảo rằng các ông sẽ không bao giờ bị chia lìa với Người. Người sẽ trở lại và đưa các ông đi với Người. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy: vấn đề cốt lõi được nêu ra trong chương này cũng như trong suốt TM Ga chính là “đức tin”.
Phải nói là một trong những điểm độc đáo của TM IV là tầm nhìn thần học được triển khai trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga 14–16). Vào lúc rời xa các môn đệ, Đức Giêsu tự hỏi về ý nghĩa của việc Người sắp biến mất. Nói chính xác hơn, đứng trước cuộc chia ly đang tới, Người đề cập đến vấn đề tương lai của công việc mạc khải, do chỗ Người vừa là Đấng mạc khải vừa là nội dung của mạc khải, lại sắp biến mất khỏi sân khấu lịch sử. Nói một cách nghịch lý, số phận trần thế của Đấng mạc khải phải chấm dứt, thì công cuộc mạc khải mới đạt tới điểm hoàn tất.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
-Đức Giêsu trấn an các môn đệ (14,1);
-Mạc khải về Nhà Cha và đường về (14,2-6);
-Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (14,7-12 [14]).
Bản văn này nếu được đọc tới hết c. 14 thì hẳn là trọn nghĩa hơn.
Vài điểm chú giải
– Anh em đừng xao xuyến (1): dịch sát là “trái tim (kardia, số đơn) của anh em đừng xao xuyến”. Ngược lại với lối sử dụng của hy-ngữ và La-tinh, Tân Ước theo cách dùng A-ram và Híp-ri, sử dụng một số đơn có nghĩa toàn thể. Trong Cựu Ước và các TMNL, “trái tim” thường là cơ quan lấy các quyết định, còn trong phần lớn các lần Ga sử dụng, từ ngữ này có một vai trò tình cảm (x. Ga 14,27; 16,6.22).
– Hãy tin vào Thiên Chúa (1): Trong tiếng Hípri, từ ngữ chỉ “đức tin” là ’mn, hàm ý có sự vững vàng, chắc chắn. Tin vào Thiên Chúa là thông dự vào sự vững chắc của Ngài.
– nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (2): Câu này có thể hiểu theo các cách sau đây tuỳ chúng ta hiểu là câu khẳng định hay câu hỏi, và hiểu hoti là “rằng/là” hay là “bởi vì”.
-nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ …
-nếu không, lẽ nào Thầy lại nói với anh em, vì Thầy đi dọn chỗ …?
-nếu không, Thầy đã nói với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ …
-nếu không, lẽ nào Thầy lại nói với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ …? (NAB; Traduction officielle pour la liturgie; TOB; NTT). Có lẽ cách này hợp lý nhất.
-nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi; Thầy đi dọn chỗ … (Brown; BJ).
– Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (6): Chúng ta ghi nhận là trong Sách các Dấu lạ, từ ngữ zœ¢, “sự sống”, được dùng 32 lần, trong khi chỉ có 4 lần trong Sách về Giờ. Tác giả Ga muốn nói là vào lúc này, “giờ” đã gần, sự sống hiện đang được trao ban, nên không cần phải nói đến nữa.
Các từ ngữ “con đường”, “sự thật”, và “sự sống” liên hệ với nhau thế nào? Có hai loại giải thích:
Các giải thích cho thấy con đường hướng về một mục tiêu là sự thật và/hay sự sống: (1) Đa số các Giáo Phụ Hy Lạp, thánh Ambrôsiô và thánh Lêô Cả hiểu con đường và sự thật đưa đến sự sống (vĩnh cửu trên trời). Maldonatus cho rằng sự thật chỉ là một tính từ mô tả con đường (“con đường thật”). (2) Thánh Clêmentê Alexandria, Âutinh và đa số các Giáo Phụ La-tinh hiểu là con đường đưa tới cả sự thật và sự sống, và đây là hai thực tại cánh chung, thần linh. Thánh Tôma Aquinô cho rằng Đức Kitô là con đường thể theo nhân tính của Người, nhưng là sự thật và là sự sống thể theo thần tính của Người. (3) Có những tác giả hiện đại nói rằng nơi Đức Giêsu, các môn đệ gặp được Đấng Cứu Thế của họ, nên con đường không có nghĩa không gian và không tách biệt với mục tiêu là sự thật và sự sống. Con đường của họ đã là mục tiêu của họ rồi. Sự thật là thực tại thần linh được tỏ hiện ra, còn sự sống là thực tại ấy nay được loài người chia sẻ.
Các giải thích cho thấy con đường là từ ngữ chính, còn sự thật và sự sống là những giải thích cho con đường. Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự thật và sự sống (De la Potterie, Bengel, B. Weiss, Schlatter, Strathmann, W. Michaelis, Tillman, Van den Bussche). Nói rằng “con đường” là từ chính trong c. 6, điều này được gợi ra bởi sự kiện Đức Giêsu tái khẳng định câu nói của Người về con đường ở c. 4, để trả lời cho câu hỏi của Tôma về con đường ở c. 5. Hơn nữa, chi câu sau của c. 6 bỏ qua một bên sự thật và sự sống mà tập trung vào Đức Giêsu như là con đường: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Cách nhìn này dường như hợp lý nhất.
– đến với Chúa Cha (6): Đây là mục tiêu của “con đường”.
– đã thấy Người (7): Ở đây và ở c. 9, động từ là heôrakôs (ptc pf của horan); ở 12,45, cũng tư tưởng này lại được diễn tả bằng theôrôn (ptc pres của theôrein). Cả hai đều nói đến một cái nhìn thiêng liêng.
Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ rằng Người sẽ ra đi và sự hiệp thông đời sống của các ông với Người đã đến lúc kết thúc. Phải chăng đây là một chỉ là một lúc “nghỉ chuyển hồi” (entr’acte) ngắn, một tình bạn vui tươi, khuyến khích người ta mỗi khi nhớ lại, nhưng sẽ bị cắt ngang và chấm dứt với cái chết của Đức Giêsu? Vào lúc cáo biệt, Đức Giêsu phải giải thích cho các môn đệ rằng Người không bao giờ rời xa họ, nhưng Người ra đi là để thiết lập một liên hệ còn bền chặt hơn.
* Đức Giêsu trấn an các môn đệ (1)
Đức Giêsu nói ngay đến thái độ căn bản mà các môn đệ phải có để đương đầu được với tình trạng xa cách, tức sự kiện Người chết trên thập giá và họ sẽ không thấy Người hiện diện hữu hình giữa họ nữa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy!” (Ga 14,1). Lời khuyến khích này không chỉ có giá trị cho các môn đệ có mặt hôm ấy mà thôi, nhưng cho tất cả những ai sau đó sẽ tin vào Người. Các môn đệ không được để cho mình bị hoang mang lo lắng, mất sự cương quyết và bình tĩnh. Chính ngay bây giờ các ông phải đặt được nền móng vững chắc nhất và tìm sự nâng đỡ không lay chuyển nơi Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu. Chỉ nhờ đứng vững trong niềm tin, các ông mới có thể đương đầu với hoàn cảnh này. Đức Giêsu đã nói nhiều lần đến đức tin như lời đáp lại các dấu lạ Người làm và như nẻo đường đưa tới sự sống đời đời. Chính bây giờ, khi mà các ông không còn thấy Người nữa, đức tin của ông phải được vận dụng. Vì không thấy, các môn đệ sẽ phải ký thác với lòng tin tưởng không giới hạn vào Chúa Cha và Chúa Con, bằng cách xây dựng mọi sự trên các Đấng.
* Mạc khải về Nhà Cha và đường về (2-6)
Việc Đức Giêsu ra đi không phải là một sự xa cách vĩnh viễn, nhưng nhằm đưa họ đến chỗ kết hợp muôn đời với Người. Đối với chính Đức Giêsu, cái chết của Người không phải là điểm chấm hết của con đường, nhưng lại là cánh cửa mở rộng ra với con đường ấy; cái chết của Người là việc trở về nhà Cha (Ga 13,1). Đức Giêsu đang tiến đến cái chết lại là Đấng đang nói: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (14,6). Khi đã được nâng cao và tôn vinh, Người sẽ mãi mãi ở trong sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha. Nhưng cả các môn đệ cũng có quê hương vĩnh cửu, và quê hương này không phải ở trên trái đất, nhưng là ở bên Thiên Chúa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (13,2). Đức Giêsu ra đi không phải để bỏ rơi họ, nhưng dọn chỗ cho họ bên Chúa Cha, để đưa họ đi với Người và sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với họ. Hiểu như thế, dứt khoát là các ông không được chỉ đăm đăm nhìn vào sự việc Đức Giêsu bị chết như thế và không còn ở với các ông nữa; nhìn biến cố Thương Khó như thế là lạc hướng! Các ông phải dùng đức tin mà thấy chỗ tận cùng, nghĩa là thấy rằng tất cả những gì Đức Giêsu đã làm đều nhắm đến chỗ cho họ được hiệp thông với Người và với Chúa Cha.
Những điều nói trên có thể khiến người ta nghĩ rằng các môn đệ hoàn toàn thụ động và chờ Đức Giêsu dẫn họ về với Chúa Cha. Tuy nhiên, họ không được ở trong thế bất động, nhưng cũng phải chuyển động: “Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 13,4). Khẳng định này đưa Tôma đến một thắc mắc (“Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”, 13,5), khiến chúng ta nhạn được một mạc khải đặc biệt của Đức Giêsu. Người dạy cho các ông biết con đường đưa đến với Chúa Cha: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (13,6). Các môn đệ không phải chỉ chờ Đức Giêsu dẫn về với Chúa Cha; chính các ông phải lên đường. Tuy nhiên, con đường lại vẫn là Đức Giêsu. Ngay trong dụ ngôn người mục tử nhân hậu, Người đã nói: “Chính tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (10,9). Là con người, chúng ta không thể tự cứu mình khỏi sự hư hoại; y như thể có một bức tường không thể chui qua hay vượt qua đang ngăn cản chúng ta. Nhưng có một cái cửa, một lỗ hổng duy nhất trong bức tường, một nẻo đường duy nhất đưa tới ơn cứu độ: chính Đức Giêsu. Ơn cứu độ hệ tại sự hợp nhất với Thiên Chúa. Cũng như Người là cửa duy nhất, Đức Giêsu cũng là con đường duy nhất dẫn đến với Chúa Cha, trong tư cách Người là sự thật và sự sống. Người là “sự thật” có nghĩa là chỉ nhờ Người, ta mới có thể biết mầu nhiệm Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 16,16-19).
* Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (7-12 [14])
Chỉ nhờ Người, trong thực tại là Con Thiên Chúa, chúng ta mới được mạc khải cho biết Thiên Chúa quả là Cha và Người sống từ muôn đời trong sự hiệp thông yêu thương và bình đẳng với Người Con này (1,18). Người là “sự sống”, có nghĩa là chúng ta có được hợp nhất với Thiên Chúa Cha, tức là có sự sống vĩnh cửu đích thật, chỉ nhờ hợp nhất với Đức Giêsu. Không ai trong chúng ta là con người, chỉ nhờ sức riêng, mà có thể đạt tới Thiên Chúa trong thực tại đích thực của Ngài là Cha. Chỉ nhờ Đức Giêsu mà chúng ta được biết Chúa Cha và được kết hợp với Ngài.
Cũng như mỗi lần Người xác định bản thân bằng công thức Thầy/Ta là, ở đây cũng vậy, Đức Giêsu cho chúng ta thấy là nơi Người, Thiên Chúa đang hiện diện như là Đấng ban ơn cứu độ cho chúng ta. Ân ban lớn lao mà Thiên Chúa trao cho chúng ta và ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta biết, đó là chúng ta có thể đến với Ngài. Đối với chúng ta, Thiên Chúa là Đấng ẩn mình và vô phương đạt tới, nhưng Ngài không loại trừ việc chúng ta có thể đi đến với Ngài. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa ban cho chúng ta cái cửa và con đường, khiến chúng ta có thể kết hợp với Ngài. Chính Ngài hiện diện với chúng ta trong thực tại chân thật của Ngài, chứ không phải nhờ trung gian là các ân huệ đủ loại mà không phải là chính Ngài.
Trong câu trả lời cho Philípphê, Đức Giêsu giới thiệu cho thấy rõ ràng Người là con đường đưa tới Chúa Cha theo cách nào. Philípphê đã xin Người: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Chắc chắn ông đang nghĩ đến một cuộc thần hiển, một thị kiến trực tiếp về Thiên Chúa, một kinh nghiệm phi thường về Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không phải là “con đường” theo nghĩa là Người truyền đạt các hiện tượng và kinh nghiệm đặc biệt theo loại này. Ngược lại, Người là con đường theo cách các môn đệ đã trải nghiệm cho đến nay, bằng lời nói và các việc làm, bằng đời sống chung với các ông. Để có thể đi trên con đường này, điều kiện duy nhất là có đức tin. Với những ai có cái nhìn đức tin, Người bảo: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). Ai nhờ đức tin mà nhìn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì tức khắc nhờ đức tin đạt tới Chúa Cha. Chỉ đối với ai tin vào Người, Đức Giêsu mới là con đường, và sẽ tiếp tục là con đường cả khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các môn đệ. Các môn đệ và tất cả những ai tin nhờ chứng từ của các môn đệ có thể nhờ đức tin mà đạt tới Người, và nhờ Người, đạt tới Chúa Cha.
Trong câu trả lời sau đó cho Philípphê, Đức Giêsu cung cấp lý do cho thấy vì sao ai tin vào Chúa Con thì thấy Chúa Cha và đến được với Chúa Cha. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con (cc. 10-11): Chúa Cha và Chúa Con được liên kết với nhau hoàn toàn nên một và sống nên một như thế, có tất cả mọi sự chung với nhau. Không bao giờ Chúa Con lại không kết hợp hoàn toàn với Chúa Cha, và chẳng bao giờ Chúa Cha lại thôi kết hợp cách hoàn hảo với Chúa Con. Do đó ai ngắm nhìn Chúa Con với niềm tin thì thấy Chúa Cha nơi Người và nhờ Người.
+ Kết luận
Tại sao Phụng vụ lại đề nghị bản văn từ biệt này (Ga 14,1-12) cho chúng ta đọc và suy ngẫm sau lễ Phục Sinh? Là vì một ý muốn chỉ được đọc và thi hành sau cái chết của người viết ra. Những lời Đức Giêsu nói trong bữa tối cuối cùng được ngỏ với các môn đệ mọi thời.
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy” (14,2-3). Chỉ trong tư cách Đức Giêsu là Con Một ngang hàng với Thiên Chúa, Người mới là khung cửa và là con đường dẫn đến với Chúa Cha. Tất cả những con đường khác không thể đưa chúng ta đến đích được. Chúng ta không thể đạt tới Chúa Cha nhờ bất cứ một hướng dẫn viên nào khác, hoặc nhờ thực hành việc suy gẫm, hoặc nhờ những kỹ thuật thiêng liêng hay những phương pháp, hoặc nhờ bất cứ phương tiện nào ngoài Đức Giêsu. Chỉ nhờ Người, chúng ta mới có được sự hiểu biết về Thiên Chúa và được kết hợp với Thiên Chúa trong chính thực tại của Thiên Chúa là Cha.
Phải nói rằng lộ trình Đức Giêsu phải theo gồm có cả việc Chúa Cha sai phái Người đi lẫn việc Người trở về với Chúa Cha, và chỉ cuộc trở về này mới làm cho công cuộc mạc khải đạt tới hình thái hoàn thành.
Gợi ý suy niệm
-Đức Giêsu là người thật, giống như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, lại đồng thời là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình: Người thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến nỗi có một sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, về cuộc hiện sinh, giữa Người và Chúa Cha. Người chính là sự mạc khải chính xác về Chúa Cha nơi bản thân Người, nơi Lời Người, nơi hành động của Người. Người chính là Chúa Cha đến với chúng ta cách hữu hình cụ thể để chúng ta được tiếp xúc cụ thể với tình yêu của Thiên Chúa.
-Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại nói về Thiên Chúa như là một Đấng khác với Người. Đây chính là cốt lõi của mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào trong thời gian, trong không gian và trong các giới hạn của loài người. Con Thiên Chúa, trong khi vẫn là Con Thiên Chúa, lại chấp nhận khép mình vào trong các chiều kích của thực tại phàm nhân. Tiếp xúc với bản thân hữu hình của Đức Giêsu thì dễ hơn là tiếp xúc với Thiên Chúa vô hình; nhưng điều tuyệt vời là khi tiếp xúc với Con Thiên Chúa hữu hình, chúng ta lại được gặp Thiên Chúa vô hình. Tin vào Chúa Con là có thể tin vào Chúa Cha. Tin vào Chúa Cha lại đưa đến cho chúng ta sự bình an, sức mạnh, niềm vui.
-Chúng ta đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu. Do đó, Đức Giêsu luôn quan tâm lo lắng chăm sóc cho chúng ta. Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng được ở đó. Người cầu nguyện và hành động để nhờ kết hợp với Người, chúng ta được tham dự vào sự sống mà Chúa Cha trao ban. Đây là một thách đố cho đức tin chúng ta, bởi vì chúng ta đang được tiếp cận với mầu nhiệm thâm sâu của chính Thiên Chúa: lời lẽ con người không đủ khả năng diễn tả; chỉ nhờ chiêm ngưỡng, chúng ta mới ngày càng hiểu rõ nội dung những lời Đức Giêsu nói ra như thể nghịch lý.
-“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự thật hoặc sự mạc khải về Chúa Cha, để khi loài người biết Người, thì cũng biết Chúa Cha và khi loài người thấy Người là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự sống (do Người sống trong Chúa Cha và Chúa Cha sống trong Người), Người là con kênh dẫn sự sống của Chúa Cha đến với loài người.
—————————————————
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH – NĂM A
CON ĐƯỜNG GIÊSU (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung vào đề tài Giáo Hội.
Cv 6: 1-7
Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.
1Pr 2: 4-9
Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giê-su Ki-tô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Ga 14: 1-12
Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giê-su giải thích nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi, là nhà Cha của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)
Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với nhóm Mười Hai. Giữa cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Lu-ca đưa ra hai lý do cho quyết định nầy: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Ki-tô hữu Do thái bản địa” và những “Ki-tô hữu Do thái hải ngoại”.
Trong Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem, có những Ki-tô hữu Do thái sinh trưởng ở Pa-lét-tin và nói tiếng A-ram, và những Ki tô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giê-ru-sa-lem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sa-bát được cử hành bằng tiếng Hy-lạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-lạp. Số người Ki-tô hữu Do thái hải ngoại nầy chắc chắn là thiểu số.
Mối bất hòa:
Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa nầy tạo cơ hội cho các Tông Đồ trút đi những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.
Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người:
Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông…đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa họ là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Kitô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.
Dường như tất cả bảy cộng tác viên nầy được chọn giữa khối Kitô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hy-lạp. Dù thế nào, sự chọn lựa nầy chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hy-lạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Ni-cô-la quê An-ti-ô-ki-a, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Kitô giáo. Ông là người Ki-tô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.
Nghi thức đặt tay :
“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức nầy đã được thực hành từ xa xưa. Ông Mô-sê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34 : 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.
Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.
Nhiều tư tế đón nhận đức tin :
Thánh Lu-ca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Kitô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Kitô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giê-ru-sa-lem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khởi đi với việc bắt giữ một trong bảy cộng tác viên, thánh Tê-pha-nô.
BÀI ĐỌC II (1Pr 2 : 4-9)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Ki-tô.
Chúng ta nên nhớ rằng thư nầy được gởi đến cho những Ki-tô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc nhở họ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.
Ẩn dụ của đá :
Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc nhất, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, không gì sống động hơn là đá: “trơ trơ như đá”. Ấy vậy, Đức Ki-tô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28 : 16), đá tảng góc tường (Tv 118 : 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3 : 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ Giáo Hội, người mà Đức Giê-su gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.
Viên đá sống động :
“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô : “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3 : 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phê-rô sử dụng cũng là động từ mà Đức Ki-tô sử dụng khi Ngài nói với Phê-rô : “Con là đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.
Chức tư tế thánh:
“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV nầy có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.
Hiến lễ thiêng liêng :
“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả nầy rất gần với tư tưởng của thánh Phao-lô, ví dụ như trong thư gởi các tín hữu Rô-ma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12 : 1).
Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin :
Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình : việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Ki-tô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Kitô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.
Căn nguyên của ơn cứu độ:
Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phê-rô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mê-si-a của Ngài.
“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp nầy cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Ki-tô; nghĩa là trong Đức Kitô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.
Cớ vấp ngã:
Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” và Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh nầy để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giê-su Kitô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4 : 10-11).
Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ nầy.
Đức Giê-su đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).
Dân Thiên Chúa mới nầy, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới nầy: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.
TIN MỪNG (Ga 14 : 1-12)
Đoạn văn nầy được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.
Bối cảnh:
Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Thương Khó của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.
Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giê-su nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giê-su và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mê-si-a là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giê-su sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.
Đức Giê-su sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần nầy) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).
Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài :
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giê-su gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở nầy, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giê-su không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn nầy chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời nầy. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng nầy, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tô-ma, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận nầy để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.
“Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”
Chữ “đường” thuộc về từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giê-su đã lấy lại hình ảnh nầy lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7 : 8).
Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng vì chính con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ con đường nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10 : 9).
“Thầy là Sự Thật”. Đức Giê-su đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.
“Thầy là Sự Sống”. Đức Giê-su là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10 : 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, vân vân.
Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và Sự Sống” rồi.
Biết Đức Giê-su chính là biết Cha Ngài :
Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giê-su tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, căn tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau nầy, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giê-su nói : “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giê-su, nên một tròn đầy với Cha, nói : “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.
Chính lúc đó thánh Phi-lip-phê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ nầy chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Phi-líp-phê (Ga 1 : 43), bánh hóa nhiều (Ga 6 : 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giê-su (12 : 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14 : 8). Phi-líp-phê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng nầy là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.
Đó cũng là khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Kitô, để từ đây ai thấy Chúa Giê-su là thấy Đức Chúa Cha.
Công việc của Ngài chính là lời chứng :
Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giê-su nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giê-su nhắc cho những tâm trí quá cụ thể này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giê-su hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng hơn.
Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Kitô. Lời dạy nầy tóm gọn tất cả Tin Mừng.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
—————————————————–
THEO ĐỨC KITÔ LÀ ĐƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Mọi người đều muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó ? Chúng ta biết Đức Kitô vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).
Mục đích của chúng ta phải vươn tới là nhận biết Chúa Cha, mà người ta chỉ có thể nhận biết Chúa Cha nhờ Đức Giêsu. Đức Giêsu được sai đến với lòai người để trả lời những câu hỏi đang làm họ bận tâm như Thiên Chúa là ai, bởi đâu mà có ? Không ai trả lời cho chính xác ngọai trừ Ngài, bởi chính Ngài biết rõ mối dây thân tình Cha Con. Đức Giêsu còn là chân lý, là sự sống. Vì Ngài là hình ảnh Ngôi Cha. Ngài là tiếng nói của Chúa Cha. Thiên Chúa đã phán :”Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thiên Chúa là chân lý thì tiếng nói của Ngài cũng là chân lý vậy.
Chúa nhật trước, chúng ta đã nhận Chúa Giêsu là Chúa chiên nhân lành. Mọi người tín hữu vui mừng và yên tâm vì đã có Chúa Giêsu là mục tử chăn dắt. Người yêu thương và bảo vệ đàn chiên.. Con chiên phải nghe tiếng chủ chăn và đi theo sự hướng dẫn của chủ để được sống và được sống dồi dào. Hôm nay, chúng ta hãy xác định lại lập trường của chúng ta là phải tin theo Chúa Giêsu vì Người là đường, là sự thật và là sự sống. Muốn đến cùng Chúa Cha, cần thiết phải qua Ngài. Chỉ có duy nhất Ngài là đường dẫn tới sự sống. Hãy dấn bước theo Ngài và theo Ngài là phải từ bỏ nếp sống cũ, từ bỏ tất cả những gì không hợp với đường lối của Ngài, phải đi qua cửa hẹp, tức là theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi, chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 6,11-7.
Cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mỗi ngày một thêm đông, đời sống tốt đẹp nhưng cũng không thiếu những khó khăn. Các Tông đồ phải giải quyết cách nào cho êm đẹp.
Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống không đồng đều : các bà góa bị lãng quên, do đó mới có những lời kêu trách. Các Tông đồ giải quyết khó khăn đó bằng việc thiết lập tác vụ phó tế để chuyên lo các công việc cứu trợ, bác ái và lương thực của cộng đoàn, để các ngài có thời giờ đi loan báo Tin Mừng.
Nhờ cách giải quyết khéo léo này mà cộng đoàn lại đoàn kết thương yêu nhau và tăng số. Đây là mô hình đẹp trong việc phân chia các chức vụ và công tác cho Giáo hội ngày nay : có người chuyên lo đời sống vật chất, có người chuyên lo việc cầu nguyện và loan báo Tin Mừng.
+ Bài đọc 2 : 1Pr 2,4-9.
Thánh Phêrô nhắc cho các tín hữu nhớ lại phẩm giá cao qúi của mình, cũng như những trách nhiệm mà mình phải chu toàn để đáp lại tình yêu của Chúa Kitô.
Phẩm giá của Kitô hữu : là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo việc tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa.
Trách nhiệm phải chu toàn : Đức Kitô là viên đá tảng, các Kitô là những viên đá sống động được xây lên trên để xây nên một đền thờ thiêng liêng. Cho nên họ phải công bố những việc kỳ diệu của Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng, dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Chúa, xây dựng hoà bình, công lý và tình yêu.
+ Bài Tin Mừng : Ga 14,11-12.
Trong tâm tình Thầy trò trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài sẽ trở về cùng Cha. Ngài ra đi là để dọn chỗ cho các ông vì nhà Cha còn nhiều chỗ. Người khuyên các ông đừng xao xuyến vì Ngài đi dọn chỗ và sau đó sẽ quay trở lại đón các ông, để Ngài ở đâu, các ông cũng ở đó với Ngài. Có nhiều cách giải thích khác nhau về lời loan báo sự ra đi này của Đức Giêsu. Nhưng đúng hơn hết, sự ra đi này Đức Giêsu trở về với Chúa Cha ám chỉ biến cố Phục sinh.
Còn đối với các tông đồ muốn biết Chúa Cha thì Đức Giêsu chỉ trả lời là ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha vì Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Ngài nhắc cho các ông :”Muốn đến với Chúa Cha thì hãy tin vào Ngài, hãy theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngàii”(Ga 14,8).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bước theo Chúa Giêsu Kitô.
HÃY TIN VÀO ĐỨC GIÊSU.
Những lời trấn an.
Đức Giêsu nhiều lần nói với các môn đệ là Ngài sắp ra đi, dù vậy họ chẳng bao giờ hiểu nổi. Những lời Đức Giêsu báo trước cho các ông : Giuđa sẽ nộp Thầy (Ga 13,21-26), Phêrô chối Thầy (Ga13,3-6), Ngài ra đi chịu tử nạn (Ga 12,32), và viễn cảnh phải xa vắng bóng Thầy giữa một thế giới thù nghịch, đã làm cho tâm trí các môn đệ tràn ngập lo âu xao xuyến (Ga 14,23; 16,6-20). Đức Giêsu trấn an các ông bằng cách tỏ cho các ông thấy Ngài ra đi sẽ làm cho các ông hiệp thông thâm trầm hơn nữa với Ngài và với Chúa Cha, và chính Thánh Linh sẽ bảo đảm cho việc phù trì che chở các ông trong cơn giông tố thiêng liêng của cuộc sống. Trọng tâm lời khuyên nhủ trấn an nằm trong câu :”Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Câu này có nghĩa rằng : Các con đã tin vào Thiên Chúa thế nào thì cũng hãy tin vào Thầy như vậy. Theo đó, Đức Giêsu muốn kêu gọi các môn đệ tin vào thiên tính của Ngài.
Trả lời thắc mắc của Tôma.
Đức Giêsu nói :”Thầy còn ở với các con ít lâu nữa, rồi Thầy đi về cùng Đấng sai Thầy”(Ga 7,33). Đức Giêsu nói Ngài sẽ về với Cha, là Đấng đã sai Ngài đến, Ngài với Cha là một, nhưng họ vẫn không hiểu. Đức Giêsu còn nói thêm :”Thầy đi đâu các con đã biết đường rồi” (Ga 14,4). Họ không hiểu con đường Ngài sắp đi là con đường nào vì đó là đường thập tự, nên ông Tôma mới nói :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14,5). Thật vậy Tôma là người thật thà và cũng là con người thực nghiệm, thích sờ mó, nhìn xem và chứng kiến, không chịu thỏa mãn với những câu nói mơ hồ. Ông muốn biết chắc chắn, nên đã bộc lộ những nghi ngờ về những gì ông không hiểu : chẳng hiểu được ý nghĩa việc Chúa ra đi.
Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Tôma :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Nói như vậy là Ngài có ý muốn nói gì ? Ngài có ý nói rằng Ngài là người dẫn đường, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta, chúng ta sẽ không sợ lạc đường. Đó là việc Đức Giêsu đang làm cho chúng ta. Ngài không chỉ đưa ra những lời khuyên dạy, chỉ hướng đi mà thôi, nhưng Ngài nắm lấy bàn tay và dẫn chúng ta đi. Ngài cùng đi với chúng ta, đích thân Ngài thêm sức cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Không phải Ngài chỉ cho chúng ta con đường mà chính Ngài là Đường đi của chúng ta.
Chữ “Đường” trong Tin mừng hôm nay không những chỉ có nghĩa là Đức Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Ngài là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Ngài là mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45), tuy Ngài bởi Chúa Cha mà đến và về với Chúa Cha (Ga 7,29-33), nhưng Ngài lại là một với Chúa Cha (Ga 13,30) vì chính Ngài là sự thật và là sự sống (Ga 3,15).
Chúng ta có thể tóm tắt điều Đức Giêsu muốn nói : Nếu không nhờ Thầy, không ai đến được với Cha. Chỉ một mình Đức Giêsu là con đường đến với Thiên Chúa. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Ngài đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.
TIN TƯỞNG BƯỚC THEO ĐỨC KITÔ.
Đức Giêsu là ai ?
Các môn đệ ở bên Chúa Giêsu ba năm mà vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai. Sự hiểu biết của họ còn rất lơ mơ. Khi Đức Giêsu nói về Chúa Cha, Cha của Ngài, thì họ càng bỡ ngỡ, không hiểu chút nào. Vì thế, trong các môn đệ quây quần chung quanh Đức Giêsu chiều nay trong bữa tiệc ly tạ từ, có một môn đệ có một đầu óc rất thực tế. Đó là Philipphêâ. Đối với ông, nghe Chúa, biết Cha là một cái gì quá trừu tượng. Ông muốn được như Maisen nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa (Xh 33,18), nên, đại diện cho các bạn ông nói :”Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
Với vẻ mặt buồn buồn, Đức Giêsu đã phản ứng lại mạnh mẽ :”Philipphê ! Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy”. Sự hiểu biết Thiên Chúa không phải là sự hiểu biết trừu tượng mà là sự hiểu biết và gặp gỡ một con người. Con người ấy chính là Đức Giêsu, hình ảnh của Đức Chúa Cha. Vì thế, Chúa phán :”Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư “? Hai nhưng là một , đồng nhất trong một bản thể với Chúa Thánh Thần :”Ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha. Cha Ta với Ta là một”. Trọn cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì Người kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha, công việc của Ngài là chính Chúa Cha thưcï hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha (Cf Hồâng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 75).
Khi nói rằng chúng ta biết Chúa, nhưng thực sự chúng ta mới có một khái niệm về Chúa chứ chưa thể diễn tả ra thế nào cho đúng. Thỉnh thoảng chúng ta nghe thấy có người nói như sau :”Kitô hữu nói về Chúa thế này. Người Do thái bảo Chúa thế kia. Người Hồi giáo cho Ngài thế khác. Phật tử còn quan niệm Ngài khác hơn nữa. Tôi cảm thấy rối trí quá nên chẳng biết nghĩ gì và cũng chẳng biết tin ai”.
Mỗi khi nghe được một người tuyên bố như thế, tôi liền nhớ lại bài thơ của John Saxe liên quan đến năm gã mù Ấn độ đứng vòng quanh một con voi và thắc mắc con voi giống cái gì. Một gã sờ vào hông voi và bảo nó giống như bức tường. Gã thứ hai sờ vào chiếc ngà và bảo nó giống như một thanh gươm. Gã thứ ba đụng vào chiếc vòi và bảo nó như rắn khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào lỗ tai và bảo nó giống như chiếc quạt. Gã mù sau cùng sờ vào đuôi và bảo nó giống như sợi dây thừng. Thế thì ai trong năm gã này là đúng ? Có lẽ câu trả lời hay nhất là cả năm gã đều đúng, mỗi gã đúng theo quan điểm của mình. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau họ mới có thể có được một cái nhìn đầy đủ và sáng suốt hơn để trả lời chú voi thực sự như thế nào.
Vài người bảo : đối với trường hợp Thiên Chúa cũng thế. Họ bảo : Người Do thái có lối hiểu Thiên Chúa, người Hồi giáo có một lối thứ hai để thấu hiểu Chúa, người Phật giáo lối thứ ba và các Kitô hữu lối thứ tư. Chỉ nhờ đối thoại với nhau họ mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ rõ ràng hơn về Thiên Chúa. Thế là lại khơi lên một vấn nạn : Làm sao tôn giáo này có thể tự hào rằng mình gần với chân lý hơn các tôn giáo khác ? Chẳng hạn, làm sao các Kitô hữu dám cho rằng mình có cái nhìn chính xác về Chúa hơn bất kỳ tôn giáo nào khác ?
Câu trả lời cho vấn nạn trên dĩ nhiên được đặt vào nền tảng đức tin nơi Đức Giêsu của người Kitô hữu. Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài là Thiên Chúa bằng một cách thức mà không một vị lãnh đạo tôn giáo nào dám tuyên bố. Và hơn thế nữa, Đức Giêsu còn đồng hoá mình với Thiên Chúa: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Từ “một”, không có tiếng trước hay sau đi kèm, có nghĩa là “đồng một bản tính”. Như vậy, Đức Giêsu tuyên bố rõ sự thực này : Ngài và Chúa Cha cùng có một quyền năng chung, tức là “đồng một bản tính”. Điều này không một vị lãnh đạo nào trên thế giới này dám làm (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 108-109).
Từ xưa đến nay các nhà sáng lập tôn giáo, không ai dám nói :”Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30), chỉ có một mình Đức Giêsu mới dám nói :”Hãy tin vào Ta khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Ta ở trong Cha” (Ga 14,11). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là bánh từ Trời xuống… Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sự sống đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,51,54). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ có ánh sáng ban sự sống và sẽ không bao giờ bước đi trong tăm tối” (Ga 8,12). Như vậy, chúng ta phải nói rằng Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha. Chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên phải tin theo Người.
Bước theo Chúa Giêsu Kitô.
Đức Giêsu báo cho các tông đồ việc ra đi của Ngài là để dọn chỗ cho các ông :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì các con biết đường rồi” (Ga 14, 3-4).
Ông Tôma thắc mắc và rất hồn nhiên chất phác hỏi :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đuờng đi”. Nhân dịp này, Đức Giêsu cho biết Ngài là con đường đưa họ đến với Chúa Cha, qua Ngài họ mới có thể vào được Nước Trời nên mới nói :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới sự sống.
Chúng ta hãy bước theo chân Chúa Giêsu. “Theo” ở đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, như chấp nhận một học thuyết, một tư tưởng hay chỉ đi theo sau một người, mà có một ý nghĩa sinh động hơn, nghĩa là phải chấp nhận người mình theo, nhận lậy số phận người mình theo, gắn bó khăng khít với họ như “thuyền theo lái, gái theo chồng”. Ngoài ra còn phải chia sẻ đời sống với người ấy, bất chấp những rủi ro xẩy ra, chấp nhận tất cả như cô gái nói với chàng trai :
Lên non thiếp cũng lên theo,
Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau.(Ca dao)
Đức Giêsu đã kêu gọi mọi người hãy đi theo Chúa vì chỉ mình Ngài mới có thể ban ơn cứu độ, mới có thể dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Tuy nhiên, muốn theo Chúa cũng cần phải có một số điều kiện, đòi họ phải kiên trung đến cùng, đừng để xẩy ra cảnh “giữa đường đứt gánh. Trước khi theo Chúa hãy suy nghĩ cho kỹ, giống như người định xây nhà, phải tiên liệu để hoàn thành, đừng để dở dang.
Từ bỏ mọi sự.
Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy theo Ngài, lời kêu gọi ấy có tính cách hoàn toàn tự do, muốn theo hay không theo cũng được vì Ngài chỉ dùng chữ “nếu”, không có tính cách bắt buộc. Ngài nói :”Nếu ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Đã có trường hợp người ta không dám chấp nhận điều kiện Chúa đưa ra như trường hợp người thanh niên giầu có đến xin làm môn đệ Chúa, nhưng anh ta không thể chấp nhận được điều kiện này nên đã bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu sang vô cùng đã muốn trở nên con người nghèo khó đến tuyệt cùng để chia sẻ số phận nghèo khó của con người. Chúa đã nói :”Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”(Mt 8,20 ; Lc 9,58) . Nếu yêu Chúa, muốn theo Ngài thì đòi buộc từ bỏ tất cả, từ bỏ chính con người của mình vàchấp nhận mọi rủi ro trong khi theo Chúa. Chúng ta có dám can đảm chấp nhận điều kiện ấy không ?
Trong văn chương bình dân, người ta có đưa ra một hình ảnh tương tự như thế. Đó là trường hợp một người thanh niên nghèo được một thiếu nữ yêu thương muốn theo, anh ta cho biết là mình nghèo lắm, chỉ sống nhờ sự bố thí của người ta thôi, không có gì cả ; hay nói đúng hơn anh ta chỉ có cái nghề đi ăn mày thôi, có dám theo không, nên anh ta nói :
Lấy anh, anh sắm sửa cho :
Cái bị, cái bát, cái quạt mo đuổi ruồi.(Ca dao)
Phải qua cửa hẹp.
Theo Chúa thì đòi buộc phải hy sinh, hy sinh cả những cái được phép, có khi phải hy sinh cả thân mình và phải nhận đến cái chết. Theo Chúa là phải khép mình vào như Chúa nói :”Hãy vào qua cửa hẹp” (Mt 7,13-14 ; Lc 13,24) vì”Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”, sức mạnh đây không phải là sức mạnh thể xác nhưng là sức mạnh tinh thần, phải chiến đấu kiên cường, không chịu lùi bước theo phương châm :”Per crucem ad lucem”.
Từ bỏ mình… Vác thập giá… là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt cái “tôi” của chúng ta. . Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi” tốt lành, “cái tôi” chân thật. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hãy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các công việc của Chúa” (A. Sève, Sương mai, tr 209).
Vâng ý Cha trên trời.
Theo Chúa thì không còn gì là của mình nữa vì đã phó thác trọn vẹn cho Chúa để hoàn toàn thuộc về Người. Trong mọi việc chúng ta chỉ còn biết làm theo thánh ý Chúa, ý Chúa trên hết theo như kinh Lạy Cha :”Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”. Vì thế, Đức Giêsu đã khuyên nhủ những người đã theo Ngài muốn vào được Nước Trời thì phải thi hành thánh ý Chúa :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, mà chỉ có những ai thi hành ý Cha Ta ở trên trời”(Mt 7,21-23 ; Lc 6,46 ; 13,26-27).
Truyện : cậu bé đánh trống.
Trận chiến giữa Pháp và hai nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau :
Đại tướng Bonaparte đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy, đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua ! Đại tướng xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô :”Ai yêu tổ quốc thì theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống chân bước qua cầu theo đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấn dứt cuộc chiến tranh ấy.
Tám năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 20 tuổi hiện trong quân đoàn tại đó.
Hỏi đến Vidal thì cậu đã nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon đã bãi bỏ mọi lễ nghi quân cách, đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi bộ với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp :”Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau kho,å con cho ta theo con cho có bạn”(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 1, tr 5).
Đạo là đường đưa dẫn đến sự sống chính là Chúa, và không có gian lao khổ cực nào làm cho ta chối bỏ được. Những tháng năm đầu thế kỷ 20 này, nhiều người đã gặp những anh hùng vô danh còn sống sót trên đất nước Việt nam chúng ta. Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt giam cầm, bị người ta rạch mặt lấy mực tầu xâm lên trên má hai chữ “Tả dạo”, đi đâu ai cũng nhận ra là người theo tả đạo ; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của Đức tin kiên cường sáng chói. “Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta”(Gv 44.1), đã tin Đạo, đã sống Đạo, đã hy sinh vì Đạo, gương sáng chói cho chúng ta trên đường về Trời. (Hồng Phúc).
———————————————————-
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
SỐNG TRONG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Có một điều chúng ta hay quên nên Thánh lễ hôm nay muốn nhắc chúng ta nhớ. Đó là chúng ta tuy ở giữa thế giới này nhưng lại thuộc về một “dân thánh”, “dân được Thiên Chúa tuyển chọn”. Đây là một vinh dự, đồng thời là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì hãy đến với Chúa trong Thánh lễ. Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Là thành phần của một cộng đoàn được Chúa quy tụ, nhưng chúng ta hay chia rẽ nhau.
– Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng chúng ta ít quảng đại hiến thân cho Chúa.
– Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Nhưng nhiều khi chúng ta không bước theo Ngài, học với Ngài và sống như Ngài.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Cv 6,1-7
Bài tường thuật này mô tả nếp sống của cộng đoàn tín hữu sơ khai, một cộng đoàn không thiếu những khó khăn nội bộ, nhưng đã biết cách giải quyết thỏa đáng nên vẫn tiếp tục lớn mạnh.
– Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống, gây ra những sự kêu trách.
– Các tông đồ đã đưa vấn đề ra tập thể, đề nghị một giải pháp theo hướng chia sẻ trách nhiệm (chọn 7 phó tế lo việc đời sống), và tập thể đã nhất trí.
– Nhờ khéo giải quyết nên cộng đoàn lại đoàn kết yêu thương và tăng số.
Đáp ca : Tv 32
Chúng ta có gì phải sợ trên con đường dương thế ? Đã có chính Đức Giêsu đi bên cạnh chúng ta ; Ngài dẫn chúng ta về nhà Chúa Cha ; Ngài nuôi chúng ta bằng tình yêu thương của Ngài ; Ngài luôn bênh vực chúng ta và cứu chúng ta thoát khỏi cái chết đời đời.
Bài đọc II : 1 Pr 2,4-9
Thánh Phêrô nhắc tín hữu nhớ đến phẩm giá cao quý và trách nhiệm của họ :
– Phẩm giá : Tín hữu là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự và là dân riêng của Thiên Chúa.
– Trách nhiệm : Hãy để Thiên Chúa dùng mình như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần ; hãy dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa ; hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Ngài.
Bài Tin Mừng : Ga 14,1-12
Bài Tin Mừng kêu gọi tín hữu đi theo Đức Giêsu, học với Ngài và sống với Ngài, bởi vì Ngài là đường, sự thật và sự sống :
– Đức Giêsu là đường vì Ngài dẫn tín hữu đến với Chúa Cha, nguồn hạnh phúc đích thực.
– Đức Giêsu là sự thật vì Ngài phát xuất từ Chúa Cha là nguồn chân lý, và Ngài dạy cho chúng ta biết Chúa Cha.
– Đức Giêsu là sự sống vì “sự sống đích thật là nhận biết Chúa Cha và Đấng Ngài sai đến” (Ga 17,3).
GỢI Ý GIẢNG
Giáo Hội vừa thánh thiện vừa tội lỗi
Bài đọc thứ hai (thư Phêrô) trình bày vẻ thánh thiện của Giáo Hội : Giáo Hội là “giống nòi được tuyển chọn, là hoàng gia chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa”. Vì thế tín hữu hãy “để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần… dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa…”
Nhưng bài đọc 1 (sách Công vụ) cho thấy trong cộng đoàn Giáo Hội vẫn có bất công, sinh ra tranh chấp và kêu ca. Thành thử “ngôi đền thờ của Thánh Thần” cũng khó mà xây dựng, những “viên đá sống động” khó mà ăn khớp với nhau, và “những của lễ thiêng liêng” khó mà đẹp lòng Thiên Chúa.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng khuyến khích chúng ta hãy an tâm, cứ vững tin và trung thành đi theo Đức Giêsu thì mọi sự sẽ ổn, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và Là sự sống.
Xao xuyến
Có biết bao điều làm cho con người xao xuyến : bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, xa cách người thân v.v.
Đức Giêsu biết tất cả những điều đó, nhưng Ngài vẫn khuyên “Lòng chúng con đừng xao xuyến”, vì Ngài nhìn mọi sự từ trên cao. Từ cao nhìn xuống, cái nhìn của Ngài bao quát hơn và thấy trọn vẹn hơn : Ngài không chỉ thấy hiện tại đang bế tắc mà còn thấy tương lai xán lạn. Nhờ cái nhìn ấy nên mặc dù trong Vườn Cây Dầu Ngài thấy hình như đang đứng trước ngõ bí nhưng Ngài vẫn tiến bước nên cuối cùng đã đến ánh sáng phục sinh.
Bởi thế, Ngài kêu gọi chúng ta : “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Nếu tin thì không còn xao xuyến nữa.
Chia sẻ công việc trong Giáo Hội
Những công việc trong Giáo Hội rất là nhiều, nhưng số Giám mục và Linh mục lại quá thiếu. Nhìn trong phạm vi một giáo xứ cũng thế : giáo dân thì đông nhưng những người lo việc thì ít. Chỉ có Cha Xứ, vài tu sĩ và một ít thành viên Hội đồng giáo xứ. Khủng hoảng.
Nhưng cơn khủng hoảng này đã có ngay từ hồi Giáo Hội sơ khai. Và Giáo Hội sơ khai đã giải quyết một cách khéo léo bằng cách chia sẻ trách nhiệm : các tông đồ chuyên lo rao giảng Lời Chúa, các phó tế lo cho đời sống. Có lẽ từ kinh nghiệm này mà Thánh Phêrô đã đề ra nguyên tắc mọi người tham gia vào việc chung của Giáo Hội : “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ Thánh Thần”. Mỗi người đều là một viên đá. Người thì xây nền, người thì xây tường, người khác xây cổng v.v.
Thực ra, một cộng đoàn mà sinh động thì tất nhiên phát sinh thêm những công việc. Và nếu các thành viên của cộng đoàn thiết tha với sức sống của cộng đoàn thì sẽ biết cách thu xếp để chu toàn mọi công việc theo hướng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Và được như thế thì chắc chắn “số các môn đệ sẽ ngày càng thêm đông”.
Chuyện minh họa “Ta là đường, sự thật và sự sống”
a/ Đường
Một người đố bạn mình :
– Đố anh trong Tin Mừng câu nào ngọt ngào nhất ?
– Thiên Chúa là Tình yêu.
– Không phải.
– Vậy chứ câu nào ?
– “Ta là đường”
– ! ! ! ? ? ?
b/ Sự thật : Sự thật ở đâu ?
– Một tai nạn xe hơi xảy ra trong một thành phố nhỏ. Đám đông vây kín nạn nhân khiến một nhà báo không sao nhìn thấy được. Anh ta chợt nảy ra một ý nghĩ và kêu lên “Tôi là bố của nạn nhân đây. Tránh ra”. Đám đông tránh lối cho anh ta lại gần. Khi chứng kiến cảnh tượng, anh ta mới vô cùng mắc cỡ, vì nạn nhân là một con lừa ! (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)
– Một nhà xuất bản gởi tới tác giả của một bản thảo lời từ chối sau đây : “Chúng tôi đặc biệt thích thú đọc bản thảo của ông. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi xuất bản tác phẩm của ông, chúng tôi sẽ hoàn toàn không bao giờ còn có thể xuất bản một tác phẩm nào khác ngang tầm giá trị được với nó. Và chúng tôi không thể hình dung được làm sao trong vòng một trăm năm nữa lại có một tác phẩm nào khác có thể sánh được với tác phẩm của ông. Vì thế chúng tôi rất tiếc phải buộc lòng gởi lại ông bản văn tuyệt vời này. Và ngàn lần chúng tôi xin ông tha lỗi cho vì sự thiển cận và yếu kém của chúng tôi”. (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)
Sự sống
Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Ban đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói : “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng ? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức.”
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Người. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Một trong những mục tiêu Hội Thánh luôn theo đuổi / là tạo được sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho công trình đại kết của Hội Thánh / sớm đạt được kết quả mong muốn.
2- Trên thế giới ngày nay / có biết bao người đang noi gương Đức Kitô / xả thân phục vụ những người nghèo khổ nhất trong xã hội / ở các trại phong / các bệnh viện tâm thần / nơi những vùng rừng thiêng nước độc đầy dẫy hiểm nguy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / luôn gìn giữ và nâng đỡ những con người quảng đại ấy.
3- Con người vốn bản tính yếu đuối nên rất dễ nản lòng / tuyệt vọng trước những đau khổ / những khó khăn trong đời sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang gặp thử thách / luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô biên / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.
4- Ngay trong một xứ đạo / nhiều khi sự chia rẽ / mất đoàn kết / vẫn còn rất trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / để sống hiệp nhất và yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT : Lạy Chúa, thánh Phêrô đã bảo chúng con “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những công trình vĩ đại của Người”. Xin cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương của Chúa và thực hiện trọn vẹn vai trò chứng nhân của mình. Chúng con cầu xin nhờ…
————————————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
ĐƯỜNG GIÊSU – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.–
Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.
Chúa Giêsu là người mở đường.
Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.
Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.
Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.
Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.
Chúa Giêsu là đường.
Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.
Chúa Giêsu là đích tới của con đường.
Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.
Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.
Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.
Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)
2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?
3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?
——————————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
NHÀ CHA- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.
Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.
Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.
Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.
Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.
Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.
———————————————————-
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
HÃY TIN TƯỞNG VÀO CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến – 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện” gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.
Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên – Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.
Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng : “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông : ” Thầy đi để dọn chỗ cho các con ” (Ga 14, 2), và sau đó ” Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: “: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: “” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “(Ga 14, 6).
“Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”(Ga 14,12).
Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? “Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Ga 14, 2).
Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền…
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
—————————————————-
TRỞ NÊN HÌNH ẢNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxio Trần Ngà
Nhiều lần Chúa Giê-su nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò: Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Phi-líp-phê mới đề nghị với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”
Chúa Giê-su là hình ảnh của Chúa Cha
Bởi vì trăm nghe không bằng một thấy và vì không thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha, nên Chúa Giê-su chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9. 12,45).
Tiếp theo, Chúa Giê-su cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giê-su nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giê-su; những gì Chúa Giê-su thực hiện trong cuộc đời cũng là những hành động của Chúa Cha…: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Ngài làm những việc của mình. (Gioan 14, 10).
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giê-su. Nhìn vào Chúa Giê-su, nhân loại sẽ nhận biết Thiên Chúa Cha.
Giáo hội là hình ảnh của Chúa Giê-su
Tương tự như Phi-líp-phê hôm xưa thỉnh cầu Chúa Giê-su bày tỏ cho các môn đệ biết Chúa Cha, thì nay, nhiều người cũng muốn nhờ chúng ta bày tỏ cho họ nhận biết chân dung của Chúa Giê-su.
Trước vấn nạn nầy, thánh A-tha-na-si-ô đưa ra một chỉ dẫn cụ thể như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và mỗi người chúng ta, vì là thành phần của Giáo hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giê-su.
Trở nên tấm ảnh đẹp của Chúa Giê-su
Thiên Chúa tạo dựng nên con người theo hình ảnh Chúa. Hơn nữa, ki-tô hữu còn là chi thể của Chúa Giê-su (I Cor 6,15), là hiện thân của Thiên Chúa, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su (Rm 8, 29. Pl 3,10)). Vì thế, ki-tô hữu thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, bày tỏ chân dung Thiên Chúa cho mọi người.
Giờ đây, nhìn lại mình, chúng ta có xứng đáng là hình ảnh, là tấm chân dung của Chúa chưa?
Có một số người rất sợ bị người khác chụp hình, hoặc khi cần phải chụp hình thì cố tạo dáng, phải nở nụ cười thật duyên, phải làm sao cho ăn ảnh… vì sợ rằng tấm ảnh của mình, khi in ra, không đẹp.
Tâm lý của người đời là hễ “tốt thì khoe nhưng xấu thì che”, do đó, ai cũng sợ phô bày hình ảnh không đẹp của mình cho thiên hạ trông thấy.
Một khi tấm ảnh được in ra, nếu thấy chân dung của mình tươi đẹp, người ta muốn phóng ra khổ lớn để trưng bày giữa phòng khách, muốn đưa lên “mạng” để cho nhiều người chiêm ngưỡng; ngược lại, nếu thấy chân dung mình xấu xí, người ta giấu kín hoặc huỷ nó đi.
Mỗi một ki-tô hữu cũng là một tấm ảnh của Chúa Giê-su. Chắc chắn Chúa Giê-su không muốn chân dung của Ngài xấu xí. Có lẽ Chúa Giê-su cũng muốn dùng “nghệ thuật sửa ảnh” để chỉnh sửa tấm ảnh của mình cho xinh đẹp và tất nhiên, Chúa Giê-su cũng muốn trưng bày chân dung tươi đẹp của Ngài ra cho người ta trông thấy (Mt 5,16) và điều đáng buồn, là có lẽ Chúa Giê-su cũng muốn che giấu những tấm chân dung xấu xí của Ngài đi.
Là ki-tô hữu, là chân dung của Chúa Giê-su, chúng ta cần phải được “chỉnh sửa” hằng ngày, không phải bằng kỹ thuật photoshop hiện đại, nhưng bằng cách chừa bỏ thói hư tật xấu và trau dồi nhân đức, để những vết đen của tội lỗi được xoá bỏ đi, để cho nét đẹp của tâm hồn đạo đức được toả sáng, nhờ đó, Chúa Giê-su sẽ hãnh diện về ta là tấm chân dung tươi đẹp của Ngài.
Đã bao lần chúng con làm cho chân dung Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực của Chúa cho thế giới hôm nay.
—————————————————
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
THIÊN CHÚA CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An——-
Phúc Âm Thánh Gioan chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.
Tôma và Philipphê đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý thật quan trọng:
– Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
– Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.
Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con ( x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, trang 184 ). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô “Ai thấy Thầy là thấy Cha” ( Ga 14, 9 ) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” ( Ga 14, 10 ).
Toàn bộ Lịch Sử Cứu Độ được xây dựng trên tương quan Cha – Con “Chúa Cha yêu Chúa Con”. Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha – Con. Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha ( Ga 14, 10 ). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Chúa Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác ( Mt 6, 32 ), noi gương ( Mt 5, 45 – 48 ), nguyện cầu ( Lc 11, 2 ), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất ( Mt 10, 28 ), là Cha đầy quan tâm ân cần ( Mt 6, 25 – 32 ) và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi ( x. sđd tr. 191 ).
Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Dakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…
Quả thật Thiên Chúa của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của Ítraen. Người Do thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người chọn, chỉ bênh vực những người Do thái ngoan Đạo và lên án nguyền rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ, đã chà đạp và xoá bỏ “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” ( Cl 1, 15 ) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.
Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép, nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con đón nó vào lòng hôn lấy hôn để ( Lc 15, 11 – 32 ). Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phaolô là người cảm nhận sâu xa lòng từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy ( 2 Cr 3, 7 – 11 ).
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” ( Ga 1, 18 ). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là con đường độc nhất dẫn đến Cha “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” ( Cv 4, 12 ). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.
———————————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA- Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.
Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:
– “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)
Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”
Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)
Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)
Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…
Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…
Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.
Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”
Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.
Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.
Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?
Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.
CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.
Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.
Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.
Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.
Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.
Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.
Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.
Câu hỏi:
1-Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
2-Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
3-Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?
—————————————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
ĐƯỜNG VỀ- Trích Logos A
Từ ngày 01/4/2005, một ngày trước khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời, người ta ước lượng có đến 70.000 bạn trẻ từ khắp nơi đổ về quảng trường thánh Phêrô, Rôma, để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Người ta gọi đó là “Đại Hội Giới Trẻ tự phát”.
Các bạn trẻ có mặt ở đó cho đến khi Đức Thánh Cha qua đời. Những giọt nước mắt đã rơi xuống, những biểu ngữ tỏ lòng yêu mến ngài đã giương cao. Một biểu ngữ của các bạn trẻ nước Đức ghi hàng chữ thật cảm động : “Chúng con sẽ có mặt tại Cologne, cha nhớ hiện diện tại đó với chúng con”. Trong chương trình đã sắp xếp, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ đến thành phố Cologne, nước Đức, để chủ toạ Đại Hội Giới Trẻ lần thứ 20 vào tháng 8/2005.
Ngày 19/4/2005, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, người Đức, được bầu làm giáo hoàng với danh hiệu Bênêđictô XVI. Các bạn trẻ Đức hết sức vui mừng vì ngài không những là người Đức, mà còn vì ngài quyết định chủ toạ Đại Hội Giới Trẻ Cologne, đúng như chương trình Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ước hẹn với các bạn trẻ. Đó sẽ là chuyến tông du đầu tiên trong đời giáo hoàng, cũng là cuộc trở về quê hương “ vinh quy bái tổ ” của ngài.
Đức Tân Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tiếp nối con đường Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đi. Hai vị giáo hoàng, nhưng chỉ là một con đường, hay đúng hơn, 265 vị giáo hoàng, nhưng cũng chỉ có một con đường duy nhất. Con đường đó là chính Đức Kitô, như lời Ngài đã phán hôm nay “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin mà Giáo Hội đã đi trong suốt chiều dài lịch sử và hôm nay vẫn đang tiếp tục bước tới.
Trong bất cứ một cuộc hành trình nào cũng cần phải có con đường để dẫn về một đích điểm, chân lý để không lầm đường lạc lối, sức sống để đỡ nâng và dưỡng nuôi.
Chúa là đường.
Trên cuộc hành trình đức tin, Giáo Hội đã phải trải qua nhiều chặng đường gian khó và thử thách : có lúc phải “lên dốc” vất vả, có lúc đã “xuống dốc” bi thảm. Có khi con đường trước mắt bao phủ đầy sương mù, lại có giai đoạn không tìm thấy lối đi. Có những thời điểm con đường đang đi bỗng chia đôi, chia ba. Đôi khi con đường chợt hiện ra những khúc rẽ, khiến kẻ lữ hành phân vân do dự.
Trên những bước đường phiêu lưu đầy thăng trầm ấy, nhiều khi Giáo Hội cũng phải thốt lên như Tôma : “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi”. Chúa Giêsu chính là con đường tình yêu dẫn đến Thiên Chúa Cha, đích điểm hạnh phúc mà chúng ta hằng tìm kiếm. Chúa Giêsu là con đường duy nhất để chúng ta đi. Mặc dù có những lúc con đường đó gập ghềnh sỏi đá, có những khi con đường đó chìm trong sương mù, hay ẩn khuất trong cỏ dại. Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta : “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Giáo Hội đã tin, chúng ta cũng hãy tin. Với niềm tin kiên vững, cho dù chúng ta không nhìn thấy đường đi, nhưng chỉ cần Chúa nhìn thấy ta và dẫn ta đi, thế là đủ !
Chúa là sự thật.
Trên cuộc hành trình đức tin, Giáo Hội cũng trải qua thời gian phải bước đi trong bóng tối âm u. Bóng tối của sự thất vọng và hoài nghi, bóng tối của những cuộc khủng hoảng, của những phân rẽ ly khai. Bóng tối của bầu trời không đáng sợ bằng bóng tối trong tâm hồn. Bóng tối che phủ tâm trí dễ làm cho người ta lầm đường lạc lối. Có những lúc Giáo Hội rơi vào tâm trạng hoang mang : đâu là chân lý để tin theo ?
Hôm nay, Chúa nhắc lại lần nữa để chúng ta vững tâm : “Thầy là sự thật”. Quả thực, giữa đêm dài đức tin đầy thử thách, Chúa Giêsu vẫn là ánh sáng chân lý soi đường chỉ lối cho chúng ta đến với Thiên Chúa Cha : “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy”. “Biết” Chúa không phải chỉ là tin Chúa, nhưng “biết” Chúa còn là yêu Chúa nữa : có yêu mới tin và có tin mới yêu. Không những ta tin Chúa là chân lý duy nhất và toàn vẹn, nhưng ta còn yêu Chúa là Đấng hằng yêu thương ta chân thật.
Chúa là sự sống.
Trên bất cứ cuộc hành trình nào, một trong những vấn đề thiết yếu đối với người lữ hành là việc ăn uống để bồi bổ sức lực. Cuộc hành trình càng dài, lương thực đi đường càng cần thiết và quan trọng.
Trong cuộc hành trình giữa sa mạc tiến về đất hứa, dân Do Thái được Thiên Chúa dưỡng nuôi bằng manna và nước chảy ra từ tảng đá (Xh 16, 1-16; 17, 6). Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu cũng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn no nê (Ga 6, 5-11).
Nhưng manna, bánh và cá cũng chỉ là lương thực nuôi sống thể xác. Con người còn cần đến lương thực nuôi dưỡng tâm hồn. Sự sống thể xác rất cần, nhưng sự sống tâm linh còn cần hơn.
Vì thế, trên cuộc hành trình đức tin, Giáo Hội còn được Chúa nuôi dưỡng bằng Bánh Thánh Thể và nguồn suối các bí tích tuôn chảy ra từ cạnh sườn Chúa. Chúa đã hiến thân mình làm lương thực nuôi sống Giáo Hội trên cuộc lữ hành trần gian. Chúa Giêsu Kitô là tất cả cho Giáo Hội đang tiến về quê trời. Ngài có đủ ân sủng thiêng liêng cho Giáo Hội hoàn thành chính mình. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Giáo Hội vẫn tiến bước.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục đồng hành với Giáo Hội, và Giáo Hội vẫn tiến bước không ngừng. Nhưng để có thể tiến về cội nguồn của mình là Thiên Chúa, Giáo Hội không những phải “đi” trong Chúa Giêsu Kitô, mà còn phải “ở” trong Ngài như Ngài “ở” trong Chúa Cha.
Ngoài ra, để Giáo Hội có thể lớn mạnh và đủ sức tiến về nơi Chúa đã “dọn sẵn” trên thiên quốc, mỗi tín hữu tuỳ theo phận vụ mình mà cộng tác và chung tay xây dựng Giáo Hội (Bài đọc I, trích sách TĐCV). Cũng vậy, để Giáo Hội có thể đứng vững trước những phong ba bão táp, các tín hữu hãy trở nên những viên đá sống động xây dựng Giáo Hội thành đền thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II, trích thư 1Pr).
Từ khi nghe tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lâm bệnh và qua đời, hàng triệu người từ khắp nơi đổ về quảng trường thánh Phêrô, thắp nến cầu nguyện cho ngài. Tại Ba Lan, mỗi đêm, nhiều gia đình thắp nến đặt trên thành cửa sổ. Hàng trăm ngọn nến, hàng triệu ngọn nến tỏa ánh sáng lung linh trong đêm, tha thiết như lời cầu nguyện, bi thương như những giọt nước mắt nhỏ xuống, khóc cho người cha tinh thần vĩ đại đã mất.
Cuộc đời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giống như một ngọn nến đã tàn lụi, nhưng ngọn lửa không lịm tắt. Ngọn lửa ấy được truyền sang một ngọn nến khác : Đức Tân Giáo Hoàng Bênêdictô XVI. Ánh sáng niềm tin và hy vọng lại tỏa sáng trong Giáo Hội. Ngọn nến Phục Sinh của Chúa Kitô vẫn cháy mãi trong lòng Giáo Hội.
Mỗi người hãy là một ngọn nến nhỏ thắp sáng niềm tin trên cuộc hành trình tiến về quê trời, cùng với Chúa là đường, là sự thật và là sự sống.
——————————————–
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- NĂM A
CHÚA GIÊSU, NGUỒN BÌNH AN- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Hôm nay, ngày Chúa Nhật II của tháng Năm, ngày của Mẹ, ngày nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến công ơn của mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nhắc đến mẹ, chắc hẳn không ai trong chúng ta có thể quên được tình yêu và sự lo lắng đêm ngày của mẹ cho từng người chúng ta. Trong vòng tay chăm sóc bảo vệ của mẹ, những đứa con cảm thấy được bình an. Suy nghĩ về tình yêu của mẹ, càng làm cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tình yêu của Chúa dành cho chúng ta.
Có lẽ không ai trong số chúng ta đang ngồi đây, tôi cũng như quý ông bà anh chị em không có một nỗi lo lắng riêng tư nào đó. Và không chỉ chúng ta mà tôi thiết nghĩ, tất cả mọi người ai cũng đang lo lắng, băn khoăn. Chúng ta băn khoăn về rất nhiều việc: nào là kinh tế gia đình đang gặp khó khăn, việc ăn học và dạy dỗ con cái; tương lai không biết như thế nào… và còn nhiều điều lo lắng khác nữa. Nó còn là những khắc khoải của từng người chúng ta trước sự im lặng của Thiên Chúa. Những khó khăn đó đôi lúc như muốn đè bẹp chúng ta. Nó khiến chúng ta bối rối, không biết phải làm gì.
Các tông đồ thời Chúa Giêsu cũng thế, đứng trước lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới của Thầy mình, về những chia rẽ, phản bội trong hàng ngũ nội bộ, các ông cũng lo lắng băn khoăn. Nhưng với tình thương của người Thầy, của vị Mục tử nhân lành, và với tấm lòng của “người mẹ” Đức Giêsu đã lên tiếng trấn an các tông đồ, và cũng là lời trấn an với từng người chúng ta: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Một lời nói diễn tả tấm lòng dịu dàng, thương yêu bao la của Chúa đối với từng người chúng ta.
Nguyên nhân sâu xa của các nỗi lo lắng:
Chúng ta lo lắng vì nhiều lý do, nhưng tựu trung có lẽ vì hai lý do chính yếu sau đây: không biết tương lai sẽ ra sao và khi gặp khó khăn, trở ngại chúng ta không biết nên làm thế nào.
Các tông đồ hoang mang lo lắng không chỉ về cuộc khổ nạn của Chúa, nhưng theo cha Xavier Léon Dufour thì họ còn lo lắng bởi từ đây, họ phải xa cách một người thực sự cần thiết cho cuộc đời của họ. Họ còn lo lắng bởi sự thất vọng sâu xa, khi nhìn cuộc khổ nạn của Chúa như là một sự bế tắc, thất bại, không còn tương lai (x. Fiches Dominicales, Năm A, trang 141).
Suy nghĩ kỹ, chắc hẳn mỗi người chúng ta nhận ra rằng chúng ta bối rối, vì chúng ta đang khép kín và muốn tự mình giải quyết. Chúng ta giải quyết mọi việc như là không có Thiên Chúa. Nhưng lời Đức Kitô hôm nay, kêu gọi chúng ta: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, nghĩa là giao trọn cuộc đời mình cho Chúa, để Ngài hướng dẫn và dìu dắt. Đây không phải là một niềm tin mù quáng, nhưng là niềm tin dựa trên chính lời hứa của Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó”.
Đức Giêsu, nguồn bình an
Tuy nhiên, nói tin vào Thiên Chúa thì dễ, nhưng sống niềm tin này thì không dễ chút nào. Suy nghĩ hiện nay của chúng ta hiện nay, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa thực dụng. Chúng ta đánh giá mọi việc, mọi người theo giá trị kinh tế trước mắt. Trong khi đó, Đức Giêsu là một con người mà chúng ta chưa từng thấy, lại bị chết treo trên thập giá, hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc hai: Ngài là “viên đá bị thợ xây loại bỏ”. Bởi đó, tin vào Đức Kitô là dám bước một bước liều, một bước của những tâm hồn mạnh mẽ, can đảm. Tổ phụ Abraham, được gọi là cha của những kẻ tin, cũng đã minh chứng niềm tin của mình bằng một bước đi mà tác giả thư Do thái gọi là “đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8). Tuy không biết mình đi đâu, nhưng tổ phụ biết Đấng gọi mình đi rất yêu thương mình, và ông đã tin tưởng để cất bước ra đi. Nhờ đó, ông được chúc phúc. Vì thế, thánh Phêrô khẳng định với từng người chúng ta rằng, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Giêsu, viên đá bị thợ xây loại bỏ ấy để tôn vinh và làm nên tảng đá góc tường, để rồi, “ai tin Người sẽ không phải hổ thẹn”.
Sở dĩ chúng ta dám tin tưởng và phó thác cuộc sống của chúng ta cho Chúa là vì nhờ phép Rửa, chúng ta đã được trở nên con cái và là người nhà của Thiên Chúa, như lời thánh Phêrô khẳng định: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện là dân riêng của Thiên Chúa.” Chúng ta được tuyển chọn và trở thành dân riêng của Thiên Chúa không phải do công trạng của chúng ta, nhưng do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.
Vâng, tình thương của Đức Giêsu dành cho chúng ta thật lớn lao. Ngài không lấy cái chết khổ giá làm đủ, Ngài còn để lại Thịt và Máu Ngài trong bí tích Thánh Thể làm của ăn hàng ngày cho chúng ta trên hành trình về quê Trời. Với Thánh Thể, Đức Kitô mãi mãi ở với chúng ta, làm bạn đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nhờ bí tích Thánh Thể, Ngài vẫn ở đó, hiện diện thực sự ở giữa cộng đoàn chúng ta, điều quan trọng là chúng ta có đủ xác tín để nhận ra Ngài, đến với Ngài và trải rộng lòng mình ra cho Ngài bước vào và để Ngài hướng dẫn cuộc sống của chúng ta hay không. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và hãy tâm sự với Ngài về tất cả những nỗi ưu tư, băn khoăn, khắc khoải của riêng mình.
Một khi chúng ta uốn mình để Ngài hành động trong và qua chúng ta, mọi việc chúng ta làm sẽ sinh một hiệu quả kỳ diệu như lời Ngài đã hứa: “Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy làm. Người ấy còn làm những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha.” Hiệu quả đó chính là sự bình an trong tâm hồn, cho dù những khó khăn và nghịch cảnh của cuộc sống vẫn còn đó. Tin vào Đức Kitô còn giúp cho chúng ta có một cái nhìn và một cách đánh giá mới đối với tất cả sự vật. Nó giúp chúng ta vượt qua những cái hữu hình trước mắt để hướng tới sự sống vĩnh cửu mà Ngài đã hứa.
Nếu như trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi gặp khó khăn, thử thách, mệt mỏi… chúng ta muốn được như trẻ thơ trở về trong vòng tay chăm sóc của mẹ để nghỉ ngơi, để được mẹ chăm sóc… thì giờ đây, trong tâm tình tin tưởng và yêu mến, chúng ta cũng hãy chạy đến với Chúa Giêsu, Đấng chiến thắng thế lực mạnh nhất của sự dữ là cái chết, để rồi nhờ sự nâng đỡ của Ngài, chúng ta được bình an.
Đồng thời, trong ngày đặc biệt này, “ngày của Mẹ”, chúng ta cùng hiệp thông cầu xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria cho tất cả những người mẹ của chúng ta được bình an, để qua sự chăm sóc, yêu thương của người mẹ, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa.
Cầu chúc cho tất cả quý ông bà anh chị em cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Đấng Phục Sinh trong lòng mỗi khi hiệp lễ. Nhờ đó, chúng ta có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi mãi được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Cha. Amen.