CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ANH LADARÔ, HÃY RA KHỎI MỒ- Chú giải của Noel Quesson. 7
LADARÔ SỐNG LẠI – Chú giải của Fiches Dominicales. 15
THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG- Lm. FX Vũ Phan Long, ofm 26
TA LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG (*) – Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 46
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC SỰ SỐNG- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 64
NIỀM HI VỌNG SỐNG LẠI- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 73
MỞ CỬA MỘ – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 87
CHÚA KITÔ LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 90
ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI- Lm. Inhaxio Trần Ngà. 95
QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 98
NIỀM TIN TÍN THÁC- Lm. Jos Tạ Duy Tuyền. 105
THỨC TỈNH- Trích Logos A.. 109
———————————————————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống”.
Bài trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 4c-6. 7-8
Ðáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ (c. 7).
1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu; dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con.
2) Nếu Chúa con nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu.
3) Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa con, hơn người lính gác mong trời rạng đông.
4) Hơn người lính gác mong hừng đông dậy. Israel đang mong đợi Chúa con: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 8-11
“Thánh Thần của Ðấng làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”.
PHÚC ÂM: Ga 11, 1-45
“Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”. Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?” Chúa Giêsu đáp: “Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng”. Người nói thế, rồi lại bảo họ: “Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại”. Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: “Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”. Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: “Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người”. Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: “Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em”. Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: “Ðã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Ðó là lời Chúa.
———————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
ANH LADARÔ, HÃY RA KHỎI MỒ- Chú giải của Noel Quesson
Có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ Xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người (Ga 12,1-3). Anh Ladarô. Người bị đau nặng, là em của cô.
Bêtania ngày nay vẫn luôn mang tên bằng tiếng Ả Rập “El Azaneh”, làng của Ladarô. Trong tiếng Do Thái “Beithaneiah” có nghĩa là “nhà của người nghèo”. Bêtania! ở triền phía Đông của núi Ô-liu, ở 3 km phía Đông Giêrusalem, đó là phía mặt trời mọc trên Giêrusalem.. Đó là đỉnh của ngọn núi mà dưới chân nó, trên phía có bóng che, có vườn Ghết-sê-ma-ni ở phía thấp dưới. Bêtania! Đó là ốc đảo của ánh sáng và tình bạn hữu. Ở đó, trong một ngôi nhà thân hữu, Đức Giêsu đã sống hạnh phúc.
Hai chị em sai người nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng”. Nghe vậy Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Đức Giêsu quí mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
Trong cuộc sống đầy xáo động và khó khăn của Chúa Giêsu. Bêtania là chốn cõi lòng được nghỉ ngơi. Theo thói quen, Tin Mừng giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn! được toả hào quang với địa vị Đức Chúa Phục sinh (và sự cám dỗ “theo thuyết một bản tính” rõ ràng là chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa nơi Người). Vậy mà, Thánh Gioan, người trông thấy rõ nơi Người Ngôi Lời, Con vĩnh cửu, cũng là người cho chúng ta thấy “con người” nơi Đức Giêsu. Người đã có nhiều tình bạn với nữ giới; như ta thấy rõ trong câu nói tinh tế và đơn sơ này: “Đức Giêsu yêu mến Mácta và em gái của cô”, người cũng sẽ, lát nữa run lên vì xúc động và khóc.
Tuy nhiên sau khi được tin anh này lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày lại nơi đang ở. Rỗi sau dó, Người nói với các môn đệ: “Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê”. Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?”. Đức Giêsu trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình”.
Sự sống lại của Ladarô là “phép lạ cuối cùng” của Chúa Giêsu, dấu hiệu cuối cùng mà người dành cho người Do Thái trong vụ tranh tụng giữa ánh sáng và bóng tối: ngay sau dấu hiệu này, trong Thánh Gioan, là cuộc Thụ Nạn bắt đầu (Ga 11,46-53). Khi đi sang miền Giuđê để cứu anh bạn Ladarô của mình, Đức Giêsu đi đón nhận cái chết của mình. Chúng ta chú ý là Đức Giêsu, mặc cho tình yêu của Người đối với hai người bạn gái, đã cố tình chậm đến gặp lại họ: Dù vẫn hoàn toàn nhân bản, Đức Giêsu không bao giờ để mình bị dẫn dắt bởi tình cảm của mình nhưng bởi ý muốn của Chúa Cha (4,34; 7,18; 8,29).
Người đã đợi cho Ladarô chết vì người biết thế, người không đến để tránh cho chúng ta khỏi đau khổ và tang chế, nhưng thay đổi những đau khổ và cái chết này nhờ sự sống lại của Người, chính Người cũng sẽ không tránh cái chết cho mình!
Nói những lời này xong. Người bảo họ: “Ladarô bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy Thầy đi đánh thức anh ấy đây. Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được anh ấy sẽ khoẻ lại”. Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: “Ladarô đã chết, Thầy mừng cho anh em vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi nào chúng ta đến với anh ấy”. ông Tôma, gọi là Đi-di-mô nghĩa là sinh đôi nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”.
Đức Giêsu luôn luôn gọi cái chết là một “giấc ngủ”, và nhờ đó mời chúng ta thay đổi quan niệm của chúng ta về cái thực tại không thể tránh được này (Mt 9,24: Ga 11,11) Cái chết thể lý, đối với Đức Giêsu, là một giấc ngủ đơn sơ và tạm bợ; nấm mồ trở thành một nơi người ta nghỉ ngơi trong lúc chờ đợi thức dậy. Và Thánh Phaolô sẽ ca lên: “Hỡi người đang ngủ, hãy tỉnh giấc, ngày đã sáng rồi. Từ trong kẻ chết, người hãy trỗi dậy, và được sáng ngời” (Ep 5,14). Lạy Đức Giêsu, xin hãy giúp con hiệp thông thực sự ý tưởng của Chúa để cất khỏi sự chết cái đặc tính bi thảm của nó, để xem nó như sự “phát tình của Thiên Chúa” huyền nhiệm, khiến chúng con cuối cùng có thể tham dự vào cuộc sống hạnh phúc của nó: Những ai đã ngủ yên trong Đức Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ cùng đi với Người…” (1Tx 4,14), “bởi vì Đức Kitô đã sống lại từ kẻ chết, quả đầu mùa của những ai đã ngủ yên…” (I Cr 15,20). Vâng Đức Giêsu có thể “vui mừng” về cái chết của Ladarô. Ôi mạc khải! Mạc khải duy nhất có ích lợi… về cái chết.
Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiễu người Do Thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết, nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa. Người cũng sẽ ban cho Thầy” Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại”. Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”. Cô Mácta đáp:Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô. Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
Mácta, như một phần lớn những người Do Thái thuộc thời cô, tin vào sự sống lại vào lúc tận thế… những ngày sau cùng! Điều mới mà Đức Giêsu yêu cầu cô tin, chính là một sự sống lại “hiện tại”: “Thầy là sự sống lại!”.
Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi độc nhất nghiêm chỉnh của lời Người, câu hỏi đặt ra cho mỗi người trong chúng ta khi đối diện với cái chết. “Ai tin vào Thầy dù đã chết sẽ sống”. Thật? hay không thật? hay bạn không tin điều đó? Kinh Tin Kính của chúng ta đơn sơ và ngắn gọn: Đức Giêsu làng Nadarét, đã chết và đã sống lại! Điều đó đơn giản như một buổi sáng Lễ Phục sinh. Trong khi chờ đợi chết. chúng ta phải sống điều đó, phải tin điều đó. Bởi vì tất cả mọi người tin vào Đấng đã sống lại không thể sống một cuộc đời không có tình yêu, không cậy trông, không niềm vui được của sẻ. Nếu bạn phải chết chiều nay, bạn sẽ làm thế nào để có thể trải qua ngày này trước khi ôm lấy Chúa? Cuộc đời của một tín hữu đầy sự sống lại, đầy sự sống và đầy niềm vui. Thầy là sự sống lại và là sự sống Những lời kiêu kỳ gây hốt hoảng? Đó là một thằng điên nói ra… hay chính là Thiên Chúa. Cuộc sống mà Người nói đến, hiển nhiên có một bản tính khác với cuộc sống sinh lý này, chết là hết; nhưng là cuộc sống của Thiên Chúa. Ai tin Thầy thì sẽ không bao giờ chết. Đức tin, ngay từ bây giờ, là một sự vui hưởng trước đời sống đó, đời sống không chết, chính là đời sống của chính Thiên Chúa.
Nói xong. Mácta đi gọi em là Maria và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy. Nghe vậy cô Maria vội đứng lên và đến với Người… Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: ‘ Thưa Thầy nếu có Thầy ở đây em con đã không chết”. Thấy cô khóc và những người Do Thái đi theo cũng khóc, Đức Giêsu thao thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: “Các anh để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: ‘ Thưa Thầy! mời Thầy đến mà xem”. Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương Ladarô biết mấy”. Có vài người trong nhóm họ nói: “ông ta mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”. Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.
Thật là tai hại, lại một lần nữa, khi những người phiên dịch đã không phán đoán tốt để cho người ta cảm thấy trong bản (dịch của họ, một tiểu tiết thật đẹp trong bản văn Hy Lạp, mà hiển nhiên là Gioan muốn thế. Ba lần, khi nói đến Mácta và Maria và những người Do Thái, Gioan dùng tiếng “Klainein” có nghĩa chính xác là “khóc, nức nở to tiếng” và chúng ta đoán những tiếng nấc và tiếng kêu ở Phương Đông, rất chan hòa tình cảm của mình, mà người ta thoáng nghe thấy nơi những bà khóc mướn chung quanh đám tang. Nhưng khi đến Đức Giêsu, Gioan thay đổi tiếng, và nói về “dakruein”, có nghĩa là “khóc thổn thức lặng lẽ”. Và từ này làm cho tôi trông thấy những giọt nước mắt âm thầm rơi trên mắt của một Giêsu làm chủ được mình, và cả khi Người đau khổ. Người vẫn khống chế được đau khổ riêng của mình.
Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mácta là chị người chết liền nói: ‘Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày! Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, thì chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha. vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con. Nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”.
Câu truyện dài dòng này, dẫn nhập vào cuộc sống lại của Ladarô, đi cho chúng ta hiểu là mục đích của trang này không phải là sự “tỉnh dậy” của cái chết thể lý của Ladarô, nhưng chính là sự tiến bộ trong đức tin của tất cả những người bao quanh Đức Giêsu. Và hành vi cảm tạ của Đức Giêsu, ta hãy chú ý điều này, không nhắm đến phép lạ mà Người sắp làm, nhưng đến sự kiện là phép lạ này sẽ giúp cho những người không tin hay những người yếu lòng tin “tin tưởng”:
– Những môn đệ đã chống, không lên lại Giêrusalem, họ nghi ngờ, họ sợ.
– Mácta không muốn mở ngôi mộ, chị hoài nghi, tử thi đã để quá trễ ngày.
Những người Do Thái, cho dù họ có thiện cảm với ba chị em, không tới để khóc nức nở.
Đức Giêsu muốn cầu nguyện cho tất cả họ, cho tất cả những người khó lòng tin tưởng, cho tôi, cho các bạn. Và đức tin chính là gì vậy? Chính là nhìn nhận rằng Đức Giêsu đến từ chỗ khác. Đức Giêsu được sai đi. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin cái chỗ khác từ đó Đức Giêsu đến không? Trong trang này của Gioan, có 23 cuộc di chuyển nơi chỗ được nhắc đến: bên ngoài Giu-đê, về hướng Giu-đê, về hướng Bêtania, về phía nhà, về phía mộ, về phía Giêrusalem; nhưng trung tâm của tất cả những cuộc di chuyển này, dù bề ngoài thế nào, không phải là “ngôi mộ” có thể cuốn hút chúng ta nhìn vào, mà đó là một thế giới khác, thế giới của Chúa Cha, từ đó Đức Giêsu được sai đi! Không có nơi đó, vấn đề cái chết không được giải quyết.
Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô hãy ra khỏi mồ!”. Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Đông đảo người Do Thái đã đến thăm cô Macta, và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm. Họ tin vào Người.
Vấn đề chính yếu, đối với con người, theo Đức Giêsu, trước hết không phải là có thể ra khỏi mồ một ngày kia, mà ngay từ bây giờ, đi từ sự chết sang sự sống bằng một đức tin gắn bó vào bản thân Đức Giêsu: “Họ tin vào Người”, còn chúng ta?
—————————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
LADARÔ SỐNG LẠI – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Từ Bêtania của sự sống đến Bêtania của sự chết.
Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria, bên bờ giếng Giacob, như bước chân của người mù bẩm sinh tiến về ánh sáng, Phúc âm về sự Lazarô là một trong những bản văn quan thuộc truyền thống Gioan mà Giáo Hội, ngay từ hai thế kỷ đầu tiên, đã dùng vào việc khai tâm cho tân tòng.
Đi liến với trình thuật về quyết định của Hội đường – dẫn đến việc kết án Đức Giêsu – trình thuật về sự phục sinh Lazarô là một văn bản bản lề trong Phúc âm Gioan.
Trình thuật này hoàn tất phần một, với dấu chỉ thứ 7 (số 7 là số hoàn hảo) và cũng là dấu chỉ cuối cùng của Đức Giêsu.
Trình thuật này cũng khởi đầu phần hai vì sắp đề cập đến cái chết của Đức Giêsu khi nói với giới lãnh đạo Do Thái rằng đã đến lúc kết thúc với Người.
Trình thuật này dẫn ta từ một Bêtania này đến một Bêtania khác. Bắt đầu ở Bêtania bên kia sông Giođan, “nơi Gioan làm phép rửa” (1,28). Đức Giêsu đã tĩnh tâm ở đó sau một cuộc tranh luận vào dịp lễ Cung hiến Đền thờ và người Do Thái đã muốn ném đá Người (1,39 và 11,8). Trình thuật kết thúc ở Bêtania gần Giêrusalem nơi Matta và Maria đã phát ra thông tin báo động: “Thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang bệnh nặng”.
Marchadour nhận xét: Như thế có hai Bêtania cách nhau bởi con sông Giođan, xa nhau bằng một khoảng cách không chỉ đơn thuần là địa lý: Bêtania của yên tĩnh, của sự sống, của đức tin và Bêtania của lo âu, của cái chết. Sự chậm trễ của Đức Giêsu sẽ là nguyên nhân cho truyện kể – cho Người có cơ hội giải thích trước rằng cơn bệnh của Lazarô không nguy đến tính mạng, nhưng chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa và Con Người. nếu Đức Giêsu nói về cái chết của bạn Người là một “giấc ngủ” chính là để ta hiểu rằng ông có thể thức dậy nếu ông nghe tiếng Người.
Trình thuật này là truyện kể về sự trở lại đời sống hơn là về sự phục sinh theo đúng nghĩa. X. Leon Dufour viết: “Thực vậy, từ ngữ “phục sinh” thường được dùng trong phép lạ này là không chính xác, vì, theo dữ kiện Kinh Thánh, từ ngữ ấy được dành riêng để chỉ sự vượt qua từ cái chết đến sự sống vĩnh viễn; nó không được dùng để chỉ cuộc trở lại với đời sống ở trần gian này: Để nói về sự phục hồi sự sống gian trần, ta có thể dùng từ ngữ hồi sinh, nhưng từ ngữ này có tính chất y học được dùng. Vậy ta nên dùng kiểu nói “trở lại đời sống” để chỉ sự kiện này”
Một hành trình của nhận thức.
Một lần nữa Gioan lại đưa ta vào một hành trình nhận thức.
Một lần nữa, ta có thể quan sát những chuyển dịch có ý nghĩa biểu tượng rất cao của các nhân vật trong trình thuật. X. Leon Dufour ghi nhận: “Mọi người đều rời nơi mình ở. Mọi người đều ra đi. Đức Giêsu và các môn đệ từ bên kia sông Giođan; những người Do thái từ Giêrusalem, Matta từ ngôi làng, Maria với những người Do Thái từ nhà nàng trong làng; Lazarô từ nấm mộ. Nếu Đức Giêsu ngừng chân, khi đến Bêtania và không vào nhà hiếu, chính là để lại lên đường cùng với cả nhóm, tiến tới nơi Người phá tan sự chết, trong khi chuyển động của các nhân vật khác, kể cả Lazarô, đều hướng tới gặp gỡ Ngài”.
Một lần nữa, ta có thể nhận ra những bí quyết luôn làm cho truyện kể thêm sinh động:
Sự khinh thường của các môn đệ về giấc ngủ cái chết của Lazarô. Sự khinh thường của Matta vế vấn đề thời điểm phục sinh: ngày sau hết, ngay bây giờ.
Phải đi xa hơn nữa để vượt qua mức độ đầu tiên của ý nghĩa:
Về ánh sáng: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ? vượt qua “ánh sáng của trần gian này đến với Đấng là Anh sáng soi trần gian” (câu 9-10).
Về ơn cứu độ: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ vượt qua thứ chữa khỏi bệnh một cách quá giản đơn, cả cuộc hồi phục sự sống về phương diện sinh lý, đến sự tiếp nhận ơn cứu dộ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Lên đến tuyệt đỉnh trong lời tuyên xưng đức tin của Matta.
Tới Bêtania trong xứ Giuđêa này, Đức Giêsu phải đối diện ngay với nỗi đau khổ của hai chị em của Lazarô. Trước hết dó là cuộc gặp gỡ với Matta. Bà bỏ nhà ra đón Đức Giêsu. “Khi Matta hay tin Đức Giêsu đến, bà chạy ra gặp Ngài, trong khi Maria ở lại nhà” A. Marchadour cảm nhận: Matta rời bỏ nhóm đám tang gồm Maria và các người Do Thái để đi gặp Đức Giêsu. Sự ra đi này đặt Matta vào một mối tương quan tin tưởng đặc biệt, trước mặt Đức Giêsu. “Nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết” bà nói với Đức Giêsu như thế, vì biết Người có một sức mạnh rất hiệu lực để chống lại cái chết và sự hiện diện của Người có thể cứu Lazarô thoát chết. Bà cũng nhận biết Người có uy tín với Thiên Chúa nên lời cầu của Người sẽ tác dụng? “Nhưng con biết rằng, ngay cả bây giờ, Chúa sẽ ban cho Thầy bất cứ điều gì Thầy xin”.
“Em con sẽ sống lại” Đức Giêsu trả lời, bầng cách nhắc lại cho bà niềm tin của người Do Thái vào sự sống lại ngày sau hết. Matta không ngần ngại phụ hoạ vào niềm tin Irael ấy: “Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại”.
Ở đây Đức Giêsu lại vượt qua một ngưỡng cửa mới. Ngưỡng cửa ấy là thuộc tính của Thiên Chúa: làm cho sống và làm cho chết. Đức Giêsu tự nhận. Ngài long trọng tuyên bố: “Ta là Sự Sống lại và là sự sống”. Không cần phải đợi đến ngày tận thế. Cuộc sống mới là một thực tại hiện diện nơi Người ngay lúc này. Sự sống ấy được ban tặng cho ai tin vào lời Người. “Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta, sẽ không chết đời đời. “Con có tin không. Matta trả lời: Vâng thưa Thầy, con tin Thầy là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa đến trong trần gian”. A. Marchadour bình luận “Ở đây Matta là khuôn mặt của kẻ tin nhận biết nơi Đức Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa của người sống đến giữa con người. Ở đây Đức Giêsu còn hơn Êlia hoặc Êlisêô: Ngài được nhận biết là Đấng làm cho sống, theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, nhờ đức tin Matta đã hiểu rằng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đến giữa nhân sinh. Thực là hợp lý khi bà tuyên xưng Đức Giêsu trong căn tính của Người là Messia của Thiên Chúa (điểm tới của Do Thái giáo) và là Con Thiên Chúa. vì thế, bà qui tụ Do Thái giáo (Đức Messia) và Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Rồi, đó là cuộc gặp gỡ với Maria, vẫn còn trong tang chế cả về thái độ lẫn lời lẽ: “Cô là một trong nhóm người Do Thái chịu tang chế”. Ngay từ đầu trình thuật, cô vẫn chìm đắm trong tang chế với cái chết, cô tượng trưng cho con người bị sự chia lìa của cái chết đánh gục: Sự buồn bực thái quá đã cả ngăn cô ra đón tiếp Đức Giêsu, mạc khải của Thiên Chúa.
Và dấu chỉ hồi sinh của Lazarô.
Xúc động sâu xa khi thấy Maria và những người Do Thái theo cô cũng khóc, Đức Giêsu lại xúc động khi đứng trước mộ của Lazarô bạn Người.
– Dù đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ, Matta vẫn nghi ngại khi phải mở cửa mồ, bà thưa với Đức Giêsu: “Nhưng thưa Thầy, chôn đã 4 ngày rồi. X. leon Dufour lưu ý: khoảng thời gian 4 ngày chẳng phải là một lựa chọn ngẫu nhiên, nó liên hệ đến niềm tin dân giả cho rằng kể từ ngày thứ bốn linh hồn bay lởn vởn quanh xác chết nhưng không thể nhập vào được nữa. Lazarô phải thực sự chết và xác đã bắt đầu có mùi như thế mới biểu lộ được chiến thắng của Đức Kitô. Matta tức khắc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa. Đức Giêsu bảo bà: “Thầy đã không nói với con rằng nếu con tin con sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”.
Theo lệnh Người, tảng đá che cửa mộ được mở ra, và lời cầu khẩn của Người quá vững chắc đến độ biến thành lời tạ ơn: Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã nhận lời con. Theo lệnh truyền oai quyền của Người: Lazarô, hãy đi ra! Người chết ra khỏi mộ. Thần chết nắm giữ ông trong vòng tay tượng trưng bằng các giải băng, nay không còn chút quyền hành nào trước mặt Đức Giêsu, Người kết luận: Hãy cởi dây và để cho ông đi.
Đức Giêsu đến từ xứ sở sự sống đã ở lại trong nhân tính bi đát nhất của Người, Đấng phá vỡ ranh giới chia Thiên Chúa – con người, sự sống – sự chết. Cái chết của Lazarô mà Maria và các người Do Thái coi như kết thúc ở đây trở thành một thoáng qua; các Kitô hữu đầu tiên, những người tuyên xưng chờ đợi lâu dài của Israel đã hoàn tất nơi Đức Giêsu Đấng được Cha Người phong làm Đức Chúa, đã cảm nghiệm rằng cái chết vẫn còn ảnh hưởng tới các bạn hữu của Đức Giêsu; khi cái chết đe doạ, Đức Giêsu và Người đến quá trễ không ngăn được thân xác huỷ hoại, tang chế và nỗi buồn. Trước những lời chất vấn này, trình thuật đề nghị một lời giải đáp bằng mượn lối văn kể chuyện để chuyển đạt một giáo huấn khá gần với giáo huấn của Phaolô trong thư thứ nhất giở dân thành Thesalonica.
Truyện kể chấm dứt, để lại độc giả – và cả chúng ta hôm nay – đối diện với Lazarô, đang sống, nhưng câm nín không nói gì về những gì ông đã cảm nghiệm, sự im lặng của ông buộc mỗi người chúng ta phải tự xác định mối quan hệ của mình với Đức Giêsu, trọng tâm của câu chuyện đi đến cái chết và sự phục sinh của Người. Còn về những người Do Thái, trong khi có nhiều người trong bọn họ tin vào Người, có vài kẻ đến tìm những người biệt phái và kể cho họ nghe những điều Người đã làm. Tiến trình tiếp diễn, sẽ dẫn đưa Đức Giêsu tới đồi Canvê nơi Người dâng hiến mạng sống để ban sự sống thật cho tất chúng ta là những Lazarô.
BÀI ĐỌC THÊM:
Lớn lên trong đức tin (N. Quesson, Les entretiens du dimanche A. Droguet et Ardant).
Trong câu chuyện này, cả Matta lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Matta đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do Thái: “Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế. Đức Giêsu mời bà tiến thêm một bước: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không. Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho ai tin vào Người. Đó chính là mục đích của phép lạ này: “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con. Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con”.
Kết thúc cuộc khám phá về Đức Giêsu, và để chuẩn bị cho việc tuyên xưng đức tin, chúng ta đã cùng Matta và Maria lãnh nhận bài giáo lý cuối cùng. Những người xứ Samaria đã nhận biết Người là Đấng Cứu Độ trần gian… người mù bẩm sinh đã nhận Ngài là Con Người… Matta và Maria đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Đối với nhiều trẻ em, những thanh niên và cả lứa tuổi trường thành, Đức Giêsu trước hết là một người bạn như thuở ban đầu Matta và Maria đã nhận biết. Có phải vào ngày phục sinh, ta sẽ tiến triển trong đức tin khi nói lên, không chỉ bằng môi miệng mà bằng cả một cử hành tạ ơn: “Vâng, lạy Chúa, Người là Đức Kitô, Đấng Messia, Con tin Nguớì là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian… Hôm nay, con muốn xin Người đến lấp đầy lổ hổng của hữu thể con bằng Xác Thể hằng sống của Người, lương thực chân thật cho đức tin của con”.
Từ “Phục Sinh” của Lazarô đến phục sinh của Đức Giêsu (Missel Communautaire).
Phép lạ đặt ngay trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đã tiên báo cái chết và sự phục sinh của Người. Thực vậy nếu Lazarô rút tay chân bị trói ra khỏi giải băng và khuôn mặt bị che phủ khỏi tấm chăn liệm, điều đó nhắc nhở một cách đầy biểu tượng rằng ông vẫn còn là một người phàm hay chết. Đức Giêsu sẽ thoát ra vào ngày Phục sinh như một người bất tử, được vĩnh viễn giải thoát khỏi sự chết. Nơi Đức Giêsu, sự sống đã khải hoàn.
Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa mở cửa mồ
Nhìn thế giới ta sẽ thấy nó thật bệnh hoạn. Sự phát triển của phương Bắc đã bị xét lại về sự coi thường môi trường và những nguy cơ nó gây ra cho tương lai của hành tinh và cho những thế hệ tương lai. Sự phát triển ấy càng bị chống đối khi ta nhìn thấy những người nghèo mới, số những người bị loại trừ chẳng bao giờ có thể tái hội nhập. Sự phát triển ở phía Đông cũng thế, tàng sinh ra sự thù hận chủng tộc, bạo lực và nghèo khổ. Sự phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba cũng bị công kích, vì nó không nuôi được dân trong vùng một cách đúng đắn, cũng không phân phối các sản phẩm cho công bình.
Đức Kitô đã nói: “Căn bệnh này không đến nỗi chết, nhưng chỉ lành vinh danh Thiên Chúa” (Ga 11,4). Lời lẽ lạ lùng, ngược hẳn với cái nhìn đầu tiên của ta: Hẳn Người đã cảm thấy điều gì… Thực ra đã 4 ngày rồi… (Ga 11,39). Tuy nhiên đó là đức tin, là niềm hy vọng của ta. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa sự sống. Thiên Chúa của ta là Đấng mở những nấm mồ. Đức Kitô của ta là Đấng, giữa đoạn đường từ làng tới nghĩa trang, đã bảo đảm cho ta vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chúa của ta là Đấng kêu lên: Hãy đi ra. Người gọi chúng ta, những kẻ đang bị giam hãm. Người cởi trói và giải thoát ta khỏi mớ quần áo sự chết, khỏi các giải băng sợ hãi. Thế nên chiến đấu cho công lý trở thành có thể được Yêu thương là luôn luôn có thể được” Con người có thể gặp được nhân tính của mình: anh em không còn dưới áp lực của thân xác nhưng của thần linh vì Thánh Thần Thiên Chúa ở trong anh em (Rm 8,9).
Thành viên của CCFD làm chứng về những điếu đó mỗi ngày. Tình liên đới, đắt giá lắm, nhưng là suối nguồn vui tươi. Sự phát triển rất phức tạp nhưng tiến tới là điều có thể được nếu ta biết hợp tác với nhiều người: các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các xí nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, tư nhân, các Giáo Hội. Mỗi người có thể tham gia theo cách của mình. Đối với chúng ta những kẻ tin, thì trong cố gắng của nhân loại ấy có dấu vết của Thiên Chúa trong lịch sử hoạt động: các con sẽ biết rằng Ta là Chúa khi Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ (Ez 37,13).
Chính Thánh Thần của Đức Kitô và của Thiên Chúa Cha cho ta đủ năng lực chiến đấu chống lại tất cá sức mạnh của sự chết. Chính Người, một ngày kia, sẽ mở cửa đưa ta vĩnh viễn vào sự sống.
————————————————————–
CHÚA NHẬT v MÙA CHAY- NĂM A
THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG– Lm. FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự kiện Giờ của Đức Giêsu đến”.
Bản văn đọc trong Phụng vụ Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, nói về sự sống lại và sự sống, và quyết định của Thượng Hội Đồng là tìm cách giết Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại được đặt vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì Người không chỉ giới hạn vào việc chữa lành một chứng bệnh, nhưng đưa một người từ cõi chết trở lại với cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối.
Những nét tiêu biểu của phép lạ này là: Người thực hiện hành vi ấy cho một người bạn và giữa vòng các bạn hữu, nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong các trường hợp khác, trước tiên Đức Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những đối thoại, Người mới đưa người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi quyền lực sắp được thực hiện và là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực. Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng minh cho thấy là Người có quyền trên sự chết.
Sự cố này xảy ra sau khi các đối thủ của Người đã tìm cách bắt Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông sông Giođan. Tại đây Người nhận được tin bạn Người là Ladarô đau ốm (11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự cố này đưa đến chỗ Thượng Hội Đồng kết án tử cho Đức Giêsu.
Đọc bản văn này, độc giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố “sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại” (analepse), “báo trước” (prolepse), để giới thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của bản văn”[1].
Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
-Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (11,1-6);
-Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (11,7-16);
-Đức Giêsu gặp hai chị em (11,17-38a);
-Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (11,38b-44);
-Kết luận: Ghi chú về đức tin (11,45).
Vài điểm chú giải
– Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên Eleazar (Êlêadarô), một tên rất quen thuộc vào thời Tân Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này.
– Bêtania (1): Có những người cho rằng đây là một tên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng Bêtania gần Giêrusalem được mọi người biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi là El ‘Azariyeh, một tên phái sinh từ “Ladarô”.
– làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1): Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các độc giả quen biết hai cô.
– là người sau này sẽ xức dầu thơm (2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã lấy tóc lau”)[2] chân Người. Đây là một lời vừa nhắc lại vừa đón trước: việc xức dầu ở Bêtania chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa được bản văn nói đến? Ở đây, tác giả không đứng trên bình diện truyện kể, nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ lời trực tiếp với độc giả. Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào đầu truyện Thương Khó; vai trò này được ghi nhớ rất rõ trước cả khi TM IV được soạn thảo. Tác giả nại đến ký ức của độc giả nên mới nói về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành). Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc thái một lời đón trước.
– Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32.
– thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý rằng có một sự kết nối với phép lạ thứ hai ở Cana, cũng là một phép lạ ban sự sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho rằng có một sự tương đồng với sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở tiệc cưới Cana, Người đã không đáp ứng ước nguyện của Đức Maria ngay. Không một ý kiến, một nguyện ước nào của loài người, cho dù đúng đắn, lại có thể chỉ cho Người cách xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18; 8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ được hoàn tất vào thời Ngài đã định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành trước giờ. Người ta không thể bắt Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4; 10,17-18).
– Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có thể so sánh để thấy những điểm tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10.
– ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện thần học, đây là một quy chiếu về Đức Giêsu (8,12; 9,5).
– đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ của Bản LXX), “ngủ” là một uyển ngữ (euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10). Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh, chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên, cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng ấn một cuộc đời hạnh phúc vẫn tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước, những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai đã yên giấc (1 Cr 15,20).
– được bốn ngày rồi (17): Chi tiết này được ghi nhận để chứng thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa.
– Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 11,14tt). Do c. 29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là Đức Giêsu đã đến.
– Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở Mt 16,16.
– Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14.
– thổn thức trong lòng và xao xuyến (33): “Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle (dạng trung bình) của động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là những công thức Sêmít để diễn tả các cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”, dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý một sự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là “bối rối, luống cuống”. Các học giả đã tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có những người thấy đây là cơn giận của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết và tác giả của nó là Satan; có những người khác thì cho rằng đây là cơn giận của Người khi đứng trước sự cứng lòng của người Do Thái. Rất có thể là như thế, bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc, Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu sắc hơn.
Ngoại trừ một lần động từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói về nước hồ bị khuấy động và dùng ở đây, động từ này chỉ được dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc hấp hối tại vườn Ghếtsêmani, dường như được Ga chuyển vào truyện này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp (12,27). Cái chết của Ladarô được Đức Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết của Người và cuộc chiến thắng nhất thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại của Người là chiến thắng trên Satan và cái chết.
– Đức Giêsu khóc (35): Đức Giêsu đã có một thái độ hết sức nhân bản khi đứng trước nỗi đau của người khác. Người ta hiểu là Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở đây tác giả Ga dùng một động từ để chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho] nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động từ này lại giống với động từ tác giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp cho bạn Người sống lại, tại sao Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta (c. 39) và của Maria.
– Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại (38): Mộ đứng như cái giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm. Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc với thi hài người chết.
– Đức Giêsu ngước mắt lên (41): Cử điệu ngước mắt nhìn lên là một cách mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện (x. Lc 18,13; Ga 17,1).
– Người kêu lớn tiếng (43): Động từ kraugazein chỉ được dùng 8 lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này được dùng 4 lần để nói về tiếng la hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu. Như vậy, dường như có thể rút ra một sự tương phản giữa tiếng kêu lớn của đám đông nhằm đưa cái chết đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan hô Đức Giêsu.
– chân tay còn quấn vải (44): Có người hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này không đúng chỗ vì đặt ra trong một bài tường thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có thể do một lý do thần học mà tác giả đã nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở 20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có thể là với ý là Người chẳng bao giờ cần đến chúng nữa, bởi vì Người không bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không chắc là tác giả có nghĩ đến số phận tương lai của Ladarô.
Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện đưa ta đến gặp một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức Giêsu có thể nói được rằng bất cứ kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi dậy từ cõi chết?
* Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6)
Đức Giêsu đã lui về mạn đông sông Giođan để tránh các đối thủ đang tìm cách bắt Người. Tại đây người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm; ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria” (11,1). Ladarô, “em của cô bị đau ốm” (c. 2). Maria được giới thiệu bằng một câu đón trước: “là người sau này đã xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn Mácta được giới thiệu trước tiên như một người bạn (c. 5), rồi như một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài, Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu, nơi chỉ có các anh em chị em thôi.
Cũng như Đức Maria tại tiệc cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không trực tiếp bày tỏ một lời thỉnh cầu. Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho Người nếu Người đến gần Giêrusalem (x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana, Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới của một gia đình bằng hữu; rồi Người đã làm những hành vi quyền lực khác cho những người mà Người không quen biết. Lần này những điểm được nhấn mạnh là tình yêu thương và tình bằng hữu vẫn liên kết Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân cần riêng tư của Đức Giêsu đối với chúng ta là loài người. Người không theo đuổi một chương trình vật chất nào, trong đó kết quả thống kê quan trọng hơn những con người. Người coi chúng ta, những con người, là như những nhân vị mà Người quan tâm chiếu cố.
Dọc theo bài tường thuật, bằng nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc. 6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được sự kiện là các bạn của Đức Giêsu cũng chết mà Người không can thiệp gì?
Tác giả dùng thêm ba lời đón trước để cho thấy ý nghĩa của cái chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai gần như thế nêu bật sự khác biệt trong nhận thức của Đức Giêsu, là người biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì.
* Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (7-16)
Trước hết, Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền lực Người sắp thực hiện. Sau dấu lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh quang của Thiên Chúa” không phải là một vinh dự ích kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu độ loài người, những kẻ Ngài yêu thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ được thể hiện qua việc tôn vinh Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất là khi Người chịu giương cao trên thập giá, rồi Người chết và sống lại (12,23-32).
Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại.
Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thuộc về “giờ” của Thiên Chúa. Nhưng dường như Người không đánh tan được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy!” (c. 16).
* Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a)
Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại Bêtania được mô tả bằng hai đặc điểm: Ladarô đã ở trong mồ được bốn ngày và có nhiều người quen biết đến với hai chị em. Theo quan niệm thời đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi.
Tất cả những người quen biết gia đình đã ở đó mà đành chịu bất lực khi đứng trước cái chết, và chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31). Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể thật sự thay đổi điều gì đó trong tình cảnh này và có thể đưa lại sự nâng đỡ đích thực bằng quyền lực thần linh của Người. Mácta đã đến găp Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai chị em đã lặp đi lặp lại câu này trong những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng có thể chữa lành những người đau ốm, nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là Người đã không đến đúng lúc. Nhưng rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể vượt qua sự chết mà vào sự sống.
Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước, ánh sáng và người mục tử nhân hậu; Người đã quy chiếu về chính mình Người những thực tại mà nhất thiết cuộc sống trần thế của chúng ta phải lệ thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người để được sống muôn đời. Nơi Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống bất tử của Người. Cuộc phục sinh giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc của cái chết; sống là kết hợp với Thiên Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho chúng ta và được liên kết với nhau trong đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin vào Người. Sự sống được Đức Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria.
Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là một dấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết, Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng đưa anh trở lại với cuộc sống trần thế, từ đó anh lại đi tới cái chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho thấy là cái chết không phải là một giới hạn đối với Người, nhưng Người có quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực của Người không phải là một cuộc sống trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Đức Giêsu muốn đưa cả Mácta, cũng như các môn đệ Người, đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên một lời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời được hàm chứa trong lời tuyên bố của Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38). Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình của Người đã nhắm tới trước: mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế ngược lại với các đối thủ của Đức Giêsu, những người đã trách Người là nói phạm thượng chống lại Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên Chúa dùng để thực hiện công trình cứu độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là Đấng sống trong một sự hiệp thông không có khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha: Người đã đến trong trần gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm (x. 11,42; 16,28).
* Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44)
Đức Giêsu bảo người ta dẫn Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và nhiều người khác đã đến để săn sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn người bất lực trước sức mạnh tàn nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của những người chắc chắn rằng cái chết là sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất một người thân là điều rất đau lòng; nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ người ấy lại cho riêng mình, trong khi người đó đang đi vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trước.
Đức Giêsu cho cất tảng đá che mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách thế giới người sống với thế giới kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu nguyện, đây là điều Người chưa bao giờ làm trong những hành vi quyền lực trước đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên của Người được tác giả Ga nhắc lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời Người. Về phần Người, Đức Giêsu tuyệt đối chắc chắn về sự kết hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần phải chứng minh cho Người bằng một hành vi quyền lực. Nhưng điều mà Người nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu mới có thể thực hiện công trình của Người hầu cứu độ loài người. Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái: Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính Người để giúp đám đông hiểu rằng Người là sứ giả của Thiên Chúa.
Đối với Ladarô, người ta phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện: tảng đá đã được lăn ra một bên, và khăn liệm đã được đặt riêng ra (20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các môn đệ ý thức về sự kiện.
* Kết luận: Ghi chú về đức tin (45)
Tất cả mọi người trong chuyện đều chứng tỏ họ thiếu đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin, cũng như lâu nay, là tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to lớn này của Đức Giêsu cũng là một trợ giúp niềm tin.
+ Kết luận
Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận một giới hạn tuyệt đối và một sự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được một người đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.
Gợi ý suy niệm
-Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể không phải là giải quyết những vấn đề trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng bệnh. Người có làm các phép lạ để giải quyết các vấn đề đó, nhưng để các phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa người ta đến đức tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới được giải quyết tận căn, vì Người sẽ ban cho người ta sự sống đời đời.
-Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang đi trên con đường đưa đến cái chết, tức khắc tôi nhận ra được giá trị của mỗi sự việc tôi đang đảm nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa ấy được giới thiệu: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận thấy cái chết không còn là một sức mạnh bách chiến bách thắng, một định mệnh bi đát mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như một cửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu.
-Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả những giới hạn của thân phận thọ tạo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống và chết như Người.
-Sự can thiệp của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là một Đấng Vô Biên xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo của Người. Thiên Chúa đã nhập thể để làm người, mang một trái tim loài người. Người có thể cảm động, xao xuyến. Người yêu thương các bạn hữu của Người. Nhưng Người cũng bung quyền năng của Người ra để cho Ladarô sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con đường sống thật.
-Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, vì Người là Lời tạo dựng của Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ chết, để rồi các đối thủ có thể chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì Đức Giêsu không muốn cứu lấy một mình Người. Khi đảm nhận thân phận con người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu được tất cả mọi người.
[1] Có thể đọc LÊ MINH THÔNG, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào bản văn.
[2] Xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn.
——————————————————
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – NĂM A
TA LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG (*) – Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Cả ba Bài Đọc Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay đều nói về sự sống lại, về đời sống mới.
Ed 37: 12-14
Qua một thị kiến về những bộ xương khô, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng sẽ đến ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ, và cuộc giải thoát này sẽ được sánh ví như cuộc tái sinh.
Rm 8: 8-11
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô công bố: “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống”.
Ga 11: 1-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”, và Ngài cho anh La-za-rô sống lại sau khi anh đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi.
BÀI ĐỌC I (Ed 37: 12-14)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ thứ ba trong bốn Đại Ngôn Sứ và là dung mạo vĩ đại nhất của Do Thái Giáo trong suốt thời lưu đày, vì thế được gọi là “cha của Do thái giáo”. Ông là vị ngôn sứ duy nhất trong số các ngôn sứ đã lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ ngoài đất Ít-ra-en, ở Ba-by-lon. Ông kết hợp mật thiết tinh thần tư tế và tinh thần ngôn sứ. Ông bày tỏ cho thấy tài năng của một nhà thị kiến.
Ê-dê-ki-en đã trải qua những thời điểm khủng khiếp nhất, đó là thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon xâm chiếm vào năm 598. Ông thuộc vào đoàn người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày. Ông sống trong cảnh lưu đày ở một thị trấn nhỏ, không xa Ba-by-lon, được gọi là Tel-Aviv (tên mà quốc gia Do thái hiện nay đặt cho thủ đô của họ để tưởng nhớ đến vị ngôn sứ nầy, người đã tiên báo “sự phục sinh” của dân Ít-ra-en) và ông đã qua đời ở đó vào năm 571.
Bố cục :
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lên án những bất trung của dân Chúa và loan báo sự trừng phạt sẽ giáng xuống trên Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến, vị ngôn sứ loan báo thời kỳ Thiên Chúa xót thương. Thiên Chúa sẽ khai đường mở lối cho đoàn người lưu đày được trở về quê cha đất tổ. Cuộc giải thoát nầy sẽ như một cuộc tái sinh, một cuộc tạo dựng mới. Lời văn đầy những hình ảnh.
Thung lũng đầy xương cốt:
Trong thị kiến, vị ngôn sứ được đưa vào một thung lũng đầy những bộ xương khô (37: 1-2). Lúc đó, Thiên Chúa phán với ông: “Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Nầy chúng vẫn nói: ‘Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời’. Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: ‘Thiên Chúa là Chúa Thượng phán như sau: ‘Hỡi dân Ta, Ta sắp mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi đó, và đưa ngươi về đất Ít-ra-en” (37: 11-12).
Những người lưu đày được sánh ví với những bộ xương khô, niềm hy vọng đã tiêu tan: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời rồi”. Thiên Chúa hứa sẽ vực họ dậy, sẽ tái sinh họ. Vị ngôn sứ thấy “bộ xương khô đã có gân, thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng” (37: 8).
Thần khí phục hồi sự sống:
“Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Ta đã nói là Ta làm”. Trong một sấm ngôn trước đó, vị ngôn sứ đã tuyên sấm bằng những lời lẽ tương tự: “Ta sẽ ban tặng cho các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (36: 26-27). Thần khí Chúa đổi mới tận căn cõi lòng của con người. Trong đoạn văn được trích dẫn hôm nay, ý nghĩa thì khác: thần khí Chúa là hơi thở sáng tạo hay tái tạo, đem lại niềm hy vọng cho những kẻ lưu đày bất hạnh, có thể nói, hoàn lại cuộc sống cho họ.
Vào thời đại này, chúng ta không nên thấy ở đây lời loan báo về sự phục sinh thân xác. Một quan niệm như thế không thể nào nghĩ tưởng được vào lúc đó. Sau nầy, chúng ta thoáng thấy cũng một cách thức như vậy trong sách Gióp (thế kỷ V hay IV tCN). Sẽ phải chờ đợi đến thời kỳ Ma-ca-bê (giữa thế kỷ hai tCN) khi đó niềm hy vọng vào sự phục sinh thân xác được phát biểu một cách rõ nét. Niềm hy vọng nầy đã nâng đỡ các vị tử đạo khi các ngài phải chịu các cực hình: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7: 9).
Louis Monloubou mời gọi mỗi người tín hữu hãy đọc lại thị kiến này vào trong lịch sử cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình: “Ngày nay, cũng như thường trong dòng lịch sử của mình, và nhất là vào thời ngôn sứ Ê-dê-ki-en, dân Thiên Chúa bận lòng về tương lai của mình, cuộc sống của mình. Ngày nay, cũng như vào thời lưu đày Ba-by-lon, ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhắc đi nhắc lại rằng Thiên Chúa luôn luôn có đủ khả năng hoàn lại cuộc sống, phục sinh cộng đoàn tín hữu của Người, cho dù họ đang sống trong cảnh đời tuyệt vọng đi nữa.
Ngày nay, cũng như vào thời ngôn sứ Ê-dê-ki-en, thần khí Thiên Chúa hoạt động ở trong lòng dân chúng, có thể ban cho họ sự sống, phục sinh họ.
Ngày nay dân Thiên Chúa phải kinh qua những giải thoát mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của cuộc đời mình, thậm chí trong chính thân xác của mình; ngõ hầu họ hiểu hơn, và rốt cuộc hiểu hơn ai thực sự là Thiên Chúa của mình, đối tượng niềm tin của mình không là một bóng ma nào đó, nhưng Đức Chúa, Đấng Cứu Độ.
Cuối cùng ngày nay, Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là Thiên Chúa nói với dân Ngài, khuyến khích họ, ở bên cạnh họ, như bạn đồng hành thân thiết, Đấng cứu độ trung tín và có hiệu quả”.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 8-11)
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô họa nên một bức tranh tăm tối về nhân loại tội lỗi không thể tự sức mình giải thoát mình khỏi tội lỗi, vì thế cần phải đặt trọn niềm tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa. Sau đó, thánh nhân mô tả đầy cảm xúc về cuộc sống mới của người Ki-tô hữu: cuộc sống trong ân sủng, nghĩa là cuộc sống được Thần Khí tác động chứ không còn chịu xác thịt chi phối nữa. Đoạn văn hôm nay được trích từ chương 8, chương dâng hiến một sự bình an và niềm vui.
Xác thịt và Thần Khí:
Thánh Phao-lô thích vận dụng những cặp đối nghịch: luật và đức tin, xác thịt và thần khí, con người cũ và con người mới, chế độ lề luật và chế độ ân sủng, vân vân.
Thánh nhân cho từ ngữ “xác thịt” một nét nghĩa tiêu cực không được gặp thấy trong Cựu Ước. Qua từ ngữ xác thịt, Thánh Kinh chỉ toàn bộ con người được sáng tạo bởi Thiên Chúa, vì thế, xác thịt thực chất không thể nào là xấu được. Ngôi Lời sẽ đảm nhận xác thịt và “làm người”. Khi ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ít-ra-en “một trái tim bằng thịt thay cho trái tim bằng đá” ông ban cho từ ngữ “xác thịt” tất cả sự cao quý của nó. Chắc chắn ở nơi nhân tính có một khía cạnh địa giới mà từ ngữ xác thịt gợi lên, do đó đối lập với thiên giới, thế giới thần linh.
Trong cặp đối nghịch xác thịt-thần khí của mình, thánh nhân được gợi hứng từ cặp đối nghịch: địa giới-thiên giới, theo quan niệm mang đậm nét Do thái, chứ không theo quan niệm nhị nguyên Hy lạp: thân xác-linh hồn; tuy nhiên, thánh nhân xem bản tính địa giới là bản tính xấu, được ghi dấu bởi tội lỗi.
Sống theo Thần Khí:
Vẫn còn ở trong sự đối nghịch giữa xác thịt và thần khí, nhưng kinh nghiệm của người Kitô hữu chứng nhận rằng tác động Thần Khí biến đổi tận bên trong con người. Thánh nhân ngỏ lời với những người lãnh bí tích Thánh Tẩy: “Anh em không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo thần khí, nếu thực sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em”. Và thánh nhân chứng minh cho họ thấy việc phục sinh thân xác là tất yếu. Đây là nét độc đáo của đoạn văn nầy.
Thần Khí là sự sống và là nguyên lý của sự sống lại:
Do tội lỗi, thân xác của chúng ta tất yếu phải chết. Như ở nơi khác, thánh nhân đồng hóa thân xác phải chết với “con người cũ” phải bị diệt vong. Ấy vậy, Thần Khí ở nơi chúng ta là Sự Sống – chính ở đây mà quan niệm Do thái về một con người toàn diện, bất khả phân thân xác và thần thiêng, đóng một vai trò trong lập luận – Thần Khí nầy chắc chắn biến đổi thân xác chúng ta, thân xác sẽ trở thành “thần thiêng” và bất khả hư hoại.
Đây là điều thánh nhân đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô rồi: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí” (1Cr 15: 42-44). Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ánh sáng đã bao phủ thánh nhân trên đường đi Đa-mát và đã soi sáng cuộc đời ngài. Ở trung tâm những khai triển thần học của thánh nhân, chúng ta không ngừng gặp lại biến cố then chốt: sự kiện Phục Sinh. “Sự phục sinh của Đức Giê-su cấu tạo nên bước khởi đầu của cuộc tạo dựng mới mà chúng ta được dự phần vào nhờ đức tin. Từ đó phải rút ra những hiệu quả: trong đức ái, chúng ta sống như những con người được phục sinh; trong đức cậy, chúng ta đảm bảo sự phục sinh tương lai của chúng ta” (Karl Gatzweiler).
TIN MỪNG (Ga 11: 1-45)
Bài trình thuật về việc “Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại” là bài trình thuật về dấu lạ dài nhất trong Tin Mừng Gioan. Qua dấu lạ nầy, Đức Giê-su kín đáo loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Đó mới thật sự là Phục Sinh chứ không chỉ việc hoàn sinh một thây ma, bởi vì La-da-rô chỉ sống lại để một ngày kia lại chết.
Hơn bất cứ biến cố nào khác, biến cố nầy bày tỏ “nhân tính” của Đức Giê-su: sự xúc động của Ngài, sự dịu dàng của Ngài, nước mắt của Ngài, và đồng thời cũng biểu lộ “thiên tính” của Ngài: Chủ Tể của sự sống và cái chết: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10: 18).
Dấu lạ nầy cũng là lời cảnh báo tối hậu mà Đức Giêsu gởi đến cho những ai không chịu tin vào Ngài. Vả lại, lời mời gọi hãy tin vào Ngài là một chủ đề chạy xuyên suốt toàn bộ câu chuyện. Sự căng thẳng giữa Đức Giê-su và dân Ngài, vốn hình thành nên hậu cảnh của Tin Mừng Gioan, không bao giờ đạt đến cao độ như thế. Trước đây, Ngài đã lánh mình sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã bắt đầu sứ vụ của mình (10: 40), và chỉ vừa mới đây, Đức Giê-su đã phải lánh đi để tránh dân chúng ném đá Ngài, như các môn đệ của Ngài nhắc cho Ngài (11: 9). Chính ở nơi đây mà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a nhờ người đến báo tin cho Đức Giê-su về bệnh tình của La-da-rô, em trai của hai cô (điều nầy cho thấy các bạn của Ngài biết chỗ Ngài đang lánh nạn). Đức Giê-su trả lời cho người đến báo tin: “Bệnh nầy không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh nầy Con Thiên Chúa được tôn vinh”.
Nhưng như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan, kiểu nói nầy có hai nghĩa. Quả thật, Đức Giê-su sẽ “được tôn vinh” qua dấu lạ mà Ngài thực hiện, nhưng dấu lạ nầy sẽ dẫn Ngài đến cái chết của chính mình, vì Ngài sẽ khiến kẻ thù của Ngài công phẩn đến tận xương tủy. Như chúng ta biết, đối với thánh Gioan, vinh quang của Đức Giê-su rực sáng nhất ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài. Thánh Giá là cửa ngõ đưa Ngài trở về nhà Cha Ngài. Tin Mừng Gioan sẽ làm sáng tỏ sự kiện Thiên Chúa đã đặt “vinh quang” của chính mình vào trong sứ mạng cứu độ con người, vì Thiên Chúa đã đặt vào đây tất cả tình yêu của Người.
-Dẫn nhập (11 : 1-5)
Người kể chuyện giới thiệu lý do cuộc hành trình của Chúa Giê-su cùng các môn đệ đến Bê-ta-ni-a và các nhân vật của câu chuyện. Các nhân vật nầy chúng ta đã biết ở nơi khác, nhưng đây là lần đầu tiên Tin Mừng Gioan nói về ba chị em cô Mác-ta, cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
Riêng về cô Ma-ri-a, Tin Mừng Gioan nhận dạng cô (Ga 12 : 1-8) với người phụ nữ vô danh xức dầu thơm cho Đức Giê-su và lấy tóc lau chân Ngài ở Bê-ta-ni-a trước lễ Vượt Qua được tường thuật trong Tin Mừng Mát-thêu (26 : 6-13) và Tin Mừng Mác-cô (Mc 14 : 3-9), nhưng dứt khoát cô không thể được đồng hóa với người phụ nữ tội lỗi được tường thuật trong Tin Mừng Luca (Lc 7 : 36-50), bởi vì việc xức dầu thơm mà thánh Lu-ca nói đến trong khi Chúa Giê-su đang thi hành sứ vụ tại miền Ga-li-lê nên không thể đồng nhất với việc xức dầu thơm mà thánh Gioan, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô nói đến trong bối cảnh kề cận với cuộc Tử Nạn của Ngài. Hơn nữa, sứ điệp của câu chuyện được thuật lại trong Tin Mừng Lu-ca là “ai được tha thứ nhiều, thì yêu mến nhiều”, còn sứ điệp của câu chuyện được kể lại trong ba Tin Mừng kia là loan báo cuộc mai táng của Đức Giê-su. Giáo Hội Đông Phương thường đồng nhất hóa ba nhân vật này: cô Ma-ri-a làng Bê-ta-ni-a, người phụ nữ tội lỗi thống hối và cô Ma-ri-a Mác-đa-lê-na được Chúa trừ bảy quỷ (Lc 8 : 2).
Các sách Tin Mừng chưa bao giờ nói về anh La-da-rô, ngay cả thánh Lu-ca cũng không, cho dù thánh ký này đã tường thuật việc Đức Giê-su viếng thăm hai chị em ở Bê-ta-ni-a (Lc 10: 38-42). Ở đây, anh La-da-rô được giới thiệu “người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Có thể câu nầy là cách thức báo tin, nhưng trong Tin Mừng Gioan, câu nói nầy đóng chức năng như cầu xin một sự can thiệp mầu nhiệm. Có thể thánh ký tránh đặt trên môi miệng của các tín hữu lời cầu xin phép lạ tỏ tường, vì lẽ rằng đối với thánh ký, phép lạ là dấu chỉ để bày tỏ vinh quang của Ngài, chứ không đơn giản chỉ là một hành động thi ân giáng phúc.
Việc anh La-da-rô được gọi biệt danh: “người mà thầy yêu” khiến vài nhà chú giải giả thuyết rằng anh La-da-rô chính là tác giả Tin Mừng Thứ Tư, nhân vật luôn luôn ẩn mình ở nơi danh xưng “người môn đệ mà Đức Giê-su yêu”. Tuy nhiên, giả thuyết nầy bị bác bỏ bởi đa số các nhà chú giải và bởi truyền thống của những thế kỷ đầu tiên.
Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với các môn đệ (11 : 6-16) :
Khi được tin báo, thay vì khởi hành ngay đến Bê-ta-ni-a, Đức Giê-su lại trì hoãn. Sau hai ngày, Ngài mới tuyên bố: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê”. Như vây, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a chỉ sau khi La-da-rô đã chết và được mai táng trong mồ được bốn ngày rồi. Lý do của việc trì hoãn nầy chắc chắn là Ngài muốn gây ấn tượng ở nơi hành động của Ngài khi hoàn sinh người chết sau khi đã được mai táng trong mồ.
Các môn đệ lưu ý Thầy mình về hoàn cảnh nguy hiểm: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” Trong chuyện kể của chúng ta, độc giả được loan báo rằng việc Ngài ra đi không nhằm bất kỳ lý do thuần túy nhân loại, nhưng mặc một ý nghĩa cao siêu, tức là bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ chưa ngộ được ý nghĩa cao siêu nầy. Phản ứng của họ là phản ứng cẩn trọng của con người: ở Giu-đê, cuộc sống của Đức Giê-su bị đe dọa, vì thế Ngài không nên trở lại đó để thăm người bạn đang lâm bệnh vào lúc này. Đây là đề tài một từ có hai nghĩa rất quen thuộc của Tin Mừng Thứ Tư.
Đức Giê-su sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua từ sự hiểu biết thuần túy địa giới đến một tiên cảm nào đó về mầu nhiệm. Như thông thường trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai lòng mở trí cho các môn đệ nhờ vào một cách thức mặc khải bí nhiệm. Dựa trên ý nghĩa ẩn dụ “ngày và đêm”, Ngài công bố mầu nhiệm của Ngài. Theo nghĩa vật lý, thành ngữ nầy muốn nói rằng có thời gian cho mỗi việc, và thật thích hợp khi chọn ban ngày để bước đi ngỏ hầu tránh những tai nạn khi phải bước đi trong đêm tối. Theo nghĩa ẩn dụ (nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư), “ngày” là thời gian của ánh sáng. Điều này muốn nói rằng bao lâu Đức Giê-su vẫn còn đó, phải tận dụng ánh sáng của Ngài, mặc khải mà Ngài đem đến. Vì thế, nỗi sợ hãi thật sự không xuất phát từ những nguy hiểm do con người tạo ra, nhưng từ sự vắng bóng Ánh Sáng. Việc Đức Giê-su tiến về Giê-ru-sa-lem không được đánh giá theo sự chuyển biến thận trọng của con người, đúng hơn, thuộc phạm vi bày tỏ Ánh Sáng. Vì thế, đây là một lời mời gọi hãy tin vào Ngài nhờ vào Ánh Sáng nầy, nhưng cũng là lời loan báo về viễn cảnh đầy đe dọa của đêm sắp đến: cái chết và cuộc chiến thắng bóng tối, tức là quyền lực tử thần (x. Ga 13: 30b).
Tiếp đó, dù không có ai cho biết điều gì về bệnh tình của anh La-da-rô, Đức Giê-su công bố rằng anh La-da-rô đã chết qua hình ảnh giấc ngủ : “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (11 : 11), như trước đây đối với bé gái của viên trưởng hội đường: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5: 39). Đức Giê-su vui mừng vì sứ điệp của Ngài sẽ dễ dàng được hiểu ở nơi dấu lạ Ngài sắp thực hiện.
Các môn đệ không còn tìm cách ngăn cản Ngài nữa. Một trong các môn đệ của Ngài, Tô-ma, tự phát và bạo dạn nói với các bạn đồng môn của mình: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”.
Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với cô Mác-ta (11 : 17-27) :
Khởi đi từ câu 17, câu chuyện bắt đầu một giai đoạn mới: khung cảnh không còn Ga-li-lê, nhưng Bê-ta-ni-a, chiều kích mặc khải của dấu lạ không còn chỉ được loan báo, nhưng được vén mở. Chính trong khung cảnh của cuộc đối thoại với cô Mác-ta mà ý nghĩa dấu lạ dần dần được minh giải.
Niềm tin của cô Mác-ta :
Trong khung cảnh Bê-ta-ni-a, chúng ta gặp lại tính tình khác nhau của hai chị em này: cô Mác-ta thì năng động, còn cô Ma-ri-a có đời sống nội tâm sâu lắng, đã được Tin Mừng Lu-ca ghi nhận trong một dịp Chúa Giê-su viếng thăm nhà của hai cô (Lc 10 : 38-42). Tuy nhiên, trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, tính tình năng động của cô Mác-ta đã là cơ hội giúp Chúa Giê-su dẫn đưa cô, và qua cô dẫn đưa độc giả vào một mạc khải cao vời về chân tính của Ngài.
Dù bận rộn tiếp đón những người thân đến chia buồn, nhưng vừa khi nghe tin Chúa Giê-su đến, cô Mác-ta hối hả ra tận đầu làng để đón Ngài. Khi vừa mới gặp Chúa Giê-su, cô Mác-ta trách cứ Ngài, Ngài đã cứu chữa biết bao bệnh nhân, ấy vậy lại đã không đến kịp lúc để cứu chữa người bạn mà Ngài thương mến. Tuy trách cứ như vậy, nhưng cô vẫn nuôi hy vọng: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy”. Nhưng Đức Giê-su muốn kiện toàn đức tin của cô, Ngài không muốn cô Mác-ta chỉ hài lòng thấy Ngài là một con người của Thiên Chúa, nghĩa là những gì Ngài cầu xin đều được Thiên Chúa nhận lời, nhưng cô còn phải nhận ra chân tính của Ngài.
“Ta là sự sống lại và là sự sống”:
Khi Chúa Giê-su nói với cô: “Em chị sẽ sống lại”, đó là dự định của Chúa Giê-su khi đến đây. Nhưng cô Mác-ta lại hiểu lời này là lời an ủi nên cô đáp: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại”. Ở nơi câu trả lời của cô hàm chứa niềm tin Do thái giáo. Từ nhiều thế kỷ trước đó, niềm tin vào sự sống lại thuộc về gia sản tinh thần của Do thái giáo, ngoại trừ nhóm Sa-đu-xê-ô không thừa nhận thôi.
Chúa Giê-su tuyên bố: “Ta là sự sống lại và là sự sống”, lời tuyên bố này khai mở một loạt “Ta là” qua đó Đức Giê-su xác định phẩm tính hữu thể thần linh của Ngài: “Ta là đường, sự thật và sự sống”, “Ta là ánh sáng”, “Ta là cửa”, “Ta là cây nho thật”, “Ta là Mục Tử nhân lành”, vân vân. Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su khai triển lời tuyên bố này xa hơn: “Ai sống và tin vào Thầy, thì dù đã chết, thì cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Những lời nầy của Đức Giê-su đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên một điều chắc chắn: Đức Giê-su khẳng định Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Thêm nữa, tiến trình của câu chỉ ra rằng Ngài muốn hiệu đính, hay đúng hơn bổ túc lời khẳng định của cô Mác-ta: còn hơn cả sự sống lại vào ngày sau cùng. Đối với người Kitô hữu, có một cuộc sống siêu nhiên vô tận khơi nguồn ở nơi sự hiệp nhất của họ với Đức Ki-tô ngay từ cõi thế này. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng cuộc sống không kết thúc ở nơi cái chết. Trong Thánh Lễ Cầu Hồn, Giáo Hội nói với chúng ta : “Cuộc sống không hề mất đi, nhưng thay đổi” (vita mutatur non tollitur).
Cuộc Mặc Khải chấm dứt với lời mời gọi dứt khoát theo thể nghi vấn: “Chị có tin thế không ?”. Câu hỏi này được đặt ra, ở bên kia cô Mác-ta, cho những ai hiểu lời hứa nầy của Đức Ki-tô. Cô Mác-ta đã lắng nghe. Cô đã đạt đến một niềm tin cao vời khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a (Ki-tô) và là Con Thiên Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
Thực hiện dấu lạ (11 : 28-44) :
Sau lời tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta, câu chuyện bước vào giai đoạn thứ ba, trực tiếp hướng đến việc thực hiện dấu chỉ. Sự hiện diện của cô Ma-ri-a và của những người Do thái đem đến cho câu chuyện một hướng phát triển, một bước nhảy vọt nào đó. Việc thực hiện dấu lạ không đem đến những yếu tố mới cho phần mặc khải trước đó, nhưng cho phép ghi nhận thêm lần nữa vài phản ứng tiêu biểu trước dấu lạ của Ngài. Cô Ma-ri-a diễn tả niềm tin của mình theo cách khác, nhưng cũng không kém mãnh liệt: cô phủ phục dưới chân Đức Giê-su, đó là thái độ tôn thờ.
Đức Giê-su xúc động:
Cảm xúc của Đức Giê-su được gợi lên đến ba lần: Ngài thổn thức tận đáy lòng (11 : 33), Đức Giê-su liền khóc (11 : 35), Đức Giê-su lại thổn thức tận đáy lòng (11 : 38). Động từ Hy lạp được tác giả sử dụng ở đây đến hai lần và được dịch “thổn thức” bao gồm nét nghĩa phẩn uất: Đức Giê-su phẩn uất trước cái chết, tấn thảm kịch của thân phận con người, và cũng có thể Ngài thổn thức khi nghĩ đến cái chết của mình.
“Hãy cất phiến đá nầy đi ”:
“Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại”. Thánh Gioan kể tỉ mỉ những chi tiết nầy vì chúng loan báo một cuộc mai táng khác, cuộc mai táng của chính Chúa Giê-su, theo đó cũng một phiến đá được lăn lấp mộ và được lăn ra khỏi mộ một cách mầu nhiệm.
Khi cầu nguyện lớn tiếng, Chúa Giê-su có chủ ý khơi động niềm tin của những người có mặt, niềm tin vào Ngài, niềm tin vào sự hiệp nhất của Ngài với Cha Ngài, niềm tin mà Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải kiên vững ngay trước khi cuộc thử thách lớn lao xảy đến và để họ nhớ lại vào buổi sáng Phục Sinh quyền năng của Ngài trên sự chết.
Khi mô tả cách chi tiết việc anh La-da-rô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn, Tin Mừng Gioan cố ý nhấn mạnh với độc giả sự tương phản với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, Ngài bỏ lại trong mồ mọi liên hệ với cái chết, cái chết nầy Ngài đã chiến thắng cách vĩnh viễn, không còn tác động gì đến Ngài.
-Phần Kết (11 : 45)
Đoạn Tin Mừng Gioan được trích trong Phụng Vụ hôm nay chấm dứt với câu 45 nhưng chúng ta phải đọc cho đến câu 53 để thấy dấu lạ của sự phục sinh này gây nên hai phản ứng trái ngược nhau từ phía người Do thái, những chứng nhân của dấu lạ: những người nầy tin (11 : 45) trong khi những người khác “đi gặp nhóm Biệt phái và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm” (11 : 46), theo cách nào đó, đó là những người cộng tác vào quyết định của những kẻ thù của Đức Giê-su, bởi vì dấu lạ này còn là cái cớ để giai cấp lãnh đạo Do thái buộc tội và kết án tử cho Chúa Giê-su.
“Tất cả giáo huấn của bố cục văn chương quan trọng nầy được tập trung xung quanh các câu 25-26, Đức Giê-su đem đến cho chúng ta ở đây một sự mặc khải căn bản: Ngài là sự Sống Lại và là Sự Sống. Bất cứ ai tin vào Ngài, cho dù đã chết, cũng sẽ được sống ! Nhưng đồng thời, một câu hỏi có tính quyết định được đặt ra cho chúng ta và, qua đó, thật đáng sợ: Anh hay chị có tin như thế không ?
Như vậy, mỗi người trong chúng ta được đặt vào trong chỗ mà lời nầy được công bố. Sứ điệp Phục Sinh không đề nghị cho chúng ta những chắc chắn dễ dàng, đảm bảo, được đặt nền tảng trên những kinh nghiệm khả giác và kỳ diệu. Nó đề nghị cho chúng ta một mặc khải và một lời hứa: mặc khải: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, và lời hứa: Ngài có thể liên kết chúng ta vào cuộc chiến thắng nầy. Đức tin của chúng ta không miễn trừ cho chúng ta nghiệm thấy nghiệt ngã những tang chế, những từ bỏ thường ngày và nỗi sợ hãi trước cái chết; nhưng còn là chấp nhận hiểu và sống những biến cố hiện tại dưới ánh sáng của Sự Sống cao vời mà Đức Giê-su loan báo cho chúng ta và Ngài là nguồn mạch.
Tin vào biến cố phục sinh, đó không chỉ chấp nhận rằng Đức Giê-su thực sự phục sinh; chính là đón tiếp sự phong phú của biến cố nầy cho chúng ta và sống cho thật thích đáng” (Joseph Ponthot).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
—————————————————–
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – NĂM A
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC SỰ SỐNG- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Chúng ta đang ngày càng đi sâu vào Mùa Chay. Trong thời gian này, nhiều tín hữu đã sám hối trở lại cùng Chúa, nhiều dự tòng đang chuẩn bị đón nhận cuộc sống mới. Chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta không ?
Hy vọng rằng qua Thánh lễ này Ngài sẽ ban thêm đức tin cho chúng ta, một đức tin đủ mạnh để chúng ta can đảm đối diện với những khó khăn trong cuộc sống này và dẫn chúng ta đến cõi sống muôn đời.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta là những người tội lỗi vì đã nhiều lần hoài nghi tình thương của Chúa khi chúng ta gặp những khó khăn trong cuộc sống.
– Chúng ta là những người tội lỗi vì đã coi trọng sự sống phần xác hơn sự sống linh hồn.
LỜI CHÚA
Bài đọc Cựu Ước : Êd 37,12-14
– Dân Israel đang bị lưu đày bên Babylon, tâm trạng chán chường tuyệt vọng. Họ nói “Xương chúng tôi đã khô. Hy vọng tiêu ma”. Nói “xương” nhưng phải hiểu là toàn thể con người. Cho nên câu này có 2 nghĩa : a/ Họ bị chết về tinh thần : hoàn toàn tuyệt vọng rồi. b/ Thân xác của họ cũng như chết luôn, vì sống nô lệ thì cũng như chết mà thôi.
– Thiên Chúa bảo ngôn sứ Êdêkien an ủi họ : “Ta sẽ đem các người lên khỏi mồ, hỡi dân Ta. Ta sẽ dẫn các ngươi về lại thửa đất của Israel… Ta sẽ ban Thần khí của Ta xuống trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống”. Câu này là một lời tiên tri hứa ban sự phục sinh và cũng mang 2 nghĩa : a/ Phục sinh tinh thần : họ sẽ được hồi hương ; b/ Phục sinh thể xác.
– Lịch sử sau này cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện ý nghĩa thứ nhất : họ đã được hồi hương vào năm 539. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu sẽ thực hiện luôn ý nghĩa thứ hai.
Đáp ca : Tv 129
Trong cơn gian nan, tác giả Thánh vịnh tưởng như mình bị rơi xuống một vực thẳm tối tăm. Tác giả còn tưởng mình như đã chết. Nhưng tác giả tin tưởng Thiên Chúa sẽ kéo mình lên và ban lại cho mình sự sống.
Bài Tin Mừng : Ga 11,1-45
– Đức Giêsu thực hiện lời hứa phục sinh theo nghĩa thứ hai : phục sinh thể xác.
– Việc cứu sống Ladarô là sự phục sinh thể xác cho chính Ladarô, và còn báo trước sự phục sinh thể xác của Đức Giêsu và của mọi người.
– Hai bài đọc Cựu Ước và Tân Ước cho thấy : Thiên Chúa “là sự sống lại và là sự sống” (câu 25a) ; và “ai tin vào Ngài thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (câu 25b).
Bài Thánh Thư : Rm 8,8-11
Thánh Phaolô triển khai giáo lý về sự sống :
– “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần khí chi phối” (c 9) : con người có hai sự sống : sự sống theo xác thịt và sự sống theo Thần khí. Sự sống theo Thần khí quan trọng hơn.
– “Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì dù thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần khí cũng ban cho anh em được sống” (c 10)
– “Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần khí của Ngài đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới” (c 11) : sự sống thần khí có thể chết vì tội, nhưng có thể sống lại nhờ Thiên Chúa.
GỢI Ý GIẢNG
Sự sống của thể xác :
– Hầu hết những quan tâm của chúng ta đều là lo cho cuộc sống thể xác : ăn uống, tiền bạc, thuốc men, sung sướng. Và rất nhiều tội ta phạm cũng vì quá lo cho cuộc sống thể xác này.
– Thánh Phaolô nói sự sống thần khí quan trọng hơn sự sống thể xác ; và chúng ta vẫn tuyên xưng “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Nhưng hình như ta không sống đúng theo niềm tin ấy. Nếu ta thực sự tin như thế thì: Ta đâu có quá sợ chết. Ta đâu có quá bám víu vào những thứ nuôi cuộc sống thân xác này
– Đức Giêsu nói “Ai dám liều bỏ sự sống (thể xác) thì sẽ được sự sống đời đời”.
Sự sống thần linh :
– Được ban ngày ta lãnh nhận bí tích Rửa tội.
– Được lớn dần lên nhờ cầu nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ kết hợp với Chúa hàng ngày.
– Ta có lo bồi dưỡng nó không ?
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước mồ Ladarô đáng ta bắt chước :
– Thông thường, thứ tự của lời ta cầu xin là : a/ Trình bày nhu cầu của mình ; b/ Xin Chúa giúp ; c/ Nếu được Chúa ban thì ta cám ơn. Thứ tự lời Đức Giêsu cầu nguyện ngược hẳn lại : a/ Tạ ơn “Lạy Cha, con cảm tạ Cha” (c 41a) ; b/ Không cần trình bày yêu cầu (vì hiểu ngầm Chúa Cha đã biết) ; c/ Tin chắc lời xin của mình đã được nhậm lời “vì chađã nhậm lời con” (c 41b).
– Tại sao ? Đức Giêsu và Chúa Cha kết hợp mật thiết nên một : Đức Giêsu muốn cũng là Chúa Cha muốn, người xin cũng là người ban, nên chắc chắn lời xin sẽ được thực hiện.
– Chúng ta có được như thế không ? Được, nếu như ta cũng kết hợp mật thiết với Đức Giêsu và qua Ngài với Chúa Cha, và do đó ta chỉ muốn điều Chúa muốn.
* Mùa Chay chuẩn bị chúng ta chia sẻ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của chúng ta có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Đức Giêsu mà xin được phục sinh. Và hãy tin chắc ta sẽ được, miễn là ta thực sự muốn mình phục sinh.
Một người bạn đặc biệt
Đức Giêsu là bạn thân thiết của Ladarô. Điều này hiển nhiên vì chính Ngài đã khóc trước mồ Ladarô, và dân chúng hôm đó đã xác nhận như thế (“Kìa xem, ông ta thương Ladarô biết mấy”).
Nhưng dù vậy, Ngài đã không làm gì để ngăn chận Ladarô khỏi chết : “Sau khi được tin ông Ladarô lâm bệnh, Ngài còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở”. Thái độ của Ngài đã khiến Matta phiền trách : “Nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết”. Chúng ta cũng giống Matta : khi gặp gian nan, thử thách, khổ đau, chúng ta bị cám dỗ phiền trách Chúa, thậm chí nói phạm tới Ngài.
Tuy nhiên, không ngăn chận Ladarô khỏi chết không có nghĩa là để cho ông đi vào ngõ cụt, không có nghĩa là không cứu sống ông. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa cũng hành xử như thế đối với dân Israel : Ngài không ngăn chận những diễn biến tất nhiên phải đến theo lôgic lịch sử cứu độ : họ đã bất trung, đã băng hoại nên đất nước họ sụp đổ, họ phải đi lưu đày. Thế nhưng con đường đó không phải là con đường dẫn đến ngõ cụt mà là con đường cứu độ : cuối cùng thì Israel đã được hồi hương và Ladarô được sống lại. Khoảng thời gian “chết” của Israel và của Ladarô chính là thời gian người ta học được rất nhiều bài học quý giá. Tác giả Tv 116 đã hiểu thế nên đã hát lên : “Quý thay trước mắt Yavê, cái chết của những ai thành tín với Ngài” (Tv 116,15).
Chết và sống
Chết và sống liên đới chặt chẽ với nhau : Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại. Nhưng chính sự sống lại của ông lại là cớ khiến Đức Giêsu phải chết (x. Ga 11,47-50 : sau chuyện này, Thượng Hội Đồng do thái quyết định giết Đức Giêsu).
Chúa chết để chúng ta được sống.
Phần tội lỗi trong con người chúng ta phải chết để cho phần thần linh sống mạnh.
“Ai muốn cứu mạng sống mình (mạng sống thể xác) thì sẽ mất mạng sống (mạng sống thần linh) ; còn ai liều mất mạng sống mình (mạng sống thể xác) vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống (mạng sống thần linh)” (Mt 16,25).
Giêsu là ai ?
Là một nhà diễn thuyết hấp dẫn : “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,21).
Là một vĩ nhân đầy quyền phép : “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau : Thế nghĩa là gì ?.. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1,27).
Nhưng không phải chỉ có thế, bài Tin Mừng này cho ta biết thêm Ngài chính là sự sống : “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ” (câu 25-26). Sau khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu hỏi Matta : “Con có tin như thế không ?” (câu 27). Đó cũng chính là câu Ngài hỏi chúng ta.
Tôi tin vào sự chết
Tôi tin vào sự chết
Tôi tin rằng sự chết là một phần của sự sống
Tôi tin rằng chúng ta được sinh ra để chết, chết để có thể sống trọn vẹn hơn.
Tôi tin rằng chúng ta được sinh ra để chết, mỗi ngày chết một phần : một phần ích kỷ, một phần tự phụ, một phần tội lỗi.
Tôi tin rằng mỗi khi chúng ta bước từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của cuộc đời, thì đều có một cái gì đó chết đi và một cái gì đó mới sinh ra.
Tôi tin rằng chúng ta nếm mùi sự chết trong những lúc cô đơn, phiền muộn, thất vọng, thất bại, bị ruồng bỏ.
Tôi tin rằng mỗi ngày chính chúng ta tạo ra cái chết cho mình bằng cung cách chúng ta sống.
Với đức tin của người tín hữu, tôi tin rằng cái chết không dập tắt được ánh sáng, mà chỉ là tắt đèn đi ngủ (Anon, “I believe in death”)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Người thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người thì sẽ không bao giờ phải chết. Tin tưởng vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Đức Kitô đã hiến mình trên thập giá / lấy máu cùng nước từ cạnh sườn mà thanh tẩy và thánh hoá Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh không ngừng canh tân / và mãi mãi tinh tuyền / nhờ lòng thống hối ăn năn.
2- Chết chóc gây ra biết bao cảnh chia ly làm tan nát cõi lòng / đem đến vô vàn đau khổ cho những người còn đang sống / lắm lúc còn làm cho đức tin của người kitô hữu bị lung lay dữ dội / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đang gặp tang tóc buồn phiền / biết luôn vững tin vào tình thương và sự quan phòng của Chúa.
3- Đối với người kitô hữu / chết không phải là hết mà là bước sang một thế giới khác / và cuộc sống trần gian hôm nay quyết định số phận mai ngày của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết tích cực chuẩn bị cho cuộc sống đời sau / bằng một nếp sống thắm đượm tình bác ái yêu thương.
4- “Vui với người vui và khóc với người khóc” / phải là những việc làm thường xuyên của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống theo lời dạy của vị tông đồ dân ngoại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại, Chúa đã hiến thân chịu khổ hình thập giá. Xin ban ơn trợ giúp để chúng con biết noi gương Chúa mà hết lòng yêu thương anh chị em chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
————————————————————
NIỀM HI VỌNG SỐNG LẠI- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Cổ nhân đã đặt câu hỏi :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” : con người từ xưa đến nay ai mà không chết ? Đây là một sự thật hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được. Nhưng chết rồi sẽ ra sao ? Có nhiều ý kiến cho câu hỏi này ? Hòai nam Tử nói :”Sinh ký tử qui” : sống là gửi, chết mới là về. Câu hỏi tiếp : về đâu và để làm gì ? Đó là câu hỏi đòi chúng ta phải suy nghĩ và tìm ra câu giải đáp cho bản thân mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu làm cho Lazarô đã chết được sống lại trước mặt nhiều người chứng kiến. Cô Martha và những người chứng kiến đã xác nhận : Lazarô đã chết được 4 ngày và đã nặng mùi rồi. Đức Giêsu đòi cô Marta phải chứng mình cho mọi người thấy là Lazarô đã chết thật và đòi cô phải tin vào Ngài. Sau khi truyền mở cửa mộ, Ngài hô lớn tiếng :”Lazarô, hãy ra đây” ! Lazarô đã chỗi dậy và ra khỏi mồ trước mặt mọi ngườiø. Sau đó Ngài truyền cởi dây băng và khăn liệm cho anh. Qua phép lạ này, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày chung thẩm.
Chúng ta đã đi qua được một nửa Mùa chay trong sự hy sinh hãm mình, trong việc sửa đổi con người cũ của mình. Chúa nhật này mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng của Kytô giáo. Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng ấy, đồng thời mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác cuộc sống chúng ta cho Ngài : :”Ai tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời”. Với niềm tin tưởng đó người Kitô hữu chúng ta phải cố gắng sống một đời sống xứng đáng ở trần gian này, và mạnh dạn đón nhận cùng vượt qua mọi gian nan thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa cao đẹp và lạc quan.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Ez 37, 12-14.
Dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt. Nhiều người đã tỏ ra thất vọng, sống cho qua ngày, coi mình như đã chết. Thiên Chúa cho tiên tri Ezéchiel đến yên ủi và báo cho họ biết rằng Ngài sẽ đoái thương họ, Ngài sẽ giải cứu họ và đem họ về quê hương. Lời loan báo này của tiên tri Ezéchiel đi sau thị kiến đặc biệt về “các bộ xương khô”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho Israel. Các bộ xương sẽ được cơ thịt bao phủ, được thổi hơi làm cho sống lại, trở thành một sinh linh mới. Lời hứa Phục sinh này mang hai ý nghĩa :
a) Phục sinh tinh thần : họ sẽ được hồi hương.
b) Phục sinh thể xác.
Lịch sử dân Israel cho thấy lời hứa phục sinh tinh thần đã được thực hiện vào năm 539. Còn phục sinh thể xác sẽ diễn ra sau này nơi Chúa Kitô và mọi Kitô hữu.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,8-11.
Theo thánh Phaolô, con người có hai sự sống : sự sống theo thể xác và sự sống theo Thần Khí. Sự sống theo Thần Khí quan trọng hơn. Mặc dầu thân xác Kitô hữu đã bị dâng cho tử thần vì tội lỗi, nhưng nhờ Phép Rửa, Kitô hữu lại nhận được Thần Khí sự sống và Phục sinh của Đức Kitô :”Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới”(Rm 8,11).
+ Bài Tin Mừng : Ga 11,1-45.
Bài trình thuật việc ông Lazarô sống lại khá dài, có nhiều chi tiết, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa, nhưng điểm nổi bật nhất là việc Đức Giêsu làm cho kẻ chết sống lại, loan báo sự phục sinh thể xác sau này. Việc cứu sống Lazarô là sự phục sinh thể xác cho chính Lazarô, nhưng việc cứu sống ấy còn báo trước cho chúng ta sự phục sinh thể xác của Chúa Giêsu và của mọi người nữa.
Phép lạ phục sinh Lazarô như là một dấu chỉ : một đàng để làm vinh danh Chúa Cha nơi Người ; đàng khác, để cho các môn đệ tin rằng Người được Chúa Cha sai đến. Lời tuyên xưng của cô Martha đã nói lên điều ấy :”Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11, 27) và trong số những người Do thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người (Ga 11,15).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chúng ta sẽ được sống lại
ĐỨC GIÊSU CHO LAZARÔ SỐNG LẠI.
Câu chuyện Đức Giêsu cho Lazarô sống lại là một trình thuật căn bản của Tin mừng Gioan. Đức Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nazareth là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa tòan năng.
Đức Giêsu đến Bêtania.
Bêtania ở cách Giêrusalem khỏang 3 cây số. Ở đó có một gia đình gồm ba chị em mà Đức Giêsu quen biết, đó là Martha chị cả, Maria và Lazarô là em út. Mỗi người có một tính tình khác nhau : Martha năng động, lo việc bếp núc và chạy vạy mọi việc trong nhà. Maria thì trầm lặng, ít họat động, thích chiêm mộ. Còn Lazarô, bạn thân của Chúa, đã được mời dự tiệc tại nhà ông Simon tật phong.
Một hôm Lazarô bỗng đau nặng, hai chi em sai người đi báo tin cho Đức Giêsu một cách tế nhị :”Người Thầy yêu đau liệt”. Lúc đó Ngài còn đang đi truyền giáo tại Pêrê bên kia sông Giorđan chưa về. Ngài còn ở lại đó hai ngày nữa vì Ngài đã bảo người đưa tin rằng :”Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó con người sẽ được hiển vinh”. Nhưng dù sao lễ Vượt Qua sắp tới, Ngài cũng cần phải đi Giêrusalem để dự lễ.
Các môn đệ có vẻ ngần ngại vì thái độ thù nghịch của biệt phái mỗi ngày một tăng :”Mới hôm nào bọn Do thái tìm ném đá Thầy mà nay Thầy lại trở về đó sao”? Tuy các ông vẫn còn lưỡng lự, Đức Giêsu mới cho biết rõ :”Lazarô đã chết”. Rồi Ngài cương quyết :”Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”.
Đàm thọai với Martha và Maria.
Khi tới Bêtania thì được tin Lazarô chết chôn được 4 ngày rồi. Nếu tính thời gian ấy thì tròn bốn ngày : đi báo tin Lazarô chết mất một ngày, Đức Giêsu ở lại hai ngày và trở về mất một ngày.
Và theo phong tục Do thái thì chết là chôn ngay : chết sáng thì chiều chôn và chết đêm thì ban mai phải chôn, không được để lâu.
Khi Đức Giêsu tới nơi thì có nhiều người Do thái đang đến chia buồn với gia đình này. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Martha đã vội vàng chạy ra đón và thưa ngay :”Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”. Qua lời nói đó, chúng ta có thể đọc rõ tâm trí của Martha. Cô muốn nói rằng :”Lúc được báo tin, sao Thầy không chịu đến ngay ? Bây giờ mới đến thì đã muộn mất rồi”. Ngay sau khi thốt ra những lời ấy, tiếp theo là những lời nói trong đức tin, một đức tin thách thức mọi sự kiện, mọi kinh nghiệm. Cô nói bằng một niềm hy vọng trong tuyệt vọng :”Tuy nhiên, con biết rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy bất luận điều gì Thầy cầu xin”.
Để yên ủi cô, Ngài phán :”Em con sẽ sống lại”. Martha nói lên niềm tin của mọi người Do thái thời đó :”Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại” Đức Giêsu cho cô Martha biết Ngài sẽ cho Lazarô sống lại nhưng đòi ở nơi cô lòng tin mạnh mẽ.
Lazarô được sống lại.
Đức Giêsu hỏi :”Đã an táng Lazarô ở đâu” ? Các cô dẫn Ngài đến mộ. Đứng trước cửa mộ, Đức Giêsu truyền mở cửa mộ ra, nhưng người ta trả lời :”Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã 4 ngày”. Chúa đòi Martha xác nhận cho mọi người biết là em mình đã chết thực sự và đã bắt đầu thối. Trước khi làm phép lạ Chúa đòi cô phải có lòng tin mạnh mẽ vào Ngài.
Sau khi hòn đá che cửa mộ được cất ra, Đức Giêsu lớn tiếng gọi :”Lazarô, hãy ra đây”. Người chết liền đi ra trước mặt mọi người, chân tay còn quấn băng và mặt còn phủ khăn liệm. Ngài ra lệnh cởi băng cho ông.
Kết quả : một số đông người chứng kiến đã tin theo Đức Giêsu, nhưng còn một số đi báo tin cho nhóm biệt phái, những người luôn là đối thủ của Ngài.
Có lẽ đây là một phép lạ lớn nhất mà Gioan thuật lại trong Tin mừng của ông. Làm cho kẻ chết sống lại là làm chủ cả sự chết lẫn sự sống. Nếu so sánh việc làm cho con gái ông Giairô và cậu con trai bà góa thành Naim vừa chết chưa thối thì phép lạ này hòanh tráng hơn nhiều và củng cố niềm tin cho những người chứng kiến.
Trong câu chuyện này, cả Martha lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Martha đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do thái :”Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế”. Đức Giêsu mời cô tiến thêm một bước :”Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không”? Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho những ai tin vào Ngài. Đó chính là mục đích của phép lạ này :”Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con… Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con” (Fiches dominicales A, tr 102).
NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI.
Tin vào Lời Chúa.
Một quá trình dài tường thuật, chuẩn bị phép lạ cho Lazarô được sống lại, cho chúng ta thấy rằng mục tiêu chính yếu của đoạn trích Phúc âm Gioan 11,1-45 không phải là sự sống lại thể xác của Lazarô, nhưng chính là một “tiến trình niềm tin”cho những người vây quanh ĐứcGiêsu và cho chúng ta hôm nay.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời cảm tạ Chúa Cha không có mục đích cầu xin để làm cho Lazarô được sống lại nhưng có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, cho chị em Martha và Maria cũng như cho những người đến chia buồn với chị em.
Tất cả bài học, lời dạy của Đức Giêsu hôm nay đều tập trung trong hai câu 25 và 26. Đức Giêsu đã mang lại cho chúng ta một mạc khải nền tảng :”Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25-26). Chính niềm tin vào Đức Kitô là một bảo đảm tuyệt đối để được sự sống muôn đời.
Phép lạ cho Lazarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, tự nơi tạm bợ đến chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo hội. Thánh Phaolô nói :”Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…” Chính là trên cơ sở phải tin Đức Kitô đã phục sinh.. Sứ điệp Phục sinh không đem đến cho chúng ta những thực tế dễ dàng, hấp dẫn, dựa trên cở sở những kinh nghiệm khả giác và kỳ lạ, nhưng cho chúng ta một nhận thức về một mạc khải, một lời hứa : mạc khải Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết và lời hứa mà Ngài có quyền hội nhập chúng ta vào sự chiến thắng đó.
Người đời nghĩ thế nào ?
Mọi người đều phải chết.
Người ta công nhận rằng mọi người trên thế gian này đều phải chết, đây là một công lệ khắt khe buộc con người phải theo, dù muốn dù không. Vì thế cổ nhân đã nói :
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.(Văn thiên Trường)
Ngày xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Mọi người cũng đều công nhận là đời sống rất mong manh : Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Nhưng triết lý về cuộc sống của mỗi người lại khác nhau, mỗi người có một cái nhìn, một nhân sinh quan về đời sống. Có người có cái nhìn lạc quan, có người lại có cái nhìn bi quan. Có người tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống, có người coi cuộc sống là phi lý, là vô nghĩa như trường hợp của những người theo triết thuyết hiện sinh vô thần. Có lẽ họ thích sống theo triết lý người La mã xưa :”Hãy ăn nhậu cho say, vì ngày mai bạn có thể chết”.
Tâm lý con người : tham sinh húy tử.
Đúng như vậy, con người ai cũng thích sống và ai cũng sợ chết. Đó là mối bận tâm muôn thuở của nhân loại. Đã là qui luật là qui luật : mọi người đều phải chết. Nhưng khi con người biết sống thì không sợ cái chết nữa, hay ít là coi nhẹ cái chết :
Nhân cố hữu nhất tử,
Tử hoặc trọng ư Thái sơn,
Hoặc khinh như hồng mao.
(Người đời ai cũng vẫn phải chết
Nhưng có cái chết nặng như núi Thái sơn
Có cái chết nhẹ như lông hồng).
Chết rồi sẽ ra sao ?
Đối với những người không có đức tin thì câu hỏi chết rồi sẽ ra sao thì không thành vấn đề. Theo họ, chết là hết. Chết là kết thúc cuộc sống ở trần thế này và sẽ trở về hư không.
Nhà văn Nhất Linh, một ngày bâng khuâng, ông tự hỏi mình :
– Chết rồi sẽ ra sao nhỉ ?
Nghĩ ngợi một chốc, rồi ông lại tự trả lời lấy :
– Hồi Hai Bà Trưng, tôi chưa ra chào đời. Thế khi ấy tôi ở đâu ? Chết, tức là trở về tôi hồi ấy vậy.
Nói cách khác, định mệnh bắt tôi phải đầu hàng thần Chết vô điều kiện. Tôi đã bởi hư vô mà có, thì chết rồi, tôi lại rơi vào cõi hư vô.
Thảo nào mà một nhà thi sĩ lương dân đã phải khóc lên não nuột khi tưởng nhớ đến giây phút tủi nhục này :
Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi !
Tôi run như lá, tái như đông,
Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng,
Năm đẩy tháng dồn tôi đã đến
Trước bờ lạnh lẽo cõi hư không.(Xuân Diệu)
Đối với một số người, không những chết là hết nhưng chết còn là một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. Karl Marx, ông tổ thuyết mac-xít vô thần, trong một bức thư viết cho người bạn của ông là Lassanler đã nói về cái chết của đứa con mình như sau :
“Cái chết của đứa con trai tôi đã làm cho tôi đảo điên. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như cái chết ấy mới xẩy ra ngày hôm qua thôi. Còn vợ tôi thì hoàn toàn ngã gục vì biến cố này”.
Ai trong chúng ta cũng cảm thông được với nỗi đau đớn tột cùng này của ông tổ thuyết Mac-xít vô thần. Cái chết là một mất mát mà không gì có thể lấp đầy được. Sự mất mát ấy lại càng khủng khiếp hơn khi con người không còn một niềm hy vọng nào vào cuộc sống mai hậu. Chối bỏ cuộc sống mai hậu cũng có nghĩa là tự đọa đầy mình vào một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp nhất (D. Wahrheit, Phép lạ trong cuộc đời, tr 257).
Nếu không còn niềm tin nào vào cuộc sống mai hậu thì người ta dễ đi đến những kết luận bi quan, muốn tận hưởng trước khi chết để đi vào hư vô :
Người ơi, tận hưởng đi mùi thế tục,
Trước ngày tan nát cõi tha ma.(Omar)
Chúng ta nghĩ thế nào ?
Chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa. Thiên Chúa là Đấng chân thật vào trung thành với lời hứa. Tin vào Chúa sẽ không bị đi lầm đường :”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. (Ga 11,25-26). Tuy đã tin vào Chúa, nhưng đức tin không miễn trừ cho chúng ta những thử thách khổ đau trong tang chế, trong sự từ bỏ mình hằng ngày và sự sợ hãi đối với sự chết, nhưng niềm tin của chúng ta chấp nhận để hiểu biết và sống trong những hoàn cảnh hiện tại theo ánh sáng của sự sống cao thượng hơn mà Đức Giêsu đã dạy và chính Ngài là nguyên nhân của sự sống cao thượng đó.
Mọi người đều phải chết.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trên trần gian này không có ai sống trường sinh bất tử. Tuy khoa học va øcách riêng ngành y học đã đạt được đỉnh cao nhưng người ta chưa tìm ra được một phương cách nào để con người được sống mãi.
Truyện : thuốc trường sinh.
Thời chiến quốc, có người dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng :
– Vị thuốc này có uống được không ?
Người ấy đáp:- Uống được.
Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng :
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng:”Uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là thuốc bất tử được ? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa.
Chết chưa phải là hết.
Nhà triết học Heiddeger đã nói :”Nếu chết là hết, thì người đời luôn luôn sống trong lo sợ. Bởi vì biết rằng mình sẽ chết, vậy sẽ trở về cõi hư vô, thì tức là đã mang hư vô trong mình rồi. Sống làm gì nữa để ngày mai rơi vào cõi hư vô”.
Thánh Phaolô đã xác quyết với chúng ta :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Chết đi để sống lại.
Một điều chắc chắn là sự chết dẫn ta đến sự sống lại. Lẽ dĩ nhiên chết không phải là điều tốt, nhưng nó là đoạn đường ta phải vượt qua để đi từ cuộc sống đời tạm này qua cuộc sống vĩnh cửu. Sự chết không phải là sự chết đơn thuần, không phải là con đường cụt, không lối thoát. Thiên Chúa không yêu thương chúng ta vô ích, không dựng nên ta để rồi biến ta ra hư vô. Chúa yêu thương ta vô hạn, đã ban chính Con Một của Ngài cho ta không phải để cho ta thấy ta biến vào hư vô sau cái chết, nhưng để ta được sống lại và được kết hợp với Ngài.(Lm Đỗ thanh Hà, báo Lên đường)
Chúng ta tin là có sự sống lại trong ngày sau hết như Chúa đã báo trước. Chúng ta cũng tuyên xưng đức tin trong kinh Tin kính :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Tuy thế vẫn có những người không tin.
Truyện : Không có sống lại.
Ở một nghĩa địa bên Đức, có một ngôi mộ lớn và đẹp, xây bằng đá hoa cương và bê tông cốt sắt. Đó là mộ của một bà giầu có và vô thần, trong chúc thư bà muốn xây như vậy để chối bỏ sự sống lại. Bà còn muốn trên ngôi mộ phải đề dòng chữ này : ngôi mộ này sẽ không bao giờ mở ra được.
Thời gian trôi qua, tình cờ một hạt giống rơi xuống, mọc cây, rễ của nó ăn vào mộ và xuyên thủng quan tài của bà. (Theo Veritas ngày 27.07.1993).
—————————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
MỞ CỬA MỘ – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.
Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.
Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.
Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.
Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.
Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.
Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?
2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?
3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?
4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?
———————————————————–
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
CHÚA KITÔ LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Với Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta : trỗi dậy từ trong cõi chết.
Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu
Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi : bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài : “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa ” (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ : ” Lagiarô đã chết ” ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì “sáng danh Thiên Chúa ” ( Ga 11, 4).
Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư ? “(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này : ” Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người ” (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là : ” Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta” (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.
Niềm hy vọng của chúng ta
Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu : ” Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ “(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha ” Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống ” sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.
Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, “Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa” (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng “nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em” (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.
Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì ” thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi ” (Rm 8, 10) nhưng ” nếu Đức Kitô ở trong chúng ta” và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa : chúng ta tin vào phép rửa ” Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới “. (Rm 6, 4).
Thật là đại tin mừng : ” Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà : “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”, há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi : ” Đã an táng Lagiarô ở đâu? ” Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.
Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).
” Hãy đẩy tảng đá ra ” (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao ? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ).
” Hãy cởi ra cho anh ấy đi “(11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.
Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng
Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố : ” Ta là sự sống lại và là sự sống” và hỏi “Con có tin điều đó không?” Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl : “Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ ” (Ez 37, 12-14). “Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em ” (Ez 37, 6) : nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
————————————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI- Lm. Inhaxio Trần Ngà
Trong muôn vàn nỗi sợ, thì sợ chết đứng hàng đầu. Thiết tưởng trên đời không có gì làm người ta khiếp sợ cho bằng sự chết. Tin khủng khiếp nhất là tin bị mắc bệnh ung thư, bị án tử hình…
Và không gì đáng quý trọng, đáng khao khát trên đời cho bằng được vui sống, sống trong hạnh phúc và vĩnh cửu.
Sự giòn mỏng của kiếp người
Tuy nhiên, sự sống đời này lại rất mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Các em nhỏ ngày xưa có trò chơi thổi bong bóng thật hay. Các em hòa một ít xà phòng trong ly nước, rồi dùng một cọng rơm nhúng vào đó và bắt đầu thổi. Thế là rất nhiều quả bóng lớn nhỏ khác nhau xuất ra từ đầu cọng rơm, bay nhởn nhơ trong không gian, long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, chỉ vài giây sau, bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, bụp, bụp bụp…! Tan biến hết! Tất cả trở về hư không!
Đời sống con người cũng thế. Chúng ta xuất hiện trên đời như những chiếc bong bóng xuất ra từ đầu cọng rơm, chúng ta nhởn nhơ trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta cũng lóng lanh sắc màu như những quả bóng xà phòng kia và số phận chúng ta cũng như những quả bóng bé bỏng đó, kẻ trước người sau nối tiếp nhau từ giã cuộc đời.
Đứng trước thân phận giòn mỏng, phù du của kiếp người, một nhà thơ Nguyễn Công Trứ than rằng: “Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…”
Nhờ đâu có cuộc sống lâu bền?
Ai trong chúng ta cũng khát khao được sống, nhưng là muốn có được một đời sống lâu dài chứ không phải là đời sống giòn mỏng, tạm bợ; muốn có được một đời sống hoan lạc chứ không chỉ là một cuộc sống đầy gian truân khổ ải ở trần gian.
Nhưng làm sao để có được đời sống tuyệt vời như mong ước?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bày tỏ cho chúng ta một bí mật tuyệt vời, một bí quyết giúp chúng ta chiếm hữu cho mình sự sống lâu bền bất tận, một đời sống hoan lạc trên thiên quốc. Bí mật đó, bí quyết đó đã được Chúa Giê-su bày tỏ từ hai ngàn năm qua, khi Chúa nói với Mác-ta là chị của La-da-rô, khi anh này đã được mai táng bốn ngày:
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ.”
Để minh chứng cho lời mình nói, Đức Giê-su đã làm cho La-da-rô sống lại, dù ông nầy đã an giấc trong mộ.
Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài là nguồn ban sự sống.
Như mặt trời là nguồn sáng cho địa cầu thế nào thì Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống đời đời cho nhân loại như thế. Ngài đã ban lại sự sống cho người đã chết chôn trong mồ và chính Ngài sau khi chết đã tự mình sống lại.
Làm sao để đón nhận sự sống đời đời từ Chúa Giê-su?
Muốn đạt tới sự sống đời đời, thì chúng ta cần phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô, như lời Ngài phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
Nhưng tin là gì? Tin ở đây không phải là tin suông. Vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tin vào Đức Giê-su là gắn bó đời mình với Đức Giê-su, kết hợp với Ngài và sống như Ngài đã sống, là yêu thương phục vụ mọi người như Ngài đã nêu gương…
Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống,
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện;
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho;
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải nối liền với thân thể.
Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bóng đèn với nguồn điện, như cành nho với thân nho, như bàn tay với thân thể… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban.
————————————————————-
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. Ngài đã từng đến chia sẻ niềm vui trong đám cưới tại Cana (x. Ga 2,1). Ngài đã buồn sầu thương khóc Ladarô cùng với hai chị em cô Matta (x. Ga 11,32-38)…
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay kể chuyện rõ ràng, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúa nhật I, Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong thân phận con người. Chúa nhật II, Chúa Giêsu Hiển Dung trong thần tính vinh quang trên núi Tabor. Chúa nhật III, Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài. Chúa nhật IV, Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ bước đi trong ánh sáng. Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời.
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự sống đời đời. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài khẳng định: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Giêsu đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào.
“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.
Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Con người nhân ái đến thăm gia đình có người qua đời, trái tim rung động thổn thức. Chúa Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của Ladarô khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào!”. Thánh Gioan cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”.
Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi anh quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!… Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Anh nằm trong mộ bốn ngày rồi, thối rữa ra rồi.Thế mà Chúa bảo hãy đi ra. Anh đi ra thật. Giải băng còn quấn cứng ngắc…Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Ladarô sống lại là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở.
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.
Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa thần chết. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.Tin vào Ngài là thông hiệp vào sự sống lại sau khi chết, khiến cái chết không còn nghĩa lý gì nữa. Cái chết của Ladarô chỉ là một giấc ngũ (Ga 11,11), người tin Chúa sẽ coi nhẹ cái chết chỉ như một giấc ngũ, một chặng đường dẫn tới sự kết hợp vĩnh viễn với Chúa. Đức tin, nền tảng tư duy dẫn vào cuộc đổi mới đời mình và đổi mới cả môi trường trần thế đang là đất sống của con người tại thế. Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21).
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống.
Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15).
Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống “siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
———————————————————–
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
NIỀM TIN TÍN THÁC- Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.
Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy “nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: “nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho”. Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: “Em con sẽ sống lại”. Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: “Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: “Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”.
Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: “nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa”. Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.
Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,
Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.
Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.
Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.
————————————————————
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- NĂM A
THỨC TỈNH- Trích Logos A
Nhà văn Pháp Charles Perrault đã viết cuốn “Truyện Thần Tiên” (Contes de Fées) rất nổi tiếng. Trong cuốn sách ấy có câu chuyện sau đây :
Ngày xưa, có nàng công chúa xinh đẹp mắc phải lời nguyền của một bà tiên độc ác : ngày nào nàng bị mũi kim quay sợi đâm vào tay, ngày ấy nàng sẽ chết. Nhưng một bà tiên nhân hậu kia vì thương nàng công chúa, đã hóa giải lời nguyền ấy, để nàng không phải chết mà chỉ ngủ một giấc ngủ trăm năm, cho đến khi có một hoàng tử đến đánh thức nàng dậy.
Vua cha liền ra lệnh cấm dân trong nước không được quay sợi, để tránh cho công chúa khỏi chết. Nhưng trớ trêu thay, một hôm công chúa đi thăm một tòa lâu đài cổ. Tại đây có một bà cụ già đang ngồi quay sợi. Vì già nua, lại không đi đến đâu, nên không biết lệnh cấm của nhà vua. Vì tò mò, công chúa thử quay sợi, không may mũi kim đâm vào tay, nàng liền ngã xuống đất và chìm vào giấc ngủ mê man. Công chúa được đặt vào một căn phòng lộng lẫy trong tòa lâu đài. Rồi mọi sự chìm trong quên lãng…
Một trăm năm sau, có vị hoàng tử đi săn ngang qua tòa lâu đài. Nghe biết câu chuyện về nàng công chúa đang ngủ, chàng đã vào lâu đài, cầm tay công chúa để đánh thức nàng dậy. Sau đó, hai người đã kết duyên và sống bên nhau thật hạnh phúc.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, khi nghe tin Lazarô, em của cô Matta và Maria, đang đau nặng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Lazarô đang ngủ, chúng ta đi đánh thức anh dậy”. Thật ra, Lazarô đã chết và Chúa muốn ám chỉ cái chết giống như một “giấc ngủ” mà chính Ngài là người đi “đánh thức” kẻ chết sống lại.
Qua phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lazarô sống lại, có nhiều điều đáng cho chúng ta suy nghĩ :
Thức dậy từ giấc ngủ của sự chết.
– Chúa Giêsu đã ám chỉ cái chết của Lazarô giống như “giấc ngủ” và Chúa sẽ đánh thức anh dậy. Như thế, Chúa muốn khẳng định với các môn đệ Chúa có thể chiến thắng thần chết một cách dễ dàng. Chúa phục sinh kẻ chết giống như Chúa đánh thức một người đang say ngủ.
– Hơn nữa, tại sao Chúa cho Lazarô sống lại khi biết rằng sau đó, anh cũng phải chết ? Phải chăng việc làm của Chúa là vô ích ?
Thực sự, Chúa muốn chứng tỏ quyền năng của Ngài trên sự chết và muốn tiên báo mầu nhiệm vượt qua sẽ được thực hiện nơi bản thân Ngài : từ cõi chết, Ngài bước vào cõi sống trong ánh sáng Phục Sinh vinh hiển. Vì thế, khi gọi Lazarô chỗi dậy để trở về với cuộc sống, Ngài muốn xác định Ngài chính là “sự sống lại và là sự sống”.
– Khi Chúa Giêsu “đánh thức” Lazarô dậy từ giấc ngủ của sự chết, Ngài cũng còn muốn xác định “xác loài người ngày sau sẽ sống lại” như lời tiên tri Đaniel : “Trong thời kỳ ấy,… nhiều kẻ an giấc trong bụi đất, sẽ chỗi dậy : có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời…” (Đn 12, 2).
Như thế, chết luôn là định mệnh tất yếu của con người chúng ta. Tuy nhiên, trong bóng tối sự chết, Chúa Kitô là ánh sáng bừng lên xua tan đêm dài u tối. Ngài là ánh sáng của niềm tin, niềm vui và hy vọng.
– Bài đọc I, trích sách tiên tri Êzêkiel, thuật lại việc dân Israel sống trong tâm trạng chán chường tuyệt vọng giữa cuộc lưu đày bên Babilon. Thiên Chúa đã an ủi họ, đã đem họ lên khỏi “nấm mồ” của sự tuyệt vọng và cho họ được hồi hương về Israel.
Cũng vậy, Chúa cho Lazarô bước ra khỏi ngôi mộ của sự chết, để đưa anh trở về với sự sống. Hôm nay, Chúa cũng mở cửa “nấm mồ” đang chôn vùi chúng ta trong tội lỗi và thất vọng, để đưa chúng ta trở về với sự sống và tình thương của Ngài.
Thức dậy từ giấc ngủ của tội lỗi.
Qua phép lạ Chúa cho Lazarô sống lại từ cõi chết, chúng ta còn nghiệm thấy rằng :
– Chúa đã đánh thức niềm tin nơi cô Matta và Maria. Vì Chúa đến chậm, nên Lazarô đã chết. Cô Matta và Maria vì yếu lòng tin, đã trách móc Chúa : “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Chúa Giêsu đã vực dậy niềm tin yếu kém trong lòng hai chị em : “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin Thầy, dù có chết cũng sẽ được sống và ai sống mà tin Thầy, sẽ không chết bao giờ”. Và Chúa đã hỏi : “Con có tin điều đó không ?”. Matta đã biểu lộ lòng tin một cách mạnh mẽ : “Vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô”. Chúa đã đem lại niềm tin cho những tâm hồn đang hoài nghi và bất tín.
– Chúa đánh thức niềm vui giữa cảnh u buồn tang tóc. Khi Chúa đến, Lazarô đã được mai táng trong mồ bốn ngày. Trước nấm mồ người chết là những giọt nước mắt đau thương, những lời than van nức nở. Nhưng khi Chúa đánh thức kẻ chết sống lại, Ngài cũng đánh thức niềm vui trong những tâm hồn đang buồn sầu khổ đau. Chúa là ánh sáng của niềm vui chiếu soi vào những tâm hồn đang tràn ngập âu lo sầu khổ.
– Chúa đánh thức niềm hy vọng nơi những con người đang buông xuôi trước những nghịch cảnh. Khi Chúa đánh thức Lazarô chỗi dậy bước ra khỏi mồ, Ngài cũng đánh thức niềm hy vọng nơi những tâm hồn đang tuyệt vọng. Chúa cởi mở sợi dây tử thần đang trói chặt tay chân kẻ chết, Ngài cũng muốn giải thoát những tâm hồn đang bị nỗi thất vọng bủa vây. Ngài đem lại tia sáng hy vọng cho những người đang đi vào ngõ cụt cuộc đời. Đến nỗi, khi chứng kiến những việc Chúa làm, người Do Thái đã tin vào Ngài.
Nếu ngày xưa, đứng trước ngôi mộ của Lazarô, Chúa đã kêu gọi : “Lazarô, hãy bước ra !”, thì ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục lên tiếng gọi chúng ta bước ra khỏi nấm mồ của cuộc sống trần gian. Ngài vẫn tiếp tục đánh thức chúng ta chỗi dậy từ những cơn mê ngủ của tội lỗi, những giấc ngủ say sưa trong đam mê dục vọng, trong những ham muốn tiền tài vật chất. Chúa vẫn gọi chúng ta bằng những lời thì thầm yêu thương. Nhưng đáng tiếc thay, có thể chúng ta không nghe được lời mời gọi của Chúa, vì đôi tai chúng ta đã để cho những xao động của cuộc sống lấn át đi.
Ngày kia, có bác nông dân từ thôn quê lên thăm người bạn ở thành phố. Người bạn dẫn bác nông dân đi dạo phố. Đang đi, bỗng bác nông dân dừng lại, lắng tai nghe rồi nói với bạn : “Anh có nghe gì không ? Có tiếng chim hót đâu đây !”. Người bạn phì cười nói với bác nông dân : “Giữa phố phường ồn ào như vậy, làm sao anh nghe được tiếng chim hót ?”. Nhưng bác nông dân vẫn quyết tâm tìm cho ra tiếng chim hót từ đâu. Cuối cùng, bác đã dẫn người bạn đến ngôi nhà có bụi kiểng trước cửa và chỉ cho bạn thấy một chú chim nhỏ đang hót trong bụi cây. Người bạn rất phục bác nông dân thính tai. Nhưng bác ta nói : “Không phải tôi thính tai, nhưng vì tôi quen nghe và thích nghe tiếng chim hót nơi đồng quê. Còn các anh thì quen nghe và thích nghe những tiếng động khác”.
Để chứng tỏ điều ấy, bác nông dân lấy ra một đồng xu và ném xuống mặt đường. Tiếng leng keng của đồng xu đã khiến cho nhiều người đi đường quay lại nhìn.
Cúi xuống lượm đồng tiền lên, bác nông dân nói : “Giữa tiếng ồn ào của đường phố, các anh vẫn nghe thấy tiếng đồng xu, vì các anh quen nghe và thích nghe tiếng động của đồng tiền”.
Có thể chúng ta cũng quen nghe và thích nghe tiếng động của đồng tiền và những âm thanh của cuộc sống bon chen, nên không nghe được tiếng gọi của Chúa như tiếng chim hót dịu dàng, đang đánh thức chúng ta tỉnh dậy từ cơn mê ngủ của đời sống tội lỗi.
Vậy, trong mùa chay này, chúng ta hãy thức tỉnh đón nhận lời Chúa và đứng dậy để trở về với Ngài là sự sống và tình yêu của chúng ta.