CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
LỄ HIỂN LINH
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐẾN MÀ THỜ LẠY- Chú giải của Noel Quesson (*) 5
ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 10
GẶP GỠ NGÔI LỜI THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 12
HÃY DÕI THEO VÌ SAO ĐẾN THỜ LẠY CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 27
THẮP LÊN MỘT NGỌN NẾN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 30
CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂn- Lm Carolo Hồ Bạc Xái 33
ÁNH SÁNG CHO MUÔN DÂN- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 40
DÂN NGOẠI ĐỨNG TRƯỚC ĐỨC VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI– Lm FX Vũ Phan Long, ofm.. 53
ĐƠN SƠ VÀ THÔNG THÁI- Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 66
ÁNH SAO NIỀM TIN- Trích Logos Năm A. 72
NIỀM VUI GẶP GỠ- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn.. 79
——————————–
LỄ HIỂN LINH
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6
“Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, [đem theo vàng và nhũ hương, và] họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Đáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.
2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a. 5-6
“Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 2, 2
All. All. – Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. – All.
PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12
“Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
Đó là lời Chúa.
—————————
LỄ HIỂN LINH
ĐẾN MÀ THỜ LẠY- Chú giải của Noel Quesson (*)
Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh. Chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu?
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu: Vua Hêrôđê, vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu “Vua dân Do Thái” này lại sâu xa hơn nhiều; Nước trời sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là “vua” dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu “Vua dân Do Thái” này. Những binh lính sẽ nói “Ngự tâu, Vua dân Do Thái” (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi “Này là Vua dân Do Thái” ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái “lý do khiến người bị kết án” (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo “Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27,37).
Từ khi đưa ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của “Người đầy tớ chịu đau khổ” của Isaia, vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình “đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy tớ” (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: “Xin cho Nước Cha trị đến!. Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ”.
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mê-si-a đến như một ánh sáng. “Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đãsinh ra cho chúng ta” (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như “sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta” (2 Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Nên chúng tôi đến bái lạy Người.
“Bái lạy”. Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: “Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: “Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu… Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết chết những người Ta sai đến với ngươi, bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái Ta! Và các ngươi đã không muốn” (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự “đón tiếp” của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy “một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19)
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn “có tính chất phổ độ” loan báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: “Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến”. Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc “sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với Abraham” (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các “nhà chiêm tinh” tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. Trái lại! trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”.
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrubalem, qua các “kinh sư và thượng tế” Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những lời người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những nhời Do Thái (Rm9, 10-11).
Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến… Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Việc thờ phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra… Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————–
LỄ HIỂN LINH
ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
- Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
- Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
———————————
LỄ HIỂN LINH
GẶP GỠ NGÔI LỜI THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Thế của mình.
Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo hình ảnh vinh quang của Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Ep 3: 2-3a, 5-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ, đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một dân tộc duy nhất là Giáo Hội, trở nên một thân thể duy nhất là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 2: 1-12
Được soi lối chỉ đường: từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, đến thờ lạy Đấng Cứu Thế.
BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố chiều kích hoàn vũ của sứ mạng Giê-ru-sa-lem. Họ mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en ở bên kia chủ nghĩa quốc gia và nhấn mạnh ơn gọi của dân Ít-ra-en phải là ánh sáng cho muôn dân.
Bản văn được chọn để cử hành lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong các ngôn sứ nầy. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về.
Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (6: 1-2):
Ông loan báo một sứ điệp mạnh mẽ và lạc quan để an ủi một cộng đoàn ngã lòng thất vọng.
Trước đây, cuộc hồi hương trở về đã đem lại cho những người lưu đày một niềm phấn chấn vô bờ; nhưng khi đụng chạm đến thực tế, họ mới vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng, dân cư thì thưa thớt, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt ngót bốn mươi năm trường. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh phải dừng lại dang dỡ.
Chính vào lúc ấy, một sứ điệp vang lên để an ủi những ai mất can đảm: “Vùng lên! Bừng sáng lên ! Giê-ru-sa-lem hỡi!”. Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ được trở về quê cha đất tổ: “Vì ánh sáng của ngươi đến rồi, vinh quang Chúa trên ngươi chiếu tỏa”. Những kẻ áp bức bị trừng phạt: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân”. Cuộc hồi hương nầy được ví như buổi bình minh. Thiên Chúa được sánh ví như vầng kim ô chói lọi: “Còn trên ngươi, Chúa lại chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”. Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vì thế, vị ngôn sứ đưa ra hai thị kiến chứa chan hy vọng.
Cuộc tụ họp vĩ đại (6: 3-4).
“Đưa mắt về tứ phía mà xem: ai nấy đều tụ họp, kéo đến với ngươi, con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Những con trai con gái nầy là những “cộng đồng Do thái hải ngoại” , họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam. Thế nên, một truyền thống rất sinh động muốn rằng toàn thể dân Ít-ra-en lại được thống nhất, đó phải là công trình của Đấng Mê-si-a. Như vậy, sấm ngôn bao hàm hậu cảnh Mê-si-a.
Thế nhưng những đứa con đến từ phương xa cũng là những đứa con của muôn dân muôn nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình, vì uy danh Thiên Chúa của thành đã quyến rủ họ: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (6: 5-6).
Thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất: chư dân sẽ tiến dâng nguồn phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh: “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha; hết thảy từ Sa-ba kéo đến, mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Chúa”. Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sa-ba là những dân Á-rập. Tên Sa-ba gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sa-ba đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng tặng cho vua nhiều quà tặng quý giá.
Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn sống trong cảnh lầm than, nhưng trong cảnh thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại vùng đứng lên từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân lũ lượt kéo nhau đến tán dương chúc tụng Thiên Chúa. Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra loan báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tin, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước được quyền đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (bài đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc tụ họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành thánh Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc, được phác thảo trên trần thế nầy là Giáo Hội.
BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3a, 5-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư nầy có lẽ trong cảnh xiềng xích ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được gởi đến cho các tín hữu Ê-phê-sô, và qua cộng đoàn Ê-phê-sô này, được chuyền đến cho các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á. Quả vậy, trong bức thư này, không có bất kỳ lời chào thăm hỏi nào của vị thánh nhân dành cho các tín hữu Ê-phê-sô. Ấy vậy, thánh Phao-lô đã trải qua ba năm trong thành này và đã để lại ở đây các môn đệ và những bạn bè. Vì không có lời chào thăm hỏi đặc thù này, khiến người ta suy ra rằng thánh Phao-lô muốn bức thư này phải được phổ biến rộng rải.
Những cộng đoàn miền Tiểu Á đa số là những Ki tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc nhở họ ơn gọi tông đồ dân ngoại của ngài. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ rằng không còn một dân tộc hưởng đặc quyền đặc lợi nữa, vì muôn dân được chấp nhận đồng hưởng cùng một ơn cứu độ như con cái Ít-ra-en.
Mầu nhiệm Đức Ki-tô:
Sứ điệp chính yếu của bức thư nầy là “mầu nhiệm Đức Ki tô”. Qua từ “mầu nhiệm” nầy, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Theo thánh Phao-lô, dù thánh nhân có học hỏi Kinh Thánh một cách thành tâm thiện chí mấy đi nữa cũng không thể nào biết được ý định ẩn kín từ muôn thuở này, đó là vào kỷ nguyên Mê-si-a, dân Ít-ra-en không còn được hưởng những đặc quyền nữa, đúng hơn những đặc quyền này được trao ban cho hết muôn dân: muôn dân trở nên đồng thừa tự Lời Hứa. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu nầy chỉ nhờ ánh sáng của Đức Giê-su soi lòng mở trí cho thánh nhân trên đường Đa-mát.
Dân thánh:
Từ trong cảnh giam cầm ở Rô-ma, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô không quên liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các vị Tông Đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua cách diễn tả “các thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
Vị Tông Đồ của dân ngoại:
Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi này. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt núi băng đèo, không quản ngại gian nguy. Chương 13 tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức…trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa.
Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong hoạt cảnh “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)
Thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật biến cố “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Ông đã giữ lại chuyện tích nầy vì nó xác minh một trong những chủ đề sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và Giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho lương dân gia nhập Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến cho họ. Thật lạ lùng trong khi lương dân đáp trả lời mời gọi, thì con cái của Lời Hứa quay lưng lại với Giao Ước.
Thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó. Trong khi đó, thánh Mát-thêu tường thuật các nhà chiêm tinh từ đường xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người thông thái, giàu có. Những người đầu tiên là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi những người thứ hai đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
Lên đường theo ánh sáng tự nhiên.
Chuyện tích của Mát-thêu rất phức tạp và phân tích nó đòi hỏi biết bao công sức. Hai loại yếu tố được đan quyện vào nhau ở đây: những yếu tố nầy thuộc những dữ kiện lịch sử, những yếu tố khác do cách thức trình bày những sự kiện. Phương thức nầy được gợi hứng từ cách giải thích Kinh Thánh của các kinh sư Do thái được gọi là “midrash”. Đây là thể loại văn chương được thịnh hành trong những môi trường Do thái vào thời Chúa Ki tô và vào thời Ki tô hữu gốc Do thái.
“Midrash” là phương thức kể chuyện cốt yếu là tập hợp chung quanh một hạt nhân lịch sử những câu trích dẫn Kinh Thánh, phóng đại vài chi tiết và hể có dịp nêu bật khía cạnh kỳ diệu của chúng, để nhấn mạnh thiên ý của chúng. Phương thức midrash đặc biệt được tôn vinh vào những phụng vụ lễ Vượt Qua: phương thức này làm cho những gợi ý của quá khứ trở nên sống động hơn.
Hạt nhân lịch sử:
Chắc chắn phải có một “biến cố thực” ở nơi nền tảng của chuyện tích Tin Mừng này. Rõ ràng thánh Mát-thêu múc lấy những dữ kiện của mình ở nơi những kỷ niệm và truyền thống Bê-lem, trong khi thánh Lu-ca quy chiếu nhiều hơn đến những kỷ niệm và truyền thống Na-da-rét.
Mặt khác, những thủ bản Biển Chết đã giúp khẳng định chuyện tích Tin Mừng. Trong số những thủ bản được khám phá, người ta đã gặp thấy số tử vi của vị vua Mê-si-a được mong đợi. Như vậy, vào thời Đức Ki-tô chào đời, người ta bận lòng muốn biết Đấng Mê-si-a sinh ra dưới vị sao hộ mệnh nào, và trong vài môi trường Do thái, người ta tra cứu bầu trời để khám phá vị sao hộ mệnh nầy xuất hiện, vì Đấng Mê-si-a chào đời khi vị sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện. Quả thật, các nhà chiêm tinh nói: “Chúng tôi đã thấy vị sao của Người xuất hiện”. Vào thời này, khoa chiêm tinh rất phổ biến.
Ảnh hưởng của phương thức midrash:
Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho ngôi sao lạ thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh nầy. Thánh vịnh không nói với chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo kỳ công Người. Ngày nầy mách bảo cho ngày tới, đêm nầy truyền tụng với đêm kia. Không bằng ngôn ngữ ầm vang mà tiếng vang đã vang dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới khắp chân trời góc biển” sao (Tv 19: 2-5) ? Nếu chỉ cần suy nghĩ cách sâu xa biết bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.
Lai lịch của những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông:
Những nhà thông thái và giàu có này là ai mà thánh Mát-thêu gọi họ là “các nhà chiêm tinh”?
Theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ, từ “nhà chiêm tinh” chỉ các tư tế và là các vị cố vấn của các vua Ba-tư. Về sau, tên gọi này bị dùng sai và được gán cho những người miệt mài nghiên cứu khoa thiên văn và thuật chiêm tinh. Thánh Mát-thêu xem ra hiểu theo ý nghĩa này. Họ đến từ Phương Đông. Thánh ký không tìm cách xác định, điều mà thánh ký muốn nói: họ đến từ thế giới lương dân, điều cốt yếu là ở đó. Chắc chắn họ không phải là các vua.
Làm thế nào các nhà chiêm tinh này biết được số tử vi của “vua dân Do thái” mà nhận ra ngôi sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện? Nhiều người khác nghĩ rằng văn chương Do thái về Đấng Mê-si-a đã được phổ biến một cách rộng rải trong các cộng đồng Do thái hải ngoại, đó lời giải thích đủ.
Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu chủ ý dùng tước hiệu nầy: đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người nầy là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem khiến vua Hê-rô-đê và triều thần bối rối. Điều nầy xem ra cũng dể hiểu vì vua cùng triều thần nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân thành nầy đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Qua việc cả dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao, thánh ký báo trước dân nầy sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng nầy có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét nầy: “Cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo, còn các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh; vì thế, họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ nầy đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh nầy xem ra là hình ảnh tham dự trước cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi bản văn trích dẫn của Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Rõ ràng trong bản văn của mình, Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng còn sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.
“Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẻ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện” để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua đã hoạch định mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa, nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật nầy sát với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa nầy: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo đến điên cuồng khát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông đã ra lệnh hành hình nhiều người biệt phái trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua nầy, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù mất đi nhân tính đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hải…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”
Đây là lời giải thích Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức nầy? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa.
Chắc chắn cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ nầy. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng nầy rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao soi lối chỉ đường cho các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
Gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…” Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đến triều bái chính Đấng mà thánh Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước quy chiếu về và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều nầy thật lạ lùng, vì cho đến lúc nầy thánh ký rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì chứ? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài” ?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các lễ vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường nầy là một vị vua vừa mới chào đời.
Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật nầy: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi nầy là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi nầy là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những dược liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi nầy sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa nầy, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, Thiên Chúa và cũng là Đấng Cứu Thế.
Các nhà chiêm tinh từ phương trời xa đến triều bái lạy Hài Nhi, như thế các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su nầy (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).
Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của chuyện tích nầy, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
————————–
LỄ HIỂN LINH
NIỀM TIN: MỘT CHUYẾN ĐI– ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
——————————
LỄ HIỂN LINH
HÃY DÕI THEO VÌ SAO ĐẾN THỜ LẠY CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, Thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dạo, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.
“Epiphaino” có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Kitô, khiến người khác có thể trông thấy mình được được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho Ba Ðạo Sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự dấu ẩn của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, trong Trẻ Thơ Belem. Thì trong lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các Ðạo Sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia viết như sau: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia : ” Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.” (Is 66,1-3). Ðây là một lời mời hướng tới Giáo Hội Chúa Kitô và hướng tới từng người Kitô hữu, mời gọi chúng ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm truyền giáo của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và chiếu sáng Tin Mừng khắp thế gian.
Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo Hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận Ánh Sáng Chúa Kitô, tiếp nhận để được soi chiếu, và phổ biến Ánh Sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời của nó. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân…
Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà nhân loại khát đang mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm : ” Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại) , và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy dõi theo ánh sao cùng ba nhà Đạo Sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởmg và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
——————————
LỄ HIỂN LINH
THẮP LÊN MỘT NGỌN NẾN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a hôm nay được vang lên như một thôi thúc, một lời mời gọi tha thiết, giục chúng ta phải toả sáng: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên! … Kìa bóng tối bao trùm mặt đất và mây mù phủ lấp chư dân…” (Is 60,1-6).
Hôm xưa, Thiên Chúa đã nhờ ngôi sao lạ để soi đường dẫn lối cho các nhà chiêm tinh ngoại giáo đến thờ lạy Chúa hài nhi tại Bê-lem, thì hôm nay, Ngài cũng cậy nhờ chúng ta như những ánh sao Bê-lem mới để dẫn đưa muôn dân về với Chúa (Mát-thêu 2, 1-12). Chúa Giê-su dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Thánh Phao-lô kêu gọi: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Philip 2,15).
Biết bao người còn đang chìm trong bóng tối, vì thế, trở nên một ngọn đèn, một ánh sao trong đêm tối là điều rất quan trọng.
Nếu chúng ta không thể là “ánh sáng cho trần gian” như lời Chúa Giê-su truyền dạy hoặc không thể là “ngôi sao trên vòm trời” như lời thánh Phao-lô mời gọi, thì ít nữa, chúng ta cũng phải là một “ngọn nến” nhỏ trong gia đình, trong khu xóm của chúng ta.
Cùng nhau thắp nến
Một ngọn nến nhỏ không toả sáng nhiều, nhưng nhiều ngọn nến dần dần được đốt lên sẽ làm sáng tỏ cả một không gian rộng lớn. Việc tốt của một người chưa có ảnh hưởng bao nhiêu, nhưng việc tốt của nhiều người sẽ mang lại ảnh hưởng lớn.
Trong đêm vọng phục sinh, sau nghi thức làm phép lửa và nến phục sinh, đang khi cả nhà thờ chìm trong bóng tối… ánh nến phục sinh trong tay linh mục chủ tế từ cuối nhà thờ từ từ tiến lên, tiến lên… Rồi ánh lửa này được thắp cho vài cây nến nhỏ của các em lễ sinh. Và các ngọn lửa từ tay lễ sinh lại truyền qua cho những người kế cận và cứ tiếp tục như thế. Thế rồi chỉ trong chốc lát, cả nhà thờ bừng sáng trước hàng trăm ngọn nến lung linh.
Nếu chúng ta để cho ánh lửa của yêu thương và việc tốt bừng cháy lên trong đời mình, rồi để cho lửa ấy tiếp tục lan sang những người kế cận… thì hy vọng một ngày không xa, cả phố phường làng mạc sẽ được bừng sáng.
Mỗi ngày làm một việc tốt
Hằng ngày, các phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình… đề cập đến nhiều thứ “bóng tối” đang bao trùm xã hội. “Bóng tối” của khủng bố, của chiến tranh, bạo lực, của nạn buôn người, của ma tuý, mại dâm, của văn hoá đồi truỵ, của thực phẩm độc hại… Nhìn đâu cũng thấy tệ nạn. Đạo đức suy sụp, luân lý suy đồi…
Trước tình hình đó, người thì quy trách cho các nhà lãnh đạo yếu kém; người khác thì đổ lỗi cho thế lực này, cho tổ chức kia; người thì phê phán các cơ chế đã làm phát sinh những tệ nạn đó… Thế là người ta đua nhau nguyền rủa “bóng tối” mà không tìm cách thắp lên một ngọn đèn. Nếu ai cũng cứ ngồi nguyền rủa bóng tối mà chẳng ai chịu thắp đèn thì “bóng tối” ngày càng lan rộng, càng dày đặc thêm.
Tại sao chúng ta không quyết tâm thắp lên một “ngọn nến nhỏ” cho gia đình hay thôn xóm mình, thay vì ngồi khoanh tay nguyền rủa “bóng tối”? Mỗi người hãy thắp lên nơi mình một ngọn nến ngay từ ngày hôm nay.
Mỗi ngày hãy thắp ngọn nến của mình lên bằng cách làm một việc tốt, như mỉm cười chào hỏi người hàng xóm khó thương, ủi an người gặp khó khăn gian khổ, thăm người già yếu bệnh tật… Nay một việc tốt, mai một việc tốt, mỗi tháng có đến 30 việc tốt, mỗi năm có 365 việc tốt thì thật tuyệt vời!
Nếu chúng ta nhẫn nại thắp nến hằng ngày như thế, chắc chắn, bóng tối sẽ bị đẩy lùi, ánh sáng sẽ toả lan, gia đình và làng xóm sẽ an vui hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp mỗi người chúng con quyết tâm làm một việc tốt mỗi ngày. Đó là bổn phận của người tín hữu vốn là ánh sáng trần gian. Đó là lễ vật cao đẹp mà Chúa ưa thích và chờ đợi nơi chúng con mỗi ngày. Đó cũng là ánh nến nhỏ mà chúng con cần phải thắp lên để đẩy lùi bóng tối đang bao phủ phố phường, thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con biết thắp lên một ngọn đèn còn hơn là nguyền rủa bóng tối.
——————————–
LỄ HIỂN LINH
CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂn- Lm Carolo Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : “Hỡi Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi.”
– Đáp ca : “Lạy Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài.”
– Tin Mừng : “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Ngài.”
– Bài đọc II : “Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô.”
Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
– Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
– Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
– Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
– Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
– Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Chúa Giêsu.
Các “đạo sĩ” là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
Để thấy được nét độc đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do thái : họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một “dân ngoại”, ngài tiết lộ cho họ biết một “mầu nhiệm”, đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành “đồng một thân thể” với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở nên “đồng thừa tự” để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và “đồng thông phần” với lời hứa cứu độ của Ngài.
Mặt trời là của ai ? Chúa của ai ?
Chúa Giêsu là Ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người”.
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng:
– Hãy đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
– Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói : “Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói : “Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời”.
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? “Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
Các đạo sĩ đã đi trong bóng tối nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy được ánh sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời càng tối thì sao càng sáng.
Tất cả chúng ta cũng là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian :
– Ánh sáng bừng lên trong đêm tối
– Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa : “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?”
Chúa nói : “Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : “Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?”
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : “Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : “Hừ, kẻ vô thần”.
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay : “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.
Chúa Giêsu đồng ý : “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : “Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
– Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
– Chúa là Vua công bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ nâng.
– Chúa đến làm ánh sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa / qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
– Mỗi tín hữu phải là một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
——————————–
LỄ HIỂN LINH
ÁNH SÁNG CHO MUÔN DÂN- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Hôm nay là ngày lễ Hiển Linh. Ngày xưa chúng ta quen gọi là lễ Ba Vua vì chúng ta chú trong vào việc các đạo sĩ đại diện cho dân ngọai đi tìm Chúa, còn lễ Hiển Linh nhằm nói lên việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngọai. Như vậy, lễ Hiển Linh hôm nay được gọi là Lễ Giáng Sinh của dân ngọai. Các bài đọc đều nói lên tư tưởng chung : Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân. Tiên tri Isaia tiên báo Giêrusalem sẽ được tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng ấy (Bài đọc 1). Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy trở nên những vì sao trên vòm trời qua đời sống gương mẫu của mình (Bài đọc 2). Thánh Matthêu diễn tả Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân, không trừ ai, kể cả dân ngọai, mà đại diệân của họ là các đạo sĩ (Bài Tin mừng).
Theo bài Tin mừng hôm nay, các đạo sĩ bên phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường đã đến Belem triều bái Chúa Hài Nhi. Công việc đi tìm kiếm không phải là dễ dàng, các vị đã gặp nhiều gian nan thử thách trên đường, nhất là khi ngôi sao vụt tắt lúc các vị tới Giêrusalem. Qua cuộc dò hỏi tìm kiếm, các vị lại được ngôi sao tái xuất hiện dẫn đường tới Belem và gặp Chúa Hài Nhi ở đó. Họ đã phủ phục thờ lậy Đấng Cứùu Thế và dâng cho Ngài ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã tỏ lòng ưu ái với dân ngọai, đã tỏ mình ra cho họ. Còn chính những người dân Chúa lại không được trông thấy, họ không thấy không phải vì Chúa kỳ thị họ, không muốn tỏ mình ra nhưng là vì họ không muốn thấy, lại còn chống đối nữa.
Chúng ta cũng là dân ngọai được Chúa tỏ mình ra cho chúng ta được biết. Chúng ta phải cảm tạ Chúa vì hồng ân này. Đồng thời chúng ta cũng có bổn phận phải làm cho người khác biết Chúa qua cuộc sống gương mẫu của chúng ta. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Philipphê :”Aùnh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”. Những vì sao của chúng ta tuy phát ra ánh sáng yếu ớt, nhưng với ơn hỗ trợ của Chúa, chúng sẽ có sức tỏa sáng mạnh mẽ trước mặt người đời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 60,1-6.
Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thóat mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ sẽ được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá qúi, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thóat, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mở của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hòan tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (Kh 21,9-27).
+ Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a. 5-6.
Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thóat chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngọai thì bị đẩy ra ngòai. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ như vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng , các dân ngọai được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa
+ Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.
Các đạo sĩ phương Đông, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu Thế đã ra đời và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài Nhi.
Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Thiên Chúa Giáng sinh, tiên tri Mikêa đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO “của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy”(Mt 2,2).
Nếu tiên tri Mikêa không được Thiên Chúa mạc khải, làm sao ông biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ?
Nếu đó chỉ là ngôi sao chổi tự nhiên thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái ? Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ tới Belem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nói lại tái xuất hiện và đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu Thế ? Vì vậy, phải gọi là “ánh sao lạ Belem”.
Trên đường đi tìm Chúa Hài Nhi, các đạo sĩ cũng gặp thử thách, nhưng kiên trì tìm hiểu và Chúa đã cho các vị được tọai nguyện.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ánh sáng soi cho muôn dân.
CHUNG QUANH NGÀY LỄ HIỂN LINH.
Tên ngày lễ.
Ngày xưa ta gọi lễ này là “Lễ Ba Vua” vì dựa vào việc 3 nhà bác học từ phương Đông đến triều bái Chúa Hài Nhi với ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, qua ba lễ vật này người ta cho rằng những vị này là thuộc hòang tộc và gọi họ là Vua. Gọi là Ba Vua vì chú trọng đến việc các vị đi tìm Chúa Hài Nhi, còn ngày nay chúng ta gọi là lễ “Hiển Linh” (Epiphania) vì chú trọng vào việc Thiên Chúa tỏ mình ra . Như vậy, Hiển Linh là việc Thiên Chúa biểu lộ mình ra cho dân ngọai, cho thế giới ngòai Do thái giáo.
Vì lễ Hiển Linh mừng kính việc Đức Giêsu tự tỏ mình cho thế giới dân ngọai, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh dành cho dân ngọai.
Các đạo sĩ.
Đọc Tin mừng Thánh lễ hôm nay, chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về các đạo sĩ (Magi) hay các nhà chiêm tinh. Ngày xưa ở Trung đông, nhất là tại Ba tư, các vị chiêm tinh, hoặc các đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại còn đặït tên cho họ là Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho tòan nhân lọai, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân số :”Một vì sao xuất hiện từ nhà Gia-cóp, một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(Ds 24,17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để thờ lạy Người.
Con số các đạo sĩ (chiêm tinh) là bao nhiêu chúng ta không biết rõ. Do chi tiết ba thứ lễ vật ở câu Mt 2,11 mà từ xưa truyền thống vẫn cho là có 3 vị đạo sĩ; thực ra gốc từ không xác định như thế, mà chỉ ở số nhiều (có thể hơn 3 mà cũng có thể dưới 3). Căn cứ vào câu 1 và 2 các nhà chú giải cho rằng các vị này xét về tinh thần thì là những con người có tâm hồn khát khao tìm kiếm chân lý (Đấng Cứu Tinh) nhưng các vị cũng là các nhà chiêm tinh nhìn các vì sao mà biết có vua mới ra đời.
Lễ vật dâng Chúa Hài Nhi.
Thánh Matthêu viết :”Khi bước vào nhà và nhìn thấy Hài nhi cùng Đức Maria Mẹ Ngài, họ liền quì gối xuống tôn thờ Hài Nhi đọan mang các tặng vật ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”(Mt 2,11).
Ông Seneca ngày xưa cho biết rằng chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Các đạo sĩ cũng theo tập tục ấy, các vị đã dâng ba thứ lễ vật cao qúi xứng đáng với các vị vua và nó cũng có ý nghĩa tượng trưng đối với chúng ta ngày nay. Các vị đã dâng cho Chúa Hài Nhi :
Vàng.
Vàng là vua của mọi kim lọai xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Đức Giêsu là người “sinh ra để làm vua”, nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá. Về vương quyền của Đức Giêsu, thánh Phaolô có viết trong thư gửi cho tín hữu Ephêsô :”Chúa Cha đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết và đặït Đức Kitô bên hữu Ngài trên thiên quốc. Đức Kitô cai trị trên vạn vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô” (Ep 1,20-22).
Nhũ hương.
Người xưa thường dùng nhũ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Khi nói về thiên tính Đức Giêsu, trong thư gửi cho tín hữu Do thái, thánh Phaolô đã diễn tả như sau :”Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa; Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật”(Dt 1,3).
Mộc dược.
Mộc dược là hương liệu để xông hay ướp xác người chết trước khi an táng. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược được tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Khi bàn về nhân tính của Đức Giêsu trong thư gửi cho tín hữu Philipphê thánh Phaolô nói :”Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như mọi người… Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,6-8).
HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.
Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là sự sáng :”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân lọai, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này, chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó về Ngài :”Ta là sự sáng thế gian”(Ga 9,5).
Đức Giêsu là Anh sáng, ánh sáng huy hòang hơn cả mặt trời. Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Đức Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân tộc. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người”.
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Đức Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Đức Giêsu là Ánh sáng chiếu soi cho thế gian đang sống trong u tối, nếu không có ánh sáng, nhân lọai sẽ không biết đường đi. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Ngài ờ trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Truyện : Có cần Đức Giêsu không ?
Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Đức Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu hơn nếu như không hề có Đức Giêsu, thì
– 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Đức Giêsu.
– 47% nói rằng : sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn nếu như Đức Giêsu không tồn tại nơi thế giới này (16% thì nói ngược lại, và 26 % thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Đức Giêsu).
– 63 % nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.
– 58 % thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu không có Đức Giêsu.
– 59 % thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi.
– 38 % tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Đức Giêsu (Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, th. 12/2004, tr 53).
Chúng ta là ánh sáng thế gian.
Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng cho, nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu :”Chính các con là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa dạy :”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,15-16).
Vì Chúa tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân nhận biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó lá “Anh Sáng” :
– Hãy đưa cao Tin mừng như người ta nâng cao đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tối tăm.
– Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Đức Giêsu nói :”Sự sáng của các con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người”. Còn thánh Phaolô thì nói :”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời”. Tuy ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đóm sáng trong đêm tối được.
Truyện : Ngọn hải đăng.
Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng :
– Ông đem tôi đi đâu vậy ?
Ông trả lời :
– Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngòai khơi biết đường trở về và cập bến an tòan.
Cây nến lại nói :
– Nhưng tôi chỉ là cây nến nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngòai khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được ?
Người phụ trách trả lời :
– Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngòai khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an tòan.
Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ trong bàn tay Thiên Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy: “Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên”. Ngòai ra, người ta cũng thường nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, hãy làm việc hết sức mình trước đã, rồi Chúa sẽ thêm sức cho sau. Trong mọi hòan cảnh, chúng ta cần thực hành câu châm ngôn sau: “Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO.
Ngôi sao dẫn đường.
Các đạo sĩ Đông phương đã đi tìm kiếm Đức Giêsu vì “Chúng tôi đã xem thấy ngôi sao của Ngài”, nhưng ngôi sao của Ngài là ngôi sao nào ? Có những người đã tìm hết cách để giải thích theo hiện tượng tự nhiên. Thực thì Chúa có thể dùng các hiện tượng tự nhiên vào các mục đích của Ngài. Song theo lối diễn tả của thánh sử thì khó có thể giải thích theo các hiện tượng tự nhiên được. Sao xuất hiện, dẫn đường, rồi biến đi, rồi lại hiện ra đến chỗ Hài Nhi ở thì dừng lại ở trên… Những hiện tượng tự nhiên mà làm việc đó thì cũng là quá sức tự nhiên vậy !
Chúng ta không biết ngôi sao nào đã dẫn đường các đạo sĩ, nhưng chắc chắn có một ngôi sao kèm với sự soi sáng và thúc đẩy các vị đi tìm Chúa Hài Nhi. Sự soi sáng của Chúa mới là chính yếu, còn ngôi sao chỉ là phụ thuộc để theo đó mà thi hành thánh ý Chúa. Phải biết nhìn trời mà nhận ra ý Chúa : các đạo sĩ đã biết nhìn lên bầu trời mà nhận ra ngôi sao lạ. Từ ngôi sao đó, các đạo sĩ đã nhận ra vị Cứu Thế. Đời người Công giáo cũng phải có lối sống đó :”Nhìn điềm thời đại” đểû đón nhận ra ý Chúa (x.Mt 16,14). Vậy tất cả những việc xẩy ra trong đời ta, dù lớn nhỏ, đều là ngôi sao điềm trời, cho nhận ra Thiên Chúa, ý Ngài.
Đức Giêsu là ngôi sao Hy vọng.
Tiên tri Isaia đã nói :”Dân đang lần bước giữa tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hòang; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”(Is 9,1).
Anh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân lọai mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian. Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi cậy trông nơi Ngài, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để nỗi thất vọng nào chạm được đến chúng ta.
Bất kỳ ai cũng được hưởng ơn cứu độ. Dân ngọai cũng được vào Nước Trời. Ngày xưa, những người theo đạo Do thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứùu rỗi. Sách Công vụ tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ :”Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng :”Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo luật Maisen, thì anh em không thể được ơn cứu độ”(Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin mừng hôm nay mạc khải một sự thật hòan tòan ngược với lại quan niệm ấy.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, ta thấy những người Do thái – mặc dù đã biết Đấng Cứu Thế sinh tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng lễ vật cho Ngài lại là dân ngọai từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngọai.
Hãy theo ánh sao chỉ đường.
Các đạo sĩ khát khao được triều bái Chúa Hài Nhi, họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như Hêrôđê. Theo phong tục Á đông, họ đến để thờ lạy Đấng Cứu Thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh ra nơi cung điện huy hòang. Ở đây Chúa Cứu Thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hòang trong các nhà thờ mùa Giáng sinh. Vậy thì làm sao các đạo sĩ có thể quì xuống thờ lạy một hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa ? Đâu là cái dấu hiệu để các vị nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng Cúu thế ? Theo Thánh Kinh thì cái dấu hiệu là ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Belem đã được tiên tri Mikêa loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng Cứu thế sinh ra , mà dân được chọn không nhận ra ? Lý do là vì họ mong đợi Đấng Cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Ngài chọn sinh ra trong hang bò lừa, họ không nhận ra Ngài.
Theo gương các đạo sĩ, chúng ta cũng phải lên đường đi tìm Chúa. Thật vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta thành tâm thiện chí thì chúng ta sẽ tìm được ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu. Tất cả những việc chung quanh ta cũng như trong tòan thế giới cũng là những ngôi sao nhắc nhở về Chúa, những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng mang một sứ điệp nào đó của Thiên Chúa. Hãy chú ý lắng nghe, cởi mở tâm hồn và đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta.
Mỗi người cũng phải là một vì sao.
Thánh Gioan tông đồ nói :”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân lọai. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Đức Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối ! Chúng ta phải làm sao cho thế gian chấp nhận được Đức Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyện :”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Phaolô giải thích :”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta , bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Lm Carôlô).
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì lọan cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng (x. Lc 17,10). Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời của thế kỷ hai mươi.
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành ngôi SAO MAI chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày), vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.
Ánh sáng của SAO MAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất :”Đẹp như ánh Sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi Sao Mai đã được dùng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như ngôi sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã tung hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng.
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển Linh nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân lọai ở thế kỷ này. Chúa vẫn còn cần có những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời của thế hệ này. Những ngôi sao lạ ấy là chính chúng ta.
—————————-
LỄ HIỂN LINH
DÂN NGOẠI ĐỨNG TRƯỚC ĐỨC VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI– Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x. Mt 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đặc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu được khối thứ hai:
– 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
– 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng Mt cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể TM Mt.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
– Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh.
– Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
– Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
Vài điểm chú giải
– Bêlem (Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
– Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
– Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ VI (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25-12-753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tCN.
– mấy nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ V), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ VIII). Sang thế kỷ XIV, ông Gaspar được coi là một người da đen…
– chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuộc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
– xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
– Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
– Các thượng tế (archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
– kinh sư trong dân (4): dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân chúng”: một kiểu nói phóng đại.
– Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
– mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
– Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
– hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
– sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
– lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (Bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mt không quan tâm đến cuộc hành trình của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của dân Israel. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”, chứ không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai phần sau đây tương ứng với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong cc. 13-23) tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem; một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấm Mk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành Giêrusalem” được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng, “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu “Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu trả lời về “Đức Vua dân Do Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ móc laos (“dân chúng”) để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này đưa chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, một dược mà dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu đã được giới thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Gợi ý suy niệm
Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
[1] Ghi nhận theo bản văn Hy Lạp.
—————————–
ĐƠN SƠ VÀ THÔNG THÁI- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hình hài một trẻ thơ, với cha mẹ là Giuse và Maria. Đó là Tin Mừng Giáng Sinh. Vĩnh cửu đã đi vào trong thời gian.Vô hạn đã trở thành hữu hạn.Trời đã nối với đất và đất đã gặp gỡ trời!
Sau các mục đồng Do thái, đến lượt các Đạo sĩ phương Đông được mạc khải về Chúa Hài Đồng Giêsu. Các đạo sĩ, có lẽ là các nhà Chiêm tinh học Babylon hoặc Ba Tư đã vất vả vượt đường xa, lặn lội tìm kiếm nơi Hài Nhi giáng sinh để bày tỏ lòng yêu mến đối với một Vị Vua của nhân loại vừa ra đời. Kiến thức uyên thâm cùng với lòng khao khát tìm kiếm đã thúc đẩy các vị, từ những phương hướng khác nhau, cùng đi tới trong một ý hướng để tiến dâng lễ vật với tấm lòng thành.
Ðức Cha Fulton Sheen đã gọi các mục đồng các đạo sĩ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,10-12).
Còn các đạo sĩ ở bên kia xứ phương Đông, nghiên cứu bầu trời và thấy một ngôi sao lạ xuất hiện. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá Bêlem gặp Hài Nhi: “Bấy giờ, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,9-12).
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra
Các đạo sĩ tìm gặp Ðấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng khôn ngoan.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Ðức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri… nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Ðiều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen với các mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng tế, các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất chính xác nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ.
Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Phúc âm Luca nói đến người đơn sơ và người thông thái: “Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. – Cha đã trao cho Con mọi sự. Không ai biết Con là ai, ngoài Cha ra; cũng không ai biết Cha là Đấng nào, ngoài Con, và những người được Con muốn tỏ cho biết”. (Lc 10, 21-22). Chúa Giêsu ngợi khen Cha trên trời, vì đã giấu những bí ẩn của Người đối với kẻ thông thái mà lại tỏ ra cho ai đơn sơ. Xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng điều này tỏ lộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa.“Những người nhỏ bé, đơn sơ” là dấu hiệu cho thấy rõ ràng về việc cứu rỗi của Thiên Chúa.Những người đơn sơ theo Thánh Kinh là những người hiểu hơn ai hết tình cảnh của mình. Họ tìm Thiên Chúa với niềm phó thác và biết rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi một ai trong sự thất vọng. Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là “những người khôn ngoan và thông thái” bị loại ra khỏi lối vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Điều mà “những con người khôn ngoan”cần phải biết là họ chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa – Đấng Vô hình bắt đầu từ những gì đơn sơ nhất. Sự khôn ngoan, thông thái và niềm kiêu hãnh vì có “đầy kinh nghiệm cuộc sống” hay vì mãn nguyện với “thẩm quyền trí tuệ và thần học”đã ngăn cản nhiều người khám phá kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kìm giữ bước chân họ trong “khung trời riêng”của mình mà không hội nhập vào sự năng động của ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến (x.donboscoviet.net).
Các đạo sĩ thông thái có đủ khiêm nhường để đến gặp gỡ và thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các mục đồng và đạo sĩ thật có phúc như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe” (Lc 10,24).
Thiên Chúa từ trời cao đã làm người trần thế và làm một Hài Nhi để ta có thể gặp được Ngài. Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã trở nên một trẻ thơ bọc tã, nằm trong máng cỏ, để cho ta có thể gần gũi Ngài. Lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh chính là lễ hội những cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi Hài Nhi Giêsu. Chỉ có người đơn sơ và người thông thái với đức khiêm nhường mới gặp được Người.Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
—————————-
LỄ HIỂN LINH
ÁNH SAO NIỀM TIN- Trích Logos Năm A
Ngày 26/12/2004, cả thế giới đã bàng hoàng và đau xót trước trận động đất với cường độ 8,9 độ richter và tạo ra những đợt sóng thần cao đến 10 mét quét qua những nước Nam Á và Đông Nam Á giết chết hàng trăm ngàn người. Con số thống kê người chết là hơn 200.000 người, một con số thương vong kỷ lục trong một trận thiên tai tính trong vòng 200 năm trở lại đây.
Trước thảm họa khủng khiếp đó, ai cũng cho rằng nguyên nhân chính là những quốc gia bị nạn thiếu hệ thống cảnh báo động đất và sóng thần.
Nhưng tờ báo The Nation tại Thái Lan số ra ngày 31/12/2004 đã tiết lộ rằng : Các nhà thiên văn và khí tượng học Thái Lan đã nhận được tin báo động đất trước đó, nhưng họ cho rằng trận động đất sẽ không gây hậu quả nghiêm trọng như trước đây vẫn thường xảy ra. Hơn nữa, vì đang trong mùa du lịch cao điểm, nếu báo động sẽ mất khách. Vì thế, họ đã im lặng và thảm họa đã xảy ra. Thủ tướng Thái Lan đã cho điều tra sự việc trên và quy trách nhiệm cho những nhà thiên văn và khí tượng học thiếu trách nhiệm, cũng như thiếu tinh tường trong chuyên môn của mình.
Hôm nay, trong ngày lễ Hiển Linh, chúng ta gặp gỡ các vị đạo sĩ hay còn gọi là những nhà chiêm tinh học, hoặc thiên văn học, là những người chuyên nghiên cứu về những hiện tượng thiên văn. Các vị đạo sĩ đã có đôi mắt nhạy bén và tinh tường khi nhìn thấy ngôi sao lạ. Họ tin rằng đó là dấu hiệu cho thấy vị cứu tinh đã ra đời, nên vội vã lên đường, đi tìm gặp Chúa Hài Nhi.
Chúa Kitô, ánh sáng muôn dân
Qua hình ảnh “ngôi sao lạ” xuất hiện trên bầu trời phương đông, nhiều nhà khoa học hiện nay đang đặt ra nhiều nghi vấn : Thực sự có “vì sao lạ” ấy không ?
Vào thế kỷ XVII, nhà thiên văn học vĩ đại người Đức Kepler, đã gây chấn động trong giới Công Giáo khi cho rằng : Ngôi sao dẫn đường cho các nhà thông thái kia chẳng qua chỉ là sự kết hợp giữa Sao Thổ và Sao Mộc, chứ không phải là một “vì sao lạ” xuất hiện !
Có một giả thuyết khác, “vì sao lạ” kia chính là sao chổi Harley. Nhưng nhiều nhà thiên văn học đã tính ra được sao chổi Harley đã xuất hiện và biến mất ở vùng trời đó 10 năm trước khi Chúa Kitô ra đời.
Tuy nhiên, trong niềm tin của người kitô hữu, “ánh sao lạ” chính là dấu chỉ cho thấy Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân. Trên thực tế, ngôi sao không thể tự mình phát ra ánh sáng, nhưng nó chỉ phản chiếu ánh sáng từ mặt trời. Đức Kitô chính là mặt trời công chính, là nguồn sáng soi chiếu cho mọi người ở mọi nơi.
Ngay sau khi giáng sinh, Chúa đã tỏ mình cho các kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa cũng tỏ mình cho các vị đạo sĩ qua ánh sao phản chiếu ánh sáng từ Chúa. Các vị đạo sĩ đại diện cho những người chưa nhận được ánh sáng Tin Mừng. Vì vậy, ngày lễ Hiển Linh cũng còn được gọi là lễ Chúa tỏ mình cho lương dân.
Cuộc hành trình đức tin.
Cuộc hành trình đi tìm gặp Chúa Hài Nhi của các vị đạo sĩ là hình ảnh gợi lên cuộc hành trình đức tin của người tín hữu.
Cuộc hành trình của các vị đạo sĩ khởi đầu bằng ánh sao lạ, khiến các ngài cảm nhận được một sự thôi thúc lên đường, đi tìm kiếm và gặp gỡ một ai đó rất cao trọng và linh thiêng. Vì thế, các ngài đã từ bỏ nếp sống thân quen và ổn định để ra đi, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mịt mờ. Cũng vậy, cuộc hành trình đức tin của người kitô hữu cũng khởi đầu bằng sự thôi thúc lên đường, ra khỏi cái tôi ích kỷ lười biếng để gặp gỡ Chúa là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Cuộc hành trình của các vị đạo sĩ không phải luôn êm xuôi trôi chảy, cũng không phải là một con đường bằng phẳng êm ái. Trái lại, đó là một cuộc hành trình dài đầy gian khó. Từ Babylon đến Giêrusalem dài đến 800 dặm (tương đương 1.280 km), có những lúc ánh sao xuất hiện dẫn đường, có những lúc lại biến mất, họ phải đi trong một viễn cảnh mịt mù tăm tối. Nhưng các ngài vẫn trung kiên bước đi và cuối cùng đã gặp được Chúa. Cũng vậy, người kitô hữu phải trải qua cuộc hành trình đức tin gian khổ : có những lúc bầu trời tươi sáng, có lúc phải lần bước trong đêm tối, lại có lúc ánh sáng đức tin hầu như lịm tắt. Nhưng nếu người tín hữu trung thành và tin tưởng vào Chúa, họ sẽ tìm gặp được Ngài là nguồn ơn cứu rỗi cho đời mình.
Đời người tín hữu luôn là cuộc lên đường.
Bởi vì biết sẵn sàng lên đường, từ bỏ những tiện nghi sung sướng, các vị đạo sĩ đã gặp gỡ Chúa. Cũng vậy, Abraham đã sẵn lòng lên đường ra đi theo tiếng gọi của Chúa. Ngài từ bỏ vùng đất quen thuộc đang sinh sống, đi đến một nơi mà mình chẳng hay biết. Tổ phụ Abraham đã tin vào Chúa và đã được Chúa ban cho những ân huệ trọng đại. Trái lại, vua Hêrôđê đã không chấp nhận lên đường để tìm kiếm, nên không thể gặp được nguồn hạnh phúc đời mình. Ông ta đã đánh mất chính mình trong tham vọng và bạo tàn, đã tự chôn chặt đời mình trong hận thù ghen ghét.
Cũng thế, người kitô hữu nếu không biết sẵn sàng lên đường, ra khỏi chính mình để gặp gỡ Chúa là cùng đích đời mình, họ sẽ đánh mất cứu cánh đời mình. Ra khỏi con người thấp hèn, người kitô hữu sẽ gặp được Chúa và tha nhân. Như thế, cuộc đời họ sẽ được thăng hoa và hoàn thiện.
Bài đọc I chính là một lời khuyên hữu ích cho người tín hữu hôm nay : mặc dù sống trong chốn lưu đày, tiên tri Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó, Giêrusalem sẽ được tái thiết trong huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến. Trong khi cả trái đất đang ngập chìm trong bóng tối, Giêrusalem lại bừng sáng vì có Chúa là ánh sáng đang ngự ở đó.
Chúng ta cũng hãy luôn đón nhận Chúa là ánh sáng vào cuộc đời chúng ta, để chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho mọi người. Mỗi người hãy là một vì sao nhỏ dẫn đường cho tha nhân tìm về Chúa là đường, là sự thật và là sự sống.
Vào một buổi chiều năm 1966 tại nước Nam Phi, có một đám trẻ con đang chơi đùa tại một vùng đất gần bờ biển. Một chú bé tên Tacob lượm được một viên đá trong suốt, lấp lánh một ánh sáng kỳ lạ. Cả bọn trẻ xúm lại xem và bàn tán sôi nổi. Nhưng cuộc vui kéo chúng về thực tại, chú bé ném viên đá ấy đi và tiếp tục chơi đùa. Nhưng cô bé em của Tacob lượm lại viên đá ấy mang về nhà đặt bên cạnh con búp bê, giả làm đèn.
Ông hàng xóm ở cạnh nhà tên Niekerk biết được liền đổi cho cô bé chiếc đèn thật đẹp để lấy viên đá kia. Viên đá ấy chính là một viên kim cương rất quý giá. Nó cân nặng 21,5 carats. Ông ta đã trở nên giàu có nhờ viên đá mà ông tình cờ có được.
Viên đá kia đã tỏa ánh sáng lấp lánh, nhưng không ai nhận ra ánh sáng kỳ diệu đó, ngoại trừ ông Niekerk. Đức Kitô cũng là viên kim cương quý giá, mà chỉ những đôi mắt đức tin mới có thể nhận ra được ánh sáng phát ra từ Ngài.
Trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay, ánh sáng của vì sao lạ đã chiếu tỏa trên bầu trời phương đông. Nhưng tiếc thay, chỉ có các vị đạo sĩ mới nhận ra ánh sáng ấy. Chúng ta hãy xin Chúa cho đôi mắt đức tin chúng ta luôn sáng ngời, để nhận ra những dấu chỉ yêu thương Chúa tỏ bày trong cuộc sống. Chúng ta cũng hãy trở thành dấu chỉ tình thương của Chúa qua những nghĩa cử yêu thương hàng ngày trao gửi đến mọi người. Đó là những vì sao tình yêu luôn rực cháy trong cuộc đời hôm nay.
———————-
LỄ HIỂN LINH
NIỀM VUI GẶP GỠ- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
– Bước đi trước của Thiên Chúa
Thánh Kinh thuật lại, ngay từ những ngày đầu tạo dựng, “chiều chiều”, Thiên Chúa vẫn đi dạo trong vườn và trò chuyện thân mật, vui vẻ với con người. Chúng ta có thể hình dung: Mỗi lần Thiên Chúa đến thăm, là vườn Địa đàng như mở hội, tiếng cười nói giữa Thiên Chúa và con người râm ran, và có thể cả hoa lá, chim chóc cũng cất cao tiếng hót phụ họa. Chỉ cần nghe bước chân Thiên Chúa từ xa là ông bà Nguyên tổ đã chạy ra đón Ngài. Thế rồi, có một hôm, như lệ thường, Thiên Chúa vào vườn Địa đàng và Ngài thấy bầu khí hôm đó chợt như chùng xuống, nặng nề, vắng hẳn cả tiếng hót líu lo của bầy chim. Ngài không nghe thấy bước chân của con người chạy ra đón Ngài như những hôm trước. Lấy làm lạ, Thiên Chúa đã cất tiếng gọi: “Ađam, ngươi ở đâu?” (St 3, 10).
Và cũng kể từ đó, thưa quý OBACE,
Trải qua suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, cùng với tiếng gọi “Ngươi ở đâu?”, Thiên Chúa bằng nhiều cách: qua các tổ phụ, các ngôn sứ, qua các biến cố trong lịch sử, các biến chuyển trong thiên nhiên… tiếp tục tìm kiếm con người.
Cuộc tìm kiếm này không phải là dễ dàng gì. Trong cuộc tìm kiếm này, Thiên Chúa đã nhiều lần bị bội phản, nhiều lần tưởng chừng như đã nắm bắt được con người, nhưng rồi, con người lại quay lưng bỏ mặc Thiên Chúa. Suy nghĩ nhiều, tôi cũng không hiểu: Tại sao Thiên Chúa lại làm một cuộc tìm kiếm thật vất vả như thế để làm gì? Bởi vì xét cho cùng: Có con người hay không, Ngài cũng chẳng mất mát gì? Vậy mà Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục không ngừng tìm kiếm con người cho đến một lúc, Ngài đã phải cho chính Người Con Một yêu dấu của Ngài nhập thể làm người, đến trong trần gian để trực tiếp đi tìm con người.
Đây quả là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm của tình yêu. Thánh Phaolô trong bài đọc hai nói: “Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã được mạc khải cho các thánh tông đồ của Người”. Mầu nhiệm mà thánh Phaolô muốn nói ở đây là mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, để cho chúng ta “được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần lời hứa của Người”, được nhận lãnh sự sống của Người.
Con Thiên Chúa đã đến trong trần gian, nhưng con người vẫn vô tâm không nhận ra Người. Và một lần nữa, Thiên Chúa lại chứng tỏ tình yêu của Ngài dành cho con người, khi tiếp tục đi bước trước để mạc khải cho con người. Ngài đã cho xuất hiện một ngôi sao lạ, làm dấu chỉ, để dẫn đưa con người đến với Ngài. Các đạo sĩ trong bài Tin mừng đã nói với vua Hêrôđê: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương”.
Ngôi sao lạ đã xuất hiện. Con Thiên Chúa đã làm người. Lời hứa của Thiên Chúa từ bao đời nay đã trở nên hiện thực. Đây là lúc ứng nghiệm lời loan báo của ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi”. Thế nhưng, để Thiên Chúa và con người có thể gặp lại được nhau, vẫn rất cần một sự đáp trả trong tự do của con người.
– Lời đáp của con người
Thiên Chúa đã tìm kiếm con người thật vất vả, nhưng sự đáp trả của con người thật nhạt nhòa. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la, còn con người thì cứ mãi quay lưng hững hờ. Tuy nhiên, trong bài Tin mừng, chúng ta cũng đã nhận ra một sự cố gắng của con người trong nỗ lực đáp lại tình yêu của Thiên Chúa qua hình ảnh của các đạo sĩ đến từ phương Đông xa xôi. Họ đã nói với dân cư thành Giêrusalem: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”.
Hành trình đáp trả của các đạo sĩ quả là một hành trình đáp trả đầy lòng tin, kiên vững, phó thác và yêu mến, nhưng cũng rất khôn ngoan. Các đạo sĩ đã biết sử dụng những phương tiện của con người, nhưng quan trọng hơn, họ đã luôn biết lắng nghe tiếng Chúa, cho dù tiếng đó đến từ kẻ đối nghịch như bạo vương Hêôđê.
Các đạo sĩ đã tìm và đã gặp. Họ đã gặp được “Vua dân Do Thái”, vua của cả vũ trụ, cho dù trước mắt họ chỉ là một hài nhi bé nhỏ. Họ đã gặp được Đấng họ kiếm tìm. Họ đã đạt được mục đích của đời mình. Và với một bối cảnh như thế, trong họ chắc chắn sẽ vỡ òa một niềm vui. Diễn tả niềm vui mừng hân hoan của những người gặp gỡ được Cứu Chúa của mình, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một đã dùng một hình ảnh hết sức sống động “Tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên”.
Các đạo sĩ trong bài Tin mừng đã chấp nhận rời bỏ sự yên ổn nơi gia đình, quê hương của mình, can đảm và kiên trì cất bước lên đường trong sự mờ tỏ của một ánh sao lạ, và các ông đã gặp được Chúa. Còn chúng ta hôm nay thì sao?
– Chúng ta hôm nay
Thiên Chúa đã và vẫn đang không ngừng theo đuổi, tìm kiếm từng người chúng ta. Ngài vẫn đang nói với chúng ta qua lời của Ngài trong Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo hội. Ngài vẫn đang nói với chúng ta qua các biến chuyển của thiên nhiên, qua các biến cố trong lịch sử. Ngài vẫn đang nói, đang nhắc nhở, đang tìm kiếm chúng ta qua cha mẹ, anh chị em, qua những người chúng ta gặp gỡ tiếp xúc mỗi ngày. Và cách đặc biệt hiện nay nơi giáo xứ của chúng ta, Ngài vẫn đang nói với chúng ta qua tiếng nói của Mẹ Maria mà từng gia đình chúng ta đang được hân hạnh đón tiếp mỗi ngày trong giờ Kinh Tối.
Về phần mình, chúng ta đã làm gì để gặp được Chúa? Chúng ta có dám vượt qua sự lười biếng, vượt qua mặc cảm tội lỗi, vượt qua những đam mê của mình để đến với Chúa không?
Và một trong những dấu chỉ cụ thể nhất chứng tỏ rằng chúng ta đã gặp được Chúa, đó là việc chúng ta gặp gỡ anh chị em mình, bởi vì từng người đang sống chung quanh chúng ta đây đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Thử hỏi: Trong gia đình của mình, trong khu xóm của mình đang còn bao nhiêu người mà hiện nay khi gặp nhau, chúng ta chưa thể “tay bắt, mặt mừng”?
Thiên Chúa đã bỏ qua biết bao lỗi lầm, yếu đuối của tôi và quý OBACE, để đến gặp gỡ chúng ta. Biết bao nhiêu lần tôi và quý OBACE đã quay lưng lại với Ngài để chạy theo những đam mê, dục vọng của mình, vậy mà Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục “lẽo đẽo” theo sau từng người chúng ta, để “năn nỉ” chúng ta trở về với Ngài.
Theo chân các đạo sĩ hôm nay, mỗi người chúng ta, hãy can đảm chỗi dậy, ra khỏi cái tôi ù lì, lười biếng, cao ngạo, tự mãn, ích kỷ của mình, để con mắt chúng ta có thể nhận ra ánh sao chân lý của Chúa, tai chúng ta có thể nghe được tiếng nói của tình yêu, và mau chóng lên đường. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta có thể tràn ngập niềm vui và bình an, vì đã gặp được Chúa. Amen.