CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
LẬP TỨC ĐI THEO NGƯỜI- Chú giải của Noel Quesson. 5
LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 12
VẦNG ĐÔNG ĐEM LẠI ƠN CỨU ĐỘ– Lm Inhaxiô Trần Ngà. 15
GỌI ĐÍCH DANH TÊN CỦA CHÚNG TA– Charles E. Miller. 18
TỨC KHẮC HỌ BỎ THUYỀN MÀ THEO NGÀI- Chú giải của Fiches Dominicales 21
BÌNH MINH CỦA MỘT THỜI ÐẠI MỚI: 29
NƯỚC TRỜI ÐÃ ÐẾN GẦN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 29
ANH EM HÃY SÁM HỐI- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 39
CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm FX Vũ Phan Long, ofm 54
HÃY HỐI CẢI, VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 70
CHÚA CHỌN GALILÊ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 74
LỜI RAO GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông(*) 83
ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ- Trích Logos A.. 100
TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
————————————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Lúc đầu, đất Giabulon và Nephthali rất hèn hạ, trong tương lai dần dần trở thành đường biển, bên kia sông Giođan trở thành Galilêa các dân tộc. Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng sự chết. Người đã gia tăng dân số, đã ban một nguồn vui lớn; thiên hạ hân hoan trước mặt Người, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân chia chiến lợi phẩm. Vì ách đã đè trên họ, đòn ngang nằm trên vai họ, và gậy của kẻ lạm thu họ, Người đã bẻ gẫy tất cả như trong ngày Mađian.
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ; tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa.
“Tất cả anh em hãy đồng tâm hợp ý với nhau, và giữa anh em, đừng có chia rẽ”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần khí và cùng một tâm tình. Anh em thân mến, tôi đã được các người nhà Khloê cho hay rằng: giữa anh em đang có những sự bất đồng. Tôi có ý nói điều này, là mỗi người trong anh em nói: “Tôi, tôi thuộc về Phaolô; – “Tôi về phe Apollô”; – “Còn tôi, tôi về phe Kêpha”; – “Và tôi thuộc về phe Chúa Kitô”. Chúa Kitô bị phân chia rồi sao? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vì anh em đâu? Hay là nhân danh Phaolô mà anh em chịu phép rửa? Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Ðức Kitô ra hư không.
All. All. – Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. – All.
“Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”. Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!” Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta”. Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người. Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Ðó là lời Chúa.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LẬP TỨC ĐI THEO NGƯỜI- Chú giải của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đi bị nộp…
Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: “Nghe tin ông Gioan đã bị nộp”. Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: “Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại” (Mt 20,18 – 26,2).
Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?
Người lánh qua miền Galilê…
Từ “lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 – 14,13 – 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).
Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali.
Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một “thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói “thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng… Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa.
“Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất.
Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê… nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không?
Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết”, để đưa vào đó một chút “ánh sáng”?Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người… đến cư ngụ ở Caphácnaum…
Từ lúc đó Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, và nói rằng: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”.
Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). “Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta… để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.
Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”.
Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế… trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi” các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!
Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện… Còn tôi?
Đi một quãng nữa: Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông “để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường” của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.
Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?
Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.
Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ “kêrussôn” mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là “didaskôn” gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người… tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: “thérapeuôn”. Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua.
Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa.
———————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
———————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
VẦNG ĐÔNG ĐEM LẠI ƠN CỨU ĐỘ– Lm Inhaxiô Trần Ngà
Trong thời chiến tranh, thỉnh thoảng có trường hợp hai đạo quân đối đầu với nhau trong đêm tối và họ đã phải giao chiến rất ác liệt trong bóng đêm dày đặc. Ban đầu, khi khoảng cách đôi bên còn khá xa thì họ giao tranh bằng tiểu liên và đại pháo. Sau đó, khi hai bên xáp lại gần nhau thì phải áp dụng chiến thuật cận chiến, dùng dao găm, lưỡi lê để sát hại nhau cách dã man tàn bạo. Số thương vong của đôi bên tăng cao khủng khiếp.
Thế rồi, cuộc giao tranh dịu dần vì cả đôi bên đều sức tàn lực kiệt, số quân sống sót chẳng còn bao nhiêu. Đến khi mặt trời ló dạng, hai bên mới nhận ra nhau là hai tiểu đoàn bạn, tuy khác binh chủng, khác màu cờ sắc áo, nhưng cả hai đều là những chiến sĩ của cùng một quốc gia, cùng chiến đấu để bảo vệ một quê hương, một tổ quốc chung!
Bóng đêm bao phủ khiến hai đội quân trên đây không nhận ra nhau là bạn để rồi tàn sát nhau khốc liệt đúng là một thứ bóng tối tử thần, bóng tối gieo rắc chết chóc đau thương.
Giá như không có bóng tối nầy, thì hai đội quân đâu có tiêu diệt nhau. Giá như vầng đông xuất hiện sớm hơn thì thương vong của đôi bên đâu có đến nỗi nhiều đến thế !
Vầng Đông được loan báo sẽ xuất hiện trên thế gian
Bóng tối tử thần đem lại chết chóc trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của một thứ bóng tối khác đáng khiếp sợ hơn, đó là sự vô minh của con người, là không nhận ra đồng loại là anh chị em con cùng một Cha với mình nên người ta đã xem kẻ khác là thù địch và giao chiến với nhau không ngừng trong suốt dòng lịch sử.
Để xoá bỏ sự vô minh và ngộ nhận đáng tiếc nầy, “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giê-su chính là Vầng Đông mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để xoá bỏ bóng tối tử thần đã thực sự xuất hiện như lời tiên báo của ngôn sứ I-sai-a, như trích đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy :
“Chúa Giê-su rời bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4, 12-17)
Quả vậy, Chúa Giê-su chính là “Ánh Sáng huy hoàng” chiếu rọi cho “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” để họ không còn ngộ nhận người bên cạnh là kẻ thù cần phải tiêu diệt; để họ nhận ra mọi người chung quanh là những anh chị em rất thân yêu, con cùng một Cha trên trời. Được như vậy, thế giới nầy sẽ không còn cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn, không còn cảnh xung đột chiến tranh khói lửa ; trái lại, tình yêu thương thuận hoà sẽ rực sáng và bao trùm nhân loại.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12)
Xin cho ánh sáng của Chúa bừng sáng lên trong tâm hồn chúng con và trên muôn dân muôn nước, để nhờ ánh sáng Chúa soi dẫn, bóng tối sự chết sẽ bị xua tan, mọi người sẽ nhận ra Thiên Chúa là Người Cha tuyệt vời và nhận ra bốn phương thiên hạ là anh em một nhà. Bấy giờ tội ác sẽ bị loại trừ và hoà bình công lý sẽ lên ngôi. Amen.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
GỌI ĐÍCH DANH TÊN CỦA CHÚNG TA– Charles E. Miller
Đức Kitô Gọi Đích Danh Tên Của Chúng Ta Nơi Phép Rửa Tội
Ngày hôm nay thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng ta.
Trên một “sô” diễn trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn người đánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa, hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp. Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.
Những điều đó cũng đã xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng, biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.
Với đức tin chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của Con Thiên Chúa.
Chúng ta theo Đức Kitô bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là nơi nương ẩn của đời sống tôi, tôi còn sợ gì ai?”
Thánh Vịnh viết tiếp: “Một điều tôi xin Chúa, một đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.
——————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – Năm A
TỨC KHẮC HỌ BỎ THUYỀN MÀ THEO NGÀI- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Từ một thời đại đã chấm dứt đến một thời đại đang bắt đầu.
Phần đầu bài Phúc âm Chúa nhật thứ III hôm nay (câu 12-16) được coi như đoạn kết chương nhập đề của Matthêu. Một đoạn kết đã phác hoạ những đề tài sắp khai triển.
Bắt đầu là một cuộc tĩnh tâm. Đức Giêsu rời bỏ sông Giođan, lui về ẩn ở miền Galilêa. Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Matthêu đã giúp ta làm quen với lối “ẩn dật” chiến thuật này khi gặp đe doạ, bắt bớ. Hãy nhớ lại cuộc chạy trốn sang Ai Cập khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ vô tội, và khi trở về không về Giuđêa nơi bạo chúa Arkêlaô thống trị, nhưng, để được an toàn, đã về Nadarét, xứ Galilêa. Trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, ta sẽ thấy Người “ẩn mình” khi sức ép của địch thù quá căng thẳng, cho đến khi từ nơi ẩn dật Xêsarê Philipphê, Người bắt đầu chuyến đi lên Giêrusalem để đương đầu với đau đớn, khổ nạn.
Nguyên nhân của việc rút vào bóng tối này đã được thánh sử nói rõ: đó là việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giữ.
Đó là dấu hiệu kết thúc một thời đại. Thời của Lề Luật và các tiên tri – Gioan Tẩy Giả qua đi có nghĩa là bắt đầu một thời đại mới, thời đại hoàn tất trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng cách kết thúc tác vụ của Người Tiền hô đã tiên báo chung cuộc dành cho Đấng mà Ngài có trách nhiệm loan báo việc ngự đến!
Trốn tránh sự thù địch của Hêrôđê Antipas, môi trường hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu sẽ là Galilêa. Tên Galilêa có nghĩa là: nơi hội tụ các dân tộc đã phiên dịch chính xác tính chất của miền đất biên giới nơi đủ mọi sắc dân chung sống, tràn ngập ảnh hưởng ngoại lai, vùng đất mà Giuđêa và Giêrusalem nghi kỵ nếu không nói là khinh bỉ.
Matthêu nhìn thấy ở đó cả một biểu tượng. Có chỗ tên gọi đó là miền đất thuộc Zabulon và Nephtali. Thực vậy; từ lâu không còn ai hài tên này ra nữa. Cl. Tassin giải thích: vì đối với các đôc giả của Matthêu cũng như đối với ta, tên ấy đã lỗi thời, không còn ghi trong sử sách. Việc hài tên chỉ cho thấy rằng: cùng với sự khai mạc tác vụ Đức Giêsu tại Galilêa, lời sấm Isaia loan báo từ thời 2 chi họ ấy bị sát nhập vào Assyrie, 734-732 trước Công nguyên, đã được thực hiện; “Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng” (bài đọc I Chúa nhật này). Tin Mừng mà Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilêa, “nơi hội tụ dân ngoại không phải chỉ dành cho 1 dân tộc, nhưng cho tất cả mọi người, không phân chia, không loại trừ. Như một biểu tượng, Người đã hướng về dân ngoại và những kẻ bị loại trừ.
Cl. Tassin kết luận: “Ta có thế tóm tắt tư tưởng của Matthêu như sau: Đức Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa tượng trưng cho thế giới dân ngoại. Quả vậy, trung thành với sứ mệnh clta Emanuel được sai đến với nhà Israel, Ngài vẫn ngỏ lời với dân Do Thái. Nhưng biểu tượng vẫn còn đó. Vào thời của tác giả Phác âm, các tên “Zabulon và Nephtali” nhắc lại cảnh lưu đầy, phân tán, vết thương mở ra niềm hy vọng mãnh liệt về một cuộc tập họp toàn thể dân Thiên Chúa. Ta thấy núi Galilêa nơi tất cả mọi người được mời đến tập họp: dựa trên cơ sở nào, bằng cách nào thì bài giảng trên núi sẽ cho ta biết”.
Một lời làm nổi lên một dân tộc mới.
Câu 17 mở ra một khía cạnh mới của Phúc âm Matthêu, dành cho việc Đức Giêsu khai mạc nước Trời. Một công thức đặc sắc được dùng để dẫn nhập: “Bắt đầu từ đó Đức Giêsu khởi sự…, một công thức mà ta sẽ gặp lại ở 16,21 khi Đức Giêsu khởi hành lên Giêrusalem “Bắt đầu từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giêrusalem, chịu đau khổ rất nhiều vì những bậc trưởng lão, các thầy cả và các luật sĩ sẽ bị giết, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Có thể nói rằng, ngay từ khi khai mạc, việc loan báo Tin Mừng đã di vào một lộ trình đau khổ. Trước hết Matthêu trình bày một bản đúc kết các lời giảng của Đức Giêsu, lời giảng này đôi khi nhắc lại lời giảng của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
+ “Nước Trời”: Một kiểu nói của người Do Thái, vì kính trọng, nên tránh hài tên Thiên Chúa ra. Riêng Marco đã dứt khoát nói về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại này không ở xa khuất trên mây xanh, nhưng ở “rất gần”.
+”Hãy hoán cải “: hiệu quả của Triều đại Thiên Chúa tuỳ thuộc vào sự đón nhận của loài người.
Kế đó, tác giả Phúc âm cho độc giả một cái nhìn bao quát về những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ Galilêa. Di chuyển không ngừng nghỉ (l3, 21, 23, 24) Đức Giêsu tự đưa mình vào hoạt động Người mời gọi đến với Người, bước theo Người, trở nên môn đệ của Người.
+ Trước tiên, “Khi người đi trên bờ hồ Galilêa”. Người kêu gọi các anh em: “Simon còn gọi là Phêrô và Mátthêu hữu ý đặt lên hàng đầu những người được gọi và Matthêu trình bày như khuôn mẫu của những người theo Đức Giêsu “và André em ông”, “Jacobê, con Zebede và Gioan em ông”.
Ta có 2 tường thuật ngắn về ơn kêu gọi xây trên cùng một_ kiểu mẫu và hiển nhiên cảm hứng từ 1 Các vua 19,19: Êlia kêu gọi Êlisêô.
Đức Giêsu thấy có người. Đó là những ngư phủ đánh cá trong hồ.
Người bảo họ: Hãy theo Ta. Lập tức họ bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Người.
Cấu trúc 2 vế này có ưu điểm là làm nổi bật vừa sáng kiến của Đức Giêsu, Người kêu gọi, vừa câu trả lời nhanh nhẹn không ngần ngại của những người được gọi.
Đức Giêsu không chỉ muốn biến những người mà Người gọi đã bỏ nghề nghiệp mà theo Người thành những người ngưỡng mộ đơn sơ hoặc những thính giả thăm chú nghe giáo huấn của Người. Nhưng Người muốn họ trở thành những người cộng tác với người trong việc chinh phục con người: hãy theo Ta, Ta sẽ biến các người thành những kẻ chinh phục con người.
Claude Tassin giải thích: “Kiểu nói “chài lưới người ta đã ngầm loan báo sứ mạng Kitô hữu, thánh sử đã nhấn mạnh một điểm: Làm môn đệ chính là làm nhà truyền giáo. Ở đây, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, những người sẽ nghe lời Thầy Chí Thành và sẽ chứng kiến việc Người làm. Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê quả là những tên gọi cao cả đối với Kitô hữu thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng, Matthêu, ta kính trọng ký ức của họ ủi họ đã từng là môn đệ, đã được kêu gọi vô điều kiện bởi Đấng khai mạc Nước Trời”.
+ Sau đó, toàn miền Galilêa trở thành diễn trường cho Đức Giêsu rao giảng. Được cải hoá nhờ Tin Mừng, được chữa lành khỏi bệnh tật, những người trước kia không thể bước đi nay bắt đầu đi lại và tạo thành một “dân tộc “: tại miền “Galilêa, nơi hội lụ dân ngoại’, đã manh nha một dân mới của Thiên Chúa thuộc mọi chủng tộc mọi ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân phát sinh nhờ lời rao giảng Tin Mừng.
BÀI ĐỌC THÊM
Bình minh của hy vọng (Mgr. L. Daloz, Le Régne de cieux s’est approché).
Đức Giêsu vào cuộc có nghĩa là ánh sáng đến với nhân loại. Trích dẫn Isaia không đơn thuần đem lại một chỉ dẫn về địa lý. Đó là một biểu tượng: là lối thoát của dân tộc Do Thái, sinh ở Bêlem, vì là dòng dõi David, trở thành người Galilêa ở Nazareth, Đức Giêsu đến đón rước các dân tộc. Tức thì sứ mệnh của Người mang lấy dáng vóc phổ quát. Tự bản thân chúng ta cũng phải cúi chào tia sáng đầu tiên này loé lên soi cho các dân đang sống trong bóng tối: Đức Giêsu đến gặp gỡ ta, đó là khởi đầu ơn cứu độ của ta, là bình minh của niềm hy vọng. Ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh bình minh này với lòng biết ơn rồi làm sống lại trong ta cảm giác kỳ diệu khám phá ra Đức Kitô, ánh sáng bừng lên soi chiếu vào mắt ta. Vâng, đối với ta vì cả mọi dân tộc, ánh sáng chính là Lời nói lạ lùng mà Phúc âm không cho ta biết đối tượng: Từ lúc ấy, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng: hãy năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. Lời của Giêsu trên vũ trụ, vượt qua những biên cương của vùng đất hứa cho dân của Giao ước cũ, biến cả thế giới thành vùng đất hứa của Nước trời. Những nỗ lực và lực và toan tính của các vị truyền giáo đều phát xuất từ một lời duy nhất này. Bây giờ đến phiên chúng ta phải chuyển nhữngg từ Phúc âm tạo âm vang cho lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giêsu khi Người đứng trước miền Galilê của các dân tộc, trên bờ sông thế giới.
Cuộc phiên lưu vĩ đại khởi đi từ một vùng đất bị khinh khi.
Đối với dân thủ đô, Galilêa chỉ là tỉnh lẻ. Đối với ai mộ đạo sùng tín, miền Bắc thực đáng ngờ vực. Đó là rniền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng phịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện giễu cợt hằng ngày.
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, “tới cư ngự’ tại Capharnaum, bên bờ hồ”. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ. Gioan Tiền hô, vị ngôn sứ của lòng thống hối, đã trở thành kẻ sách nhiễu, gây rối. Ông bị chém đầu. Từ đó Tin Mừng bị nghi ngờ và sứ giả Tin Mừng bị theo dõi gắt gao…Nhưng Đức Giêsu đã gặp những tâm hồn cởi mở đón tiếp nơi những người hiếu động và bé nhỏ nhất của dân Người.
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn công việc chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi lôgic. Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là “Đường, và Sự Thật và là Sự Sống”.
Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ, người rao giảng chẳng có danh nghĩa chính thức, người chạy trốn chính quyền hợp pháp câu nệ thói tục và lối giải thích của họ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới đổi mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế, nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa…
Hôm nay cũng thế, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục sứ mệnh của Người không theo cách người ta nghĩ. Người tỏ mình ra dạy dỗ, và kêu gọi không theo những chuẩn mực hay lý luận của người phàm chúng ta. Không khác gì vào thời của Đền Thở, Đức Giêsu không chỉ giam mình trong các truyền thống nhân loại, trong các tính toán của các chuyên gia, trong phán quyết của các quyến lực Người không bị giam hãm trong Giáo Hội của Người, Giáo Hội đang bị chia rẽ, nơi người thì tự cho mình là thuộc phe Phaolô và Giacôbê, Anrê, Matthêu như thể kitô đã bị chia cắt và như thể là giáo huấn của người không quan trọng bằng giáo huấn của môn đệ Người. Trong khi con cái trong nhà cãi cọ, xâu xé thân thể mầu nhiệm Đức Kitô và đóng đinh Người, Người chạy đến nơi “hội tụ dân ngoại và tìm được sự tiếp đón nồng hậu, tìm được môn đệ trong đám người bị khai trừ và những người sống ngoài lề xã hội.
——————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM A
BÌNH MINH CỦA MỘT THỜI ÐẠI MỚI: NƯỚC TRỜI ÐÃ ÐẾN GẦN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Dẫn Vào Thánh Lễ
Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy rất hạnh phúc vì được gia nhập gia đình Giáo Hội. Mỗi ngày Chúa nhựt, họ họp nhau lại trong tâm tình kính mến Chúa và yêu thương nhau. Gương đoàn kết yêu thương của họ đã thu hút thêm rất nhiều người xin gia nhập Giáo Hội.
Hôm nay, chúng ta cũng họp nhau lại như cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy. Nhưng có lẽ chúng ta không cảm thấy hạnh phúc bằng họ, vì chúng ta không mến Chúa bằng họ, không thương nhau bằng họ. Xin Ðức Giêsu, Ðấng đã tập họp chúng ta, ban thêm tình yêu trong lòng chúng ta.
Ðặc biệt tuần này là tuần lễ Giáo Hội cầu nguyện cho sự hợp nhất các kitô hữu. Chúng ta tha thiết nài xin Chúa cho những người cùng tin một Chúa Kitô biết đoàn kết yêu thương nhau hơn.
Gợi Ý Sám Hối
Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì những chia rẽ, đố kị, ganh ghét trong cộng đoàn họ đạo chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì cuộc sống của chúng ta chưa thực sự là ánh sáng trước mặt muôn dân.
Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì chưa quan tâm mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
Lời Chúa
Bài đọc 1: Is 8,23–9,
Bối cảnh lịch sử: năm 721, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, về sau được gọi là miền Galilê, trong đoạn Tin Mừng này nó được gọi là “đất Dabulon và Néptali”). Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác đến lập cư ở xứ này, vì thế Galilê lại được gọi là vùng đất của lương dân, là vùng đất tối tăm.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó, và đám dân lầm than trong bóng tối ấy sẽ được ánh sáng chiếu rọi.
Ðáp ca: Tv 26
Ý chính của Tv này là ánh sáng hy vọng loé lên từ cảnh khốn cùng: cho dù khốn khổ có nặng nề đến đâu, thử thách có khắc nghiệt thế nào, thì vẫn có một điều chắc chắn, đó là: Thiên Chúa vẫn là ánh sáng và ơn cứu độ. Ðó chính là niềm hy vọng của mọi tín hữu khiến họ luôn đứng vững: “Chúa là nguồn ánh sáng và Ðấng cứu độ tôi. Tôi sợ gì ai nữa”.
Tin Mừng: Mt 4,12-23
Ðoạn Tin Mừng này đánh dấu kết thúc sứ mạng của Gioan Tẩy giả và bắt đầu sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðức Giêsu bắt đầu sứ mạng tại Galilê, một miền đất vốn được coi là tối tăm, là đất của lương dân. Chính tại miền đất này, Ðức Giêsu tuyên bố “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Như thế, Ðức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia.
Ðức Giêsu cũng kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan) để cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Bài Thánh Thư: 1 Cr 1,10-13.17
Sau khi mở đầu bức thư bằng những lời chào hỏi (đoạn được trích đọc Chúa nhựt trước), Phaolô đi ngay vào tệ nạn thứ nhất của tín hữu Côrintô là sự chia rẽ nhau.
Tín hữu Côrintô đã chia ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm dựa vào một thừa sai và chống lại các nhóm kia: nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apollô, nhóm theo Phêrô (Kêpha) và nhóm theo Ðức Kitô.
Phaolô lập luận để cho thấy việc chia bè phái như thế là sai: tất cả đều thuộc về Ðức Kitô, mà Ðức Kitô không thể bị chia năm xẻ bảy như thế. Và Phaolô kêu gọi họ hãy hòa thuận, một lòng một ý với nhau.
Gợi Ý Giảng
Cuộc phiêu lưu vĩ đại từ một vùng đất bị khinh khi
Ðối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Ðối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Ðó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Ðức Messia, Cứu Chúa, Ánh Sáng muôn dân, tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ…
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Ðức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Ðúng là một nước cờ ngược lại mọi logic.
Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Ðấng là “đường, sự thật và sự sống”.
Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ… Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người.
Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa… (F. Delectos, được trích bởi Fiches dominicales, trang 169-170).
Con đường sáng
Cuộc đời chúng ta đầy dẫy bóng tối:
Tối tăm về sự thật: cho dù có nhiều phương tiện truyền thông, Nhưng khó mà biết sự thật.
Tối tăm về tương giao: ngay cả những người sống cạnh nhau cũng chưa hiểu nhau.
Tối tăm do tội lỗi, do mù quáng, do cố chấp hẹp hòi…
tối tăm do hoàn cảnh bên ngoài nhiều bất công, gian dối, thù hận…
Trong khung cảnh tối tăm ấy, chúng ta hãy nhớ những lời của Ðức Giêsu: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 9,12); “Hãy tin vào ánh sáng và các ngươi sẽ trở thành con cái sự sáng” (Ga 12,36).
Nhưng tin vào ánh sáng là gì? Là tin vào mặc khải của Ðức Giêsu, cũng như 4 môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã nghe tiếng gọi của Ngài, đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài sẽ giải đáp cho tất cả những băn khoăn thắc mắc của chúng ta; Ngài sẽ cho ta biết ý nghĩa cuộc đời ta là gì; Ngài cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha trên trời hết lòng yêu thương chúng ta; Ngài sẽ dạy cho chúng ta biết sống yêu thương như thế nào; và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.
Sự hiệp nhất các kitô hữu
Chúa nhựt hôm nay nằm trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay cung cấp nhiều chất liệu cho chúng ta suy nghĩ về sự hiệp nhất này:
Bài đọc 1: Ðức Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những người lương và những người vô thần…
Bài đọc 2: Ðức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Ðức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao!
Bài đáp ca: “Ðiều tôi tìm kiếm khấn xin, là luôn được ở trong nhà Chúa tôi”. Tại sao những anh em cùng tin Ðức Kitô lại không sống hòa thuận với nhau trong cùng một ngôi nhà của Chúa?
Bài Tin Mừng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Tất cả mọi người, dù là công giáo hay tin lành, chính thống v.v. đều phải sám hối về những tội lỗi của mình để có thể được vào Nước Chúa.
Chuyện minh họa
“Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”
a/ Làm phép nhà
Một bà kia mời linh mục đến làm phép nhà mình. Bà hướng dẫn cha đi rảy nước thánh mọi nơi trong nhà: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, phòng ăn… Cha thấy chỗ nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Cho nên chỗ nào cha cũng rảy nước thánh, kể cả cầu thang. Ngay cả hai con mèo đang nằm ngủ trên một bậc thang cũng được cha rảy nước thánh, khiến nó giật mình thức dậy kêu meo meo và chạy vội đi nơi khác, và mọi người hiện diện phải phì cười.
Sau khi làm phép xong mọi nơi ở nhà trên thì đến hầm kho. Bà chủ nhà chần chừ không muốn dẫn cha xuống. Vị Linh mục hỏi:
– Sao thế?
– Dưới đó dơ lắm.
– Càng dơ thì càng phải làm phép chứ.
– Nhưng nó lộn xộn lắm.
– Càng lộn xộn càng phải làm phép.
– Và nó tối tăm lắm.
– Cho nên phải mang ánh sáng đến cho nó.
Lời bàn: Con người chúng ta cũng giống như một gian nhà. Những nơi mình muốn che giấu nhất chính là những nơi tối tăm xấu xa nhất. Nhưng đó cũng là những nơi cần mang ánh sáng tới nhất.
b/ Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Ðèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
– Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Lời Nguyện Cho Mọi Người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu là ánh sáng trần gian. Ai theo Người sẽ không phải đi trong bòng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Với quyết tâm sống như con cái sự sáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
- Ðức Kitô đã dùng các tông đồ làm nền móng xây dựng Hội Thánh / và đã làm cho Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết chu toàn sứ mạng Chúa trao cho / là nhiệt thành và khôn ngoan lãnh đạo dân Chúa.
- Từ hai ngàn năm nay / có biết bao kitô hữu đã nhiệt tình đáp lại lời mời gọi của Ðức Kitô / hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ / xả thân phục vụ những kẻ bần cùng đói rách / cũng như những người bất hạnh nhất trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn giữ được niềm phấn khởi lúc ban đầu.
- Chúa Giêsu kêu gọi / “Anh em phải sám hối vì Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / sám hối là việc phải làm thường xuyên suốt cả cuộc đời / nếu muốn được hiệp thông với Thiên Chúa / vì mang lấy thân phận con cháu Ađam / con người rất dễ phạm tội mà khó làm việc lành.
- Thánh Phaolô viết / “Anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói / và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em / nhưng hãy sống hòa thuận / một lòng một ý với nhau” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng thực hiện trọn vẹn lời khuyên tha thiết của Thánh Phaolô tông đồ.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin&
Trong Thánh Lễ
– Kinh Tiền Tụng: Nên dùng Kinh Tiền Tụng Chúa nhựt thường niên I, vì có nói tới Giáo Hội, Nước Trời ở trần gian.
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình hiệp nhất với Ðức Giêsu và với tất cả những kitô hữu khác cùng một niềm tin vào Ngài.
Giải Tán
Anh chị em đã được ánh sáng Ðức Giêsu soi sáng, anh chị em hãy cố gắng sống như con cái sự sáng, và cùng Ðức Giêsu xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian này.
———————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – Năm A
ANH EM HÃY SÁM HỐI- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, cửa thiên đàng bị đóng lại, nhân lọai phải sống trong bóng tối tăm của tội lỗi và sự chết. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đem ánh sáng đến cho nhân lọai. Từ lâu, tiên tri Isaia đã loan báo cho biết sẽ có một vầng ánh sáng chiếu soi cho nhân lọai để cứu họ ra khỏi bóng đêm của tội lỗi. Chính Đức Giêsu đã thực hiện lời loan báo ấy khi Ngài đến rao giảng Tin mừng cho dân vùng Giabulon và Neptali, đại diện cho dân ngọai, lúc Ngài khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng.
Đề tài chính khi khởi sự rao giảng của Đức Giêsu là :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Đề tài này xem ra không có gì mới mẻ vì chính Gioan Tẩy giả cũng đã rao giảng như vậy để giúp dân chúng dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Như vậy có sự tiếp nối chặt chẽ giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy giả, để rồi sau này các tông đồ cũng sẽ tiếp nối công việc ấy. Đức Giêsu rao giảng sự sám hối vì sám hối là điều kiện cần thiết để vào Nước Trời. Hay nói khác đi, muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải sám hối.
Từ xưa đến nay, Đức Giêsu đã từng kêu gọi người ta sám hối và ngày nay Giáo hội vẫn tiếp tục kêu mời và thúc giục con cái mình thực hiện tin thần sám hối ấy trong đời sống thường ngày vì mỗi ngày chúng ta đi xa dần đường lối của Thiên Chúa : chúng ta không còn là ánh sáng chiếu soi trần gian nữa, lại còn gây chia rẽ làm mất sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hãy sám hối để chúng ta sống xứng đáng với Đấng đã phán với dân Người :”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 9,1-4.
Giabulon và Neptali ngày xưa thuộc vùng Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, sau này gọi là Galilê) đã bị đế quốc Assyria đánh chiếm vào năm 734. Người ta đã bắt dân chúng đi lưu đầy, đặc biệt là các thành phần ưu tú trong dân. Thay thế cho đám dân bị lưu đầy, người ta đã đem đến đây dân cư của khắp các xứ, đủ mọi thành phần. Bởi thế, sau này người ta gọi vùng Giabulon và Neptali là vùng của dân ngọai, vùng của lương dân, vùng đất tối tăm.
Nhưng tiên tri Isaia loan báo cho họ rằng vùng dân ngọai Giabulon và Neptali một ngày kia sẽ được ánh sáng chiếu rọi, dân sẽ được thóat khỏi tối tăm, sẽ được chứa chan hoan hỉ như trong ngày muà, như khi chia nhau chiến lợi phẩm.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 1,10-13.17.
Côrintô là một thành phố cảng tấp nập. Dân chúng tới 2/3 là nô lệ. Thánh Phaolô đã đến truyền giáo ở đây và đã lôi kéo được một số người tin theo Chúa. Phaolô đã lập được một giáo đòan ở đây mà đa số là người lương trở lại. Sau đó dân Côrintô đã đuổi ngài đi. Sau khi ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức Do thái ở Alexandria tên là Apôlô đế nối tiếng sứ mạng rao giảng Tin mừng cho dân Côrintô và thu được nhiều kết quả. Sau đó lại có thêm thánh Phêrô nữa.
Nhưng không phải cái gì cũng tốt đẹp êm xuôi, có nhiều vấn đề nội bộ rất phức tạp, nhiều khi rất đau lòng. Người ta đã dựa vào các thừa sai mà chia thành bốn nhóm chốâng nhau : nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apôlô, nhóm theo Phêrô, nhóm theo Đức Kitô. Phaolô đã phải viết thư khuyên nhủ họ hãy tránh sự chia rẽ, phải đồng tâm nhất trí với nhau.
+ Bài Tin mừng : Mt 4,12-23.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu không chọn Nazareth quê hương của mình mà lại chọn Capharnaum thuộc miền đất Giabulon và Neptali làm trung tâm truyền giáo. Như thế hợp với lời tiên tri Isaia đã báo trước : vùng lương dân này sẽ được ánh sáng chiếu soi. Năm 734 trước công nguyên, hai miền đất này bị quân Assyria chiếm đóng, vì thế, dân chúng bị ảnh hưởng nặng nề dân ngọai nên được gọi là “Galilê ngọai bang”.
Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ khi Thiên Chúa chấm dứt họat động của Gioan Tẩy giả (ông bị bắt cầm tù). Điều này chứng tỏ hai sứ vụ có liên kết thành một trong một chương trình của Thiên Chúa. Đức Giêsu tuyên bố :”Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Câu này đánh dấu khởi điểm chính thức sứ vụ của Đức Giêsu. Kiểu nói này của Đức Giêsu giống như kiểu nói của Gioan Tẩy giả (Mt 3,2) và huấn thị của Đức Giêsu cho các tông đồ khi sắp đi truyền giáo (Mt 18,7). Nó khẳng định tính cách liên tục việc rao giảng của Gioan Tẩy giả là bước chuẩn bị cho Đức Giêsu rao giảng với việc rao giảng của các tông đồ là nối tiếp sứ vụ của Đức Giêsu Thầy mình.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Anh em hãy sám hối
Đức Giêsu đi rao giảng tin mừng.
Thánh Matthêu viết thư cho người Do thái nên ngài chủ ý chứng minh rằng tất cả các lời tiên tri Cựu ước đều được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; bởi đó, Ngài phải là Đấng Cứu Thế (Messia), có một câu thường được lặp đi lặïp lại suốt cả sách đến 16 lần như một điệp khúc :”Việc này xẩy ra như vậy để ứng nghiệm lời Chúa dùng Đấng tiên tri mà phán rằng…”.
Capharnaum, trung tâm truyền giáo.
Vì thế khi Gioan bị bắt cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Đức Giêsu đã rời Nazareth đến Galilê chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Vùng Galilê này bị người ta khinh dể bởi vì đối với thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ; đối với người mộ đạo sùng tín, miền này thật đáng nghi ngờ. Đó là miền hầu như thuộc ngọai bang, nơi hội tụ dân ngọai. Một dân cư phức tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày.
Thế mà tại sao Đức Giêsu lại tới cư ngự tại Capharnaum, bên bờ hồ ? Thưa Ngài chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo vì ba lý do :
Thứ nhất để thực hiện đúng lời tiên tri Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngọai.
Thứ hai Capharnaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên, mà có lẽ nhà ông Phêrô là nơi thuận tiệân cho việc truyền giáo.
Thứ ba đây là lý do quan trọng nhất : để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hòang”.
Đặc điểm của vùng Galilê.
Ngòai ra , Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khỏang 60 cây số, nhưng dân cư sống đông đúc vì là phần đất phì nhiêu nhất Xứ thánh. Đất hẹp người đông. ThờiJosephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau :”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.
Đặc tính bẩm sinh của người Galilê khiến việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Đức Giêsu chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo.
Như vậy, Capharnaum trở nên quê hương thứ hai, “thành” của Chúa. Ngài đóng thuế ở đây (Mt 17,23), có nhà để ở, có lẽ là nhà của ông Phêrô (Mt 13,1-26). Đây là nơi xuất phát các việc tông đồ : như hành trình truyền giáo, giảng dạy, làm phép lạ. Đức Giêsu đi rồi lại trở về. Tại đây Ngài giảng trong hội đường (Ga 6,60), trên bãi biển hay trên đồi lân cận. Đây cũng là nơi Ngài đã làm biết bao phép lạ, là nơi tuyển chọn một số các tông đồ.
Nội dung việc rao giảng.
Có thể nói thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu trong một câu :”Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Thực ra, nội dung việc giảng dạy này đã được Gioan Tẩy giả rao giảng và sau này các tông đồ cũng tiếp tục thực hiện.
Sám hối là bước dứt khóat đầu tiên tiến vào Nước Trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lẫm lỗi và tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngọai cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.
Sám hối là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo chính là càng nhận ra sự nhỏ bé bất tòan của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng của Chúa. Chính khi Gioan Tẩy giả nhận mình nhỏ bé. Chúa lại cho Ngài được lớn lên. Chính lúc ý thức mình thấp kém, Chúa lại tôn vinh ngài như người cao trọng nhất trong Nước Trời.
NHỮNG BÀI HỌC QUA CÁC BÀI ĐỌC.
Sám hối vì Nước Trời đã gần đến (Mt 4,17).
Lời đầu tiên Đức Giêsu dạy khi rao giảng Tin mừng là “Hãy sám hối”. Theo nguyên nghĩa của nó là trở lại (metanoia). Tại sao chúng ta phải quay trở lại ? Vì đã đi lạc đường, lạc hướng. Đời sống con người là một cuộc hành trình đi về quê trời. Cuộc hành trình nào cũng phải có đích đến và cuộc hành trình chỉ kết thúc khi đến đích. Trong cuộc hành trình có những người đi lạc hướng, mà nếu đã lạc hướng thì không bao giờ tới đích. Ai đã lạc hướng mà càng chạy nhanh thì càng xa đích đến. Thánh Augustinô khen họ là những người “bene currit, sed extra viam” : chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.
Đại triết gia thời cổ Hy lạp xưa, ông Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.
Điều kiện sám hối là phải “biết mình”, xem mình đang ở trong tình trạng nào và phải chỉnh hướng cuộc đời làm sao cho đúng. Cổ nhân thường nói :”Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Chính vì thế ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng :”Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).
Chúng ta có thể biết được nhiều sự từ xa đến gần, biết được nhiều sự trong trời đất, nhưng có một điều gần nhất mà ta lại không biết, đó chính là con người của mình.
Truyện : Hậu sinh khả úy.
Người ta kể rằng : một hôm Khổng Tử và đồ đệ đang đi đường, thình lình một cậu bé chặn đường không cho đi và xin hỏi Khổng Tử một câu :
– Nghe tin ngài hiểu biết nhiều lắm, nhìn xa thấy rộng, xứng đáng là bậc thầy của thiên hạ. Dám xin hỏi ngài một câu . Khổng Tử trả lời :
– Cứ nói.
Cậu bé hỏi ngay :
– Trước mắt ngài có bao nhiêu cái lông mi ?
Khổng Tử lắc đầu, trả lời :
– Chịu, không biết được.
Cậu bé trả lời :
– Có một cái gần nhất mà ngài không thấy thì làm sao thấy được những cái ở xa.
Khổng Tử tỏ vẻ cảm phục và khen :
– Thật, hậu sinh khả úy.
Biết mình là một điều rất khó, nên thánh Augustinô đã phải cầu nguyện để được biết Chúa hơn và hiểu rõ con người mình hơn “Noverim Te, noverim me”.
– Biết con là tạo vật một kiếp đời sống kiếp con người.
– Biết con không là gì chỉ là bụi cát mà thôi.
– Biết con thân phận hèn mỏng dòn muôn vàn yếu đuối.
– Biết con bao tội tình để lòng xao xuyến khôn nguôi.
(Bài hát : biết Chúa, biết con).
Không ai biết khuôn mặt thật của mình, chỉ có thể biết qua trung gian một chiếc gương soi. Nhưng cũng chưa chắc, nhiều khi cái gương kém phẩm chất phản chiếu không trung thực, có khi làm méo mó khuôn mặt thật của mình. Cũng thế, không ai biết khuôn mặt thật của linh hồn mình nếu không có Chúa để soi, chỉ có Chúa mới phản ánh cho ta biết được khuôn mặt thật của linh hồn mình.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời, Đức Giêsu đã đưa ra câu châm ngôn hướng dẫn :”Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Sách Tin mừng (hay Phúc âm) là cái gương cho ta soi vì Phúc âm là những lời dạy dỗ của Đức Giêsu được các thánh sử ghi lại, làm chỉ nam cho đời sống của ta. Hãy để cho Chúa hướng dẫn đời ta, chúng ta tin chắc rằng không bao giờ bị lạc hướng vì Ngài đã nói :”Chính Thầy là con đường, là sự thật và sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). Nhờ đọc lời Chúa mà chúng ta được Chúa soi dẫn, vạch đường chỉ lối cho ta đi, ban cho ta sức mạnh thiêng liêng để kiên nhẫn thực hiện Lời Chúa.
Truyện : Tướng cướp sám hối.
Trong một khu rừng già miền núi Hắc sơn ở nước Đức, một bọn cướp đang chia nhau chiến lợi phẩm mà chúng lấy được hồi đêm. Bọn cướp này có thói quen bán đấu giá với nhau của cải chúng cướp được, rồi sau đó chúng mới đem bán lại cho người khác.
Hôm ấy, món cuối cùng chúng đem ra đấu giá là một cuốn Thánh Kinh. Tên cướp đóng vai hộ giá viên giới thiệu món hàng này bằng những lời diễu cợt phạm thượng khiến cả bọn cười ồ lên. Một tên khác mở đại một trang như kiểu bói tóan. Hắn chỉ vào một câu và đọc to lên rồi thêm những lời trào phúng làm cả bọn cười ngặt nghẹo.
Nhưng tên cầm đầu trong bọn bỗng dưng trở nên nghiêm nghị, hai tay ôm đầu rồi gục xuống tỏ vẻ suy nghĩ. Ba mươi năm về trước, chính vào buổi sáng ngày hắn quyết định bỏ nhà ra đi, hắn đã nghe ông bố hắn đọc những lời Thánh Kinh này trong giờ kinh sáng của gia đình. Lúc này đây hắn không thể ngờ được rằng hắn lại nghe vang lên những lời ấy.
Tên tướng cướp còn đang chúi đầu về dĩ vãng thì một đồng bọn vỗ vai hắn và bảo :”Này, sao đàn anh có vẻ mơ mộng thế ? Đàn anh muốn mua nó không ? Đàn anh cần cuốn Thánh Kinh hơn đàn em đó, vì điển mặt anh hùng phạm pháp trên thế giới thì đàn anh phải là vô địch mà”.
Trước lời diễu cợt bạo gan đó, hắn chỉ chậm rải trả lời :”Mày nói đúng ! Tao chính là thằng phạm tội nặng nhất. Cứ để cuốn sách cho tao, bao nhiêu cũng được.
Bọn cướp chia tay để đem các món hàng đi bán. Riêng tên tướng cướp thì cầm cuốn Thánh Kinh, đi tìm một chỗ vắng trong rừng ở lại đó đọc Lời Chúa và ăn năn sám hối về cuộc đời tội lỗi của mình (Mỗi ngày một tin vui, tr 7-8).
Tên tướng cướp có được lòng sám hối vì anh ta tin vào Lời Chúa. Lời Chúa có sức giúp anh cải tà qui chính và có thể trở nên thánh. Bởi vì, thánh nhân không phải là lọai người phi thường không có tội lỗi, nhưng các ngài cũng như chúng ta, chỉ hơn ta ở chỗ các ngài sống thực với lòng mình, biết kiên trì sửa sai lỗi lầm, biết khiêm tốn cậy nhờ Chúa giúp sức, biết cố gắng làm thiện hơn điều ác. Chúng ta đâu có khác gì với các thánh, đâu có thua gì các ngài. Chúng ta sẽ làm được nếu chúng ta muốn.
Đám dân đã thấy ánh sáng huy hòang (Mt 4,16).
Trước khi Đức Giêsu giáng lâm, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Đức Giêsu giáng lâm.
Matthêu so sánh Đức Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Đức Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia :”Đòan dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Đức Giêsu đã mô tả sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói :”Ta là ánh sáng thế gian”.
Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta : bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn (Phạm văn Phượng).
Các nhà tu đức bảo chúng ta rằng điều đã xẩy đến với Israel trên bình diện một dân tộc thì cũng sẽ xẩy đến với mọi người chúng ta xét trên bình diện cá nhân. Nói cách khác, trong đời sống chúng ta có những lúc ánh sáng vụt tắt khiến chúng ta rơi vào tăm tối y hệt như dân chúng phải sống trong tối tăm trước khi Đức Giêsu giáng lâm. Vậy trong bóng tối tăm của tội lỗi, ai có thể xua đuổi được bóng tối ấy ? Thưa, chỉ có ánh sáng của Đức Kitô. Ngài là ánh sáng được Chúa Cha sai đến chiếu soi mọi người sinh trong thế gian. Ngài đã tuyên bố :”Ta là ánh sáng thế gian”, và ánh sáng là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của Ngài. Ngài mời gọi mọi người đi trong ánh sáng của Ngài :”Các con là ánh sáng cho thế gian. Không ai đốt đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng để trên cao soi cho cả nhà”.
Truyện : ánh lửa trong đêm tối
Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại : ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói :”Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp :”Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên : “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng :”Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích : “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :”Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau :”Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Anh em hãy nhất trí với nhau (1Cr 1,10).
Đức Giêsu đến trần gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa Thiên Chúa và nhân lọai, giữa con ngưởi với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Đức Giêsu và là điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu nguyện hiến tế của Ngài :”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,21).
Trong bài đọc 2 của Thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô, vị Tông đồ Dân ngọai, đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời sống cộng đòan và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ. Thánh Tông đồ đã viết :”Hỡi anh em, nhân danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia rẽ trong anh em, nhưng hãy đòan kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan điểm”(1Cr 1,10).
Sở dĩ thánh Phaolô phải viết thư cho tín hữu Côrintô là vì ở đó đang có sự chia rẽ trầm trọng. Các tín hữu đã chia thành bốn nhóm dựa vào một thừa sai mà chống lại nhau :”Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao”(1Cr 1,12)? Tuy nhiên, những vấn đề tranh chấp giữa họ không thuộc phạm vi tín lý hay luân lý, nhưng chỉ là những khác biệt về tính tình, sở thích. Khi đã đến lúc phải chặn đứng vấn đề phe nhóm trong giáo đòan, thánh Phaolô bảo họ :”Người lãnh đạo của anh chị em là Đức Kitô chứ không phải tôi hay Apôlô. Và anh chị em chịu phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, chứ không phải nhân danh Phaolô hay Apôlô”(1Cr 1,13-15).
Truyện : Mầm mống chia rẽ.
Chuyện kể một nhà buôn nọ. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với anh và nói :”Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ từ chối. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho… và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế… và có khi gấp đôi luôn”.
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua buồn sầu lo lắng. Anh tự nhủ :”Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn… chúng nó sẽ được hai chiếc. Ồ, thế thì không được ! Nhưng nếu mình xin cho đươc trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm… họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được ! Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong khi mình chỉ có một… Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ ? Nhưng xin như thế làm sao mà hơn được”.
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến qùi xuống và thưa với thần :”Lạy Ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt”.
Đọc câu chuyện này, chúng ta thấy lời cầu xin của người thương gia này thật là quái gở ! Đáng lẽ anh ta phải cầu xin cho mình được giầu sang phú qúi, được mọi sư may mắn để bản thân mình, gia dình mình được hạnh phúc và cả xã hội cũng được hạnh phúc theo, chứ tại sao lại cầu cho mình phải rủi ro để người khác phải gặp rủi ro hơn. Thật lòng con người quá nhỏ nhen, ích kỷ và dã tâm.
Do đó, chúng ta có thể cho là chính cái tính ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm là mầm mống của bao chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân ly … trong cộng đồng xã hội. Tình trạng hơn thua làm nảy sinh phe nhóm bè phái không những chỉ ra ngòai đời, trong các đòan thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói : có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức của Giáo hội nữa. Trường hợp chia rẽ tại cộâng đòan Côrintô ngày xưa đã làm chứng điều đó.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CHƯƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong của dân chúng.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
– Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
– Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
– Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
– Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
Vài điểm chú giải
– Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung một số phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của Gioan.
– Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do Thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.
– bỏ Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).
– Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
– Galilê, đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp một đề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).
– một ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.
– Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.
– Nước Trời (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là một thực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là một thực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.
– đã đến gần (engiken, 17): Engiken là thì hoàn thành của động từ engizô, “đến gần”. Đây là một từ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng engiken được dịch từ một động từ A-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng engizô (do tính từ engys, “gần”) có nghĩa là “đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời đã gần (đến)”.
– Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.
– những kẻ lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.
Dù sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là một cộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
– khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).
– giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
– chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng một niềm chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện một số phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.
Ý nghĩa của bản văn
* Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng lên một ánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự sống viên mãn.
* Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)
Các lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là một điều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
* Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)
Một trong những điều kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình một số người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người một sự hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có một cộng đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ cho một nhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (23)
Hoạt động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Là vị Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.
Gợi ý suy niệm
– Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta một cách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.
– Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.
– “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
– Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
– “Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là một lời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy một quyết định cương quyết đầu tiên, đôi khi là một đoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.
——————————————————————
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
HÃY HỐI CẢI, VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Ngài là: “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước nay được thực hiện: “Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại” (Is 9, 1- 4 (Hr 8, 23b – 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng… xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết” (Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng: “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến” (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa Giêsu
Matthêu giải thích, Chúa Giêsu “rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali”. Với địa danh chính xác như thế, nhưng mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch. Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: “để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia” (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì? Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào vương quốc A-sy-ri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: “Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”. Nói cách khác, Isaia muốn khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin: “dân chúng vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt”. Thánh Vịnh một lần nữa vang lời động viên: “Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa”. Niềm tin này khiến chúng ta vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: “Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi“. Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu xác định: “Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”.
Bước theo Chúa Giêsu cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô. Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: “Hối cải” nghĩa là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người; nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “Hối cải”. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên Thánh Phaolô có thể nói: “Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không.” Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến”, vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời kêu gọi sau đây: “Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của các Tông Ðồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ như Thánh Phaolô Tông Ðồ nói đến: “Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức” (1 Cr 1, 10). Thực ra Thánh Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: “Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ sao?” (1, 13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
CHÚA CHỌN GALILÊ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Địa lý miền đất Palestina
Địa dư Palestine có ranh giới:
-Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập.
-Tây giáp Địa Trung Hải.
-Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon.
-Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.
Cựu ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến Bersabê” để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150 km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482 km2. Tổng cộng là 25.124km2.
Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:
-Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.
-Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.
-Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.
– Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hóa Hylạp.
Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5 m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85 km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.
Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:
-Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.
-Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.
-Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.
Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.
Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…
Chúa chọn Galilê
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.
Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: “Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.
Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hòa bình.
Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.
Chúa Giêsu chọn các môn đệ đầu tiên ở Galilê.
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.
Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… Nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống”, mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.
Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên.
Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần).
Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân.
Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.
Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên. ĐTC Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49).
—————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
LỜI RAO GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông(*)
Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật tuần nầy: Chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, mà Đức Giê-su chọn để công bố giáo huấn của Ngài.
Is 8: 23; 9: 3
Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ.
Mt 4: 12-23
Trong Tin Mừng, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của vị ngôn sứ nầy để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ.
1Cr 1: 10-13, 17
Ở giữa hai bài đọc nầy, là “thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô”. Trước nạn bè phái, thánh nhân khẩn khoản kêu mời các tín hữu hãy hiệp nhất với nhau. Nếu đoạn trích thư nầy không cho thấy bất kỳ mối liên hệ nào với hai Bài Đọc trên, thì nó nói lên nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu hãy cầu nguyện cho các Kitô hữu trên thế giới được hiệp nhất với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Kitô.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4)
Bài Đọc thứ nhất được trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12, các chương nầy hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en” .
Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi nầy, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ.
Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại và những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai.
Cảnh đời tăm tối trong hiện tại:
Về phương diện lịch sử, nguyên thủy vùng Ga-li-lê được chia cho hai bộ tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai bộ tộc nầy không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, tên Ga-li-lê, đến từ tiếng Híp-ri Ga-lil có nghĩa vòng tròn, sở dĩ có tên gọi như vậy vì ngoại vi của nó tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế, không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tư tưởng dân ngoại bao quanh, trái với miền Giu-đê. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ : “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại vùng chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng nầy.
Sấm ngôn của I-sai-a ám chỉ đến số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc phương Bắc trong cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 BC và cuối cùng hoàn toàn bị diệt vong vào năm sau đó, năm thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm và bị tàn phá: chinh phục, chiếm đóng, lưu đày một số lượng lớn dân cư, thay thế vào đó là những dân ngoại bang. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của vị Vua Mê-si-a mới có thể giải phóng con người được.
Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị cho đến năm 612 trước Công Nguyên sau khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ nhận biết sự chiếm đóng của đế quốc Ba-by-lon. Họ sẽ gặp lại một cuộc sống thanh bình nhờ vào sự giải phóng của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải phóng nửa vời nầy không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi nói về những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, điều nầy ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế niềm hưng phấn của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm cốt yếu mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn nầy, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và ơn gọi của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa.
Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai:
Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4), cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử nầy, ơn cứu độ, niềm vui, đức tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh cao của tiến trình nầy, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12).
Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui nầy sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau những gian lao vất vả của việc đồng áng, và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ.
Nguyên do của niềm vui nầy chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn nầy được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nổi chiến công nầy không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa.
Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có ơn gọi chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại nầy. Đó chính là điều mà Thánh Mát-thêu, vị Thánh ký bận lòng chứng minh con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, không thể nào bỏ qua.
BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17)
Bài đọc thứ hai được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ nầy gặp phải.
1.Vấn đề của Giáo Đoàn Cô-rin-tô: nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12) .
Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô:
– Phe theo thánh Phao-lô: thánh nhân cũng có vài ủng hộ viên trong cộng đoàn nầy.
– Phe theo ông A-pô-lô: nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của Do thái giáo hy lạp và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-sô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô giáo đoàn non trẻ nầy. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô.
Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô nầy cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc nầy anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện “ (1 Cr 16: 12).
– Phe theo thánh Phê-rô: có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Kitô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với các dân ngoại (x. Gl 2: 1-14).
– Phe theo Đức Kitô: Có thể đó là những Kitô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Kitô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào.
Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17).
Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của hy tế thập giá, phép rửa, và Tin Mừng.
Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất:
Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hãy một lòng một ý với nhau. Lời mời gọi cương quyết, nồng nàn và khẩn thiết nầy được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Như vậy thánh nhân tránh bắt đầu với những lời khiển trách. Thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải trở nên “một lòng một ý” với nhau.
Chính “nhân danh Đức Giê-su Kitô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Kitô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Kitô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28).
Tính bất khả phân của Đức Kitô:
Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng của họ như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học nầy, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe nầy hay nhóm nọ (cf. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Đức tin không chỉ là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng còn là tận hiến chính bản thân mình cho con người của Đức Kitô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là một sứ đồ của Đức Kitô, vì thế, người môn đệ là môn đệ của Đức Kitô, chứ không là môn đệ của vị tông đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Kitô, chứ không cuộc sống của vị tông đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Kitô chứ không nhờ cái chết của bất cứ vị tông đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Kitô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân).
Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh nhân được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng nầy hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Kitô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin.
Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không còn là một nổ lực nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập giá như sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân.
TIN MỪNG (Mt 4: 12-23)
Toàn bộ các chương 3 và 4 của Tin Mừng Mát-thêu được chia thành hai phần. Phần thứ nhất được phân định rõ ràng bởi “thể thức đóng khung” bằng việc lập lại lời kêu gọi khẩn thiết: “Anh em hãy sám hối, vì Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (3: 2 và 4: 17). Phần nầy, một mặt, xác định sứ vụ của Gio-an Tẩy giả (3: 1-4) với lời trích dẫn của Is 40: 3, và mặt khác, sứ vụ của Đức Giê-su (4: 12-17) với việc quy chiếu đến Is 8: 23-9: 1. Phần thứ hai đóng chức năng như vừa kết luận vừa chuyển tiếp, phần nầy bao gồm: thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22) và tổng kết hoạt động Đức Giê-su (4: 23-25).
Đoạn văn được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm gồm có bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Kitô ở Ga-li-lê (4: 23).
Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16):
Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm nét đặc biệt trong đoạn văn nầy, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác.
Sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn chịu những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài phải bắt tay vào việc: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô cũng sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh ký muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su.
Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê”, trong khi thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14).
Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật nầy: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a. Hai địa hạt nầy chiếm lấy phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời đại cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su.
Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố nầy là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố nầy làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng dân Do thái ở miền Ga-li-lê không giàu có, thậm chí không thể tự lực xây dựng một hội đường, đành phải chấp nhận sự giúp đỡ tài chánh của một viên sĩ quan ngoại quốc (Lc 7: 5).
Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm mù mịt…” (4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi đến trước tiên với “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ với dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền nầy đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính ở giữa “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” nầy mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17)
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lập lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy giả (3: 2). Tuy nhiên sự mới mẽ được thánh ký chỉ ra ở đầu câu nầy: “Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu…”, diễn ngữ này chỉ gặp lại ở 16: 21: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi lên Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Như thế, lời công bố Triều Đại Thiên Chúa được ghi rồi trên con đường đau khổ.
Hơn nữa cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã xâm nhập vào thời gian, Triều đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào trần gian; vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Ngài. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su.
Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22)
Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa.
Khi nghe hay đọc đoạn Tin Mừng nầy, những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi biết rằng việc tận hiến cho Đức Giê-su đã dẫn những môn đệ tiên khởi nầy đến tận đâu: Gia-cô-bê là vị tông đồ đầu tiên phải làm chứng bằng máu: thánh nhân bị hành hình vào năm 44, thánh Phê-rô bị đóng đinh ngược ở Rô-ma, có lẽ vào năm 67. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy.
Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, như trường hợp đối với các kinh sư, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50), cũng như cách thức Đức Giê-su cứu Phê-rô đang chìm xuống nước (14: 22-33) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời nói bí nhiệm nầy. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài.
Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23)
Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng nguyên văn trình tự nầy ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”, vào lúc kết thúc đơn vị lớn thứ nhất của sách Tin Mừng và trước “Bài giảng về sứ mạng truyền giáo” (10: 1-16).
Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ- Trích Logos A
Ngày 26/12/2004, thảm họa động đất và sóng thần đã phủ lên các nước Nam Á và Đông Nam Á một màu đen tang tóc và kinh hoàng. Tuy nhiên, giữa cảnh bi thảm và đau thương đó, đã vụt sáng lên khuôn mặt của một bé gái 10 tuổi mà người ta gọi là “Thiên Thần của Biển Cả”.
Cô bé tên Tilly Smith, người Anh, đang đi nghỉ mát với cha mẹ tại đảo Phuket, Thái Lan. Sáng ngày 26/12, cô bé đứng chơi trên bãi biển cùng với gia đình. Bỗng nhiên, em nhìn thấy mặt biển dao động, sau đó nhiều bọt biển nổi lên, rồi nước rút xuống thật nhanh.
Cô bé nhớ ngay đến bài học địa lý của thầy giáo dạy tại trường. Trực giác báo cho em biết một thảm họa sắp giáng xuống. Em bảo mẹ hãy chạy nhanh ra khỏi bờ biển vì sắp có sóng thần. Mẹ em lập tức gọi những người khác chạy ra khỏi bãi biển. Nhờ vậy, hơn 100 người trên bãi biển và ở một khách sạn gần đó, đã kịp chạy thoát trước khi sóng thần ập tới.
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa cũng làm tỏa sáng dung mạo của Chúa Giêsu Kitô, khi Ngài bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài là ánh sáng cứu độ đã bừng lên trong đêm dài đầy bóng tối của nhân loại. Ngài đến để giải thoát loài người khỏi những cơn sóng dữ của tội lỗi và sự chết.
Bối cảnh lịch sử.
Để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu từ bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, để đi ngược dòng lịch sử, trở về thời gian trước công nguyên. Vào năm 732, đế quốc Assyria đã chiếm phần đất thuộc cực bắc Israel, tức là vùng đất Galilê sau này. Quân Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác lập cư trên phần đất ấy. Vì thế, Galilê được gọi là vùng đất của lương dân, một miền đất luôn bao trùm bóng tối của sự thất vọng.
Nhưng tiên tri Isaia tiên báo đã đến ngày ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó. Dân chúng đi trong tối tăm sẽ nhìn thấy một nguồn sáng vĩ đại.
Trong bài Tin Mừng, thánh Matthêu đã nhìn thấy lời tiên tri của Isaia được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, khi Ngài khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Galilê, vùng đất bị coi là “vô đạo” và đầy tối tăm. Ngài đem ánh sáng Tin Mừng chiếu soi vào những tâm hồn “lương dân” : “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Quả thật, Chúa Giêsu chính là ánh sáng xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự chết, là ánh sáng huy hoàng dẫn đường cho những ai đang đi trong tối tăm.
Chúa là ánh sáng.
Trong suốt cuộc sống công khai, qua lời nói và hành động, Chúa Giêsu đã tự mạc khải Ngài là ánh sáng thế gian : “Ta là ánh sáng đã đến trong thế gian, để ai tin vào Ta sẽ không đi trong tối tăm” (Ga 12, 46).
Tuy nhiên, có nhiều thứ ánh sáng : ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn điện, ánh sáng trí tuệ và văn hóa, ánh sáng tâm hồn … Nhưng ở nơi Chúa Giêsu, chúng ta gặp gỡ được ánh sáng thần linh. Ánh sáng ấy phát ra từ tấm lòng nhân hậu bao dung của Chúa. Ánh sáng ấy chiếu tỏa qua những hành động rất mực yêu thương của Ngài. Những người tội lỗi với tâm hồn u tối đã đến với Ngài và khi ra về, đã được tỏa sáng trong niềm vui và hy vọng. Với đôi tay nhân từ, Ngài dẫn đưa họ vào ánh sáng của ân sủng và tình yêu.
Ngài mở mắt cho người mù để dìu đưa họ bước vào khung trời đầy ánh sáng bình an.
Ngài tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, để chị ra về trong ánh sáng của niềm hy vọng.
Ngài đến nhà ông Giakêu để đem đến cho nhà ông ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài gieo vãi vào lòng người trộm lành ánh sáng niềm tin, để anh ta vươn dậy từ bóng tối của sự tuyệt vọng.
Quan trọng hơn hết, trong ánh sáng Phục Sinh, Ngài xua tan bóng tối tử thần, để những ai theo Ngài, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống (Ga 8, 12).
Đón nhận ánh sáng.
Người ta nói : nếu thiếu vắng ánh sáng mặt trời, trái đất này sẽ chìm trong bóng tối và mọi loài sẽ chết cóng vì lạnh. Cũng vậy, thế gian này sẽ tăm tối biết bao, nếu ánh sáng của Chúa Kitô đã không chiếu rọi tới.
Tuy nhiên, dù Chúa Giêsu mang ánh sáng vào thế gian, không phải mọi người đều đón nhận ánh sáng ấy. Có nhiều người đã khước từ ánh sáng và chọn lựa ở lại trong bóng tối. Vì thế, Chúa đã không khởi đầu cuộc loan báo Tin Mừng tại Giêrusalem, là trung tâm của lòng mộ đạo, nhưng Chúa đã đến Galilê, nơi bị coi là vùng đất của lương dân để rao giảng Tin Mừng. Ngài bắt đầu sứ vụ với lời kêu gọi sám hối : “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”.
Hối cải là nhận ra được bóng tối đang bủa vây tâm hồn. Hối cải là biết mở rộng cõi lòng đón nhận ánh sáng Tin Mừng của Chúa. Hối cải là từ bỏ chính mình và bước theo Chúa là nguồn ánh sáng đích thật.
Trong bước khởi đầu của công cuộc loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chọn cho mình 4 môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Khi được kêu gọi, họ đã sẵn sàng từ bỏ tất cả đi theo Chúa, cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Như thế, các môn đệ đã đi theo Chúa là nguồn ánh sáng vĩ đại. Chính họ đã đón nhận ánh sáng Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng ấy cho mọi người. Cũng vậy, khi đón nhận Chúa và sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi trở nên suối nguồn ánh sáng cho mọi người.
Tại một ngôi làng nhỏ bé kia, có 2 gia đình rất thân nhau. Một gia đình ở đầu làng, còn gia đình kia ở cuối làng. Một ngày nọ, chính phủ quyết định đưa nguồn điện về làng. Gia đình ở cuối làng hăng hái hưởng ứng ngay, còn gia đình kia thì ngần ngại không muốn “bắt” điện. Họ cho rằng đã bao năm không có điện cũng chẳng sao cả !
Khi ngày trọng đại đến, gia đình cuối làng mời gia đình bạn đến dự tiệc đón nguồn điện. Khi những bóng đèn sáng lên trong nhà, người ta kinh ngạc kêu lên : “Thật tuyệt diệu !”. Nhưng lúc ấy cũng có tiếng người thốt lên : “Thật dơ bẩn !”. Đúng vậy, trước đây trong ánh sáng lờ mờ của đèn dầu, không ai nhìn thấy màng nhện và bụi bặm bám khắp nơi, cũng không thấy những góc tối bừa bãi. Giờ đây, dưới ánh sáng đèn điện, mọi thứ dơ bẩn phô bày ra trước mắt mọi người.
Gia đình ở đầu làng quyết định sẽ không bao giờ lắp đặt điện. Còn gia đình chủ nhân thì ngay sau buổi tiệc, đã lao vào công việc dọn dẹp nhà cửa. Chỉ trong một ngày, ngôi nhà của họ đã sạch sẽ hơn bao giờ hết.
Hôm nay, nhiều người vẫn chọn sống trong bóng tối. Họ không muốn mọi người và ngay chính bản thân thấy sự dơ bẩn trong cuộc sống của mình. Họ lẩn tránh ánh sáng vì e sợ phải làm sạch cuộc đời mình.
Giờ đây, đã đến lúc chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa là ánh sáng ngự đến. Chính Ngài sẽ xua tan bóng tối trong đời sống chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta tươi sáng hơn.
——————————————————————–
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM A
TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Mặc dù đã gần một tháng trôi qua, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa quên lời loan báo của các sứ thần cho các mục đồng trong đêm Giáng Sinh: “Này ta đem tin mừng cho các người về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân” (Lc 2, 10). Vâng, việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người không chỉ là niềm vui cho dân Chúa, nhưng còn là niềm vui cho toàn dân, niềm vui cho toàn thể thế giới. Đây là niềm vui của những người đi trong bóng tối, nay nhận được ánh sáng rực rỡ soi đường, đó còn là niềm vui của những tâm hồn đang đau khổ vì hận thù, chia rẽ nay nhận được ánh sáng của tình yêu, và bình an.
Hay nói khác đi, với việc đến trong trần gian, Đức Giêsu đã mở ra cho toàn thể nhân loại một con đường rực rỡ, được chiếu sáng bởi ánh sáng của tình yêu và sự sống. Và đó cũng chính là Tin mừng vĩ đại cho tất cả chúng ta hôm nay.
- Ánh sáng xua tan đêm tối:
Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng vào khoảng năm
-722, miền Bắc đất nước Do Thái bị đế quốc Assyrie xâm chiếm. Sau đó, họ đã bắt dân đi lưu đày và đã đưa dân tứ xứ đến sinh sống tại đây. Do đó, trong con mắt của người Do Thái, Galilêa là miền đất ô hợp về chủng tộc, lắm tệ đoan về xã hội. Đồng thời, đây cũng là miền đất của những người dân ngoại, những người ô uế về mặt tôn giáo. Tắt một lời, với con mắt của những người tự cho mình là đạo đức sống ở thủ đô Giêrusalem, thì miền đất Galilêa là một miền đất tội lỗi, “chẳng có gì là tốt” (x. Ga 1,46). Họ như đang đi trong bóng tối của mặc cảm và sự chết. Thế nhưng, ngay trong hoàn cảnh đó, vị ngôn sứ đã loan báo cho họ một tin vui: “Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại. Và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng tối sự chết”. Ánh sáng vĩ đại mà vị ngôn sứ loan báo đó chính là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Đức Giêsu chính là ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi vào đám dân đang bị coi là sống trong bóng tối của tội lỗi. Tin mừng thuật lại: “Khi ấy, sau khi nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa… đến miền duyên hải thành Capharnaum giáp ranh đất Giabulon và Nepthali”.
Khi nhắc lại biến cố “Gioan bị nộp”, thánh sử Matthêu như ngầm nói với chúng ta rằng: Giai đoạn chuẩn bị của Cựu Ước đã chấm dứt. Từ đây, Đức Giêsu sẽ khởi sự một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Tuy nhiên, Ngài đã không chọn Giêrusalem, thủ đô của tôn giáo Do Thái để khởi đầu sứ vụ. Trái lại, Đức Giêsu đã chọn “miền duyên hải thành Capharnaum giáp ranh đất Giabulon và Nepthali… Galilêa của ngoại bang”, một miền đất bị coi thường để bắt đầu sứ vụ của mình. Thậm chí, Ngài còn chọn Capharnaum làm trung tâm rao giảng của mình. Như thế, một lần nữa, Đức Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người thấy rõ tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ngài chính là vị Mục Tử nhân lành đến để tìm kiếm từng con chiên lạc, là vị lương y từ mẫu đến để chữa lành những tâm hồn đang bị tội lỗi làm thương tổn. Sứ điệp Ngài đem đến cho chúng ta đó là “Nước Trời đã gần đến”.
Không chỉ là Nguồn Ánh Sáng, khi đến trong trần gian, Đức Giêsu còn thông chia cho mỗi người chúng ta nguồn ánh sáng của Ngài, để đến lượt mình, chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho anh chị em mình.
- Ánh sáng hôm nay:
Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, khi trao cho chúng ta ánh sáng từ cây nến Phục Sinh của Đức Kitô, vị chủ sự nói: “Ông (bà, anh, chị, em, con) đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Ông (bà, anh, chị, em, con) hãy luôn luôn sống như con cái sự sáng để được bền vững trong đức tin. Nhờ đó, khi Chúa đến, ông (bà, anh, chị, em, con) được ra nghinh đón Người và toàn thể các Thánh trên trời”. Nhận được ánh sáng của Đức Kitô, mỗi người chúng ta không được phép đem dấu dưới đáy thùng, nhưng có nhiệm vụ đặt nó trên cao để soi sáng cho tất cả mọi người. Ngõ hầu nhờ ánh sáng đó, mọi người có thể đến ca tụng và tôn vinh Cha trên trời (x. Mt 5, 14-16).
Cũng như Đức Giêsu đã chấp nhận đi trọn con đường thập giá, chấp nhận đổ đến giọt máu và nước cuối cùng, để qui tụ muôn loài và dẫn họ đến với Chúa Cha, thì giờ đây, mỗi người chúng ta cũng cần dùng chính đời sống của mình để soi dẫn cho mọi người biết đường về với Chúa. Để làm được việc này, trước hết mỗi người chúng ta cần phải sám hối theo lời mời gọi của Đức Kitô: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Chúng ta cần từ bỏ lối sống ích kỷ, hại nhân của mình để dấn bước sống theo những đòi hỏi của Tin mừng.
Sống theo đòi hỏi của Tin mừng, trước hết là xây dựng sự hiệp nhất trong cộng đoàn, tuyệt đối tránh hiện tượng bè phái, lôi kéo nhóm này, nhóm nọ gây chia rẽ trong cộng đoàn. Thánh Phaolô trong thời của ngài cũng đã nhắc nhở các tín hữu giáo đoàn Corintô: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần trí và cùng một tâm tình”. Đối với thánh nhân bất cứ điều gì gây ra sự chia rẽ, thì điều đó không đem lại ơn cứu độ, bởi lẽ chúng ta không được cứu độ là nhờ vào cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, mà “Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay vẫn là một, và cho đến muôn đời” (x. Dt 13, 8). Để sống hiệp nhất, về mặt tiêu cực, chúng ta cần vượt qua những tự ái cá nhân, dẹp bỏ ý riêng, tránh những lời nói hành, nói xấu nhau…; còn về mặt tích cực, chúng ta hãy sẵn sàng dấn thân phục vụ vì lợi ích chung của cộng đoàn, hơn là vì lợi ích hay danh dự của cá nhân.
Trong quá trình phục vụ, chúng ta hãy luôn tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi đang phục vụ vì ai, với ai và cho ai? Nếu chúng ta dấn thân phục vụ vì một người nào đó, cho dù đó là ai, thì đó là điều dại dột nhất của chúng ta, bởi lẽ, con người luôn giới hạn. Còn nếu chúng ta đang dấn thân vì lợi ích của cộng đoàn, theo lời mời gọi của Chúa, thì quả thật, chúng ta đang đi trên đường để tiến đến hạnh phúc vĩnh cửu.
Tuy nhiên, cũng như trong bàn tay có ngón dài, ngón ngắn, thì trong quá trình làm việc chung, chúng ta không thể nào tránh khỏi những đụng chạm, xích mích lớn nhỏ. Do đó, chúng ta cần có tình bác ái để nuôi dưỡng sự hiệp nhất này. Tình bác ái thể hiện qua sự tha thứ và cảm thông theo mẫu gương của Đức Giêsu trên thập giá. Đức Giêsu đã tha thứ và yêu thương đến độ hiến mạng sống của chính mình làm của ăn cho mỗi người chúng ta.
Do đó, siêng năng đến với bí tích Thánh Thể sẽ giúp mỗi người chúng ta đủ nghị lực và sức mạnh để đến với anh chị em. Thánh Thể sẽ là nguồn năng lượng giúp cho ngọn đèn trong mỗi người chúng ta mãi cháy sáng. Nhờ đó, chúng ta có thể dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô là Tin Mừng và cũng là nguồn Ánh Sáng thật của muôn dân. Amen.