CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Fiches Dominicales 6
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO-Chú giải của Noel Quession 12
ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN- Lm. FX Vũ Phan Long, ofm.. 19
NGƯỜI MỤC TỬ ĐÍCH THỰC (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 27
ĐỨC KITÔ , MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 37
SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA ĐỨC GIÊSU, MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 49
CỬA CHUỒNG CHIÊN – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 60
CHÚA CHIÊN LÀNH- Radio Veritas. 65
XIN CHÚA BAN NHIỀU TÔNG ĐỒ MỞ NƯỚC CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 71
CỬA CHUỒNG CHIÊN- Lm. Inhaxio Trần Ngà. 76
CẦU NGUYỆN NHIỀU CHO DÂN CHÚNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 79
CHÚA CHIÊN LÀNH- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 90
MỤC TỬ TỐT LÀNH- Trích Logos A.. 93
—————————————————————————
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973–
“Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Đấng Kitô”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Đức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Đấng Kitô”.
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Đáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 2, 20b-25
“Anh em đã trở về cùng Đấng canh giữ linh hồn anh em”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Đấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 14
All. All. – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – All.
PHÚC ÂM: Ga 10, 1-10
“Ta là cửa chuồng chiên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
Đó là lời Chúa.
————————————————
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Đức Giêsu, mục tử nhân lành.
Bài Phúc âm hôm nay nằm trong văn mạch của một cuộc luận chiến tiếp sau việc chữa lành người mù bẩm sinh vẫn ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, (Phúc Âm Chúa nhật thứ bốn mùa chay, năm A) những người biệt phái tự xưng là sáng mắt và tự nhận là những bậc linh sư trong dân, thực ra, ngày càng chìm sâu trong sự mù quáng của mình, trong khi đó, người mù được chữa lành, không ngừng được khai sáng đến độ dám tuyên xưng mầu nhiệm Đức Giêsu, nhìn nhận Ngài là “Con Người” và là “Đấng Thiên sai bị người do thái trục xuất khỏi hội đồng và được Đức Giêsu đón nhân, ông trở thành mẫu mực của người có niềm tin, điển hình của con chiên nhận ra Người mục tử để được dẫn về cùng Chúa Cha (X. Dufour, “Đọc Tin Mừng Gioan ” Tập 2, Seuil, 1990, tr. 348).” Đức Giêsu kết luận” ta đến trần gian chỉ là để cho những kẻ không thấy được thấy là những kẻ thấy trở nên đui mù” Thế rồi, tác giả Tin Mừng chuyển thẳng sang dụ ngôn vị mục tử nhân lành, một hình ảnh quen thân trong Kinh Thánh. Thật vậy, trong suốt lịch sử Do thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu như là vị Mục Tử của dân người, Đấng đã chọn lấy cho mình những tôi tớ, cũng được gọi là “mục tử “, để trao cho họ trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa theo người. Tiếc thay họ thường bất xứng với sứ vụ này và vậy các tiên tri đã loan báo một thời đại mà chính Thiên-Chúa, qua Đấng Thiên Sai, sẽ nắm quyền lãnh đạo dân người.
Ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử nhân lành, vị Mục Tử thiên sai, người gọi “tên từng con chiên một và “dẫn chúng đi ăn”! khác hẳn những tên trộm đạo đến trấn lột đoàn chiên hay những kẻ chăn thuê không bao giờ dám mạo hiểm vì đoàn Chiên. Nên đặc biệt chú ý đến kiểu nói này vì trong Thánh kinh, nó gợi lên: cuộc xuất hành đầu tiên, khi Chúa “dẫn đưa” Israel ra khỏi nhà nô lệ. (Ex 3.10; 6, 27; Lev. 19,36)
Lời cầu nguyện của Môsê, xin Chúa chọn người kế vị mình “một người sẽ lãnh đạo cộng đoàn,..sẽ đưa chúng ra đi và dẫn chúng trở về để chúng không trở thành những con chiên không người chăn giữ” (Nom. 27, 17)
Cuộc xuất hành mới là quyết định được các tiên loan báo “ta sẽ đưa đoàn chiên ta ra khỏi muôn dân, sẽ qui tụ chúng lại từ muôn nước và đưa chúng về cố hương” (Ez.34,l3)
Thành toàn những lời tiên tri trong Cựu Ước, Đức Giêsu là Mô-sê mới đến qui tụ đoàn dân mới của Thiên- Chúa và “dẫn đầu “,”đưa họ ra đi” trong cuộc xuất hành mới, trên đường về miền đất hứa.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói vớí người “biệt phái” là những người, theo tác giả Tin Mừng, không hiểu được điều Ngài muốn nói với họ” khiến Ngài phải đề cập đến một chủ đề mới, đó là cửa chuồng chiên.
Đức Giêsu là cửa chuồng chiên
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu muốn minh định mình là lối vào duy nhất để gặp được đoàn chiên. “để đến với đoàn chiên, hình ảnh của dân Thiên-Chúa, phải đi qua Đức Giêsu. Ngoài ngài ra, không còn cách nào để đến với dân Chúa và với sự sống. ” A. Marchadour, “Tin Mừng theo thánh Gioan”, Centturion, 1992,p.143).
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu minh ảnh mình là cửa mà mọi con chiên phải đi qua nếu muốn được tự do và đạt được sự sống viên mãn. A. Machadour viết tiếp ngoài Ngài ra, không ai có thế tự xưng là người mang ơn cứu độ cho nhân loại được. Đức Giêsu là cửa vì qua Ngài, con người đạt được ơn cứu độ và được sống, khung cảnh đền thờ cho phép ta lấy đơn vị (cửa) để cắt nghĩa tổng thể (đền thờ) Đức Giêsu tự giới thiệu mình như đền thờ mới trong đó con người tìm được tự do và sự sống”.
BÀI ĐỌC THÊM
Chúa là mục tử của tôi. (H. Denis, trong “100 từ ngữ để nói lên niềm tin”. Desclée de Brouwer,1993, p.149-l50)
Chúa Mục tử, Chúa là Đấng mà với Ngài, trong cảnh nghèo khó cùng cực, người ta có thể cảm nghiệm và hiểu biết được sự phong phú của Thiên Chúa, đây chính là niềm ủi an mới của mùa phục sinh này, các bạn đã là những con chiên lạc, nhưng giữa các bạn, Con Chiên không tì vết đã hiến mình, và hóa thân thành mục tử, thành người chăn giữ mạng sống quí giá của các bạn.
Mục tử, một từ dân dã, một nghề gần như đã mai một còn chăng chỉ có những du khách lâu lâu gặp thấy những người chăn cừu vùng sơn cước. Tuy nhiên chúng ta còn nhạy cảm với hình ảnh của người mục tử với chiếc tù và đang tập họp đoàn chiên, hơn thế nữa, người ta còn xúc động khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa, khi nhìn thấy người mục tử mệt lả vác con chiên lạc trên khi đưa trở về bầy.
Đức Giêsu chính là người muốn qui tụ về đàn chiên duy nhất của Ngài toàn cá nhân loại được thánh tẩy trong máu con Chiên, điều đó khiến ta khiêm tốn. Tôi muốn nói rằng Đức Giêsu không bao giờ quả quyết Ngài, chỉ là mục tử của các tín hữu, và chuồng chiên của Ngài chỉ gồm các Hội thánh công giáo. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài tự giới thiệu mình như là Đấng đưa dẫn mọi người thiện chí về đồng cỏ xanh, là đấng mà mọi người đều có thể nhận ra tiếng Ngài.
Các linh mục hay các mục tử không thể trở thành sở hữu chủ của những người mà họ phục vụ được. Vì thế, từ mọi đồng cỏ, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa đều có thể hướng về trời cất tiếng ca: “Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”.
Loan báo những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi ta và nhờ ta (Tài liệu của Uỷ ban khuyến khích ơn gọi toàn quốc) Cầu nguyện cho ơn kêu gọi, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn kêu gọi… những bản văn được đề nghị cho ngày này mời gọi ta vừa tiến bước, vừa đi theo con đường hòa nhập vào một cộng đoàn thuộc về Đức Giêsu và mời gọi ta làm theo thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là làm lành, sống trong tình yêu nồng nàn và thực sự của Đức Giêsu đối với thế giới bằng cách sống chiến đấu cho công bằng và qua đó biểu tỏ tất cả! niềm hi vọng trong chúng ta. Đức Kitô đã ban lời Ngài để nó thấm nhập, tăng trưởng, đâm rễ và triển nở trong đời sống chúng ta. Lời Chúa mở cửa, mời gọi đón nhận và nhận biết sự tùy thuộc vào Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa của Đức Kitô Đấng biết rõ từng tên, từng người chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta, không phải để nhốt ta trong vòng rào mênh mông, hầu gìn giữ hay che chở chúng ta, nhưng như những con chiên mà Ngài kêu gọi, “Ngài đưa chúng ra ngoài” để nghe rõ tiếng Ngài hơn, và nhận ra con đường mà chính Ngài đã mượn, trên đó, Ngài dấn bước, ra đi và khơi dậy niềm tự do để người ta được sống và sống dồi dào.
Tất cả những điều này đều có thể thành toàn nhờ cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Đức Kitô, nhờ mối dây tình yêu thương hằng và liên tục giữa lòng với lòng, vì thế cầu nguyện cho ơn gọi có nghĩa là cầu nguyện cho con người, chia sẻ cuộc sống của Thiên Chúa, trở nên những cộng đoàn, xây dựng những cộng đoàn Kitô hầu sống động và tích cực. Còn về ơn gọi linh mục, tu sĩ, đừng mong những phép lạ, không phải chỉ cầu nguyện là có nhiều ơn gọi đâu… điều đó chỉ có được nếu chúng ta cầu nguyện trong chân lý, bằng cách xây dựng những cộng đoàn Kitô hữu thực sự, lúc bấy giờ, tự nhiên sẽ có những lời đáp trả. Nếu hôm nay, 5 triệu tín hữu Pháp tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô đã chết và phục sinh, thì sẽ có 5 triệu “ơn gọi” vì thế ngày nay, cần phải nói lên điều mình sống, điều mình tin, loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi ta và qua ta.
————————————————–
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO-Chú giải của Noel Quession—
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị mục tử nhân lành”
Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ ở đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương phản: mục tử và kẻ trộm. Chính cách họ vào ràn chiên mà người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào. Còn người mục tử đi qua cửa mà vào. Ngay từ đầu chúng ta không thấy những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thoáng thấy ở các đề tài về đồng quê!
Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức Giêsu rất bút chiến. Đây là phần tiếp nối cuộc đối đầu bi đát khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh
Vậy, Đức Giêsu đặt đối lập những “mục tử giả hiệu” kẻ trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác nhưng không được ủy nhiệm chân chính, với “mục tử chân thật” đi qua cửa để vào một cách quang minh chính đại, được người gác đã cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác cửa này. Tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người đó! Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Ga 8,16-42), Đấng đã giao mọi sự trong tay Người (Ga 3,35; 5,22-26). Đấng đã ban cho Người những con chiên của Người (Ga 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử của chúng. Những con chiên này theo bản năng biết được mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và lắng nghe mục tử. Người tín hữu chân chính, là người “lắng nghe” tiếng Đức Giêsu và “đi theo” Đức Giêsu. Động từ “lắng nghe” được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng của Thánh Gioan: Đức Giêsu là “lời” là “Ngôi Lời” sự “mạc khải” được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người “điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha” (Ga 3,31; 8,40; 15,15). Bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu, bởi vì họ cảm thấy mình bị chỉ trích. Là những người Pharisêu, họ tự hào hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
Vậy, Đức Giêsu lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con người quả là thái quá! Người tự giới thiệu như người hướng dẫn duy nhất của nhân loại! “Tất cả những ai đến trước tôi” đều là trộm cướp. Con người nói điều đó là một người điên; hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những “cứu tinh do Thiên Chúa an bài”; nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá hoại; mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là những kẻ trộm cướp. Một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong muốn sự khoan dung, lo lắng đến “tính đa nguyên”. Vậy ai là người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như thế? còn Đức Giêsu vốn khác với ‘mọi người khác’, Người hứa hẹn chúng ta điều gì?
Tôi là cửa.
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những hình ảnh. Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc nhất, ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau. Đức Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhiệm hơn. Người nói: “Tôi là cửa”, cái cửa duy nhất, cái cửa độc nhất! Những tác giả Phúc Âm nhất lãm cũng đã đặt vào miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái “cửa hẹp” dẫn đến Nước Chúa (Mt 7,13-14; Lc 13,24). Nhưng ở đây từ ngữ chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn, theo nghĩa mà Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói; “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Trong Kinh Thánh đã có một thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy một cầu thang là cửa của thiên đàng (St 28,17). Những cái cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Is 60,11; Tv 122,2; l18,19-20).
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.
Như thế, Đức Giêsu có ý thức Người là môt con đường đi qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới! Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nới Đức Giêsu, chúng ta phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ “căn hầm đóng kín” như Jean Paul Sartre đã mô tả. Vâng, nhân loại như bị cầm tù bởi những điều tất định khắc nghiệt nào đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ, ăn, làm, ngủ rồi lại bắt đầu lại!”. Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại ở vòng tròn chật hẹp này? có phải nhân loại bị kết án quay vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng? Có chăng một lối thoát cho con người?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta rằng Người là một cái cửa, một lối thoát. Những hình ảnh nói lên nhiều điều: “Các bạn có thể ra vào, lui tới”; đây là hình ảnh của sự tự do! Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ, hình ảnh của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước. Thiên Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người. Tại sao chúng ta không muốn cái cửa ấy để đến đó mà hít thở? Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau cùng, vào giờ lâm tử của chúng ta, điều đó tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Đức Giêsu trở lại những viễn cảnh tiêu cực này để giúp chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người. Trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và mọi Kitô hữu phải tham gia. Nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Mọi lời hứa khác về giải phóng, về hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt của mọi thứ chủ nghĩa duy vật. Các chủ nghĩa vô thần chỉ đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén. Đối với Đức Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế thì đó chính là “Giết chết và Phá hủy” con người chỉ sống viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa đó, người ấy sẽ được cứu!
Không đi qua lối đó, con người sẽ hư mất. Môi trường sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường của Thiên Chúa. Chỉ có nơi đó mới là không gian của con người. Chỉ có nơi đó, con người thật sự được tự do. Chỉ có nơi đó con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa thích. Rượu nho ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi dào: 600 lít! (Ga 2,6-7). Nước sự sống ban cho người phụ nữ Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt (Ga 4,14). Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào và còn dư lại mười hai giỏ đầy (Ga 6,10-12). Sự đánh cá mầu nhiệm làm chiếc thuyền đầy cá (Ga 21,6). Nhưng đó chỉ là những hình ảnh. Thực tế còn đẹp hơn nhiều. Có một sự sống “dồi dào”: Sự sống của Thiên Chúa!
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian vô cùng, vô tận cho con người. Bên ngoài Người, nhân loại hoàn toàn “bị giam hãm” trong chính mình: không một ý thức hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học nào giải thoát chúng ta khỏi số phận “Chỉ là những con người và vì thế phải chết”. Nhưng chính Đức Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, lôi kéo ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái Cửa ấy mở ra cái vô cùng vĩnh cửu.
—————————————————–
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN– Lm. FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Những biến cố vây quanh Đức Giêsu tại Giêrusalem vào dịp Lễ Lều, bắt đầu từ ch. 7, lại tiếp tục ở đây. Người đã dạy dỗ và bằng dấu lạ đưa lại ánh sáng cho anh mù bẩm sinh, nêu rõ rằng Người đã làm trọn ý nghĩa của Lễ Lều, vì Người ban nước trường sinh và ánh sáng thế gian. Bản văn “Đức Giêsu là cửa và vị Mục tử nhân lành”, là bài diễn từ cuối cùng của Đức Giêsu trong thời gian hoạt động công khai; bài này triển khai một đề tài đã được nêu lên ở ch. 9: Đức Giêsu, chứ không phải là các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, mới là vị Mục tử đích thật, vị lãnh đạo của Dân Thiên Chúa.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
-Ẩn dụ Cửa ràn chiên (10,1-5);
-Phản ứng của người Do Thái (10,6);
-Đức Giêsu giải thích ẩn dụ Cửa ràn chiên (10,7-10).
Vài điểm chú giải
– ràn chiên (1): Có nhiều loại ràn chiên. Có khi đó là một mảnh đất vuông bên sườn đồi, có tường đá vây quanh. Ở đây có lẽ là một mảnh sân phía trước một ngôi nhà, chung quanh có tường đá.
– gọi tên từng con (2): Các mục tử Paléttina thường đặt tên cho những con chiên họ yêu quý.
– Chúng sẽ không theo người lạ (5): Điều này khiến chúng ta có thể nghĩ rằng có nhiều đàn chiên trong một ràn, nên mỗi mục tử gọi tên các chiên là để tách chúng khỏi các đàn khác.
– ẩn dụ (6): Từ Hy Lạp TM IV dùng là paroimia, được BJ dịch là “discours mystérieux”. TOB dịch là “parabole” và ghi chú: “Là lời huyền bí hoặc biểu tượng tối tăm, la parabole dưới mắt tác giả Ga là cách mạc khải thuộc về sứ mạng của Đức Giêsu trong thời gian; ta chỉ có thể thật sự hiểu được mạc khải này trong đức tin, đưới ánh sáng củamạc khải cuối cùng, khi Đức Giêsu được giương cao và khi Thần Khí được ban tặng”. NAB dịch là “figure of speech”, và chú thích là từ ngữ này tương tự với “dụ ngôn” của cácTMNL. R.E. Brown dịch là “picture”, còn Zerwick&Grosvenor dịch là “simile, hidden saying” và cho rằng từ này cùng nghĩa với parabolê của TMNL (x. Hc 47,17). Vậy đây là một sự so sánh hoặc một dụ ngôn, nhưng nhấn mạnh trên ý nghĩa ẩn giấu. N. Guillemette dịch là “allégorie” (ẩn dụ). Trong bài ẩn dụ, phải chuyển các yếu tố khác nhau sang một trật tự khác các ý tưởng; sự chuyển dịch này được chính ẩn dụ gợi ra. Người ta không bắt đầu một bài tường thuật hay một bài miêu tả bằng câu “Thật, tôi bảo thật các ông…”. Ta có ngay ẩn dụ: ràn chiên gợi đến đoàn chiên của Yhwh, đến dân Thiên Chúa; có những mục tử thật và giả, như Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo dân Chúa; và có các con chiên, đó là các tín hữu đang nghe lời của vị mục tử. Vậy mục tiêu của bài ẩn dụ là cho thấy sự tách biệt giữa đoàn chiên chân thật và đoàn chiên giả trá. Xem thêm Ga15,1-8.
Ý nghĩa của bản văn
Vào thời ấy, những người chăn chiên không phải là những con người tốt lành, dịu dàng như chúng ta tưởng tượng ra hôm nay. Trái lại, họ là những người khỏe mạnh, thô bạo. Họ bị khinh bỉ do cung cách hoang dại. Họ bị coi là ô uế, bất lương, nên không được làm chứng tại tòa án. Những người chăn chiên Paléttina quen quy tụ các đàn vật của họ vào chung một ràn vào lúc tối. Một người chăn bảo vệ, những người khác đi nghỉ. Buổi sáng, khi một mục tử lên tiếng với người giữ cửa, các chiên của người ấy nhận ra tiếng anh và quy tụ lại bên anh. Đây là hình ảnh Đức Giêsu dùng trong dụ ngôn của Người.
* Ẩn dụ Cửa ràn chiên (1-5)
Tác giả Ga vẫn tiếp tục mạch tư tưởng của truyện Anh mù, và tiếp tục triển khai ý chính của bản văn ấy bằng cách chuyển sang ẩn dụ Cửa ràn chiên.
Cách duy nhất để đến với con chiên, đó là qua cái cửa được người giữ cửa mở ra. Đây là điểm nhấn mạnh của dụ ngôn. Chính cái cửa xác định ai là kẻ trộm, kẻ cướp, và ai là mục tử. Ai không qua cửa mà vào, nhưng lại trèo qua lối khác mà vào, tức là không đến với đàn chiên một cách chính thức, thì kẻ ấy là kẻ trộm và kẻ cướp. “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử” (c. 2).
Đến đây, tương quan mật thiết giữa các con chiên và mục tử được nêu bật. Dân Ả-rập du cư trong sa mạc cho chúng ta hôm nay một khái niệm về đời sống của các chi tộc Israel ngày trước: trong xã hội ấy, quan hệ giữa mục tử và đàn chiên không phải chỉ theo kiểu kinh tế, dựa trên lợi nhuận mà mục tử có thể rút ra từ các con chiên để nuôi mình và gia đình: xén len, uống sữa, ăn thịt (nướng), bán bớt chiên khi cần tiền, tức là một tương quan “sở hữu”. Đúng ra đây là một tương quan hầu như riêng tư giữa mục tử và đàn chiên. Chiên và người sống ngày qua ngày với nhau tại những nơi hoang vắng, trong thế “diện đối diện”, không có ai khác ở quanh đó. Cuối cùng, mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên phân biệt và nhận ra được tiếng của mục tử mình, vì anh nói với chúng thường xuyên. Chúng sẽ đi theo anh đến các đồng cỏ.
Thật ra, Đức Giêsu đang mô tả chính cách thức xử sự của Người, để cho thấy là Người thực hiện tất cả các điều kiện cần thiết về Người Mục tử chân chính của Israel. Để đến với Đàn Chiên của Thiên Chúa, Người đã dùng con đường thông thường, bởi vì Người có đến là vì nhận được tiếng gọi và bài sai của Thiên Chúa, trong biến cố Phép rửa (Ga 1,31-34). Gioan Tẩy Giả đã đóng vai người giữ cửa do bài sai của Thiên Chúa, đã mở cửa cho Đức Giêsu và đã giới thiệu Người cho toàn dân, đặc biệt cho các môn đệ ông (1,23-31). Tương quan giữa mục tử và chiên là một trong những tương quan chặt chẽ nhất mà người ta có thể nhận thấy trong cuộc sống hằng ngày của một người Israel: chính vì thế, Thiên Chúa đã dùng biểu tượng này để diễn tả quan hệ của Ngài với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Một trong những Thánh vịnh đẹp nhất mô tả sự an toàn mà dân Chúa cảm nhận khi có Chúa là Mục tử, là Tv 23. Nhưng điều này cũng có giá trị cho các quan hệ giữa con người với nhau. Do đó, trong Kinh Thánh, danh hiệu mục tử cũng được ban cho tất cả những ai bắt chước sự ân cần, tận tâm của Thiên Chúa để lo cho tình trạng an vui của dân mình. Vì vậy, các vua, các tư tế, và nói chung, mọi vị hữu trách trong dân, cũng được gọi là mục tử.
Trong chiều hướng này, khi một ngôn sứ như Êdêkien nhắc đến các thủ lãnh của dân, ngài đã gọi họ là mục tử. Tuy nhiên, ngài gọi như thế không phải là để nhắc đến hình ảnh người che chở mà lẽ ra họ phải nêu ra, nhưng là để nhắc đến tình trạng thực của họ: những thủ lãnh vô trách nhiệm, thậm chí bất lương, vì đã lợi dụng địa vị của họ để bóc lột và áp bức. Họ đã tự đặt mình làm thủ lãnh và người hướng dẫn thiêng liêng của đàn chiên, mà chẳng thông qua Người giữ cửa tối cao, không hề nhận bài sai từ Thiên Chúa cho sứ mạng đó. Như những tên trộm cướp, họ đã chiếm lấy Dân Chúa vì ham vinh quang và quyền lực hơn là vì quan tâm đến đời sống thiêng liêng của Dân (cc. 8.10).
* Phản ứng của người Do Thái (6)
Phản ứng của các chiên tương tự phản ứng của người mù sơ sinh. Khi nghe Đức Giêsu, mặc dù bị người Pharisêu ngăn chặn, con người phát xuất từ Dân Chúa đó đã phân biệt được người mục tử với quân trộm cướp. Các kinh sư và người Pharisêu bị trách không phải là đã không biết giữ cửa, nhưng đã xử với đàn chiên như những kẻ trọm, kẻ cướp. Nhưng họ đã không hiểu các lời Đức Giêsu nói. Do đó, Đức Giêsu đã giải thích các dụ ngôn Cửa ràn chiên và Người mục tử. Họ không hiểu: đây không phải là một vấn đề trí thức, nhưng là một thái độ không muốn đáp trả thách đố của các dụ ngôn. Trong các TMNL, thách đố này xoáy vào đề tài Nước Trời; trong TM IV, thách đố này lại tập trung nơi Đức Giêsu.
* Đức Giêsu giải thích ẩn dụ Cửa ràn chiên (7-10)
Đức Giêsu tuyên bố: “Thật, tôi bảo thật các ông: Chính tôi là cửa cho chiên ra vào” (c. 7). Người không xác định cửa này phải chăng chỉ dành cho chiên ra vào, hay là cũng dành cho mục tử ra vào. Nhưng dựa vào câu nói tiếp theo: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp” (c. 8) và đối chiếu với dụ ngôn trên đây (10,1-5), ta hiểu là cửa này cũng để cho mục tử ra vào nữa. Như vậy, đã có những kẻ không qua cửa mà đến với đàn chiên, nhưng đã trèo qua lối khác. Những người này là ai? Phải chăng là những mêsia giả hiệu thời Đức Giêsu? hay là chính vị Thầy dạy Đường công chính của Qumran? Tuy nhiên, gần với bản văn nhất, là chính các người Pharisêu và Xađốc; giọng điệu của Đức Giêsu ở đây cũng rất gần với Mt 23.
Đến đây, Đức Giêsu lại nhắc lại: “Chính tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (c. 9). Ở đây Người là cửa dẫn đến ơn cứu độ, không phải là cửa cho mục tử mà là cửa cho con chiên. Tư tưởng này rất giống với Ga 14,6 và Tv 119,20.
Trong Ga 4 và 6, chúng ta đã nghe Đức Giêsu tuyên bố rằng Người là Đấng cung cấp nước hằng sống và bánh ban sự sống; bây giờ Người ban đồng cỏ đưa lại sự sống, có thể hiểu là sự sống viên mãn. Món quà đưa lại sự sống này đối lập lại với việc “giết hại và phá hủy (thys¢ kai apoles¢ do động từ apollymi])” của kẻ trộm. Trong bài diễn từ dịp Lễ Lều (8,44), Đức Giêsu cho biết ma quỷ là kẻ sát nhân; như thế, sự đối lập giữa kẻ trộm và người mục tử là phản ánh sự đối lập giữa Satan và Đức Giêsu. Kẻ trộm đến là để “phá hủy” (apollymi); ở 3,16, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa ban Con một để bất cứ ai tin vào Người thì “khỏi phải diệt vong [= khỏi bị phá hủy [apol¢tai, do động từapollymi]) nhưng được sự sống đời đời (x. 6,39). Chỉ mình Đức Giêsu có thể đưa các tín hữu đi vào trong không gian ban sự sống mà Thiên Chúa đã thiết lập, bằng cách giúp họ sinh vào sự sống nhờ nước và Thánh Thần (3,3-6), và đó chính là ơn cứu độ đích thực (3,16-17). Các tín hữu đã được cứu có thể “ra vào”: đã được giải thoát khỏi ách nô lệtội lỗi và ma quỷ, nhờ Đức Giêsu, họ được hưởng tự do đích thực của các con cái trong nhà Cha (8,34-44). Nơi Người, họ sẽ tìm được đồng cỏ rất bồi dưỡng, đó là bánh và nước hằng sống, có khả năng thỏa mãn vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (6,35; 4,14).
Vì dường như cc. 8 và 9-10 là hai cách giải thích Đức Giêsu là cửa (mà c. 8 thì gần với dụ ngôn trên hơn), ta không cần phải nghĩ rằng kẻ trộm và kẻ cướp ở c. 8 (và c. 1) cũng là các nhân vật của c. 10. Kẻ trộm của c. 10 đến chỉ là để ăn trộm, giết hại và phá huỷ, thì giống với “kẻ nhân danh mình mà đến” ở 5,43, tức là một một đại diện tổng quát của bóng tối đối nghịch với Người Con.
+ Kết luận
Trong lòng Israel cũng như giữa lòng Họi Thánh, có hai hạng người: những người thực sự thuộc về người mục tử và chỉ đáp lại tiếng người ấy gọi mà thôi, và những người không đáp lại tiếng mục tử gọi vì chưa bao giờ thuộc về người ấy.
Đức Giêsu chỉ có một mối bận tâm duy nhất, đó là làm cho các con chiên sống bằng sự sống của Thiên Chúa, ngày càng dồi dào phong phú hơn. Người chính là người Mục tử chân thật đã được Thiên Chúa giao phó đàn chiên cho. Cũng có những mục tử giả hiệu, chỉ tìm giết con chiên, theo sự thôi thúc của Satan, tên sát nhân. May mắn là các con chiên chân thật không nghe và đi theo các mục tử giả này, vì chúng không nhận ra lời họ nói chính là Lời Nói của vị Mục Tử tối cao.
Gợi ý suy niệm
-Người Pharisêu cho rằng họ hướng dẫn những người khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen tị về sự tín nhiệm dân chúng dành cho Đức Giêsu, khiến họ bị mất uy tín thiêng liêng. Vậy giữa họ và Đức Giêsu, có một xung đột về ảnh hưởng. Qua các lời được bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, Đức Giêsu xác định cho họ biết đâu là ảnh hưởng mà người Pharisêu đang tạo ra trên đàn chiên Israel và đâu là ảnh hưởng mà chính Người đang tạo ra.
-Đức Giêsu là cửa. Người không loại trừ ai khỏi ơn cứu độ, “Người đã đến là để cho mọi người được sống dồi dào”, kể cả những người Pharisêu đang tìm cách loại trừ Người. Khi khẳng định như vậy, Người muốn cho biết rằng chỉ mình Người mới có thể thông ban ơn cứu độ. Người ta không thể đi vào cạnh tranh với Người. Người là cửa duy nhất đưa đến ơn cứu độ mà tất cả phải chấp nhận đi qua, không ai được miễn chuẩn, dù là những người có một uy quyền hay một thẩm quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
-Xét lại lối sống của chúng ta hôm nay, chúng ta có yên tâm rằng chúng ta đang đi theo Đức Giêsu, vị Mục Tử duy nhất? Và những tiêu chuẩn để xét lại đời sống là: nhận biết tiếng Người và đi theo Người, không nhận biết tiếng mục tử lạ và tránh xa mục tử ấy, đi qua cửa ràn chiên, đang nhận sự sống do chính Mục Tử chân chính cung cấp. Là con chiên, các Kitô hữu cũng là mục tử trong quan hệ với người khác: phải giúp người khác tìm được hạnh phúc trong đời họ, phải dấn thân bảo vệ các quyền căn bản của con người.
-Hôm nay chúng ta cũng cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho có những mục tử xứng đáng thay mặt Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân thật. Các ngài rao giảng về Chúa Kitô và ơn cứu độ, các ngài nói về và bảo vệ nhân quyền. Để có thể là một mục tử xứng đáng, một vị lãnh đạo trong Họi Thánh cũng phải sống tư cách con chiên của Đức Giêsu, cũng ra vào qua cửa ấy và nhận được lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình.
——————————————-
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM A
NGƯỜI MỤC TỬ ĐÍCH THỰC (*)- Suy niệm Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.
Cv 2: 14, 36-41
Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.
1Pr 2: 20-25
Chúng ta tiếp tục đọc phần kết thư thánh Phê-rô: thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.
Ga 10: 1-10
Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.
BÀI ĐỌC I ( Cv 2: 14a, 36-41)
Bản văn nầy là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.
Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.
Đức Giê-su là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô:
Trong phần kết nầy, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều nầy: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu nầy, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần tính. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.
Lời công bố nầy đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà nầy” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Kitô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.
Hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki tô:
Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng Đức Tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Ki tô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.
Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19), rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.
Ơn cứu độ phổ quát:
Với dân Do thái, thánh nhân ngỏ lời trước tiên: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói nầy thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21).
Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật nầy khi nhấn mạnh rằng Kitô giáo lớn mạnh nhanh chóng như thánh ký thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)
Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích Thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích nầy vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.
Ý hướng:
Trong đoạn trích nầy, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Kitô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gởi đến cho “những tôi tớ”, “những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo nầy có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.
Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn nầy chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa nầy: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.
Người Công Chính phải chịu đau khổ:
Để an ủi những người bé mọn nầy phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.
Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên lời sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.
Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.
TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)
Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.” Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.
Hình ảnh “người mục tử” trong Kinh Thánh:
Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ…”
hay Tv 78:
“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,
đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 51-52).
Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này. Nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Êdê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.
Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết nầy soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
Người Mục Tử đích thật:
Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh nầy rất quen thuộc với miền Pha-lê-tinh. Ràn chiên là một thuở đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gởi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ. Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hổ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.
Cửa chuồng chiên:
“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương nầy. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————–
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – Năm A
ĐỨC KITÔ , MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Trong bài đọc 2 thánh Phaolô nói :”Trước kia anh em đang lang thang như những con chiên lạc, nhưng nay anh em đã quay về cùng vị Mục tử chăm sóc linh hồn anh em”(1Pr 2,25). Theo đó, thánh Phêrô cho chúng ta biết giữa muôn vàn bất công của cuộc sống, chúng ta như bầy chiên lạc đàn. Chia sẻ thân phận với con người chúng ta và chịu đau khổ vì chúng ta, Đức Kitô, con Chiên bị mang đi giết, đã trở nên Chúa Chiên của chúng ta. Lời khẳng định của thánh Phêrô đã được củng cố trong bài Tin mừng hôm nay.
Đức Kitô đã tỏ mình với chúng ta dưới hình dáng người chăn chiên lành, lo lắng cho con chiên của mình, và Ngài cũng là cánh cửa mở vào chuồng chiên. Vị chủ chăn nhân lành biết từng người chúng ta, và để dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha và đem chúng ta vào trong Ngài. Ngài đã không do dự trả một giá rất đắt : đó là chính bản thân Ngài và là cái giá cao nhất : giá của Máu, Ngài có thể làm gì hơn nữa ?
Đức Kitô chính là Mục tử nhân lành của chúng ta. Chúng ta sung sướng và hãnh diện vì có vị Mục tử ở bên. Chúng ta phải đáp trả lại tình thương vô biên của Ngài và mỗi ngày phải tự hỏi mình : chúng ta có tin tưởng rằng có Đấng luôn ở bên cạnh chúng ta như vị Mục tử tốt lành để bảo vệ, giữ gìn và phù hộ chúng ta không ? Chúng ta có biết lắng nghe tiếng Ngài như đòan chiên lắng nghe tiếng chủ và đi theo Ngài như đàn chiên theo sau chủ mình không ? Chúng ta hãy luôn tin tưởng và gắn bó thân tình với Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống. Càng gặp khó khăn nguy hiểm càng phải tin tưởng và liên kết với Ngài chặt chẽ hơn vì Ngài đã khẳng định :”Phần Ta, Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Cv 2,36-41.
Tuần trước chúng ta đã được nghe bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Ngũ tuần, hôm nay chúng ta được nghe phần kết của bài giảng ấy. Sau khi đã cho người Do thái biết Đấng Messia mà Thiên Chúa sai đến đã bị người Do thái giết chết, nay Người đã sống lại. Vậy mọi người hãy ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu để được ơn tha tội và lãnh được hồng ân cao qúi là Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ hành động trong Giáo hội. Dân chúng đã đáp lại cách nồng nhiệt. Kết quả là hôm ấy có thêm khoảng 3000 người theo đạo, gia nhập đàn chiên của Đức Giêsu.
Bài đọc 2 : 1Pr 2,20-25.
Thánh Phêrô nói với dân chúng :”Trước đây anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với vị Mục tử, Đấng săn sóc linh hồn anh em” (Cv 1Pr 2,41). Vì thế, mọi người hãy theo gương Chúa Giêsu biết đón nhận đau khổ cách xứng đáng và độ lượng theo gương Người.
Đức Giêsu đã đón nhận và chịu đựng mọi đau khổ mà không phàn nàn kêu trách như con chiên bị đem đi làm thịt. Đau khổ luôn có trong đời sống của ta dù không muốn. Đau khổ còn là một huyền nhiệm trong đời sống Kitô hữu. Nếu biết kết hợp đau khổ của ta vào cuộc thương khó của Đức Giêsu thì mọi đau khổ, gian nan khốn khó của ta sẽ có một ý nghĩa cao qúi là đền tội và lập công.
Bài Tin Mừng : Ga 10,1-10.
Để dân chúng hiểu Ngài là Messia được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên. Hình ảnh này rất quen thuộc và dễ hiểu đối với họ vì họ có nguồn gốc là người du mục. Mục tử rất yêu thương con chiên, dám hy sinh mạng sống vì chiên. Đáp lại, con chiên phải biết tiếng mục tử và theo tiếng gọi của mục tử.
Tuy nhiên bài Tin Mừng hôm nay chú trọng đến một hình ảnh mới là “Cửa chuồng chiên”.
Chúng ta nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn đoàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào. Chúa Giêsu chính là mục tử thật, qua cửa mà vào, để gọi và dẫn đàn chiên ra cánh đồng cỏ.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Theo chân mục tử nhân lành
ĐỨC GIÊSU LÀ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH.
Trong Lịch sử trước kỷ nguyên, các vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục Israel thường dùng cho Thiên Chúa… Cựu ước đã báo trước Đấng Thiên Sai sẽ đến như mục tử, Ngài sẽ chăn dắt (Mk 5,3) “Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng”(Ez 34,23).
Xưa rầy những người biệt phái vẫn tự hào là chủ chăn Israel, nhưng Đức Giêsu cho họ thấy, họ là những chủ chăn xấu. Họ không tin Chúa thì chớ, họ còn ngăn cản người khác tin theo. Trong Tân ước, Đức Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử cho mình. Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các chiên lạc của Israel (Mt 15,24; Lc 19,19). Hôm nay Đức Giêsu muốn cho họ thấy rằng Ngài là chủ chăn thực sự. Ngài tự mạc khải qua ba hình ảnh mà bài Tin mừng hôm nay chỉ nói đến có hai thôi.
Hình ảnh chuồng chiên.
Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với người Do thái vì nơi đây có nhiều đồi núi và nhiều cánh đồng cỏ ở sườn núi, thích hợp cho việâc chăn nuôi chiên cừu. Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh quen thuộc này để mạc khải về con người của Ngài. Ngài phán :”Thật, Ta bảo thật các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác thì người ấy là kẻ trộm cướp”(Ga 10,1). Qua hình ảnh lề lối chăn chiên này, Đức Giêsu cho biết Ngài là kẻ chăn chiên thật. Ngài có sứ mạng chính đáng, Ngài biết các chiên, và chiên nghe tiếng Ngài. Họ là những người giữ cửa, lẽ ra không được ngăn cản, mà cũng không được cản chiên theo Ngài
Hình ảnh cửa chuồng chiên.
Đức Giêsu nói tiếp :”Ta là cửa chuồng chiên, tất cả những kẻ đến trước đều là trộm cướp”(Ga 10,7-8). Đức Giêsu dùng hình ảnh này thật khó hiểu. Chúng ta có thể diễn tả câu nói trên thế này cho dễ hiểu : cũng như những kẻ vào chuồng chiên mà vào qua cửa là kẻ chăn đích thực, còn trèo vào lối khác là kẻ ăn trộm.
Ở đây khi nói đến mục tử giả hiệu, và theo tòan thể mạch văn, Đức Giêsu có ý nhắm tới người biệt phái và luật sĩ là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa ủy nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đọat đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn là vì quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu.
Nhưng có người hiểu chữ “Những kẻ đến trước” theo một chiều hướng khác. Theo họ, những kẻ đến trước đây không phải là những luật sĩ và biệt phái vì đã có lần Đức Giêsu nhận họ ngồi trên tòa Maisen cách chính đáng (Mt 23,2). Hình như Ngài có ý nói đến những Messia giả, những kẻ phiêu lưu chính trị thường nổi lên ở Palestine hứa hẹn, nếu dân chúng theo họ, họ sẽ đưa đất nước đến thời đại hòang kim. Tất cả những người này đều là những người nổi lọan, dùng bạo lực để chiếm đọat chính quyền : ví dụ Juđa người xứ Galilêa, 6 năm sau Đức Giêsu (Cv 5,37), Thơ-đa (Cv 5,36), họ dấy lọan làm nhiều người phải chết mà tôn giáo không được nhờ gì.
Trái lại, người mục tử chân chính là người đã được ủy nhiệm chính thức. Ở đây Đức Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh của Ngài, vì Ngài chỉ đến theo lệnh và ủy nhiệm thần linh mà Ngài đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1,31-34).
HÃY ĐI THEO ĐỨC GIÊSU MỤC TỬ ĐÍCH THẬT.
Thế nào là cửa chuồng chiên.
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “cửa chuồng chiên”. Đây là một hình ảnh hơi lạ, chúng ta cần tìm hiểu xem tại sao Chúa Giêsu lại ví mình là cửa chuồng chiên.
Trong ẩn dụ này, Đức Giêsu đề cập đến hai loại chuồng chiên. Tại các làng mạc và thị trấn, có những đàn chiên cộng đồng, tất cả các bầy chiên tại địa phương đó đều được nhốt chung khi chúng trở về buổi tối. Các chuồng chiên ấy được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu (2-3). Nhưng đến mùa nắng ấm, khi chiên được thả trên núi, đêm đến không lùa về làng, thì chúng được nhốt trong các chuồng chiên ngoài sườn đồi. Các chuồng chiên trên sườn núi này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa rả gì cả. Đêm đến người chăn chiên nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào, không có chiên nào ra vào được, trừ phi nó bước qua anh ta.
Truyện : cửa chuồng chiên.
George Smith kể lại một loại chuồng chiên như trên khi ông đi du lịch Đông phương : lúc đó người chăn chiên cũng ở đó nên ông hỏi :
– Có phải đó là chuồng chiên không ?
Người ấy đáp :
– Dạ, vâng.
Rồi Geoge nói :
– Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.
Giơ tay chỉ khoảng trống hàng rào, người ấy đáp :\
– Vâng, ở đàng kia là cái cửa.
Ông Geoge rất ngạc nhiên bảo :
– Nhưng ở đó đâu có cửa ?
Người chăn chiên vội đáp :
– Dạ, tôi là cửa.
Geoge chợt nhớ câu truyện trong Gioan kể rồi nói với người chăn chiên :
– Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?
Người chăn chiên giải thích :
– Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi nhảy qua người tôi.
Nói theo nghĩa đen thì người chăn chiên chính là cái cửa, không có lối nào để ra vào được chuồng chiên, ngoại trừ bước qua chính người chăn. Hình ảnh về cửa chuồng chiên này đối với chúng ta thì rất lạ, còn đối với người Do thái lại là hình ảnh rất quen thuộc.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên.
Sách có chữ rằng :”Thùy năng xuất tất do hộ” : Ai ra vào nhà cũng đều phải qua cửa.
Nhà thì phải có cửa để ra vào, ngay nhà tù cũng phải có cửa ra vào. Chuồng trại cũng phải có cửa, không ai trèo hay chui qua hàng rào mà vào. Ai trèo qua hàng rào mà vào thị bị coi là kẻ trộm, ai chui qua mà vào thì được coi hèn như chó, phải lén lút, không dám công khai. Nếu Đức Giêsu xưng mình là cửa thì Ngài có ý nói rằng mọi người phải qua Ngài mới được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành.
Chúa Giêsu xưng mình là mục tử nhân lành vì mục tử biết và gọi đích danh từng con chiên, các con chiên theo sau người chăn vì biết tiếng người ấy. Các từ ngữ này diễn tả một tình yêu cá biệt. Thiên Chúa yêu thương mọi nguời và từng người một, biết rõ hoàn cảnh từng người một. Tình yêu đi đến cao điểm là thí mạng vì đàn chiên. Cho nên giữa Thiên Chúa và loài người có một tình yêu cao qúi và một sự gắn bó tuyệt vời.
Đức Giêsu là cửa chuồng chiên.
Đức Giêsu không những xưng mình là mục tử nhân lành, Ngài còn tự cho mình là cửa chuồng chiên. Bằng hình ảnh này, Đức Giêsu khẳng định rõ ai muốn vào Nước Trời, muốn lãnh ơn cứu độ bắt buộc phải đi qua Ngài ; muốn đến với Chúa Cha đều phải qua Ngài. Như Ngài đã từng nói :”Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Tác giả thư Do thái viết :”Người đã mở cho chúng ta con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác Người” (Dt 10,20). Đức Giêsu đã mở ra một con đường đến với Thiên Chúa. Trước khi Đức Giêsu đến, loài người chỉ có thể suy nghĩ về Thiên Chúa như một người xa lạ, hoặc tệ hơn thì như một kẻ thù. Nhưng Đức Giêsu đã đến bảo cho loài người biết, chứng minh cho loài người thấy rõ Thiên Chúa là thế nào, và mở ra con đường đến với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mở ra cánh cửa để loài người đến được với Thiên Chúa. Ngài là cánh cửa duy nhất cho loài người đến với Thiên Chúa.
Để mô tả một phần ý nghĩa của việc vào ra mắt Thiên Chúa, Đức Giêsu dùng câu nói rất quen thuộc của người Do thái, Ngài bảo rằng qua Ngài “chúng ta có thể đi vào và đi ra”. Được đi vào, đi ra tự do không có gì trở ngại, là cách người Do thái dùng đổ mô tả một đời sống được bảo đảm an toàn. Khi một người có thể đi ra đi vào mà không chút sợ hãi, điều đó có nghĩa là đất nước người đó đang có hoà bình.
Phải lắng nghe tiếng mục tử.
Từ dân Israel khi xưa cho đến trong xã hội hôm nay, luôn có những người tin theo Đức Giêsu và những kẻ không tin theo Người. Tin theo Người thì được cứu rỗi, còn ngược lại thì không. Tin theo Đức Giêsu là biết sống và thực thi lời Người :”Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Chúng ta thường đọc thánh vịnh đáp ca với câu “Chúa là Đấng chăn dắt tôi” để cầu nguyện, để đặt hết tin tưởng vào đó. Vậy ở đâu chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa Kitô, Đấng chăn dắt chúng ta ?
Chúng ta nghe tiếng Ngài trong Kinh thánh, đặc biệt khi đọc công khai ở đây trong nhà thờ. Chúa Kitô đã nói gì ? Chúa Kitô đã làm gì ? Bạn hãy đọc những câu hỏi này. Bạn hãy tìm câu trả lời. Rồi hãy bước theo tiếng gọi của Đấng chăn dắt linh hồn bạn.
Cái gì là thật ? Cái gì là giả ? Cái gì đúng ? Cái gì sai ? Hãy lắng nghe những vị lãnh đạo của Giáo hội mà Chúa Kitô đã thiết lập. Ngài đã hứa ở cùng Giáo hội cho đến tận thế. Ngài đã hứa gìn giữ Giáo hội cho khỏi lầm lạc.
Bạn sẽ nghe tiếng Ngài từ bàn thờ này, Bạn sẽ nghe tiếng Ngài trong các báo chí Công giáo. Những Giáo hội Kitô giáo cũng có nhiều Chân lý mà Chúa Kitô đã dạy, nhưng chỉ có Giáo hội Công giáo có trọn vẹn những điều Chúa Kitô đã dạy, có dồi dào tiếng nói chính thức của Ngài.
Bạn hãy chăm chú lắng nghe tiếng Ngài. Bạn hãy đổi mới lòng trung thành với Đấng chăn chiên chân thật theo lời thánh Phêrô trong bài đọc II :”Hãy trở về cùng vị Mục tử, Đấng canh giữ linh hồn bạn”. Rồi chúng ta sẽ có sự sống dồi dào.(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin Mừng Chúa nhật năm A, tr 62).
Phải yêu mến mục tử nhân lành.
Người mục tử bao giờ chũng yêu thương con chiên, gắn bó với chúng từng giây phút, biết tên từng con một, dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi và suối nước mát. Tất cả vì đàn chiên. Đấy là hình ảnh của Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, đối với từng người chúng ta. Vậy chúng ta phải là đàn chiên ngoan ngoãn, yêu mến Chúa, lắng nghe tiếng Chúa, tin theo Chúa mặc dầu phải hy sinh đau khổ. Chúng ta phải biết rằng Chúa thương yêu chúng ta trước, còn ta, ta chỉ việc đáp lại tình yêu nhưng không ấy.
Truyện minh hoạ
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh em tín đồ qùi cạnh bên giường, cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc đàn chiên của Ngài rất tận tâm và họ lặp đi lặp lại câu này :”Chúa biết không, mục sư yêu mến Ngài biết bao”!
Nghe vậy, vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói :
– Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Marta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói :”Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói :”Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn. (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 204).
Nhiều khi chúng ta cảm thấy hãnh diện vì đã yêu Chúa nhiều. Chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu thương ta trước, yêu vô điều kiện, không bờ bến. Nhiều khi chúng ta hãnh diện mà kể công với Chúa : ta đã làm được những việc này việc nọ cho Chúa nhưng Chúa bảo chúng ta đừng có cao ngạo như thế, trái lại khi làm xong việc gì thì hãy thưa với Chúa :”Chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10).
Chúng ta vui sướng vì có Chúa là vị Mục tử nhân lành, Đấng chăn dắt linh hồn chúng ta. Chúng ta chỉ cần trở thành những con chiên ngoan ngoãn, đừng bao giờ trở nên những con chiên bướng bỉnh hay như người ta nói là những con chiên “ghẻ”. Chúng ta sống an bình trong tay Đấng chăn chiên lành, tin tưởng vào Ngài trong mọi trạng huống của cuộc sống. Ngài sẽ lo cho mọi sự vì Ngài đã nói :”Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.
Đồng thời hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chăn.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chăn nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
————————————————————-
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA ĐỨC GIÊSU, MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Lời Chúa hôm nay trình bày Đức Giêsu là người mục tử tốt lành : Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
– Đức Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
– Đức Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Cv 2,36-41
Đây là phần kết luận bài giảng của Phêrô hôm lễ Ngũ tuần : Phêrô kết luận bằng cách kêu gọi người ta sám hối và lãnh nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Dân chúng đã đáp lại cách nồng nhiệt. Kết quả là hôm ấy có thêm khoảng 3000 người theo đạo, gia nhập đoàn chiên của Đức Giêsu.
Đáp ca : Tv 22
Hình ảnh người mục tử trong Thánh vịnh này áp dụng rất đúng vào Đức Giêsu : Ngài chăm sóc từng người chúng ta, Ngài rửa sạch chúng ta trong nước bí tích Thanh Tẩy, Ngài cho ta uống no nê những ân huệ của Ngài, Ngài cho chúng ta dự tiệc Thánh Thể, và Ngài dẫn chúng ta tới với Chúa Cha. Ở bên Ngài chúng ta không thiếu thốn gì cả và chúng ta có thể luôn an lòng.
Bài đọc II : 1 Pr 2,20-25
So sánh cuộc đời hiện tại của các kitô hữu với thời gian trước kia, Thánh Phêrô nói : “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em”.
Bài Tin Mừng : Ga 10,1-10
Đoạn Ga 10,1-18 là một ẩn dụ trong đó Đức Giêsu tự ví mình là “cửa chuồng chiên” và là “mục tử”. Phần được chọn đọc hôm nay là hình ảnh “cửa chuồng chiên” (cc 1-10).
Chúng ta nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi tên các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào. Nhưng dù vậy, chiên cũng không đến gần bọn họ vì chúng lạ họ. Nếu họ có đưa được con chiên nào ra khỏi chuồng thì cũng không phải để nuôi dưỡng nhưng để giết ăn thịt.
Qua những câu này, Đức Giêsu muốn so sánh Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái thời đó : họ không phải là mục tử thật nhưng là những tên trộm cướp leo rào vào chuồng, họ không chăm sóc cho chiên nhưng chỉ làm hại chiên ; chính Đức Giêsu mới là mục tử thật và là cửa chuồng chiên.
GỢI Ý GIẢNG
Đừng lầm tưởng
Mặc dù con người ai cũng muốn được độc lập, thế nhưng trong thâm tâm sâu xa ai cũng có nhu cầu cần được dẫn dắt đến hạnh phúc, đến một cuộc sống tròn đầy. Như thế ai cũng là con chiên và cần mục tử. Vấn đề là chọn ai làm mục tử cho mình thôi.
– Những kẻ dẫn mình tới những cánh đồng hoang, những khu rừng rậm đầy thú dữ (cuộc sống buông thả, những ý hệ lệch lạc, những cách sống thời trang, hưởng thụ v.v.) thực ra chỉ là những tên trộm cướp làm hại con chiên.
– Mục tử thật phải dẫn con chiên tới nơi nào có suối nước, bóng mát, cỏ non nuôi dưỡng cuộc sống của chiên ; phải cực nhọc tìm dẫn về những con chiên đi lạc ; phải gian lao chiến đấu với sói dữ và kẻ cướp. Mục tử như thế chỉ có thể là Đức Giêsu mà thôi\
Nghĩa là có hai lầm tưởng tai hại : 1/ Tưởng mình là con chiên độc lập không cần ai dẫn dắt ; 2/ Tưởng đi theo những “mục tử” dễ dãi là đời mình sẽ sung sướng.
Liên hệ giữa Đức Giêsu và chiên của Ngài
Chúa biết rõ từng người của mình, từng người một. Ngài không đẩy họ đi trước mình, nhưng Ngài đi trước họ, dẫn đường cho họ, nói với từng người, thu hút họ hơn là hướng dẫn họ.
Tuy nhiên, sói không ngừng lảng vảng quanh đoàn chiên, rình bắt những con chiên bất cẩn xa đàn. Vị mục tử đích thực sẵn sàng đương đầu với sói vì mỗi con chiên đều quý giá vô ngần. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên.
Mối tương giao giữa họ hệt như giữa Chúa Cha và Chúa Con. Mối tương giao ấy dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau, nghĩa là trên tình yêu. Cha biết Con sẵn sàng tự hiến trọn vẹn cho những người bước theo và sẽ bước theo mình. (J. Potin, “Đức Giêsu lịch sử đích thực”, trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 138).
Không còn là con số vô danh nữa
Con người thời nay rất ghét phải sống như một con người vô danh giữa một đám đông, như một con số âm thầm giữa lòng tập thể. Mỗi người như một bộ phận nhỏ trong guồng máy khổng lồ, âm thầm và cô đơn làm cho xong phần việc của mình. Tại sao có những người cố tình có những hành vi ngênh ngang, ăn mặc lố lăng, nếp sống lập dị… ? Vì đó là cách để cho người khác chú ý tới họ.
Đức Giêsu đối với chúng ta thì khác hẳn. Ngài không vơ đũa cả nắm coi hết mọi người y như nhau. Trái lại Ngài biết rõ từng người một với cá tính riêng, hoàn cảnh riêng, chỗ mạnh chỗ yếu riêng. Nhất là Ngài yêu thương mỗi người một cách riêng. “Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, như Chúa Cha biết Ta và Ta biết Chúa Cha”.
Tâm sự của người đồng hành bị quên lãng
Sáng nay khi bạn vừa thức dậy, tôi nhìn bạn và chờ đợi bạn nói với tôi đôi lời : để cám ơn về những điều tốt lành bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem tôi có ý kiến gì với bạn cho ngày hôm nay… Đôi lời ngắn ngủi thôi. – Nhưng bạn mãi lo tìm chọn quần áo giày dép… Nên tôi phải chờ.
Bạn đã mặc quần áo xong, bạn còn 15 phút rãnh rỗi. Tôi hy vọng bạn sẽ lên tiếng chào tôi. – Nhưng không, bạn ngồi xuống ghế sofa, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn chờ.
Chợt bạn đứng lên – Tôi tưởng bạn sẽ đến với tôi nói đôi lời gì đó. Thế nhưng bạn đến máy điện thoại, quay số đến một người bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và tôi tiếp tục chờ.
Rồi đến giờ bạn ra xe. Bạn đến chỗ làm. Tôi chờ bạn suốt buổi sáng.
Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu thầm thì nói với tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không ! Và tôi tiếp tục chờ.
Ăn xong, bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong bạn sắp nói với tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn chờ.
Buổi chiều, tan sở. Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều bạn sẽ kể cho tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng bạn chạy thẳng một mạch tới nhà. Về tới nhà, bạn lao ngay vào phòng tắm… Và tôi vẫn chờ.
Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng bạn không thấy tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy, để mặc tôi tiếp tục chờ.
Rồi bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ tôi. Có lẽ vì bạn không biết tôi vẫn luôn ở bên cạnh bạn. Bạn không thấy tôi, nhưng tôi vẫn luôn ở kề bên bạn, yêu thương bạn, rất muốn nói chuyện với bạn, để an ủi, để chia xẻ, để góp ý, để động viên… Bạn không biết, không để ý gì cả. Và bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn chờ.
Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn thức dậy. Tôi hy vọng hôm nay bạn sẽ dành ra đôi phút để nói với tôi. Tôi vẫn chờ bạn đấy. Chúc bạn một ngày tốt đẹp.
Chuyện minh họa
“Ta là cửa chuồng chiên”
Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết : một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi : “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người mục tử hỏi lại : “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi.” Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình : Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào.
“Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”
Người Tây Ban Nha có câu chuyện sau đây :
Khi có người đến cửa thiên đàng, Thánh Phêrô đặt cho mỗi người một câu hỏi rất lạ : “Lúc còn ở trần thế, bạn đã biết nếm mùi những vui thú mà Chúa nhân lành ban cho bạn không ?”
Nếu người đó đáp “Thưa không” thì Thánh nhân nói : “Bạn chưa biết nếm những vui thú nhỏ dưới thế thì làm sao có thể nếm những vui thú lớn lao trên thiên đàng được ! Xin lỗi, Ta chưa cho bạn vào được.”
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân hậu. Người đã hy sinh mạng sống để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Dung mạo của Hội Thánh là dung mạo của một người chăn chiên / có trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên mà Vị Mục Tử đích thực đã giao phó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / luôn hành động theo tinh thần phúc âm / hiền hòa trong cung cách đối xử / và biết quên mình vì đoàn chiên.
2- Trên thế giới ngày nay / để có thể phục vụ hữu hiệu dân Chúa và loan báo Tin Mừng / thì số Linh mục và tu sĩ quả là thiếu thốn trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho có thêm nhiều thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo / dám vì Chúa mà xả thân phục vụ anh em.
3- Hằng ngày / vì nghe và nói biết bao điều không tốt / nên tâm trí con người bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các kitô hữu biết giữ miệng lưỡi / chỉ nói những lời xây dựng / đem lại niềm an ủi / niềm vui cho mọi người / và biết chăm chú lắng nghe Lời Chúa.
4- Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sẵn sàng rộng rãi đóng góp vào việc đào tạo các Linh mục / bằng lời cầu nguyện và việc nâng đỡ các Chủng viện.
CT : Lạy Chúa Giêsu, không gì bất hạnh cho một cộng đoàn bằng thiếu vắng bóng dáng Linh mục. Vì thế xin Chúa ban cho chúng con các Linh mục mà mọi người đều cần đến : đó là những mục tử vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ, vừa hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ. Chúa hằng sống và…
——————————————————-
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
CỬA CHUỒNG CHIÊN – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
———————————————————
CHÚA NHẬT IV PHUC SINH- NĂM A
CHÚA CHIÊN LÀNH- Radio Veritas
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.
Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.
Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.
Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Amen.
————————————————————
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
NGƯỜI CHĂN CHIÊN LÀNH- Cố Lm. Hồng Phúc-
Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành. Gioan Thánh sử mời gọi chúng ta một vòng qua các ngọn đồi Galilê để chứng kiến một cảnh thanh bình: các mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên giòng suối mát.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vì vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục người Israel thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ qua Biển Đỏ, qua sa mạc đến Đất Hứa, như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, vui buồn gian khổ dưới sương sớm với nắng chiều. Đó là viễn ảnh của một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ gởi đến là Chúa Giêsu. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy chiên trên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một người chăn chiên lành phúc hậu.
Nhiều lần, Chúa Giêsu tự ví mình là Người Mục tử, nhưng lần này Ngài đã nói tất cả ý nghĩ.
Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục vụ đoàn chiên và cứu thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đối lại, con chiên nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ tình yêu mến. Người mục tử đi trước để bảo vệ đoàn chiên, đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm. Chúa phán: “Ta đến để mọi người được sống và được sống dồi dào”, cho dầu phải trả một giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử, Chúa Giêsu lại tự ví mình với cửa chuồng chiên.
Mỗi một khi Giáo hội tổ chức Năm Thánh, ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo hoàng đã chủ sự nghi lễ và đóng một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ Thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có một quá trình trong Thánh Kinh tượng trưng cho Ơn Thánh Chúa đổ xuống trên nhân loại (Tv 78, 23; Ml 3, 10); cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua (Tv 24, 7-10); cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất (Tv 122).
Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là cửa chuồng chiên… Ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ Thiên Chúa và loài người cũng gặp gỡ anh em mình. Nhưng con người ta có kẻ tốt và người xấu, kẻ thánh thiện và người gian hiểm. Đối với đoàn chiên hiền lành, có kẻ không qua cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để sát hại và phá hủy. Xưa nay, trong Giáo hội cũng có những tên ăn trộm, những sói dữ đột nhập vào giữa đoàn chiên, nhất là khi họ là sói dữ đội lốt chiên lành.
Thánh Phaolô kết luận: “Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử là Đấng canh giữ linh hồn anh em”.
Và Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Là con chiên tôi đi theo vết chân Chúa, tôi chẳng lo sợ gì. Vua Thánh Venceslaô xứ Tiệp Khắc (907-929) một đêm nọ trời đông giá rét đi đến nhà thờ viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa kêu giá lạnh. Thánh nhân bảo: Cứ chịu khó theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường.
Theo vết chân của vị Mục tử ta sẽ thấy đời ấm áp.
————————————————
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
–XIN CHÚA BAN NHIỀU TÔNG ĐỒ MỞ NƯỚC CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài phán : ” Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).
Những “ngọn núi Israel ” theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non tốt tươi, màu mỡ (x. Ez 34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới : ” Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển ” (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : ” Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên : ” Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất ” (Ga 10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về.
Vì thế, chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay được Đức Thánh Cha đưa ra là : “Được Thần Khí Dẫn Dắt Cho Việc Truyền Giáo ” như một dấu nhấn đối với người rằng “không thể không có sự cổ võ cho ơn gọi hoặc sứ mạng Kitô Giáo tách ra khỏi đời sống cầu nguyện chiêm niệm liên lỉ”. Đức Thánh Cha nói : “Dấn thân cho việc truyền giáo không phải là một điều gì thêm vào đối với đời sống Kitô Giáo như một kiểu trang trí, mà thay vào đó là một yếu tố thiết yếu của chính niềm tin. Một mối quan hệ với Thiên Chúa”, và Ngài khích lệ mối quan hệ sâu sắc này với Chúa, ” trên hết vì sự khẩn xin từ trên cao những ơn gọi mới cho đời sống linh mục và đời thánh hiến “. Ngài nhắc lại rằng, ngang qua “Phép rửa, mọi Kitô Hữu là một ‘Christopher’, một người mang lấy Đức Kitô, cho anh chị em của mình”.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng : “Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người”. Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ “hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại “Hãy đến! Hãy theo ta”. Theo Chúa Giêsu “có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta : gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân”.
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.
——————————————————————-
CỬA CHUỒNG CHIÊN- Lm. Inhaxio Trần Ngà
Khi xây nhà, quan tâm hàng đầu của chủ nhà là lắp đặt các khuôn cửa thật vững chắc để bảo vệ cho bản thân cũng như cho tài sản của mình. Khi vắng nhà hoặc vào ban đêm, chủ nhà phải khóa cửa cài then cẩn thận để bảo đảm cho người nhà được yên giấc và của cải được an toàn.
Người ta có thể tìm thấy trên thị trường nhiều chủng loại cửa vững chắc và kiên cố để bảo vệ người nhà và tài sản, nhưng biết tìm đâu ra một thứ cửa đủ kiên cố có thể bảo vệ linh hồn con người được an toàn trước những đợt tấn công khốc liệt của ác thần?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su tự giới thiệu mình như một thứ Cửa chuồng chiên. Khi Cửa đóng lại, chiên bên trong được an toàn; khi Cửa mở ra, đoàn chiên sẽ được dẫn tới đồng cỏ xanh tốt.
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Chúa Giê-su nói: “Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Như thế, Ngài tự xem mình như cánh cửa được đóng lại sau khi đoàn chiên đã vào bên trong chuồng chiên. Nhờ đó, đoàn chiên được bảo vệ an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn… được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến người ta xem tội ác là chuyện bình thường, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực là chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là chuyện nhỏ…
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giê-su. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên biết lắng nghe.
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giê-su còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng. “Tôi là Cửa. Ai qua tôi … thì sẽ gặp đồng cỏ… Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào. (Gioan 10, 9-10)
Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phan-xi-cô Át-xi-di, Phan-xi-cô Xa-vi-ê, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Chân Phước Tê-rê-xa Calcutta thời nay, nhờ được nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những danh nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Khung Cửa Giê-su để được dẫn vào đồng cỏ thiêng liêng để bồi bổ cho tâm linh mình.
Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, nên chúng con được nuôi dưỡng sung mãn với vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết tin nhận Chúa là Đấng bảo vệ che chở và dưỡng nuôi họ, nhờ đó mọi người được vui hưởng hồng phúc và an lạc muôn đời. Amen.
——————————————-
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
CẦU NGUYỆN NHIỀU CHO DÂN CHÚNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó : Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.
Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành…), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
Hy sinh tính mạng vì anh em mình.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
————————————————————-
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
CHÚA CHIÊN LÀNH- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã… Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con – Alter Christus của Chúa – được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- NĂM A
MỤC TỬ TỐT LÀNH- Trích Logos A
Sau 16 ngày Giáo Hội “trống tòa”, ngày 18/4/2005, Hồng Y đoàn sẽ bắt đầu bầu cử tân giáo hoàng. Cuộc bầu cử này gọi là “mật nghị” : các Hồng Y sẽ ở trong một khu vực đóng kín, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho đến khi bầu được tân giáo hoàng.
Danh từ “mật nghị” tiếng La tinh là “conclave” nghĩa là “với chiếc chìa khóa” (cum – clave) xuất phát từ câu chuyện bầu giáo hoàng vào năm 1268 tại thành Viterbo, Rôma.
Cuộc bầu cử năm ấy kéo dài mấy tháng mà không có kết quả. Dân chúng sốt ruột dùng chìa khóa và khóa chặt phòng các Hồng Y họp. Nhưng cũng không có kết quả. Họ lại giảm phần ăn và chỉ cung cấp nước lã, bánh mì cho các ngài mà thôi. Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1271 mới bầu được giáo hoàng. Đó là Đức Giáo Hoàng Grêgôriô X. Như thế, phải mất 3 năm cuộc bầu cử mới thành công.
Từ đó trở đi, các cuộc bầu giáo hoàng được tổ chức tại một nơi đóng kín, nghiêm ngặt, không có nhiều tiện nghi để không kéo dài cuộc bầu cử lâu ngày và để tránh những ảnh hưởng tác động từ bên ngoài.
Trong những ngày sau đó, cánh cửa “mật viện” sẽ mở ra và vị tân giáo hoàng sẽ xuất hiện trước mọi người. Cánh cửa mở ra để khai mạc một triều đại giáo hoàng mới. Cánh cửa mở ra để vị chủ chăn bắt đầu sứ vụ mục tử của mình. Cánh cửa mở ra để vị giáo hoàng đi đến với mọi người và mọi người đến với ngài. Cánh cửa mở ra để nói lên rằng Giáo Hội luôn mở rộng để hòa nhập với thế giới và để mọi người đến với mình. Cánh cửa Giáo Hội là chính Đức Kitô.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói “Ta là cửa chuồng chiên”. Cánh cửa dùng để qua lại, ra vào. Cánh cửa diễn tả sự đón tiếp (1Cr 16, 19) hay khước từ (Mt 25, 10). Cánh cửa cũng dùng để ngăn cấm hay bảo vệ (Ga 20, 19). Cánh cửa cũng còn nói lên sự giam hãm hay giải thoát. Khi Chúa Giêsu tự nhận mình là “cửa chuồng chiên”, Ngài muốn trở thành cánh cửa không phải để đóng kín, nhưng để mở ra cho đàn chiên một khung trời đầy yêu thương và một nguồn sức sống dồi dào.
Ở xứ Palestina, du mục là nghề phổ thông của nhiều gia đình. Người ta chăn chiên trên những cánh đồng cỏ hoặc trên những khe núi có suối mát. Ban đêm, người chăn chiên lùa đàn súc vật vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng người chủ chiên đi qua cửa để vào chuồng và gọi chiên mình ra. Vì quen nghe tiếng chủ, chiên đi theo ra khỏi chuồng để được dẫn đến những cánh đồng cỏ. Chúng không nghe tiếng người lạ và không đi theo những người ấy. Những người lạ có thể là trộm cướp hay những người đồ tể.
Dựa vào thói quen đó, Chúa Giêsu đã nhận mình là “cửa chuồng chiên”, là cánh cửa mở ra một bầu trời đầy tình yêu thương.
Tình yêu được biểu lộ qua hình ảnh Chúa là vị Mục Tử Nhân Lành. Người Mục Tử ấy gọi tên từng con chiên. Lời kêu gọi đó không phải là tiếng thét gào hay quát nạt, không phải là tiếng đe doạ hay nguyền rủa, nhưng là những lời dịu dàng êm ái xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của Người Mục Tử.
Tình yêu ấy còn thể hiện qua hình ảnh Người Mục Tử đi trước và đàn chiên theo sau. Người Mục Tử dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh và dòng suối mát. Dưới sự dẫn dắt và che chở của Người Mục Tử, đàn chiên được sống yên lành.
Chúa Giêsu là cánh cửa tình yêu, ai qua cánh cửa ấy sẽ được sống trong yêu thương, được dìu dắt và đỡ nâng. Cánh cửa ấy luôn mở rộng để đưa ta vào một thế giới không hận thù, không oán ghét, nhưng tràn đầy bình an và tình yêu.
Ở đất nước Palestina, người ta nuôi chiên để lấy sữa, thịt, lông và da. Đó là những sản phẩm được cung cấp từ đàn chiên. Chiên là loài vật hiền lành, sống thành đàn trên các thảo nguyên và rất thích gần gũi với con người. Chúng hiền lành đến nỗi khi bị đem đi xén lông hay giết thịt, chúng cũng chẳng kêu la hay phản ứng lại. Vì thế, chúng rất dễ dàng trở thành mục tiêu của bọn trộm cướp hay con mồi cho thú dữ vào ban đêm. Do đó, người chăn chiên luôn phải nằm ngay cửa chuồng để canh chừng và bảo vệ đàn chiên.
Dựa vào đặc tính đó, Chúa Giêsu tự nhận Ngài là “cửa chuồng chiên” để so sánh mình với các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó : họ không phải là những mục tử tốt lành, nhưng giống như trộm cướp hay thú dữ “leo rào” vào chuồng chiên. Họ không chăm sóc, dưỡng nuôi đàn chiên, nhưng chỉ muốn sát hại, xén lông và giết thịt.
Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành. Ngài chăm sóc, vỗ về yêu thương đàn chiên. Ngài đem đến cho đàn chiên sự sống dồi dào. Chúa Giêsu là “cửa chuồng chiên” để bảo vệ che chở đàn chiên. Ngài là cánh cửa mở ra nguồn sức sống mãnh liệt cho đàn chiên. Nhất là Ngài sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên. Ngài chết để đàn chiên được sống và sống dồi dào. Đặc biệt, Ngài đã hiến thân mình nơi bí tích Thánh Thể để nên lương thực nuôi dưỡng đàn chiên.
Hôm nay, cánh cửa ấy vẫn tiếp tục mở ra cho một nhân loại đang khao khát được sống và tồn tại. Đức Kitô mãi mãi là cánh cửa mở ra cho thế giới một “thảo nguyên” xanh tươi bao la bát ngát, tràn đầy sức sống thần linh.
Đức Kitô là cánh cửa của một Giáo Hội mở rộng đón nhận mọi người. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, thánh Phêrô cùng với các Tông Đồ mạnh mẽ rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh và kết quả là ngày hôm ấy có 3000 người gia nhập đạo (Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ).
Đức Kitô còn là cánh cửa luôn mở ra để đón nhận những con chiên lạc quay trở về. Ngài là vị Mục Tử Nhân Lành, luôn nâng niu chăm sóc những tâm hồn lạc đường và đang hư mất (Bài đọc II, trích thư 1Pr). Hình ảnh đẹp nhất của Người Mục Tử Nhân Lành là hình ảnh Ngài vác con chiên trên vai đưa trở về đàn.
Hiện nay, nhiều người đang mong muốn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong thánh ngay. Họ trưng dẫn một số sự kiện được họ coi là “phép lạ” do Đức Giáo Hoàng thực hiện khi ngài còn sống.
Vào năm 1990, em bé 4 tuổi người Mễ Tây Cơ tên Jose Heron Badillo bị bệnh bạch hầu ở giai đoạn cuối và các bác sĩ dự đoán em chỉ còn sống vài tháng. Trong cuộc tông du Mễ Tây Cơ năm 1990, Đức Thánh Cha đã đến thăm quê hương của em (là Zacatecas). Vì lòng thương cảm em bé sắp chết, ban tổ chức cho em được đứng ngay khán đài, trong nhóm các em thả chim bồ câu. Đức Thánh Cha đã bồng em vào lòng và hôn lên trán em. Sau đó, em hoàn toàn khỏi bệnh và sống bình thường cho đến hôm nay. Hiện nay, Badillo 19 tuổi và rất khỏe mạnh. Người ta dự định sẽ trao hồ sơ sự kiện này cho Tòa Thánh khi hồ sơ phong thánh cho Đức Thánh Cha được mở ra (theo báo Corriere della Sera, nước Ý, số ra ngày 11/4/2005).
Việc phong thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn tuỳ thuộc thẩm quyền Giáo Hội, nhưng sự kiện đó cho thấy hình ảnh thật đẹp về ngài : người mục tử nhân lành ôm vào lòng những con chiên nhỏ bé, yếu đuối, bệnh hoạn và đau khổ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tốt lành như thế.