CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
LỄ GIÁNG SINH 2016
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG – Chú giải của Noel Quesson (*)
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
MỘT SỰ TRAO ĐỔI KỲ DIỆU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông
CON THIÊN CHÚA HÒA MÌNH VÀO LỊCH SỬ NHÂN LOẠI – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM- Chú giải của Fiches Dominicales.
MÁNG CỎ VÀ VINH QUANG THIÊN QUỐC– Lm FX Vũ Phan Long, ofm
CHÚA ĐẾN XÂY DỰNG HÒA BÌNH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.
HÃY DÀNH CHO CHÚA MỘT CHỖ… Fx Huỳnh Phùng.
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG – Trích Logos A..
SỨ ĐIỆP TỪ HANG BÊLEM- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
HỌ LIỀN HỐI HẢ RA ĐI- Lm Ignatiô Hồ Thông.
LOAN TIN CHÚA GIÁNG SINH- Lm.Jos Tạ Duy Tuyền.
LÊN ÐƯỜNG- Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm..
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM Ngô Quang Kiệt
HÀI NHI GIÊSU, QUÀ TẶNG CAO QUÍ- Trích Logos Năm A..
CHÚNG TÔI ĐÃ ĐƯỢC NHÌN THẤY VINH QUANG CỦA NGƯỜI- Lm Inhaxiô Hồ Thông
NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI– Lm FX Vũ Phan Long, ofm..
LỜI CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Đinh Tất Quý (*)
ĐÁNH MÁT CƠ HỘI NGÀN VÀNG- Linh mục Inhaxiô Trần Ngà.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM – Trích trong Niềm Vui Chia Sẻ
———————————–
LỄ CHÚA GIÁNG SINH
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
LỄ ĐÊM
BÀI ĐỌC I: Is 9, 2-4.6-7
“Chúa ban Con của Người cho chúng ta”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Đáp: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.
BÀI ĐỌC II: Tt 2, 11-14
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 10-11
All. All. – Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Đấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. – All.
PHÚC ÂM: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”. Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Đó là lời Chúa.
***
LỄ RẠNG ĐÔNG
BÀI ĐỌC I: Is 62, 11-12
“Này đây Đấng Cứu Độ ngươi đến”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia
Đây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Đấng Cứu Độ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Đáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
2) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
BÀI ĐỌC II: Tt 3, 4-7
“Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Đấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 14
All. All. – Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. – All.
PHÚC ÂM: Lc 2, 15-20
“Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Đó là lời Chúa.
***
LỄ BAN NGÀY
BÀI ĐỌC I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia
Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Đáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
BÀI ĐỌC II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Đấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!”
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
All. All. – Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. – All.
PHÚC ÂM: Ga 1,1-18 (hoặc 1-5. 9-14)
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Đó là lời Chúa.
———————————————
CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA GIÁNG SINH
THÁNH LỄ ĐÊM
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG – Chú giải của Noel Quesson (*)
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm” nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề” thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là “Sebastos”, có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ”. Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông “vua trần gian” như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng… để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê”.
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng “Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta” . Và những biến cố là “những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta” (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca “giải thích” biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là “cứu Chúa” mà “một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, “trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê”, giữa những người nghèo khổ, thuộc “số nhỏ còn lại”… trong “thành của Đavít”. Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di… Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới “kín mật”, một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào “những nhà hữu trách” chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: “Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai”. Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là “trinh nữ” Vậy mà, cô lại “có thai”! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là “Cha” của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta” các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, ‘đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười… Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai…
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để “nhận ra” cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra ” Từ giờ trở đi”, Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở “củng chúng ta”. Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm “trong máng cỏ”, hiện diện trong một “hang” bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha”. (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những “người chăn chiên”, trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống “ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng “quê mùa”!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ “bé mọn”, những người “nghèo khổ” những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. “Vinh quang” là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. “Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói” của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi “Truyền đạt” của Thiên Chúa đều là “Tin Mừng tin vui”. Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ “phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời “truyền đạt” của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố “giấy chứng minh” đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách “Cứu Chúa” này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự “nghèo khó” và “yếu đuối”! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của “ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
———————————————-
THÁNH LỄ ĐÊM
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
————————————————-
THÁNH LỄ ĐÊM
MỘT SỰ TRAO ĐỔI KỲ DIỆU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc nầy được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta.
Is 9: 2-4, 6-7.
Bài đọc I là bài thơ tràn đầy hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Tám trăm năm trước đó, vị ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc đản sinh của Đấng Cứu Độ.
Tt 2: 11-14.
Trong đoạn trích thư gởi cho ông Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm cho sự huy hoàng vinh quang ngày lễ Phục Sinh.
Lc 2: 1-14.
Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, chắc hẳn trẻ thơ nầy là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.
Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc phương Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.
Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9: 2-4).
Nhưng nầy một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (Is 9: 6-7).
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính vì một trẻ thơ chào đời thuộc hoàng tộc Đa-vít.
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).
“Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng nầy đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập.
Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha của dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy.
Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo sự giải thoát của dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên xứ sở của họ (vương quốc phương Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc phương Nam, ở Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc được thống nhất dưới vương quyền của vua mê-si-a?
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc phương Nam xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) đối đáp với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp.
Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp nầy mà chính thánh Phao-lô đã hạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
Thần tính của Đức Giê-su.
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng chữ Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki tô không là cách dùng quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa” chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
Lợi ích của bức thư.
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì vị sứ đồ cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
Trong số bốn thánh ký Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những quy chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét. Việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô (năm 30 trước Công Nguyên – năm 14 sau Công Nguyên) được thực hiện trên xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, kỷ niệm về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn tồn tại trong ký ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.1
Hoàn cảnh giáng sinh của Đức Giê-su.
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.
Hai dấu chỉ cùng lúc.
Đức Giê-su chào đời ở Bê-lem, có nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, vì tình yêu Ngài làm cho mình trở thành một mẫu bánh.
Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của hài nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ là thuật ngữ pháp lý; nó không bao hàm rằng Đức Ma-ri-a còn có những người con khác. “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký nói đến là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (cf. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).
Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.
“Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân thành thân phận yếu hèn và phụ thuộc của một hài nhi bé bỏng. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao con người khác.
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
Thiên Chúa nghèo khó.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.2
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách nầy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
Mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở bên ngoài và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Palestine, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn niên biểu nầy để tưởng niệm ngày chào đời của Ngài đã đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối.
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ. Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới.
Thiên sứ.
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân.
Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như bài đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
Sứ điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn nầy: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản nầy tiền trưng một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?
Bài ca của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
Một sự trao đổi kỳ diệu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người vừa mặc khải về Thiên Chúa vừa mặc khải về con người. Trong một cuộc yết kiến của thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.
THÁNH LỄ VỌNG
“CON THIÊN CHÚA HÒA MÌNH VÀO LỊCH SỬ NHÂN LOẠI” – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Mt 1, 1-25)
Phụng vụ Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh dìu chúng ta về với gia phả nhân loại, có Con Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô sinh ra trong gia phả ấy.
Gia phả của Đức Giêsu Kitô
Người ta có cố có ông, có cha có mẹ có ông có bà, tức là có một gia phả. Đức Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng làm người, nên cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy. Gia phả của Đức Giêsu Kitô được Thánh sử Matthêu viết thật là dài cả thảy 42 đời, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Gia phả này nhắc nhớ chúng ta rằng, “Sau sự sa ngã phạm tội của Ađam và Evà, Thiên Chúa đã không muốn bỏ rơi nhân loại một mình, cũng như đã không muốn phó mặc nhân loại cho sự ác. Ngài đã đáp trả lại sự nặng nề của tội lỗi bằng sự phong phú tràn trề của ơn tha thứ. Lòng Thương Xót luôn luôn vượt lên trên mọi mức độ của tội lỗi, và không ai có thể đặt ra những giới hạn cho Tình Yêu tha thứ của Thiên Chúa” (x. Misericodiae Vultus số 3). Thiên Chúa đã đi tìm Ađam và Evà và đồng hành với con người. Thiên Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, thứ đến là các tổ phụ khác. Thiên Chúa đã hòa mình vào lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, có những thánh nhân vĩ đại nhưng cũng có những tội nhân thấp hèn. Đó là Tình Yêu an ủi của Thiên Chúa, Đấng tha thứ và ban tặng niềm hy vọng cho chúng ta.
Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Abraham, và cuộc đời Người gắn kết với dân tộc Israen, một dân được tuyển chọn trong tình thương. Đức Giêsu cũng là Con của vua Đavít, nên Người có cơ sở để là Đấng Kitô như lời hứa.
Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm người, sinh ra trong một gia đình, sống trong xã hội, nên cũng chịu chi phối bởi xã hội trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (x. Mt 1,16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Israen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn.
Như chúng ta đã nói ở trên, Con Thiên Chúa hòa mình vào một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, một gia phả khác thường đối với Do thái giáo. Bởi lẽ, trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ, đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria ra, còn bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Mỗi bà lại có hoàn cảnh khác thường không ai giống ai. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (x. 2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (x. R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này, nên cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại nếu tính theo gia phả, dẫn đến cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.
Sự giáng sinh của Con Một Chúa
Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Có thể nói, Đức Giêsu có dược “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.
Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng cứu thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.
Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra như vậy tại Bêlem trong Ðêm Cực Thánh Chúa sinh ra đời. Amen.
———————————————–
THÁNH LỄ ĐÊM
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM- Chú giải của Fiches Dominicales
Đức Giêsu Sinh Ra Ở Bêlem Và Thiên Thần Báo Tin Cho Các Mục Đồng
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Bóng tối của một sự ra đời…
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia – lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy – nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với “sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” J. Potin suy diễn thêm: “ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra” (“Đức Giêsu, lịch sử có thật”, Centurion tr. 93).
– Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem “thành của Đavid” để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ ” ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong “phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại “phòng tập thể” trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
Sẽ soi sáng mọi đêm tối.
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây “trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: “ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại”. những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ “hèn hạ ” (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ ” (15, 2) (“Tin Mừng thánh Luca”, Centurion tr. 38-39).
– Sứ điệp mà “các thiên thần của Chúa” mang đến cho họ là một “Tin Mừng” (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho “Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: “Đấng cứu độ”, “Đấng Mêsia “, “Chúa ” đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ “, “Đấng Mêsia” (Kitô), “Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36…) và của Phaolô (Cv 13,33…).
– “dấu chỉ” cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có”, để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu (“Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học”, Cerf, tr. 36).
– Lời tạ ơn “đột nhiên” vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự “bình an” mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền “hoà bình Rô-ma” Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
Từ Bêlem đến Phục Sinh (A.George, trong “Assemblées du Seigneur”, số 10, tr. 6f’ 67).
“Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón… bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sựï hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, “chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan ” ( 2 C r 12, 9 ) .
“Đã 2000 năm” (Mgr. F.Favreau trong “Mùa Vọng năm 2000″, Documents ” épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
————————————————
THÁNH LỄ ĐÊM
MÁNG CỎ VÀ VINH QUANG THIÊN QUỐC– Lm FX Vũ Phan Long, ofm
(Luca 2,1-20 – Phần chú giải bao gồm cả lễ đêm và rạng đông)
Ngữ cảnh
Trong ch. 1–2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được đặt song song thành hai cánh:
– Cánh các cuộc loan báo (1,5-56):
- a) Loan báo về Gioan (1,5-25);
- b) Loan báo về Đức Giêsu (1,26-38);
– Cánh các cuộc chào đời (1,58– 2,52):
- a) Gioan sinh ra (1,58-80);
- b) Đức Giêsu sinh ra (2,1-52).
Bản văn 2,1-20 là phần đầu trong khối bản văn nói đền việc Đức Giêsu chào đời.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
– Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (2,1-5);
– Cuộc chào đời (2,6-7);
– Mạc khải về hài nhi và phản ứng lại với mạc khải (2,8-20):
- a) Mạc khải về hài nhi sơ sinh cho các mục đồng (cc. 8-14)
- b) Phản ứng lại mạc khải (cc. 14-20).
– Đức Giêsu chịu phép cắt bì (2,21)
Vài điểm chú giải
– Xêda Âugúttô (1): Gaiô Ốttaviô sinh ngày 2/9/63 trước CG; khi Giuliô Xêda bị ám sát vào tháng 3/44 thì ông đang ở bên Tây-ban-nha. Nhờ sự hỗ trợ của ông chú, ông được coi là người thừa kế chính, rồi vào năm 43, ông được nhận là con nuôi của Giuliô Xêda, với tên là Gaiô Giuliô Xêda Ốttavianô. Từ ngày 27/11/43 tr CG, Rôma được cai trị bởi một tam đầu chế là Ốttavianô, Máccô Antôniô và M. Lêpiđô. Vào ngày 1/1/43, Xêda được nhìn nhận là thần, nên Ốttavianô trở thành divi filius (con thần). Chế độ tam đầu chấm dứt vào năm 36, và Ốttavianô đã đánh bại Clêôpatra và Máccô Antôniô tại Actium năm 31. Năm 30, ông được nhìn nhận là chúa tể Ai-cập và cũng được coi là hoàng đế. Nhưng danh hiệu imperator (hoàng đế) chỉ được phê chuẩn vào năm 29. Chỉ vào ngày 16/1/27, thì Nghị viện Rôma mới trao tặng ông danh hiệu Augúttô, tức nhìn nhận vị trí tối cao của ông trên đất nước cộng hòa vừa được khôi phục. Ông qua đời năm 14 sau CG. Con rể là Tibêriô lên ngôi, cai trị từ năm 14-37 (x. 3,1).
– khắp cả thiên hạ (1): Đây là lối nói thậm xưng để chỉ đế quốc. Trong thực tế, không có sử gia nào ghi lại là có một cuộc kiểm tra dân số ở mức độ này vào thời Hêrôđê Cả (37-4 tr CG).
– lên thành Bêlem (4): Vì Bêlem cao hơn mặt biển khoảng 800m, nói “đi lên Bêlem” từ phía bắc Galilê là có thể hiểu được, Nadarét cao hơn mặt biển khoảng 560m. Đường đi từ Nadarét đến Bêlem dài khoảng 120 cs.
– thành vua Đavít (4): Cựu Ước nói Đavít “là con một người Épratha ở Bêlem thuộc Giuđa” (1 Sm 17,12) và là con của “Giesê, người Bêlem” (1 Sm 17,58). Bêlem (x. Tl 17,7-9; 19,1-2; R 1,1-2; 1 Sm 17,12) là một phố nhỏ khoảng 5 cs về phía tây nam của Giêrusalem; Ga 7,42 gọi là một làng, kômê.
– người đã đính hôn/thành hôn với ông là bà Maria (5): Bằng vài từ ngữ rất chính xác, Lc mô tả tình cảnh của Đức Maria: bà là vợ trinh khiết của Giuse. Bà đang mang thai, và các độc giả biết tại sao rồi.
– con trai đầu lòng (7): Prôtotokos, “con trai đầu lòng”, không nhất thiết hàm ý “con đầu lòng” của nhiều con. Điều tác giả muốn nói ở đây là không có người con nào của Đức Maria đến trước Đức Giêsu. Lc đã nêu bật sự trinh khiết của Đức Maria (1,27.34), ngài sẽ tỏ ra rất dè dặt khi đề cập đến truyền thống các anh em của Đức Giêsu (ngài chỉ nhắc đến ở 8,19-20; Cv 1,14 và tránh nói đến ở 4,22; Cv 12,17; 15,13; 21,18). Ta biết có những bản văn Do-thái nói đến một phụ nữ đã chết khi sinh đứa con “đầu lòng” (xem tấm bia mộ của bà Arsinoê, năm 5 tr CG, tại Leontopolis bên Ai-cập). Ghi nhận như thế, Lc không nhắm đến quyền trưởng nam để hưởng gia tài thiên sai cho bằng phẩm chất người hiến thánh (x. 2,23; Xh 13,2; 34,19).
– lấy tã bọc con (7): Câu này cho thấy Đức Maria chăm sóc con như bất cứ người phụ nữ nào ở Paléttina (x. Kn 7,4; Ed 16,4), chứ không muốn nói đến sự nghèo túng hay cuộc chào đời thấp hèn của Đấng Mêsia.
– máng cỏ (7): Có thể Maria đã sinh con tại một cái chái sau quán trọ vì ở đấy có chỗ cho lừa qua đêm và có máng đựng cỏ cho lừa ăn đêm. Cũng có thể đây là một cái ràn. Bản văn Lc không nói tới một con vật nào. Sau này truyền thống đã dựa theo Is 1,3 mà đưa vào. Còn sinh trong một cái “hang”? Truyền thống lấy từ Prot. Jas. 18,1; có trong Giustinô, Dial. 78 và Origiênê, Contra Celsum 1,51). Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) đã tận dụng và phổ biến truyền thống này khi lập ra máng cỏ tại Greccio năm 1223.
– không tìm được chỗ trong nhà trọ (7): dịch sát “không có chỗ cho ông bà trong nhà trọ”. Hẳn là Maria và Giuse đã đi tìm chỗ trú qua đêm nơi một cái lán, chung quanh có vách và chỉ có một lối ra vào. Dường như giọng văn có chút chua xót.
– những người chăn chiên (8): Phải chăng nhắc đến họ vì họ có liên hệ với Đavít, xưa kia chăn chiên tại Bêlem (1 Sm 16,11; 17,15; 2 Sm 7,8)? Không chắc. Điều rõ hơn, đó là những người chăn chiên là những người nghèo. Các kinh sư rất nghiêm khắc với người chăn chiên bởi vì do nghề này, họ xa cách với hội đường và không giữ luật lệ. Họ bị cấm vào Đền Thờ, không được làm chứng tại tòa án; họ bị coi như là bọn gian dối và trộm cắp. Đây lại chính là những kẻ “bé mọn” mà Thiên Chúa vui lòng mạc khải mầu nhiệm Người cho (x. Lc 10,21).
– sứ thần Chúa (9): Đây là một nhân vật huyền bí trong Cựu Ước (St 16; Tl 13; Xh 3,2–4,17; Tl 6,11-24). Nhưng lần này sứ thần Chúa tỏ mình ra với một vẻ siêu việt chưa từng có: chung quanh các mục đồng, vinh quang Chúa chói lòa, đây là vinh quang đã cho Ít-ra-en thấy sự hiện diện của Đức Chúa (YHWH) trong Xuất hành (Xh 16,10…) và vào dịp cung hiến Đền thờ (1 V 8,11). Cũng giống như trong Cựu Ước, điều được loan báo bởi “sứ thần Chúa” sau đó lại được gán cho “Chúa” (x. c. 15). Và cuộc thần hiển thường có kèm theo lời mời tin tưởng (c. 10; x. St 15,1; 21,17; Tl 6,23…).
– Hôm nay (11): Lần đầu tiên trạng từ sêmeron, “hôm nay”, xuất hiện (x. 4,21; 5,26; 12.28; 13,32.33; 19,5.9; 22,34.61; 23,43. Từ này được dùng 12 lần trong Lc, 8 lần trong Mt). Từ này báo trước thời cánh chung đã được khai mạc.
– bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (14): Eudokia là “ý muốn”, và cụm từ anthrôpoi eudokias có nghĩa là “những người được Thiên Chúa chiếu cố đến/sủng ái”.
Ý nghĩa của bản văn
Biến cố được kể ra ở đây có những nét tương phản nổi bật. Về cuộc chào đời của Đức Giêsu, bản văn nói đến bằng những câu ngắn ngủi và đơn giản, khiến độc giả hiểu là tự nó, cuộc chào đời này không có gì đặc biệt; nó được đặt vào trong dòng lưu chuyển quen thuộc của thế giới. Chỉ nhờ thiên sứ của Thiên Chúa, hiện ra trong ánh hào quang chói lọi của thiên quốc, chuyện vừa xảy ra mới được loan báo cho các mục đồng. Đấng Cứu độ trần gian đã đến thế giới trong những hoàn cảnh tầm thường. Nét tương phản này thúc đẩy độc giả suy nghĩ sâu xa hơn. Biến cố này đưa người ta đến chỗ ca ngợi Thiên Chúa.
* Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (1-5)
Thế giới vẫn đang đi theo dòng lưu chuyển bình thường của nó. Ngay ở đầu, hoàng đế Âugúttô được nêu tên; ông là vị chúa tể thống trị thế giới Địa Trung Hải lúc đó, trong đó có Paléttina. Ông đã bắt người ta chúc mừng ông như là ông hoàng thái bình, vị cứu tinh của các cuộc khởi nghĩa và các cuộc nội chiến, cũng như đảm bảo cho có trật tự và sự thoải mái. Ở đây ông được giới thiệu danh tánh và một công việc tiêu biểu của một vị quân vương: ông cho kiểm tra dân số, hẳn là để có thể thu thuế cho thật cao. Việc nhắc đến hoàng đế Xêda Âugúttô hẳn là một có một vai trò lịch sử, nhưng cũng còn có một vai trò biểu tượng nữa: hoàng đế Rôma thần thánh (Âugúttô) tương phản với Đấng Kitô Đức Chúa (c. 11); Xêda Âugúttô điều hành và Đấng Mêsia phải quy phục. Nhưng quyền chúa tể của Xêda ngoại giáo trên Hài Nhi Mêsia chỉ là tạm thời. Quyền chúa tể này sẽ bị vượt qua khi Đức Giêsu được tôn vinh sau Phục Sinh (Lc 24,36; x. Cv 2,36). Điều này, ngay lúc này các thiên thần đã công bố: Người là Đấng Cứu thế duy nhất, Đức Chúa duy nhất (c. 11), Đấng duy nhất có thể ban hòa bình cho loài người (c. 14).
Maria và Giuse quy phục cuộc kiểm tra dân số này. Chính việc kê khai tên tuổi đã khiến hai ông bà đi về thành Bêlem. Tác giả Lc nhấn mạnh rằng thành Bêlem là thành nguyên quán của vua Đavít và Giuse thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít. Như thế chúng ta có một quy chiếu về lời hứa và niềm chờ mong Đấng Mêsia, có liên hệ với Bêlem và gia tộc vua Đavít (x. Mk 5,1). Maria đang mang thai do sự can thiệp của Thánh Thần. Ân ban vô song của Thiên Chúa cũng không tránh cho Đức Maria khỏi những bất trắc của chuyến đi đường, xa gia đình dòng họ.
* Cuộc chào đời (6-7)
Ngay trong các thực tại tự nhiên và trong các tương quan giữa con người với nhau, thế giới vẫn đi theo dòng lưu chuyển của nó. Khi đến lúc sinh con, Maria đã sinh con trai. Bà phải quy phục tính tất yếu tự nhiên này. Bà không thể chọn thời gian cho mình, cũng không thể chờ đợi một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Cũng vì thế, chính bà phải bọc con trong các cái tã và đặt con nằm trong máng cỏ. Đức Giêsu đã khởi sự cuộc hành trình trần thế trong một cái máng cỏ. Mẹ Người và chính Người đã không tìm được những con đường đã được nện cho bằng phẳng và những nơi trú ngụ đăng ký trước. Các ngài là những người nghèo, các ngài không có cao vọng gì; các ngài phải đi tìm và tìm ra chỗ của các ngài: các ngài bằng lòng với các sự vật của trần gian.
* Mạc khải và phản ứng (8-20)
Ngược lại với tình cảnh này, ta thấy có ánh sáng huy hoàng của trời cao và vị sứ thần của Thiên Chúa xuất hiện. Vị này loan báo cho các mục đồng biết chuyện gì đã xảy ra trong đêm, trong những hoàn cảnh tưởng là thông thường. Họ đang run rẩy khiếp sợ, nhưng một niềm vui lớn lao được loan báo cho họ. Sứ thần của Thiên Chúa luôn luôn là sứ thần của niềm vui (x. 1,14.28). Các mục đồng và toàn dân có lý để vui mừng: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, đã sinh ra cho họ. Người là Đấng Mêsia được trông đợi từ bao đời, Đức Vua muôn đời của Israel, do Thiên Chúa ban. Người là Đức Chúa, nghĩa là Người có trong tay mọi quyền bính và sức mạnh. Chỉ có niềm vui mới tương ứng với sứ điệp đến từ Thiên Chúa như thế. Nhưng dấu chỉ lại thuộc về hoàn cảnh hiện tại: Đức Chúa nằm đó, một em bé được quấn tã, nằm trong một máng cỏ, trong nơi trú ngụ của bò lừa. Dấu chỉ là các mục đồng sẽ tìm được một em bé bình thường, với đặc điểm duy nhất là em sinh ra vì người nghèo.
Câu đáp đầu tiên cho sứ điệp ấy đến từ cơ binh các thiên thần, các ngài ca hát ngợi khen Thiên Chúa. Các diễn tả ý nghĩa của cuộc chào đời đối với Thiên Chúa và đối với loài người. Thiên Chúa được tôn vinh bởi cuộc chào đời này: Người đã tôn vinh chính mình, Người đã làm cho người ta biết Người trong thần tính, trong tình yêu và trong lòng từ bi thương xót của Người. Biến cố Đấng Cứu thế đến phải được đón nhận như là một sáng kiến của tình yêu và lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Cùng với Đấng Cứu thế, loài người cũng được ban cho có hòa bình và ơn cứu độ trọn vẹn. Đây là hoà bình được đặt nền tảng trên sự vui lòng của Thiên Chúa, trên sự hạ cố nhân ái của Người.
Các mục đồng đi theo sự hướng dẫn của dấu chỉ; họ thấy hài nhi và truyền đạt lại sứ điệp. Tất cả những ai nghe biết đều ngạc nhiên. Sự kinh ngạc là một khởi đầu tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại với sự kinh ngạc, người ta không đi xa được. Đến đây phản ứng của Đức Maria được nêu bật. Bà ghi nhớ và suy niệm mọi sự trong lòng: đây là một sự suy niệm kéo dài, bởi vì những gì bà thấy thì chưa rõ ràng; bà cần phải cố gắng tìm hiểu. Còn các mục đồng thì vừa đi về vừa ca ngợi Thiên Chúa về tất cả những gì đã xảy ra.
[* Đức Giêsu chịu phép cắt bì (21)
Ở c. 21, tác giả tường thuật việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu. Như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu giao ước (x. St 17,11) và tháp nhập vào dân tộc Ít-ra-en (x. Gs 5,2-9). Người được đặt cho cái tên mà sứ thần đã đặt là Giêsu: tác giả nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì].
+ Kết luận
Những gì vừa được kể không phải là chuyện trao đổi qua lại trong cách xử thế của loài người với nhau, cũng không phải là sự cảm động trước một trẻ sơ sinh, không có một cái nôi cho xứng hợp. Ở đây, chúng ta được loan báo về hành động từ bi thương xót của Thiên Chúa: Đấng Cứu thế đã giáng sinh, Đức Chúa đã đang hiện diện. Thiên Chúa đã vĩnh viễn nắm lấy hoàn cảnh của chúng ta trong tay. Đấng Cứu thế đã đi vào cuộc sống nghèo hèn của chúng ta, nhận lấy thân phận chúng ta, trong tư cách là một hài nhi được quấn tã. Người đã ở bên cạnh chúng ta và cùng đi với chúng ta. Hẳn là chúng ta sẽ phải liện tục tự hỏi: Ơn cứu độ này là loại cứu độ nào đây? Nhưng lòng chúng ta đã chan hòa niềm vui vì biết rằng Đức Chúa đã có mặt.
Gợi ý suy niệm
– Thiên Chúa dùng những nguyên nhân phụ thuộc, có vẻ tình cờ, để thực hiện các chương trình của Ngài. Một cuộc kiểm tra dân số lại làm cho các sấm ngôn được thực hiện: Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem. Chúa quan phòng luôn có trong tay toàn thời gian, các nơi chốn và các con người cũng như các biến cố. Chúa quan phòng tiên liệu mọi sự, nhưng không phải lúc nào cũng theo như nguyện ước của chúng ta.
– Trái tim của chúng ta đôi khi cũng bề bộn, ngổn ngang, như một cái hàng quán Bêlem dịp ấy. Vì thế, chúng ta không đón được Đức Kitô khi Người đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Trái tim chúng ta đã chật cứng với những khoái lạc, với các toan tính cho công việc làm ăn, với mối lo toan quá đáng cho miếng cơm mang áo, hay có khi chỉ là sự vô tâm lãnh đạm. Đức Kitô đến như một kẻ quấy rối, và chúng ta không thích.
– Những người đầu tiên được mời đi tôn kính Hài Nhi trong máng cỏ là các mục đồng, những kẻ bị người đương thời khinh bỉ, do họ sống dễ dãi. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cũng đang được mời tiến đến bên máng cỏ cùng với những người nghèo hèn ấy, bất kể chúng ta thế nào, nhiều công trạng hay nhiều tội lỗi. Đức Giêsu đã đến cho tất cả mọi người, và đặc biệt cho những người nghèo nhất và những người nhỏ bế nhất. Loài người xác tín rằng sự dữ chỉ có thể bị tiêu diệt bởi tiền bạc, bởi sự lừa dối hay bởi tham nhũng. Tin Mừng của lễ Giáng Sinh đêm nay cho chúng ta thấy một vì Thiên Chúa chọn sự nghèo khó và yếu đuối, và dạy chúng ta loại trừ một kiểu suy nghĩ đựa trên quyền lực hoặc tiền bạc.
– Đức Maria không thụ động chấp nhận tất cả những gì xảy ra; bà tìm hiểu. Bà không tức khắc cung cấp lời giải thích biến cố, nhưng đào sâu biến cố cách kiên nhẫn và không áp đảo, ép buộc. Có một thứ bất bạo động thiêng liêng và tôn giáo, biết tránh việc lược đồ hóa ép uổng, và để cho các sự việc cứ như thế và chờ đợi được hiểu biết hơn. Bà phải cố gắng tiếp mà tìm hiểu.
– Thánh Amêđê (1108-1159), là đan sĩ Xitô và cũng là giám mục, đã nói trong một bài giảng về Đức Maria: «Mẹ thấy là Con Thiên Chúa đã được trao cho Mẹ; Mẹ vui mừng khi thấy ơn cứu độ thế giới được ký thác cho mình. Mẹ nghe Thiên Chúa nói tận đáy lòng Mẹ: ‘Ta đã chọn con giữa tất cả những gì Ta đã tạo thành; Ta đã chúc phúc cho con giữa mọi người phụ nữ; Ta đã trao Con Ta vào tay con; Ta đã ký thác Con Một của Ta cho con. Đừng ngại cho bú mớm Đấng mà con đã sinh ra, hoặc nuôi dưỡng Đấng mà con đã cho chào đời. Con hãy biết rằng Người không chỉ là Thiên Chúa, mà còn là con của con. Người là Con của Ta và là con của con, Con của Ta do thần tính, con của con do nhân tính Người đã nhận lấy nơi con’. Đức Maria đã đáp lại lời mời gọi này với biết bao tâm tình tha thiết và nhiệt thành, với biết bao khiêm nhường và tôn kính, với biết bao tình yêu và tận tụy. Loài người không biết được điều này, nhưng Thiên Chúa biết, vì Người dò thấu tận tâm can (Tv 7,10)… Phúc thay Đấng đã được giao cho nhiệm vụ nuôi dưỡng Đấng che chở và nuôi nấng mọi sự, bồng bế Đấng nâng đỡ vũ trụ» (Bài giảng thứ 4 về Đức Maria; Pain Cîteaux alt.; x. SC 72, tr. 129t).
———————————————————–
THÁNH LỄ ĐÊM
CHÚA ĐẾN XÂY DỰNG HÒA BÌNH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tin Mừng Thánh Lu-ca được trích đọc trong Thánh Lễ đêm nay thuật lại rằng: khi Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem, các thiên thần cùng đạo binh thiên quốc đồng thanh tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời; bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Luca 2, 14)
Với những lời nầy, Hài Nhi Giê-su được tiên báo là Đấng đem lại hoà bình cho nhân loại.
Và bài đọc thứ nhất trong Thánh Lễ đêm nay cho ta biết, từ xa xưa, Ngôn Sứ I-sai-a loan báo có một Hài Nhi được Thiên Chúa ban tặng cho loài người; Hài Nhi đó là Chúa Giê-su; Ngài được gọi là Vua hoà bình.
Như vậy, theo lời Kinh Thánh, Chúa Giê-su là Vua đem lại hoà bình cho nhân loại. Điều quan trọng là hoà bình mà Ngài mang đến không phải là một tình trạng ngưng chiến tạm thời, nhưng là một nền hoà bình vĩnh cửu dựa trên tình yêu thương huynh đệ.
Giê-su làm cách nào để đem lại hoà bình vững bền cho thế giới? Câu chuyện sau đây minh hoạ cho ta thấy.
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô, văn võ song toàn, khí phách anh hùng. Hai hoàng tử nầy luôn yêu thương gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử thông minh đĩnh đạc, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em.
Khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, ông vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người đều mang bộ da sư tử, mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú điên cuồng. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ sát đối thủ, để dành sự sống cho mình, để được trả tự do. Một là chiến thắng, hai là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người bất thần vung đao nhanh như chớp chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử của y, để lộ ra một khuôn mặt… rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã giao chiến với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ nầy, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt y như thế.
Chính ma quỷ, kẻ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên mỗi người một thứ “lốt sư tử, lốt chó sói” khiến người ta xem “người là lang sói của người – homo homini lupus” (ngạn ngữ La-tinh), hay lầm tưởng “tha nhân là hỏa ngục” (theo triết gia Jean Paul Sartre) hay chỉ là “người xa lạ” (theo Albert Camus) đối với mình. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em một nhà; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt không thương tiếc.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của các tổ chức quốc tế đều bó tay!
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu người ta tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu… Nếu bị tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc, gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm hoặc dùng đôi hàm răng để cắn xé nhau…
Giải pháp nào để chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình cho nhân loại?
Muốn cho đôi bên tự động ngưng chiến và sống chung hòa bình thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho họ biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một Cha.
Giáo huấn quan trọng nhất của Chúa Giê-su là bày tỏ cho mọi người biết rằng Thiên Chúa là Người Cha đầy lòng yêu thương đã sinh ra hết thảy chúng ta và tất cả mọi người đều là con cái của Ngài và là anh chị em với nhau.
Khi bày tỏ sự thật nầy, Chúa Giê-su muốn lột bỏ chiếc “mặt nạ sư tử”, “mặt nạ lang sói” mà ma quỷ trùm lên khuôn mặt mọi người, để họ không còn xem nhau là thù địch nữa, nhưng nhận ra mỗi người chung quanh đều là những người anh chị em rất thân thương.
Lạy Chúa Giê-su, Vua hoà bình,
Xin cho mọi người trên khắp thế giới biết mở tâm hồn đón nhận sự thật tuyệt vời do Ngài mang đến. Chỉ có sự thật nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là nền tảng đem lại hòa bình cho mọi dân tộc và hạnh phúc cho hết mọi người.
——————————————————–
THÁNH LỄ ĐÊM
HÃY DÀNH CHO CHÚA MỘT CHỖ… Fx Huỳnh Phùng
Sau biến cố 11-9-2001 tại Mỹ,con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình,và người dẫn chương trình đã hỏi cô ta: “Tại sao Thiên Chúa là đấng nhân từ,đầy long yêu thương,lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”
Cô ta trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất cũng buồn bằng chúng ta. Nhưng từ bao năm nay,chúng ta đã yêu cầu Ngài ra khỏi trường học,khỏi gia đình,khỏi xã hội,và khỏi cuộc sống của chúng ta. Ngài là quân tử, nên đã lẳng lặng rút lui”.
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta khẩn thiết xin Ngài hãy bỏ mặc chúng ta một mình? Về những biến cố mới xảy ta như tấn công, khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh… tôi nghĩ mọi sự đã bắt đầu với Madelein Murray O Hare, khi bà ấy phàn nàn và không muốn cho đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta đã đồng ý. Rồi một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh thánh nơi trường học.Chính quyển kinh Thánh mà trong đó Chúa dạy chúng ta: Chớ giết người, chớ dâm dục, chớ trộm cắp, gian tham, chớ dối trá …dạy chúng ta yêu người như chính bản thân…và chúng ta cũng đã đồng ý…
Kính thưa anh chị em, Không muốn Thiên Chúa can thiệp, không muốn sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, muốn xây dựng một cuộc sống không cần,không có Thiên Chúa .thì làm sao khi gặp sự cố lại oán trách Thiên Chúa được ?
Quả thật,chúng ta không thể tưởng tượng nổi, thế giới này sẽ như thế nào, nếu Con Thiên Chúa đã không sinh ra. Thiên Chúa dã dựng nên Vũ trụ, mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng vì con người kiêu ngạo, không muốn vâng phục, đã chống lại sự hướng dẫn của Ngài, đã làm trái ý Ngài, đã cho tội lỗi nhập vào thế gian. Gây ra đau khổ và chết chóc nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người sống trong cảnh lầm than, đêm tối, nên đã cho Con của Ngài từ trời đến trần gian, mang thân phận con người như chúng ta, chia sẻ kiếp người như chúng ta, sống giữa chúng ta, sống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để cứu chúng ta, để phục hồi, để làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa . Cho chúng ta được sống,được hưởng phúc Vinh quang với Thiên Chúa (Đó là ý nghĩa đêm giáng sinh hôm nay) Đó là lý do chúng ta vui mừng trong đêm Giáng sinh này, đêm Thiên thần công bố tin vui cho các mục đồng cũng như toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã …Đêm con người được nâng lên địa vị cao sang, đến nỗi từ nay ai khinh miệt con người là khinh miệt Thiên Chúa ,xúc phạm đến sự sống,đến con người là xúc phạm đến Thiên Chúa . Ai phục vụ con người là phục vụ Thiên Chúa . Ai yêu thương con người là yêu mến Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả quyền năng,không đến với con người để con người khiếp sợ,nhưng chấp nhận làm một bào thai âm thầm lớn lên trong lòng mẹ từng ngày để mời gọi người ta tôn trọng sự sống ngay tứ lúc bắt đầu.Nếu người ta nhận biết và tôn kính TC,chắc chắn nạn phá thai sẽ giảm bớt hoặc không xảy ra.Nếu người ta đón nhận Thiên Chúa ,các bào thai sẽ được bình an.
Thiên Chúa sinh ra là một bé thơ yếu ớt trong tã đặt trong máng cỏ,sống quãng đời niên thiếu cách âm thầm,để nhắc con người biết tôn trọng trẻ thơ.Bao em thơ không được chào đời vì lý do người ta nêu lên là vì Kinh Tế.Bao trẻ em đang bị lạm dụng để người lớn kiếm tiền cách vô nhân đạo.Bao trẻ em đang bị khai thác sức lao động,tình duc..dã man,Bao trẻ em đang bị bỏ rơi,trở nên nghèo đủ thứ :Nghèo tình thương,nghèo sự chăm sóc,quan tâm,nghèo được dạy dổ,giáo dục,Nghèo cơm ăn áo mặc.. Đang bị lôi kéo vào con đường hủy diệt,hư vong vì tệ nạn…Tất cả tai họa đang đổ xuống trên đầu trẻ thơ đều do con người không đón nhận không tôn trọng Thiên Chúa.
Thiên Chúa giàu sang,nhưng chấp nhận sinh ra và sống trong cảnh nghèo để kêu gọi con người biết chia sẻ.Giá trị con người không ở địa vị,giàu sang nhưng là phẩm giá làm người,là con Thiên Chúa .Con người có cơ hội tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa phục vụ Thiên Chúa ngay trong anh em bên cạnh mình.Ai đón nhận Thiên Chúa cũng biết tôn trọng,yêu thương nhau,nhất là anh em nghèo.
Thiên Chúa chọn được sinh ra từ một người Mẹ,để mời gọi con người tôn trọng phẩm giá người phụ nữ.Cảnh chồng chúa,vợ tôi hay trọng nam khinh nữ:Nhất nam viết hữu,thập nữ viết vô,chác chắn không phài là điều đẹp lòng Chúa.Mầu nhiệm nhập thể của CON Thiên Chúa cho thấy mọi người đều bình đẳng,cần được tôn trọng.Cách riêng các bà vợ,bà mẹ.
Thiên Chúa chọn cách được sinh ra và sống trong một gia đình để mời gọi chúng ta tôn trọng giá trị của Hôn nhân,của gia đình.Một định chế Thiên Chúa thiết lập cách tốt đẹp trong tình yêu giữa một người nam và một người nữ mà ngay từ đầu,Chúa muốn chỉ là một nam một nử và bất khả phân ly.Một tổ ấm mà trong đó chúa gởi gắm những đứa con dể thương để cha mẹ bảo vệ,nuôi nấng,chăm sóc giáo dục nên người,nên con Chúa như Chúa Giesu, ngày càng thêm tuổi càng khôn ngoan, nhân đức đẹp lòng Thiên Chúa và Cha mẹ Và cuối cùng về trời..Nên trong GĐ,hãy biết kính trên nhường dưới,con cháu hãy biết lễ phép,thảo kính vâng lời ông bà cha mẹ,góp phần đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình.Cha mẹ lo hạnh phúc cho con cái,đời này nhất là đời sau.Như vậy,nếu biết đón nhận và tôn vinh Thiên Chúa thì GĐ không có cảnh đổ vỡ trong hôn nhân,đau khổ vì ly dị,nền tảng xã hội không lung lay,tan vỡ vì ngoại tình (Giảm bớt bệnh thế kỷ ) Gia đình được củng cố và bình an. Được hưởng NIỀM VUI TÌNH YÊU GIA ĐÌNH.
Thiên Chúa cao sang,đã sinh tại máng cỏ Belem,nhưng vẫn còn muốn được sinh ra trong những tâm hồn nghèo nàn tội lỗi của chúng ta,để ta được chia sẻ,được tham dự vào sự sống của Người.Hãy mở cửa tâm hồn,hãy dành cho Chúa một chỗ,Hãy đón nhận,hãy mời Chúa đến,hãy để Thiên Chúa nhập thể trong tâm hồn,trong gia đình thì chúng ta sễ được bình an.
Đó cũng là ý nghĩa của lời Thiên Thần ca hát trong đêm hồng ân : Thiên Chúa trên trời được tôn vinh ( thì ) Loài người dưới thế được an bình.
Cầu chúc mọi người mừng, sống lễ, mùa Giáng Sinh vui,thánh,và an bình.
———————————————————
THÁNH LỄ ĐÊM
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG – Trích Logos A
Có một bài hát giáng sinh rất quen thuộc với chúng ta và cũng rất nổi tiếng trên thế giới, đó là bài “Đêm Thánh Vô Cùng” (Silent Night). Lời ca và âm điệu của bài hát đã để một dấu ấn không phai nhòa trong lòng mọi người. Mỗi mùa Giáng Sinh, khi bài hát được cất lên, người ta có thể cảm nhận được sự thánh thiện và vẻ huyền diệu sâu lắng của đêm giáng sinh :
“Đêm thánh vô cùng,
Giây phút tưng bừng.
Đất với trời xe chữ đồng …”.
Bài hát này ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt. Vào năm 1818, tại một giáo xứ nhỏ bé thuộc nước Áo, vào mấy ngày trước lễ giáng sinh, dân chúng đang chuẩn bị tập hát cho thánh lễ đêm giáng sinh, thì phát hiện cây đàn Harmonium (đạp hơi) bị chuột cắn nát bộ phận đạp hơi, không thể khắc phục được. Trong tình thế khó khăn đó, vị linh mục quản xứ là cha Moises đã sáng tác một bài thơ và được ông Franz Grubert, người phụ trách thánh ca, phổ nhạc cho bài thơ để hát trong đêm giáng sinh. Đây là một bài hợp xướng 4 bè thuộc thể loại Acapella, một loại nhạc không cần đàn đệm.
Thế là bài thánh ca giáng sinh mang tên “Đêm Thánh Vô Cùng” đã ra đời một cách đơn sơ hèn mọn như cách Chúa Hài Đồng được sinh ra. Sau đó, bài hát trở thành nổi tiếng trên thế giới và tên tuổi của nhạc sĩ Franz Grubert được mọi người biết đến.
Đêm nay thực sự là “đêm thánh vô cùng”, không phải vì là đêm Chúa sinh ra. Thực ra, các sử gia chưa xác định thời gian Chúa Kitô chào đời.
Đêm nay được gọi là “đêm thánh vô cùng” cũng không phải vì quang cảnh các giáo hữu với dáng vẻ thánh thiện trong những tà áo thướt tha, những bộ quần áo đẹp đẽ, đang nô nức tuốn đến các giáo đường dự lễ. Thực ra, nhiều người đi dự lễ đêm nay mà tâm hồn đang nặng trĩu âu lo và chán chường. Đêm nay là “đêm thánh vô cùng” cũng không phải vì là một đêm tràn ngập niềm vui trên toàn thế giới. Thực ra nhiều người chỉ tìm thấy niềm vui bên ngoài, còn lòng họ thì chất chứa ưu phiền và thất vọng.
Đêm ánh sáng
Đêm nay đích thực là “đêm thánh vô cùng” vì là đêm đầy ánh sáng. Đó không phải là ánh sáng của những ngọn đèn màu rực rỡ được trang hoàng khắp nơi, nhưng là ánh sáng thần linh chiếu tỏa vào đêm tối trần gian. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai xuống thế làm người.
Đêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu. Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc và mừng vui. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang trên mình tất cả sự tăm tối của nhân loại đang hư vong và ban lại cho họ ánh sáng ơn cứu độ.
Chính tiên tri Isaia đã thoáng nhìn thấy ánh sáng ấy bừng lên trong cảnh điêu tàn đổ nát của một đất nước Giuđa đang bị đế quốc Assyria đè bẹp. Dân chúng rên xiết dưới ách thống trị bạo tàn của ngoại bang. Giữa lúc bóng tối kinh hoàng đang bao trùm, vị tiên tri đã tiên báo một thời kỳ tươi sáng do Đấng Messia mang tới : “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy ánh sáng chứa chan …” (bài đọc I).
Đêm nay đích thực là “đêm thánh vô cùng”, vì Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô xuất hiện giữa đêm dài tội lỗi của nhân loại. Mặt Trời thật nhỏ bé khiêm nhường trong hình hài một bé thơ. Tuy nhiên, Mặt Trời nhỏ bé ấy đang tỏa sáng nơi những tâm hồn chìm đắm trong bóng tối sự chết.
Sở dĩ Giáo Hội chọn ngày 25/12 để cử hành lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô vì đây là ngày lễ mừng Thần Mặt Trời của người Rôma ngoại giáo, là ngày mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm. Giáo Hội muốn mọi người hiểu rằng Chúa Giêsu Kitô là Mặt Trời đích thực đã ló dạng trên trần gian, xua tan bóng đêm tội lỗi và sự chết.
Đêm thầm lặng
Đêm nay chính là “đêm thánh vô cùng” không phải vì sự huyên náo nhộn nhịp, không phải vì những ca khúc giáng sinh rộn ràng vui tươi, cũng không phải vì những ồn ào náo động của một đêm lễ hội tưng bừng. Thực ra, trong bài Tin Mừng thánh Luca đã phác họa bức tranh đêm giáng sinh thật âm thầm và tĩnh lặng.
Khởi đầu là những bước chân lặng lẽ của Đức Mẹ và thánh Giuse trên cánh đồng Bêlem lạnh lẽo, sau khi không tìm được chỗ nghỉ trong quán trọ. Có lẽ đó là bước chân đầy lo âu của thánh Giuse đi tìm một chỗ nghỉ đêm, là bước chân nặng nhọc của Mẹ Maria vì sắp đến ngày sinh nở. Những bước chân ấy hòa lẫn trong màn đêm tĩnh mịch, mang vị Thiên Chúa cao cả vào thế giới.
Sau khi Chúa Hài Đồng sinh ra, các mục đồng được các thiên thần báo tin, họ đã vội vã tìm đến tôn thờ Chúa. Cuộc viếng thăm của các mục đồng thật đơn sơ : không quà mừng, không lễ phục, không ngựa xe đưa rước. Có chăng chỉ là tiếng hát thiên thần vang vọng từ trời, không đủ đánh thức dân thành Bêlem tỉnh giấc.
Chúa chào đời không phải trong cảnh cao sang của các quý tộc, nhưng chỉ là một Hài Nhi nhỏ bé, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ. Tất cả trong âm thầm lặng lẽ giữa bóng tối của đêm đông lạnh giá.
Tuy nhiên, đó chính là “đêm thánh vô cùng” vì trong sự thầm lặng ấy chứa đựng cả một mầu nhiệm cao siêu. Trong sự nghèo hèn ấy chứa đựng cả một nguồn ơn cao cả. Trong sự thấp hèn ấy chứa đựng một sự thánh thiện khôn tả. Trong sự thinh lặng ấy, chứa đựng cả một Tin Mừng lớn lao: “Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi”.
Chúa Cứu Thế đã bước vào thế giới bằng những bước chân thầm lặng, nhưng đã lay động cả nhân loại. Tuy nhiên, chỉ có những đôi mắt đức tin mới nhận ra Ngài, chỉ có những đôi tai nhạy bén mới nghe thấy bước chân của Ngài, chỉ có những trái tim biết thương yêu mới cảm nhận được Ngài, chỉ có những tấm lòng biết mở ra mới đón tiếp được Ngài. Như thánh Phaolô đã nói : Chỉ có những ai biết từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục mới nhận được ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta (bài đọc II).
Số báo “Thừa Sai Công Giáo” phát hành tháng 11/1930, đã kể lại cuộc tiếp xúc đầu tiên của Mẹ Têrêsa Calcutta với các người nghèo và bệnh tật tại Ấn Độ. Lúc ấy, Mẹ Têrêsa là một nữ tu dòng Loretto.
Ngày kia, một người đàn ông mang đến cho chị nữ tu Têrêsa một cái gói bên trong thò ra cái gì giống như 2 cành cây khô. Chị nữ tu nhìn kỹ thì nhận ra đó là đôi chân gầy gò của một đứa bé sắp chết. Nó rất yếu ớt với đôi mắt bị mù hoàn toàn. Chị nữ tu Têrêsa đã ẵm nó vào lòng. Từ đó, đứa trẻ đã tìm được người mẹ thứ hai.
Hình ảnh sống động của Mẹ Têrêsa Calcutta ôm đứa bé bất hạnh trên tay, đã phản ánh một khung cảnh giáng sinh đầy hiện thực của thế giới hôm nay.
Xã hội ngày nay còn có biết bao hài nhi Giêsu đang bị bỏ rơi, thậm chí bị giết chết ngay khi còn trong lòng mẹ. Xã hội đang cần biết bao những “tấm lòng Maria”, những “trái tim Maria” để ôm ấp, bảo vệ và cứu giúp những trẻ thơ bất hạnh.
Đêm hôm nay chỉ thật sự là “đêm thánh vô cùng” nếu chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn đón nhận Hài Nhi Giêsu và đem Ngài đến cho tha nhân. Chính Ngài là ân sủng, hạnh phúc và niềm vui cần được chia sẻ cho mọi người.
——————————————————–
LỄ RẠNG ĐÔNG
SỨ ĐIỆP TỪ HANG BÊLEM- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Điều lạ lùng là đối tượng được Thiên Chúa loan báo Tin Mừng vĩ đại nhất lại là các người chăn chiên. Vào thời ấy giới mục đồng bị những người đạo đức coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế giới đạo đức chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Thiên Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng.
Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ sáng và chiều đến đều có một con chiên không tỳ vết được dùng làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ vẹn toàn và không tỳ vết ấy, các viên chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ.
Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm mục tử coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người được ngắm xem Con Chiên của Thiên Chúa là Đấng gánh lấy tội trần gian.
Kể từ khi nguyên tổ lỗi phạm điều Chúa cấm, và di truyền tội ác cho con cháu, loài người đều bị nhiễm nọc độc tội lỗi, vô phương cứu chữa, qua trung gian của Isaia, Thiên Chúa đưa ra lời kêu gọi: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn Chúa nào khác nữa.” (45,22) và 1500 sau, Gioan đã xác minh lời hứa đó: “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Nhân loại tội lỗi của chúng ta hôm nay chỉ có một phương pháp độc nhất để thoát khỏi xiềng xích tội lỗi là đến tìm gặp Chúa Giêsu.
Các mục đồng đang sống trong cảnh tối tăm, bị người đời khinh rẻ, nay được vui mừng hớn hở “vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều đã được mắt thấy tai nghe” sau khi đã gặp được Hài Nhi trong máng cỏ, qua lời giới thiệu của các thiên sứ. Nathanaen được thoát khỏi các thành kiến cổ hủ để sống một đời sống mới tươi đẹp nhờ lời giới thiệu của người bạn Philipphê: “Hãy đến mà xem”.
Qua bốn sách Tin Mừng và suốt dòng lịch sử 20 thế kỷ qua biết bao cuộc đời đã được đổi thay nhờ đến với Chúa Giêsu.
Vậy những ai mà việc Chúa giáng trần đã tác động mạnh mẽ, những người lĩnh hội được ân huệ của Chúa ra đời không phải là những người cao sang quyền quý, tài rộng học cao hay được xã hội trọng vọng… nhưng chỉ là những người đã đến gặp gỡ Chúa Giêsu, và những người có năng lực nói được với mọi người rằng: Hãy đến xem.
Nhưng đến đâu? Có phải đến những cung điện nguy nga nổi tiếng do tay phàm nhân xây dựng? Đến một ngọn núi được dư luận coi là nơi chúc phúc? Đến Đền Thờ Giêrusalem nơi Xứ Thánh? Cũng vì những thành kiến đó, những đầu óc chuộng hình thức đó mà các nhà đạo sĩ đã lạc đường và mất ngôi sao hướng dẫn trong một thời gian khá dài. Chúa Giêsu đã phán dạy: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,23-24).
Vậy thì đến đâu? Đến chỗ có Chúa Giêsu. Dầu chỗ ấy là máng cỏ chuồng chiên, là nhà tranh nghèo hèn, điều quan hệ là có Chúa Giêsu ở đó. Một gia đình ở khu ngoại ô Bêtania vẫn nồng ấm yêu thương vì có Chúa Giêsu ở đó hơn là Đền Thờ Giêrusalem nguy nga rực rỡ mà trống rỗng, chỉ chứa đầy những giai tầng trục lợi đầy đủ áo mão oai nghi.
Đến xem gì? Xem ánh đèn rực sáng long lanh, xem ngôi sao đuôi dài lấp lánh, xem cây thông đính đầy kim tuyến…. Xem cung thánh tráng lệ chăng? Xem nghi lễ huy hoàng chăng? Xem đoàn người y phục sang trọng chăng? Không đâu, các điều ấy không đem lại gì có thể cứu rỗi ta, không ban cho ta một đời sống thoả lòng dài lâu được. Chỉ có Hài Nhi Giêsu và Ngài là Đấng Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Bậc đại đức như cụ Simêon xưa, không thoả lòng vì tuổi cao vóc lớn, đạo cả đức dày, mà thỏa lòng vì mắt đã nhìn thấy Hài Nhi Giêsu. Khi được ẵm Hài Nhi Giêsu trong tay, lòng cụ sung sướng tuôn trào: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài hứa, xin để tôi tớ này được bình an ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 29,32).
Nhóm mục đồng đã rủ nhau đi xem điều thiên sứ đã loan báo, họ đã gặp được Chúa Hài Nhi và trở thành chứng nhân đầu tiên cho Tin Mừng Đấng Cứu Thế.
Lễ Giáng Sinh sẽ không đem lại gì cho bạn nếu bạn không gặp được Chúa Hài Nhi, Ngài luôn là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta nhưng nếu người không gặp được Ngài lại chính là bạn?
Gặp được Chúa và rồi loan báo Chúa, đó là việc các người chăn chiên đã làm, họ trở thành chứng nhân đầu tiên của Chúa Giêsu, còn bạn thì sao?
———————————————————————
LỄ RẠNG ĐÔNG
HỌ LIỀN HỐI HẢ RA ĐI- Lm Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lễ Rạng Đông Giáng Sinh tiếp tục xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa: sự cao cả được ẩn dấu trong sự đơn giản đến mức tối đa. Dân Thiên Chúa chiêm ngắm bà Ma-ri-a, thánh Giu-se, cùng Hài Nhi đặt nằm trong Máng Cỏ.
Is 62: 11-12
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam loan báo rằng những người bị tản mác khắp nơi được Thiên Chúa quy tụ lại để thành “dân thánh của Ngài”, “dân được Chúa cứu chuộc”.
Tt 3: 4-7
Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-tô, vị lãnh đạo cộng đoàn Crète, đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
Lc 2: 15-20
Đoạn Tin Mừng này là phần cuối của chuyện tích lễ đêm Giáng Sinh. Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành ký phác họa chân dung của những người Ki tô hữu: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
BÀI ĐỌC I (Is 62: 11-12)
Sứ điệp này đã được công bố cho Giê-ru-sa-lem vào những năm khó khăn sau khi những người lưu đày trở về từ Ba-by-lon.
Hiện trạng tang thương của Giê-ru-sa-lem:
Những người hồi hương đã gặp lại Giê-ru-sa-lem nghèo khổ, dân cư thơ thớt, chịu cống nạp cho những người ngoại quốc; Đền Thờ hoang tàn đổ nát. Họ bắt tay tái thiết Đền Thờ, nhưng công việc phải dừng lại vì thiếu tài chánh. Vì thế họ hoàn toàn vỡ mộng. Ngôn sứ khơi lại ngọn lửa hy vọng của họ. Đức Chúa không quên dân Ngài.
Vị ngôn sứ này là tác giả vô danh mà người ta đặt biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam (Is 40-55), vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày. Ông là môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời lưu đày, mà ông lấy lại những cách diễn tả của thầy mình.
Sứ điệp chứa chan hy vọng:
Vị ngôn sứ này xác tín rằng thời kỳ cứu độ Giê-ru-sa-lem sắp đến gần, và Giê-ru-sa-lem rồi sẽ lại trở nên đông đúc, vì những con cái của nó bị tản mác khắp nơi sẽ trở về. Chính viễn cảnh về một cuộc quy tụ vĩ đại này hình thành nên chủ đề của đoạn trích hôm nay.
Theo gương thầy và vị tiền nhiệm của mình, ngôn sứ tưởng tượng Đức Chúa dẫn đầu dân Ngài và mang ơn cứu độ đến cho họ (x. Is 40: 10), nhưng đoàn người mà Đức Chúa dẫn dắt không còn là đoàn tù nhân được giải phóng, đây là đám rước bao la của những người Giu-đa bị tản mắc khắp thiên hạ, họ lên đường tiến về Thành Thánh. Đó là thành quả rực rỡ của việc Chúa can thiệp mà muôn dân muôn nước đều nhận biết.
Như vậy, Ít-ra-en lại có thể được gọi là “dân thánh”, “dân được Đức Chúa cứu chuộc”. Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem có thể được chào đón bằng những tên biểu tượng: Nó sẽ được gọi là “Cô gái đắt chồng”; sau khi đã được Chúa của mình sủng ái, nó sẽ không còn là một người vợ bị bỏ rơi.
BÀI ĐỌC II (Tt 3: 4-7)
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn trích mới từ thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-tô.
Hoàn cảnh:
Trong đoạn trích này, chúng ta gặp lại những chủ đề lớn, cô động về lời rao giảng của thánh Phao-lô. Ông Ti-tô, người môn đệ mà thánh Phao-lô đã giao phó Giáo Đoàn Crète, đã gặp phải những khó khăn. Thật ra, những cuộc tranh luận về đức tin cốt yếu đến từ những Ki tô hữu gốc Do thái – chắc chắn rất đông ở trong các cộng đoàn Ki tô giáo Crète – một trong những sai lầm của họ là vẫn gắn bó với những công nghiệp của Lề Luật như nguồn mạch ơn cứu độ. Vì thế thánh nhân khuyên ông đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa:
Thật là ý nghĩa khi thánh nhân nhắc lại đến hai lần cùng một chủ đề với thư gởi tín hữu Rô-ma: sự cứu độ không có bất kỳ mối liên hệ nào với những công nghiệp do tự sức chúng ta, nhưng hoàn toàn là ơn huệ nhưng không do lòng nhân hậu và yêu thương của Ngài: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng cứu độ chúng ta”.
Những chủ đề quan trọng khác:
Đạo lý phép Rửa cũng được mạnh mẽ tái khẳng định như ơn tái sinh, cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện ở trong chúng ta, đảm bảo cho chúng ta quyền thừa hưởng sự sống đời đời.
Ông Ti tô xem ra một con người nhút nhát, không quyết đoán trước những áp lực từ phía những người chống đối. Thánh Phao-lô mời gọi ông hãy kiên vững và đồng thời khích lệ ông hãy gìn giữ sự tinh tuyền của đạo lý Ki tô giáo.
TIN MỪNG (Lc 2: 15-20)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần cuối của chuyện tích Giáng Sinh đã được công bố vào Lễ Đêm Giáng Sinh.
Thánh Lu-ca mô tả dáng dấp của các mục đồng: sau khi được các thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi”, như Đức Ma-ri-a, sau khi được sứ thần loan báo, vội vả ra đi đến nhà người chị họ của mình là bà Ê-li-sa-bét. Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ; phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Ngài.
Dáng dấp của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng.
Mục đồng:
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất. Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó.
Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).
Chính ở nơi các mục đồng này, thánh ký phác họa dáng dấp của các Ki tô hữu: họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
Hài Nhi Giê-su:
Khi đến nơi, “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa từ: “máng cỏ” (2: 12, 16). Về phương diện vật chất, máng cỏ là chiếc nôi đầu đời của Con Thiên Chúa làm người; về phương diện tinh thần, Thiên Chúa đã làm cho mình trở nên nhỏ bé và nghèo hèn để được đón nhận. Ngài đến không chỉ để “cho”, nhưng cũng để “nhận”: nhận từ con người sự thờ phượng, lời cầu nguyện, lời ngợi khen và nhất là những cử chỉ yêu thương để rồi từ đó, “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 24: 40).
Đức Ma-ri-a:
“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đây là một ghi nhận quý giá. Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh nhân; ông đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thiêng liêng, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà ông đã gìn giữ từ chính Đức Nữ Trinh, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.
———————————————————————-
LỄ RẠNG ĐÔNG
LOAN TIN CHÚA GIÁNG SINH- Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng bao giờ thấy. Có đợi chờ mang lại niềm vui như chờ người yêu, chờ nhận quà nhưng cũng có đợi chờ chỉ mang lại thất vọng chán chường như chờ kết quả xét nghiệm sức khỏe . . .
Vì có đợi chờ nên cũng có chờ hụt. Có lẽ chúng ta đều đã từng biết sự kiện chờ bão hụt vừa qua khi đài khí tượng thông báo sẽ có bão số 13 đổ vào TP.HCM rất mạnh. Dân Sài-gòn sợ hãi kẻ thì bỏ chạy, người thì ràng buộc nhà cho vững nhưng chờ bão mãi chẳng thấy. Hóa ra dự đoán sai . . .
Rồi cũng có biết bao lần chúng ta chờ đợi trong hụt hẫng như những câu chuyện vui sau :
Mẹ ơi! Sáng nay có cô Mười ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”.
Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay:
– Món quà gì thế con?
– Dạ, một quyển lịch dùng cả năm!
Hoặc câu chuyện khác:
Chàng: Anh sẽ tặng em một món quà làm cho ngón tay em xinh thêm
Nàng: (tưởng là những chiếc nhẫn kim cường hay cũng ít là hột xoàn bèn nói)Anh đừng tặng những thứ mắc quá.
Chàng: Em vớ vẩn, cái dũa móng tay có cái nào mắc đâu.
Dân Do Thái ngày xưa cũng từng mừng hụt. Họ tưởng được đón tiếp một Minh Quân quyền uy đánh đông dẹp tây thống trị thiên hạ, thế nhưng, Ngài lại đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối, nghèo hèn nằm trong máng cỏ. Họ tưởng Thiên Chúa sẽ đến trong mây trời gió lộng nhưng ngài lại đến âm thầm nơi đồng hoang mông quạnh. Thế nên, họ đã không chấp nhận sự thật ấy mặc dù đã được pho Kinh Thánh dẫn chứng và các mục đồng hoan hỉ loan tin. Họ vẫn khép cửa lòng trong sự cố chấp không tin. Họ đã để niềm vui trôi qua vì không nhận được hồng ân Con Chúa giáng trần.
Nếu hôm nay Chúa giáng sinh lại một lần nữa, Ngài sẽ giáng sinh trong thân phận nào? Hay nói cách khác, chúng ta thích Chúa giáng sinh trong thân phận nào?
Có lẽ chúng ta đều mong muốn Chúa trở nên giống chúng ta. Chúng ta mong muốn Chúa cùng giai cấp, cùng hoàn cảnh của chúng ta để có thể hiểu và cảm thông nâng đỡ chúng ta. Chúng ta muốn Chúa giống chúng ta nhưng lại không muốn Chúa giống người bên cạnh chúng ta. Chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội phục vụ Chúa qua tha nhân vì không nhận ra Chúa nơi họ. Thế nên, chúng ta cũng nhiều lần khước từ Ngài như dân Do Thái năm xưa.
Xem ra đường lối của Thiên Chúa luôn khác xa với suy nghĩ của con người. Con người thường nghĩ đến vật chất, đến danh vọng đời này. Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống thanh thoát, sống vượt lên trên những ham muốn tầm thường mau qua để tìm kiếm Nước Trời làm gia nghiệp. Con người thường xây dựng một Thiên Chúa theo ý mình, nhưng Ngài lại đòi con người phải bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Chúa giáng sinh làm người là một ngày hội, một ngày vui của chúng ta. Ngài đã trở nên con người để mang lại niềm vui chung cho cả nhân loại. Ngài đã gắn kết tình người để dù con người có khác niềm tin, khác quan điểm nhưng chung một sứ điệp bình an mang đến cho nhau trong ngày đại lễ hôm nay. Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.
Thiên Chúa mãi ở cùng chúng ta nhưng liệu chúng ta có mừng hụt khi chúng ta không không nhận ra Ngài trong tha nhân, trong bạn bè, nhất là trong Mình Thánh Chúa để đón tiếp Ngài mỗi ngày.
Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta không nhận ra Chúa trong anh em nên vẫn còn đó sự nghi kỵ, ghen tương, kết án anh em.
Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta bỏ lỡ rất nhiều lần rước Chúa vào lòng vì lòng chúng ta còn mãi mê hưởng thụ, chìm đắm trong đam mê tội lỗi.
Xem ra Chúa vẫn không đến theo ý chúng ta nên chúng ta vẫn sống theo ý riêng, theo bản năng của mình để rồi rời xa Chúa, rời xa chân thiện mỹ.
Có lẽ , nếu Chúa giáng sinh hôm nay, Chúa vẫn cần chúng ta thay cho các mục đồng loan tin cho nhân thế. Chúa cần chúng ta không chỉ làm điều gì đó để chia sẻ với Chúa mà nhất là hân hoan ra đi loan tin cho trần thế về niềm vui Chúa giáng sinh làm người. Thánh Phaolo đã từng nói: làm sao có người nghe tin mừng nếu không có người rao giảng. Vậy làm sao nhân loại có thể nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta nếu không có người sẵn lòng ra đi giới thiệu Chúa cho họ.
Ước gì lòng chúng ta tràn ngập niềm vui khi nhận ra Chúa đang giáng sinh từng ngày trong đời chúng ta, thì cũng hãy mạnh dạn như các mục đồng hân hoan loan báo cho anh em. Ước gì niềm vui Chúa giáng sinh luôn rộn rã trong tâm hồn chúng ta sẽ là động lực giúp chúng ta trở thành sứ giả của niềm vui Con Chúa giáng sinh. Amen
—————————————————————–
LỄ RẠNG ĐÔNG
LÊN ÐƯỜNG- Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Theo chân các mục đồng, chúng ta lên đường đi gặp Chúa và bắt chước họ, chúng ta hân hoan về những điều mắt thấy tai nghe.
Lên Ðường
Nghe lời các thiên thần, các mục đồng rủ nhau: “Nào ta hãy đi tới Bêlem!”. Và họ đã vội vã lên đường. Những ai quen biết Tin Mừng Luca có thể nhận thấy ngay ở đây một cái gì vọng lại việc Ðức Maria đi thăm bà Êlisabét. Ngày ấy, Ðức Maria cũng được sứ thần nhà trời báo tin việc bà chị họ cưu mang do quyền phép của Thiên Chúa. Luca kể: sứ thần vừa ra đi là Ðức Maria đã vội vã lên đường. Ở đây cũng vậy, các thiên thần vừa khuất mắt, các mục đồng đã vội vã rủ nhau đi Bêlem. Trong cả hai trường hợp, cũng một thái độ vội vã, nhanh nhẹn thi hành Ý Chúa. Và động lực thúc đẩy chính là lòng tin đơn thật, trong trắng mà chỉ những người mà Phúc Âm gọi là nghèo khó mới có được.
Nhưng không phải là không có một sự khác biệt giữa Ðức Maria và các mục đồng. Luca nhận xét rất sâu sắc. Các mục đồng cũng như các người nghe họ, cũng như họ hàng bà con của Yoan Tẩy Giả trước đây (Lc 1,63) và như các thính giả của Chúa sau này (4,22; 8,25…) đứng trước các việc kỳ diệu của Chúa và giáo huấn với các phép lạ của Người, họ chỉ biết ngạc nhiên bỡ ngỡ. Họ bị xúc động mãnh liệt và không thể không thốt ra những lời chúc tụng hoặc thuật lại cho người khác nghe. Nhưng duy một Ðức Maria “giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng”. Thái độ của Người mới thật là thái độ của người đã tin, của người đã nhận thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong khi mọi người khác chưa nhận ra. Kế hoạch mới khởi sự và chưa hiển hiện hết, nên đời người có lòng tin phải suy đi nghĩ lại. Chứ thái độ ngạc nhiên, bỡ ngỡ trên hãy còn hời hợt và mau qua.
Như vậy, với bài Tin Mừng hôm nay, Luca như muốn nhắn nhủ mọi người về thái độ phải có trước mầu nhiệm Giáng sinh. Mau mắn tin vào việc Chúa làm và ngạc nhiên chúc tụng Ngài như các mục đồng đã làm, thật là tốt! Ðặc biệt trong Mùa Giáng sinh này, chúng ta hát thánh ca dâng Chúa Hài Nhi cũng rất phải, vì Phụng vụ dưới đất phải liên kết với Phụng vụ trên trời, tiếng chúc tụng của mục đồng phải hợp hoan với tiếng ca của các thiên thần. Nhưng tất cả sẽ mau qua và hời hợt, nếu chúng ta không bắt chước thái độ của Ðức Maria, suy đi nghĩ lại trong lòng và khi đó việc lên đường của chúng ta hôm nay không phải để đi đến Bêlem hay máng cỏ, nhưng là để đi vào trong thâm cung của lòng mình, để thấy ơn Chúa Giáng sinh đang làm gì cho chúng ta.
Ơn Giáng Sinh
Lời sách Isaia khi đó sẽ thấm thía. Chúng ta không còn là thành đô bị bỏ rơi, nhưng đã được tìm kiếm; chúng ta đã được Chúa cứu chuộc và trở nên thánh thiện. Người đến, quả để ân thưởng chúng ta. Chúng ta trước đây xa lạ với Chúa. Tệ hơn thế nữa, chúng ta đã thù địch với Người, nên bị bỏ rơi trong cảnh tội lỗi lầm than. Trái tim mỗi người như thiếu tình yêu, hay quá lộn xộn vì dục vọng. Nay Chúa cứu chuộc đến với ta, để mang tình yêu của Người tới. Người tìm kiếm ta để ta không còn bị bỏ rơi. Và thánh Phaolô bảo, Người đến rửa sạch tội lỗi, để Thánh Thần của Người tràn ngập lòng ta, hầu ta được kế thừa sự sống đời đời.
Nhận thấy ơn Giáng sinh như vậy, không ai được phép chỉ chạy theo những niềm vui tự nhiên của Mùa Giáng sinh; nhưng còn phải có thái độ trầm lặng như Ðức Maria, suy tư trước cảnh Chúa trở thành Hài Nhi, để thấy thiên tính đã hiện thân trong xác thể thế nào, hầu muốn đem chất siêu nhiên của Chúa vào trong cuộc đời cụ thể của ta. Muốn làm công việc ấy, rõ ràng ta phải tìm hiểu nhiều về Chúa, phải đọc Thánh Kinh nhiều và nhất là phải có lòng tin sâu xa như Ðức Maria.
Lòng tin ấy, ta cũng phải có ngay trong lúc này để đi vào Thánh Lễ; nếu không, làm sao ta có thể cảm nghiệm được đây là mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa cứu chuộc chúng ta. Nhờ việc suy đi nghĩ lại về ơn Thánh Thể chúng ta sẽ chịu, chúng ta sẽ thêm ý thức về Lòng nhân ái của Thiên Chúa chúng ta. Người hằng muốn ban Thánh Thần để nhập thể trong ta, biến cuộc đời của ta nên đời sống của Người, để Người tiếp tục cứu độ trần gian, nối dài mầu nhiệm Giáng sinh cứu đời ở thời đại ta.
————————————————————————
LỄ RẠNG ĐÔNG
HÀI NHI GIÊSU, QUÀ TẶNG CAO QUÝ- Trích Logos Năm A
Vào một đêm Giáng Sinh, thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ cầu nguyện, ngài được thị kiến thấy Chúa Hài Đồng hiện ra hỏi :
– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?
Thánh nhân đáp :
– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim con.
– Đúng thế, nhưng còn gì khác nữa không ?
– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và những gì con có thể.
Chúa lại hỏi :
– Còn gì khác nữa không ?
Thánh nhân khẩn khoản thưa :
– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu !
Chúa lại phán :
– Con hãy dâng cho Ta cả tội lỗi của con nữa.
Thánh nhân hoảng hốt thưa lại :
– Ôi, lạy Chúa, làm sao con có thể dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?
– Được chứ ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh Giêrônimô bỗng bật khóc vì xúc động và sung sướng.
Thật lạ lùng quá ! Một Thiên Chúa cao cả đã xin con người dâng cho Ngài món quà là tội lỗi của con người.
Thật ra, Thiên Chúa đã đi bước trước để trở thành món quà quý giá nhất ban tặng cho con người.
Hài Nhi Giêsu, quà tặng cao quý.
Trong mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta có thể thấy nổi bật sứ điệp Tin Mừng : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thật ra, Thiên Chúa đã ban cho con người rất nhiều quà tặng : một vũ trụ bao la với thiên nhiên tràn đầy sức sống, với vạn vật đem lại hạnh phúc cho con người, với những phúc lộc chan hòa trong cuộc sống nhân loại. Nhưng Thiên Chúa không chỉ hài lòng với những quà tặng vật chất ấy, Người muốn ban tặng một cái gì cao quý hơn cho con người. Qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa ban tặng chính mình Người cho chúng ta. Không những thế, Người đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã xác nhận điều đó : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Quả thật, hôm nay khi nhìn vào máng cỏ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cao cả của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Hài Nhi bé nhỏ.
Hài Nhi Giêsu chính là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người. Ngài chính là hiện thân sống động của một Thiên Chúa tình yêu ở giữa trần gian đầy hận thù ghen ghét.
Hài Nhi Giêsu chính là dấu chỉ lòng quảng đại và nhân hậu của Thiên Chúa giữa một thế giới mà trong đó nhiều người chỉ biết sống ích kỷ hẹp hòi.
Hài Nhi Giêsu là biểu lộ một tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa dành cho nhân loại cho dù nhân loại có đáp trả hay không.
Hài Nhi Giêsu, quà tặng bị khước từ.
Tuy nhiên, hôm nay trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã nói lên một sự thật phũ phàng : “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng người thân của Ngài đã không đón nhận Ngài”.
Tại sao họ không đón nhận Ngài ? Vì họ không nhận ra Ngài. Họ tưởng Ngài sẽ đến trong dáng vẻ quyền quý cao sang, nhưng Ngài đã đến trong dáng vóc tầm thường của đứa trẻ con nhà nghèo.
Chúa Giêsu đã bị khước từ không chỉ trong đêm Giáng Sinh, nhưng Ngài còn bị từ chối trong suốt cuộc đời.
Chúa Giêsu là ánh sáng đã chiếu soi vào u tối, nhưng u tối đã không tiếp nhận ánh sáng. Ngài là ánh sáng của ân sủng và hạnh phúc, đã bừng lên xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết. Nhưng tiếc thay, con người thích bóng tối hơn ánh sáng. Vì thế, con người đã không tiếp nhận Ngài và đã đánh mất ơn cứu độ dành cho mình.
Chúa Giêsu còn là Tin Mừng của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại : Ngày xưa, Thiên Chúa phán dạy con người qua các tiên tri, nhưng sau Người phán dạy qua chính Con Một Người là Đức Giêsu Kitô (bài đọc II). Nhưng tiếc thay, nhiều người đã không đón nhận Tin Mừng cứu độ. Vì thế, họ đã không được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn mãi trung thành trong việc hiến trao chính mình cho con người, cho dù con người có đón nhận hay không.
Trang tin tức Vietcatholic ngày 23/12/2004 đã đăng một bản tin mang tựa đề “Chuyện Buồn Giáng Sinh” như sau:
Một em bé trai 10 tuổi tên Samson thuộc một gia đình nghèo khó ở Ả rập. Cha mẹ của em vì quá nghèo đã bán em làm nô lệ cho một người chủ trại chăn nuôi ở thành phố Chad. Điều đáng nói là em Samson đã được bán chỉ bằng giá tiền của một con bê.
Mỗi chiều, em bé Samson phải đưa đàn cừu ra cánh đồng và em phải ở ngoài đồng cả đêm. Khi hừng đông sắp ló dạng, em bé phải đưa đàn cừu về chuồng. Khi mặt trời mọc, em đã mệt nhoài, nằm vật xuống nền đất mà ngủ vùi. Điều đáng buồn hơn, là một người Công Giáo, em bị bắt buộc phải trở thành một tín đồ Hồi Giáo.
Thật may mắn, trong mấy ngày vừa qua, em đã được một nhà thờ tại xứ đạo địa phương cứu khỏi cảnh nô lệ và đưa em về với gia đình.
Chuyện buồn Giáng Sinh trên đây nêu lên một sự việc thật đau xót : Một người con bị chính cha mẹ mình bán đi với giá tiền chỉ bằng một con bê ! Một người con đã bị những người thân yêu nhất của mình loại bỏ ra khỏi mái ấm gia đình.
Câu chuyện buồn ấy vẫn tiếp diễn trong cuộc sống chúng ta hôm nay. Có biết bao người đang bị xã hội khước từ, có biết bao người anh em đang bị chính chúng ta từ chối.
Hài Nhi Giêsu vẫn tiếp tục không được tiếp nhận nơi tâm hồn chúng ta, vì tâm hồn chúng ta đang đầy ứ đam mê dục vọng. Tâm hồn chúng ta không còn chỗ cho Ngài.
Hôm nay Ngài đang chờ chúng ta dọn cho Ngài một máng cỏ êm ấm trong lòng. Ngài đang chờ chúng ta tiếp nhận Ngài như một quà tặng cao quý nhất. Ngài vẫn mãi tiếp tục chờ đợi chúng ta …
——————————————————————
LỄ BAN NGÀY
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
——————————————————————
LỄ BAN NGÀY
CHÚNG TÔI ĐÃ ĐƯỢC NHÌN THẤY VINH QUANG CỦA NGƯỜI- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ này tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
Is 52: 7-10
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
Dt 1: 1-6
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
Ga 1: 1-8
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng thứ tư; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về biến cố Nhập Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, ở Ba-by-lon và được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải phóng họ.
Bối cảnh:
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ mở ra cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho Giê-ru-sa-lem là con cái của thành được hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.
Đối với thành thánh, vương quyền Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã; nhưng khi Đức Chúa giải phóng dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài chứng minh rằng Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là vua của dân Ngài; vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Hai bài hoan ca sắp vang lên. Bài hoan ca thứ nhất là tiếng reo mừng của những người canh giác, từ trên tường thành cao, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
Bài hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên một lần nữa dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài yếu đuối, nghèo khổ, lưu lạc khắp nơi: ấy vậy, chính mắt họ sắp phải nhận thấy rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt ra nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ lưu đày muốn vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này tiên trưng một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân đến mang ơn cứu độ cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, khỏi cảnh giam cầm của tội lỗi, và thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
Bản văn này là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày lễ Giáng Sinh này.
Chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Do thái:
Thư gởi cho các tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Tác giả cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông chứng tỏ chức tư tế Tân Ước cao trọng vô vàn so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn đưa vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa:
Kiện toàn Mặc Khải:
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, chắc chắn bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của ông)); thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia. Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa. Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người; Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa. “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho hậu duệ của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ:
“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Lời Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:
“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự dào dạt mật thiết giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26). Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết: “Ngôi lời là ánh sáng thật…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. Điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả: Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, như vậy, ông siết chặc gần hơn nữa ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
Duy trì vạn vật:
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: hy tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12). Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời của Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như trong thế vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng vào việc phong vương của Thánh Tử ngự bên hữu Đấng Cao cả trên trời những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít ban cho vua một người con kế vị ngai báu của mình: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14).
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
Tựa Ngôn là một bài thánh thi được viết theo thể thi ca khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm. Bài thánh thi nầy hình thành nên một đơn vị văn chương nhờ kỷ thuật đóng khung: bắt đầu với câu 1 và kết thúc với câu 18, cả hai câu này đều có chung từ vựng và nội dung.
Trong bầu khí thánh thiêng của ngày lễ “Giáng Sinh”, xin được tập trung phần giải thích vào câu 14 mà thôi:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm”:
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Tự nguồn gốc, từ “Lời” được dịch từ từ Hy-lạp: “Logos”, nhưng được tác giả sử dụng một cách độc đáo đến nỗi tư ngữ Hy-lạp này thấm nhuần từ “Daba” Cựu Ước. Như phàm nhân chúng ta bảy tỏ chính mình qua những lời chúng ta nói, thậm chí hơn nữa, bởi những việc chúng ta làm, vì thế Thiên Chúa suốt nhiều thế kỷ đã tự mặc khải mình ra qua những lời Ngài nói và những việc Ngài làm. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp với mạo từ “ho logos” không diễn tả “Lời” một cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Với biến cố Nhập thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Trong Kinh Thánh, “xác thịt” không phải chỉ xác thể mà còn chỉ cả hồn, nghĩa là trọn vẹn con người. Ngôi Lời đã làm người, trở thành một phàm nhân, không có nghĩa là, khi đã làm người, Ngôi Lời không còn là Thiên Chúa nữa. Khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
“Và cư ngụ giữa chúng ta”:
Câu này dịch sát từ: “Và dựng lều (hay cắm lều) ở giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều” hay “cắm lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” hay “cắm lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “cắm lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái cắm lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê rằng Ngài sẽ đồng hành với dân lên Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa cắm lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
Từ đó, “dựng lều” hay “cắm lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
“Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người”:
Khi viết, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người”, tác giả liên tưởng đặc biệt đến việc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, một sự kiện mà chính tác giả là một trong ba môn đệ được diễm phúc chứng kiến. Quả thật, so sánh câu phát biểu nầy với các bài trình thuật Nhất Lãm về cuộc Biến Hình đều có hai yếu tố: các tông đồ nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và Đức Giê-su được Chúa Cha công bố là Con Một của Ngài (Con Một và Con yêu dấu là hai từ đồng nghĩa, dịch cùng một từ Hy bá).
Trong Cựu Ước, nói “vinh quang của Thiên Chúa” là nói “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những phép lạ Thiên Chúa thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, là những thành quả của quyền năng và vinh quang Thiên Chúa (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những phép lạ, đặc biệt sự kiện phục sinh (13: 31; 17: 2-5; 12: 23, 28). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các phép lạ Người làm lúc sinh thời”. Những phép lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
Như thế, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết Thiên Chúa hiện diện và vinh quang của Ngài rực rỡ đến nỗi người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các phép lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).
“Vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”:
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng” và “sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương” và “thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và thành tín, cũng trọn niềm yêu thương, tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.
——————————————————————-
LỄ BAN NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI– Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của Tin Mừng được hàm chứa trong đó biện minh cho nhận định này. Đoi với những tác giả khác, Lời Tựa là như phần Mở của Tin Mừng, theo nghĩa là một vở nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần thân của Tin Mừng (sự sống, ánh sáng, sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v.). Lại có những tác giả khác cho rằng Lời Tựa là một bản văn theo đúng quy luật viết văn thời Thượng Cổ Hy Lạp và La-tinh nhằm giúp độc giả hiểu các mục tiêu của bài tường thuật đến sau, nghĩa là cung cấp cho độc giả các phương tiện giúp họ biết được đối tượng và diễn tiến của bài tường thuật (Zumstein). Cuối cùng, có một số tác giả cho rằng cc. 1-18 còn hơn là một lời tựa hay một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và chia loài người thành hai khối trước mặt Người cách nhiệm mầu.
Tuy nhiên, cũng có những khác biệt quan trọng giữa Lời Tựa và Tin Mừng. Thể thơ trong cc. 1-5.9-12.14-18 chỉ có ở trong Lời Tựa. Dung mạo trung tâm của Lời Tựa là “Lời” (logos) sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa trong phần còn lại của TM. Một số từ ngữ quan trọng tập trung trong cc. 14-18, chẳng hạn “ân sủng” (charis), “sung mãn” (plêrôma) và “ở trong lều (= cư ngụ)” (skênoun) không thấy xuất hiện ở chỗ nào khác ngoài Lời Tựa…
Những điểm tương đồng và dị biệt giữa Lời Tựa và TM đã khiến các nhà chú giải đi đến ba kiểu nhận định về cách soạn thảo Lời Tựa:
– Bởi vì có nhiều điểm tương đồng, một số vị cho rằng cùng một tác giả đã soạn Lời Tựa và Tin Mừng.
– Do có những khác biệt, những vị khác nghĩ rằng Lời Tựa không phải là công trình nguyên thủy của tác giả, nhưng là một bài thơ hay là một bài thánh ca có sẵn đã được cải biên để mở đầu TM. Tuy nhiên, lập trường này không thể giải thích được vì sao trong bài thơ gốc ấy lại có quá nhiều từ ngữ chuyên biệt của TM IV như vậy (ví dụ: sự sống, ánh sáng, bóng tối, làm chứng, thế gian, vinh quang…).
– Một số vị cho rằng Lời Tựa là một thánh ca Kitô học truyền thống, có lẽ đã được sáng tác ra trong cộng đoàn Gioan, và đã được tác giả TM đặc biệt cải biên thành một phần mở của TM. Ý kiến này được hỗ trợ bởi các điểm tương đồng về từ vựng và đề tài giữa Lời Tựa và phần còn lại của TM cũng như bởi các thánh ca Kitô học trong một số thư Phaolô (x. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20; 1 Tm 3,16).
Dù thế nào đi nữa, hiện nay Lời Tựa có đó như một dẫn nhập tuyệt vời vào TM IV. Hầu như chắc chắn là Lời Tựa, cũng như phần Kết của TM, đã được thêm vào sau khi quyển TM đã được viết xong. Như thế, Lời Tựa có thể được coi như một suy tư vừa để nghiền ngẫm vừa để đánh giá TM, do tác giả và cộng đoàn ngài đã ghi lại trong quyển TM vừa mới hoàn tất, đặc biệt về lời công bố của quyển TM là bản thân Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa. Lời Tựa có thể được coi như “lời chú giải có uy tín và chính lục” cổ nhất về quyển TM IV. Nó cũng cung cấp chìa khóa để chú giải TM IV (Collins). Và như vậy, Lời Tựa chỉ “hoàn toàn hiểu được” đối với người nào “biết trọn quyển Tin Mừng” (Bultmann). Chúng ta có thể tóm tất cả các quan điểm trên đây bằng nhận định của Zumstein: “Lời tựa xác định quy chế thần học của truyện Đức Giêsu trần thế. Truyện này phải được hiểu như là truyện về cuộc nhập thể của Lời Thiên Chúa, như hành vi yêu thương của Thiên Chúa, cho Logos của Ngài nhập thể để cống hiến cho loài người sự sống viên mãn. Truyện Đức Giêsu trần thế phải được hiểu như là cử chỉ mạc khải tuyệt hảo”.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
– Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13):
- a) Lời ban sự sống (1,1-5),
- b) Gioan là chứng nhân (1,6-8 [15]),
- c) Ngôi Lời là ánh sáng thật (1,9-13);
– Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18).
Vài điểm chú giải
– Lúc khởi đầu (1): Đây là những từ đầu tiên của sách Sáng thế, nhắm tới không phải là khởi đầu thời gian của thế giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối (x. St 1,1). Dĩ nhiên, tác giả không thể biết được điều gì ở “lúc khởi đầu”, vì chưa có gì cả, kể cả loài người. Thật ra Lời Tựa là một lời tuyên xưng niềm tin, được gửi đến các độc giả để mong chia sẻ.
– có (1): Động từ ên (was, était) ở thì vị-hoàn (imperfect) diễn tả sự kéo dài: Lời luôn hiện hữu cách siêu vời và vĩnh cửu.
– Lời (1): Đối với người Sêmít, “lời” không phải chỉ là một âm thanh của tiếng nói, sẽ tan biến đi theo nhịp độ ta phát ra. Theo họ, một khi lời con người đã được nói ra, thì tồn tại như một sức mạnh huyền nhiệm, luôn luôn làm việc để tạo ra cái mà lời ấy diễn tả, về mặt tốt hay xấu. Trong Tân Ước, Đức Giêsu không bao giờ tự xưng là “Lời” và cũng chưa bao giờ được gọi như thế ngoài những bản văn Gioan. Nhưng trong các bản văn Cựu Ước và Tân Ước, có những chuẩn bị cho giáo lý của TM IV về Ngôi Lời. Chẳng hạn, có ba trào lưu tư tưởng nhắm nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan, Lề Luật và Lời Thiên Chúa (Cn 8,22t; Hc 24,22t; Is 55,10t; Kn 18,14t), cũng như có khuynh hướng đồng hóa sự Khôn Ngoan với Lời Thiên Chúa, thậm chí đồng hóa Lề Luật với Lời (Hc 24,1.3.22t). Đàng khác, trong các bản văn đầu tiên của Tân Ước, Lời có nghĩa là sứ điệp cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, và thánh Phaolô đã trình bày Đức Kitô như là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và gán cho Lời những phẩm tính tương tự các phẩm tính của Đức Giêsu Kitô (Cv 8,4; 19,20; 1 Cr 1,24; Pl 2,16).
– Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa (2): Giới từ pros cho thấy một sự hướng chiều về một người nào. Tách khỏi Cha được gọi là Thiên Chúa, Ngôi Lời cũng ở trong một sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha.
– Nhờ Người, vạn vật được tạo thành (3): Dịch sát là “nhờ Người, mọi sự đã trở thành (egeneto)”: Đọng từ egeneto cũng được Bản LXX sử dụng trong St 1,3, diễn tả rất rõ việc tạo thành mọi sự “từ không có gì” (a nihilo) (x. 17,24). Thiên Chúa nhờ trung gian của Ngôi Lời mà tạo thành vạn vật. Cựu Ước đã gán công cuộc tạo dựng thế giới cho Lời Thiên Chúa (Tv 33,6.9; 147,15-18; Is 40,26; 48,3; Kn 9,1; x. St 1,3) hoặc cho Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa (Cn 8,27-30; Kn 7,12; 8,4; 9,9).
– không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành lại đã được tạo thành (3): Chỗ cắt giữa c. 3 và c. 4 là một vấn đề được tranh luận rất nhiều. Bởi vì cả truyền thống thủ bản lẫn ngữ pháp không cho phép vĩnh viễn giải quyết cuộc tranh luận, thì phải giải quyết bằng chú giải. Nếu ghép c. 3c với c. 4a, có thể đọc c. 3 theo nhiều cách:
– những gì đã được tạo thành thì là sự sống nơi Người;
– những gì đã được tạo thành, trong những cái đó (tức trong thế gian) có sự sống;
– những gì đã được tạo thành, trong những cái đó, Logos là sự sống;
– những gì đã được tạo thành nơi Người, đó là sự sống.
Tất cả các cách dịch và giải thích đó, vì gán cho từ ngữ “sự sống” ý nghĩa là sự sống tự nhiên, chung cho mọi sinh vật, đều vấp phải một vấn nạn căn bản như nhau, đó là chưa nói đến những khó khăn riêng của mỗi kiểu dịch. Quả thế, cho dù không có kèm theo tính từ “đời đời/vĩnh cửu”, “sự sống” thường được nói đến trong TM IV luôn luôn là sự sống đời đời mà Đức Kitô mang đến cho loài người: loài người nhận được sự sống đó chính là được cứu độ. Đàng khác, ngữ cảnh gần lại cho thấy: mệnh đề kết hợp (coordinate) tiếp đó lấy lại từ “sự sống” với quán từ[1]: Tin Mừng bảo chúng ta rằng sự sống vừa nói đó là “ánh sáng cho nhân loại”. Do đó, chắc chắn sự sống đó phải là sự sống thần linh, lúc đầu có từ muôn đời trong Ngôi Lời, rồi được Người thông ban cho loài người.
– Câu 3 là câu thơ ở thể biền ngẫu đối nghĩa, nhằm nêu bật rằng Ngôi Lời đóng vai trò trung gian tuyệt đối trong công trình tạo dựng.
– Ngôi Lời là ánh sáng thật (9): Đây là một biểu tượng quan trọng của TM IV để nói về vai trò của Ngôi Lời. Tác giả sẽ dùng công thức “ánh sáng cho trần gian” như một dấu hiệu ở ngay đầu sách, để giúp độc giả nhạy cảm với cặp biểu tượng ánh sáng/bóng tối mỗi khi nó xuất hiện: khi nghe Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian” (8,12), độc giả sẽ hiểu chiều kích biểu tượng của việc chữa cho người mù bẩm sinh thấy, là tin vào Đức Kitô (x. ch. 9). Rồi độc giả cũng sẽ hiểu tại sao Giuđa bỏ Đức Giêsu ban đêm (13,30), tại sao Maria Mácđala đến mộ khi trời còn tối (20,1), hoặc tại sao các môn đệ ở ch. 21 đã đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cho tới khi gặp Đấng Phục Sinh vào buổi sáng.
– những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (12): Tin vào ai có nghĩa là hoàn toàn gắn bó với người ấy, đặt mọi sự dựa vào người ấy, tin tưởng hoàn toàn vào người ấy. Đây là thái độ căn bản của con người đối với Đức Giêsu. Có 33 lần, tác giả nói đến “tin vào Đức Giêsu”, chỉ 1 lần “tin vào Thiên Chúa” (14,1). “Tin vào danh” là một công thức hiếm hơn (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13) và luôn luôn quy về Đức Giêsu; công thức này có nghĩa là đặt tất cả sự tin tưởng vào tư cách của con người được nêu tên.
– Ngôi Lời đã trở nên người phàm (14): Dịch sát là “đã trở thành xác thịt/xác phàm”. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) trong Kinh Thánh không nhắm đến một phần của con người, hoặc thậm chí thân xác của người ấy, mà là con người toàn vẹn, nhưng yếu đuối và mỏng giòn mong manh, một hữu thể phải chịu đau đớn và phải chết.
– Chúng tôi (14.16; x. 21,24): “Chúng tôi” đây là ai? Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi “chúng tôi” ở bên cạnh các đại từ chỉ ngôi khác, chẳng hạn 1 Ga 1,1-4 (1 Ga 4,2 đưa đến Ga 1,14). Đàng khác, “chúng tôi” được dùng với sắc thái làm chứng: Ga 21,24 đưa về 19,35 và đưa đến cả 3 Ga 12. Phải chăng đại từ “anh em” (you) của Ga 15,26-27 là nguồn của từ “chúng tôi” kia? Dường như tất cả những ai đã nhận được lệnh làm chứng về Chúa Kitô trong Ga 15,26-27 không phải là những người xuất hiện trong TM IV và trong các Thư với đại từ “chúng tôi”. Cuối cùng, sau khi đã khảo sát, chúng ta nhận ra ba khả thể: (1) “Chúng tôi” đây là loài người nói chung; (2) là các tín hữu hay các thành viên của cộng đoàn; 3) các chứng nhân đứng đầu cộng đoàn, chịu trách nhiệm ít nhiều về việc soạn thảo TM và các Thư. Thật ra trong mỗi “chúng tôi”, đều có một cái “tôi” nổi bật, được một nhóm người đi theo. “Chúng tôi” không phải là “tôi” được nhân lên, nhưng là “tôi” như phát ngôn nhân của nhóm (pluralis modestiae). “Chúng tôi” bao gồm (inclusive) thì tương đương với “tôi” + “anh em” = dịch là “chúng ta”. “Chúng tôi” loại trừ (exclusive) thì tương đương với “tôi” + “họ” = “chúng tôi”. Trong hy ngữ Tân Ước, và nói chung, hy ngữ Kinh Thánh, không có “chúng tôi cung kính” (pluralis maiestatis). Rất có thể “chúng tôi” đây là những vị hữu trách của cộng đoàn.
– Chúa Cha (14.18): TM IV dùng từ “Cha” để gọi Thiên Chúa 122 lần trong quan hệ với Đức Giêsu; chỉ có 3 lần là “Cha của loài người” (8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]). Cũng trong TM này, chỉ Đức Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa riêng, trên một bình diện bình đẳng và đồng phân với Thiên Chúa; loài người không được gọi là “con”, mà là “tạo thành” của Thiên Chúa.
– ân sủng và sự thật (17): Luật thế đôi (hendiadys) để nói là “ân sủng sự thật” hoặc “sự thật là ân sủng”. Sự song đối giữa c. 17a và 17b không phải là một sự đối lập, nhưng là một đỉnh điểm (climax). Hai về này có mục đích giải thích cụm từ “hết ơn này đến ơn khác” (charin anti charitos) của c. 16. Cả Luật Môsê lẫn mạc khải của Đức Giêsu đều là quà tặng do lòng quảng đại của Thiên Chúa. Cả hai hình thái mạc khải này đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất: Logos Thiên Chúa, Đấng đã soi sáng cho Môsê.
Ý nghĩa của bản văn
Mỗi tác giả Tin Mừng bắt đầu theo cách của mình. Mt liên kết với lịch sử cứu độ: ngài tức khắc giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là con cháu vua Đavít và con cháu tổ phụ Abraham (Mt 1,1-17). Mc quy chiếu về công việc rao giảng Tin Mừng hiện tại: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1-15). Lc bắt đầu tác phẩm theo cách các sử gia cổ thời, với một lời tựa, cho biết ngài tiến hành có lớp lang (Lc 1,3): ở 1,31, ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần đầu và ở 2,11, ngài cho biết địa vị của Đức Giêsu. Còn tác giả Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu Kitô ở 1,17, thì ở 1,1-13, đã nêu lên những đặc điểm của Đức Giêsu và ở 1,14-18, mô tả hình thức, các nội dung và những điểm liên can đến biến cố Đức Giêsu đến trần gian.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1-13)
Đối với tác giả TM IV, Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời. Bằng danh xưng này, ngài muốn diễn tả ra thực tại thâm sâu nhất của Đức Giêsu, sự kiện Người nhiệm xuất từ Thiên Chúa và tầm quan trọng của Người đối với loài người chúng ta. Dân Israel nhận biết vị Thiên Chúa của riêng mình như là Đấng nói với họ: không phải như vị Thiên Chúa khép kín mình lại và giam mình trong cõi thinh lặng, vị Thiên Chúa vô danh, xa cách và gây ra sợ hãi, nhưng như vị Thiên Chúa ngỏ lời với họ và cho họ biết các ý định và ý muốn của Ngài. Ngài đã nói với Abraham, đã gọi ông và đã ban cho ông lời hứa là muôn dân được chúc phúc (x. St 12,1-3). Qua trung gian Môsê, Ngài đã giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ và đã cho biết ý muốn của Ngài đặc biệt trong “Mười điều răn”. Nhờ các ngôn sứ, Ngài đã can thiệp vào trong các tình cảnh khác nhau của lịch sử dân Ngài. Ngài đã ngỏ lời với họ, để cho họ truyền đạt như là lời khuyên nhủ, lời khuyến cáo, lời hứa và lời động viên. Lời Thiên Chúa ở tại khởi đầu của toàn thể lịch sử. Bằng Lời tạo dựng quyền năng, Thiên Chúa đã gọi mọi sự ra hiện hữu. Nhờ Lời này, Thiên Chúa giao tiếp với các tạo thành của Ngài, tự mạc khải ra cho họ, cho họ được thông dự vào tất cả dự phóng và ý muốn của Ngài về họ. Lời Thiên Chúa đã ban sự hiện hữu và sự sống. Lời này ngỏ với chúng ta, và kêu gọi chúng ta dấn thân. Lời này vừa là yêu cầu vừa là lời hứa. Lời này đến từ Thiên Chúa, làm nền tảng và xác định tương quan giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt Lời Chúa như một ngôn sứ, nhưng Người chính là Lời này, Lời đầu tiên và Lời cuối cùng của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa tự mạc khải ra vĩnh viễn và chan hòa, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho ta được biết Người. Khi Người ngỏ lời với chúng ta, thì cũng luôn luôn có một yêu cầu, một đòi hỏi phải trả lẽ. Các đặc điểm của Lời Thiên Chúa này là thế nào, Người đến từ những chiều sâu nào, Người có tương quan thế nào với toàn thể tạo thành, tương quan với Người thì đưa lại điều gì cho loài người chúng ta, tất cả những điểm này đều được tác giả Ga mô tả trong 1,1-13.
Lời đang ở nơi Đức Giêsu Kitô đã được chuyển đến cho loài người chúng ta không phải để vang lên rồi tắt mất, nhưng Lời ấy vĩnh cửu và trường tồn như Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1-2). Tương quan của Ngôi Lời Thiên Chúa với chính Thiên Chúa được xác định ở đây với ba ý: Ngôi Lời thì vĩnh cửu và vô tạo như Thiên Chúa; Người sống trong sự hợp nhất trường tồn với Thiên Chúa; Người là Thiên Chúa theo cùng một cách như Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ba điểm này được tóm trong c. 2, được nhắc lại và khẳng định như là bất biến. Chúng nêu lên bản chất sâu xa nhất, đặc tính chính yếu và tư cách của Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa: TM IV nói với chúng ta về hành trình, các lời nói và các hành động của Người trên mặt đất. Trong tất cả những gì Đức Giêsu làm, ta thấy được điều này: Người không phải là người mang các lời của Thiên Chúa, mà là chính Lời Thiên Chúa, Lời vững chắc và đáng tin như chính Thiên Chúa trong thần tính sâu xa và cao cả của Ngài.
Kinh Thánh mở ra với khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngược lại, TM IV không mở đầu bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo Lời”, nhưng bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có [Ngôi] Lời”. Giống như Thiên Chúa, Ngôi Lời không được tạo thành, nhưng hiện hữu từ muôn đời, sống trước cuộc tạo dựng, không có khởi đầu và không có kết thúc, vĩnh cửu và không ai trổi vượt hơn. Ngôi Lời vĩnh cửu này ở bên Thiên Chúa từ muôn đời. Người là một đối tác hằng sống của Thiên Chúa và liên kết với Thiên Chúa bằng một sự hợp nhất vĩnh cửu và không có trung gian. Sự hợp nhất này xảy ra ngay trên bình diện Thiên Chúa; các đối tác bình đẳng với nhau. Ở đây không phải là tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và tạo thành. Ngôi Lời có bản tính Thiên Chúa, phẩm cách Thiên Chúa, Người có cùng bình diện hiện sinh của Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa, Thiên Chúa thế nào thì Người cũng là như thế. Chỉ khởi đi từ tương quan của Người với Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được tầm quan trọng và giá trị, quyền năng và sự viên mãn của Ngôi Lời.
Từ muôn thuở muôn đời và vô biên trước tương quan Tạo Hóa–tạo thành, có tương quan Thiên Chúa–Lời Thiên Chúa. Bây giờ tương quan của Ngôi Lời với tạo thành mới được nói đến: “Nhờ [Ngôi] Lời, vạn vật được tạo thành”. Khẳng định này lại được nhắc lại và nhấn mạnh: “Và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (1,3). Toàn thể tạo thành nhờ Lời Thiên Chúa mà có (x. 1 Cr 8,6; Cl 1,16; Dt 1,2), lệ thuộc vào Người mà hiện hữu. Ngôi Lời sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với Thiên Chúa. Người gắn bó với tạo thành ngay từ thuở ban đầu, nhưng trong bản tính, Người là Lời Thiên Chúa. Do đó, khi đến trần gian, Người không thiết lập một tương quan mới với tạo thành, Người không đi vào một xứ sở xa lạ, nhưng Người đến nhà của Người, đến với sản nghiệp của Người (Ga 1,9-11). Khởi đi từ những tương quan căn bản của Người, Người nhắm tới việc thông truyền và liên kết, Người là Lời Thiên Chúa quay hướng về tạo thành của Người.
Tương quan đặc biệt của Ngôi Lời với loài người được diễn tả bằng sự sống và ánh sáng. Trong Cựu Ước, có lời khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) và: “Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,107). Đặc tính căn bản của Ngôi Lời chắc chắn là sự sống vô cùng viên mãn, tức không có chút gì là bóng tối sự chết và giới hạn nơi Người. Như thế, Ngôi Lời có đặc điểm như Thiên Chúa, với lại Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Ga 5,26). Nhờ sự sống viên mãn không hề cạn kiệt của Người, Ngôi Lời trở thành ánh sáng cho loài người đang sống trong bóng tối và tiến về sự chết. Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi, ánh sáng làm cho mọi sự nên rõ ràng và làm cho ta có thể sống và định hướng đời mình.
Nhưng đến đây, lần đầu tiên, tác giả cho thấy công trình của Ngôi Lời gặp một sức mạnh đối nghịch. Bóng tối ngăn cản loài người nhận được ảnh hưởng của ánh sáng. Toàn thể TM IV nói đến cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng ánh sáng vẫn tỏa rạng và thắng vượt. Cuối cùng, có lời loan báo chiến thắng, tiên báo kết quả của trận đấu: “Bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (1,5). Ánh sáng mạnh mẽ và mang sự sống tiếp tục chiếu soi loài người.
Sau khi nhìn lần đầu tiên đến chứng nhân Gioan, tác giả giải thích lần cuối cùng biến cố Ngôi Lời đến trong thế gian (1,9-13). Người đến như là ánh sáng thật soi chiếu mọi người. Tuy nhiên, cách thức đón tiếp khác nhau. Hai lần tác giả nói rằng Ngôi Lời bị xua trừ. Người đã ở trong thế gian, nhưng thế gian, tuy vẫn nhờ Người mà hiện hữu, lại không nhận biết Người; tạo thành bị mù lòa và cứ muốn ở trong tình trạng mù lòa khi ở trước Đấng Tạo nên mình. Từ ngữ “người nhà” một lần nữa cho thấy thế giới con người là sở hữu của Đấng tạo thành nó, hoặc Israel là dân của Thiên Chúa (x. Tv 135,4). Người nhà của Người đã muốn đẩy Người ra cửa, chứ không muốn có Người ở với họ. Thế mà không những Người đã tạo thành họ, Người còn xuống để đi tìm họ trong thế giới của họ.
Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa cũng có được tiếp đón. Người ta tiếp đón Người bằng đức tin, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa. Tin là một quyết định cá nhân, một thái độ của ý chí con người. Đối với TM IV, “tin vào/tin vào danh” là thái độ căn bản mà con người phải có đối với Đức Giêsu. Theo Ga 3,18 (x. 1 Ga 5,13), danh của Ngôi Lời là “Con Một Thiên Chúa” (x. Ga 1,14.18). Như thế, chúng ta đón tiếp Ngôi Lời khi nhận biết Người là Con Một của Thiên Chúa và hoàn toàn tín thác vào Người.
Tất cả những ai tin vào Ngôi Lời Thiên Chúa thì được ban cho quyền trở nên con Thiên Chúa. Tương quan của một người cha với các con có đặc điểm là người cha truyền thông sự sống cho các con và họ sống một dây liên kết riêng tư thân tình. Các con của Thiên Chúa là những người có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và có thể sống hợp nhất với Ngài. Sự sống này hoàn toàn khác với sự sống trần gian: trong sự sống này, loại trừ một loạt những nhân tố cho thấy nguồn gốc của sự sống trần gian tự nhiên (Ga 1,13). Được sinh ra lần nữa bởi Thiên Chúa (x. 3,3), chúng ta trở thành con của Ngài, chúng ta có sự sống đời đời, được thông dự vào chính sự sống của Ngài. Sự tái sinh này tùy thuộc niềm tin đặt nơi Con Một Thiên Chúa.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (14.16-18)
Ngoại trừ tên của chứng nhân Gioan (1,6), trong phần thứ nhất của Lời Tựa, chúng ta không gặp bất cứ tên người nào. Sau khi tác giả đã nói nhiều điều về Ngôi Lời Thiên Chúa, phát sinh các câu hỏi: Người ở trong thế gian như thế nào? Ta tìm ra Người ở đâu? Ai đã gặp Người? Người có gì mà thông ban cho chúng ta?
Trong phần thứ hai (1,14-18), các tên người được gom lại với nhau: một nhóm đi vào sân khấu, với tên gọi “chúng ta/chúng tôi” (1,14.16). Các khẳng định đan quyện vào nhau. Trước khi khẳng định rằng Ngôi Lời đã làm người (= đã thành xác phàm) có đầy ân sủng chân lý (1,14), tác giả nói rằng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (1,14). Và trước khi nói rằng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”, ngài nêu bật chứng tá của Gioan [Tẩy Giả] (1,15). Chứng tá có tầm quan trọng đặc biệt cho khả năng thấy của nhóm “chúng ta/chúng tôi” (x. 1,29.30.36). Tác giả TM hẳn là đang nhắm đến một kinh nghiệm phi thường khiến ngài như nghẹt thở, và dường như ngài diễn tả điều này khi nêu lên chuỗi các khẳng định đan quyện nhau. Kinh nghiệm lớn lao duy nhất, cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người, hẳn là tác giả muốn diễn tả tất cả ngay trong một lần, trong khi kinh nghiệm ấy chỉ có thể thông tri dần dà, từng phần một.
Ngôi Lời như là ánh sáng thế gian đã đến (1,9), điều này được thể hiện trong việc Người “thành xác phàm”, trong việc Người “làm người”. “Trở thành xác phàm” có nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một con người thật sự, mỏng giòn và phải chết, và bằng cách đó Người đã đến hiện diện trong thế gian như là ánh sáng cho loài người. Ngôi Lời vô tạo, luôn ở trong một tương quan vĩnh cửu và sống động với Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, nay vẫn không thôi là Lời Thiên Chúa ấy, lại đồng thời trở thành một con người tất tử.
Trước khi nêu tên của con người ấy, cũng là Lời Thiên Chúa, là người thật và là Thiên Chúa thật, tác giả TM IV phác ra các đặc điểm của sự hiện diện thường trực của Người với loài người. Ngôi Lời không chỉ đến phớt qua rồi biến mất ngay, nhưng đã sống lâu dài trong và với cộng đồng loài người: Người đã cư ngụ giữa họ. Tác giả cũng mô tả cuộc gặp gỡ lạ lùng ngài đã có với Đấng ấy: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1,14). Không phải là một con người đơn lẻ, nhưng là một nhóm đã được gặp Ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Bởi vì ngài nói đến “chúng ta/chúng tôi”, tác giả TM coi mình thuộc về nhóm này. Đây là nhóm các môn đệ; họ đã được sống hiệp thông trực tiếp với Đức Giêsu và hiểu thực tại đích thật của Người (x. 2,11; 20,30). Họ đã được thấy “vinh quang của Con Một Chúa Cha” (1,14). Cựu Ước đã nói đến “vinh quang của Thiên Chúa” vào dịp các cuộc tỏ mình của Thiên Chúa (x. Xh 24,16-17; Ed 1,28). “Vinh quang” này không phải là bất cứ thứ huy hoàng lộng lẫy nào, nhưng là nguồn sáng chói lọi trong đó ta trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa, nay hiện diện như là con người phải chết và ẩn giấu, trở thành thấy được cho các môn đệ trong thực tại đích thực của Người. Các môn đệ đã được sống cuộc tỏ mình cho thấy bản thân thâm sâu của Ngôi Lời, khiến họ nhạn được ánh sáng (Ga 1,4.9) và hết sức vui mừng (x. 1 Ga 1,4).
Đến đây đã rõ là Ngôi Lời chính là Con duy nhất và vô song của Thiên Chúa, mà Chúa Cha đã cử đến trần gian. Tác giả diễn tả tương quan có một không hai này nhiều cách: Thiên Chúa hầu như chỉ là “Cha” của Đức Giêsu, và chỉ Đức Giêsu mới là “Con” của Thiên Chúa.
Ngôi Lời làm người, Chúa Con được Chúa Cha sai phái đến thế gian, là Đấng “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Công thức này cho biết điều gì đã được ban cho loài người nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời, điều gì các môn đệ đã nhận được khi hiểu rõ ràng bản thân Ngôi Lời (1,16). Nhờ Đức Giêsu, là chính Sự Thật của/về Thiên Chúa, đã được ban xuống cho chúng ta như “quà tặng” (= ân sủng), ân sủng sự thật đã có đó (1,17; x. 14,6). “Ân sủng sự thật” chính là mạc khải về một thực tại cho đến nay vẫn còn ẩn giấu, nay được ban như một quà tặng, được ban nhưng-không. Vì Người là “sự thật”, Người cho chúng ta được biết một phương diện hoàn toàn mới của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). Trong thân phận là Con, Người mạc khải về Thiên Chúa như là Cha: ta không thể biết Đức Giêsu như Con Thiên Chúa mà không đồng thời biết Thiên Chúa như là Cha của Đức Giêsu. Được biết rõ như thế về Thiên Chúa là một ân sủng, là một sự chiếu cố nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người.
Để cho thấy đây là một điều mới mẻ, tác giả so sánh với Cựu Ước. Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân Chúa. Lề Luật này là lời Thiên Chúa, dấu chỉ lòng ân cần của Thiên Chúa, cũng mạc khải ý muốn của Thiên Chúa, xuyên qua các điều răn và các lời hứa của Thiên Chúa; Lề Luật loan báo điều mà chính Thiên Chúa muốn làm, điều Ngài sẽ ban cho dân Ngài (x. Ga 1,45; 5,46), đồng thời cho biết điều mà dân Chúa phải làm, để sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngay các điều răn của Thiên Chúa cũng được nhận biết như là những dấu chỉ về ân sủng của Ngài: xuyên qua các điều răn này, Israel có thể biết điều gì Thiên Chúa muốn (x. Tv 19; 119).
Nhưng điều Thiên Chúa chuyển đến cho loài người nhờ trung gian Đức Giêsu còn vượt quá ân ban trên. Đức Giêsu Kitô không phải là một trung gian theo kiểu Môsê, là người chỉ truyền đạt điều đã nhận. Nhờ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian, ân ban là sự thật, là mạc khải về điều cho đến nay còn bị giấu kín, đã được ban cho ta: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (Ga 1,18). Không một ai, kể cả Môsê, đã được cho gặp trực tiếp và biết đầy đủ về Thiên Chúa. Nay “Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1,18). Nhiệm vụ chính của Đức Giêsu là loan báo cho chúng ta sự hiểu biết này. Chính ba tư cách được nêu vừa rồi cho phép Đức Giêsu làm công việc mạc khải về Chúa Cha.
Trong ba tư cách này, tác giả nhắc lại những gì Lời Tựa đã nói về ngôi Lời: Đức Giêsu là Con Một (x. Ga 1,14), Người có một tương quan hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa (x. 1,1c). Đây là tương quan giữa những nhân vật ngang hàng nhau, có cùng một bản tính và đặc điểm như nhau. Tương quan này được sống trong sự hợp nhất thân tình, tin tưởng (x. 13,23). Cựu Ước đã biết đến vị Thiên Chúa Tạo Hóa, hoàn toàn cách biệt với các thọ tạo; khi đó, người ta nhận biết Thiên Chúa chỉ có một, “nhất khối”. Nhờ Đức Giêsu, ngay tại bình diện Thiên Chúa, có sự hiệp thông, có tương quan tình yêu âu yếm và tin tưởng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu mang đến một sứ điệp về Thiên Chúa, mà thật ra Người chính là sứ điệp đó. Người mang đến sứ điệp này, để những ai tin vào Người như là Con thì được thông dự vào tương quan của Người với Thiên Chúa, và trở thành con Thiên Chúa (1,12). Đây là điều mới mẻ tuyệt đối mà Đức Giêsu cho chúng ta biết. Cho đến nay thì đúng là “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (1,18); nhưng bây giờ, “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
Lời Tựa có ghi ba tên: Gioan, Môsê và Giêsu. Như thế, các lời khẳng định của Lời Tựa được liên kết với ba nhân vật lịch sử. Gioan đã đến như chứng nhân của ánh sáng (Ga 1,7). Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân (1,17). Với Đức Giêsu, ân ban sự thật đã đến trong thế gian. Đây là con người lịch sử mang tên là Giêsu Nadarét. Khi tác giả nói tên Người ra (1,17), thì ngài đã nói tất cả những gì làm cho rõ về bản thân Đức Giêsu và ý nghĩa của tên này. Nhưng tất cả những gì ngài trình bày không phải là hoa trái của suy diễn, nhưng rút ra từ việc chiêm ngắm và gặp gỡ con người lịch sử này ngày càng sâu sắc hơn. Lời Tựa tóm tắt những gì đã được ban cho các môn đệ khi họ được nhìn xem vinh quang của con người ấy.
Chỉ Đức Giêsu mới có một danh hiệu: Người được gọi là “Kitô”. Như thế, Người được tuyên xưng như là vị vua cuối cùng đã được Thiên Chúa ban cho dân Israel, Người là “ân sủng sự thạt”. Đến cuối TM, chính Đức Giêsu sẽ tóm tắt địa vị và nhiệm vụ của Người trước mặt Philatô: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Nhiệm vụ thiên sai và vương giả của Đức Giêsu là mang sự thật đến, là mạc khải vị Thiên Chúa ẩn mình ra trong thực tại của Ngài là Cha.
+ Kết luận
Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất cả truyện Giêsu.
Tác giả TM IV đã chiêm ngắm công trình và tầm quan trọng của Đức Giêsu theo cách quy thần. Ngôi Lời mang đến sứ điệp về Thiên Chúa, một sứ điệp cũng chính là bản thân Người. Tất cả những gì tác giả khẳng định về Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm, với các từ “ánh sáng, sự sống, vinh quang, ân sủng, sự thật”, đều trở nên rõ nghĩa trong sứ điệp về Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng mạc khải Thiên Chúa như là Cha và sự hiệp thông trong Thiên Chúa, vẫn đang soi sáng thế gian, Người xán lạn vinh quang, Người chính là mạc khải về Thiên Chúa và sự quan tâm đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và Người ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
Gợi ý suy niệm
– Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời Ngài đến với chúng ta. Lời Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng ta; Người đã nói một ngôn ngữ nhân loại, và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ về chúng ta, và các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha, tất cả những gì chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm, lắng nghe những gì Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ với, nơi và những người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người chọn để cộng tác với Người.
– Khi chiêm ngắm Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng v.v.) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm khích v.v.).
– Các Kitô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại sao chúng ta lại không yêu thương nhau?
– Ở 1 Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm nay, sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?
– Làm thế nào liên kết những gì tác giả TM IV đã nói về Lời Thiên Chúa với Đức Giêsu Nadarét lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Lời Thiên Chúa như một nhân vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng ta, hoặc chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại trần thế đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một xu hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đến mức không còn là “Thiên Chúa thật” nữa!
———————————————————————
LỄ BAN NGÀY
LỜI CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Đinh Tất Quý (*)
“Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời,và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa.” (Ga 1,1)
Lời nói thật quan trọng trong đời sống. Nhờ lời nói, ta có thể bộc bạch nỗi lòng. Nhờ lời nói, ta hiểu được người khác. Chúa Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã thành xác phàm, trở nên một con người. Qua Hài nhi Giêsu trong hang đá Bêlem, ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.
Lời của Thiên Chúa là Lời Yêu Thương. Một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ. Đó là gì nếu không phải là tình yêu. Vì yêu thương Thiên Chúa đã muốn nói với nhân loại bằng chính ngôn ngữ của con người. Không phải chỉ nói bằng lời nói nhưng còn bằng cả thân xác. Lời Thiên Chúa trong thân xác trẻ thơ. Thật gần gũi. Thật yêu thương. Vì yêu thương Thiên Chúa đã vượt ngàn trùng để đến chia sẻ kiếp người. Nếu yêu thương là muốn ở gần và muốn hi sinh cho người mình yêu thì Chúa Giêsu bé thơ trong hang đá Bêlem chính là một lời yêu thương bằng xương bằng thịt. Một lời yêu thương có thể chạm tới được. Thân xác bé bỏng hôm nay rét run trong làn gió lạnh, mai sau sẽ run rẩy dưới những ngọn roi, co giật vì những nhát búa, tả tơi trên thánh giá. Tất cả đều là lời ngỏ của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lời của Thiên Chúa là Lời Cứu Độ. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là cảm tính, nhưng là một chương trình lâu dài. Lời Thiên Chúa nói với loài người không phải để làm vui tai, nhưng đem đến ơn cứu độ. Trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Vâng, Chúa xuống thế làm người chính là để cứu chuộc chúng ta. Chúa xuống thế làm người để biến đổi thân phận con người. Ngài trở nên bé nhỏ để ta được lớn mạnh. Ngài trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Ngài xuống thế làm người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thân xác bé bỏng của Hài nhi Giêsu là tất cả niềm hi vọng được cứu độ của loài người. Lời Chúa nói với người bất toại: “Tội của con đã được tha” (Mt 9,2), và lời hứa với người trộm lành: “Hôm nay con sẽ ở trên thiên đàng với ta” ( Lc 23,43) đã bắt đầu từ hang đá Bêlem.
Lời của Thiên Chúa là Lời Soi Sáng. Trong tội lỗi, định mệnh của con người bị bế tắc. Tội lỗi là bóng tối bao phủ khiến ta mất phương hướng không biết đi về đâu. Con người đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Ngôi Lời Thiên Chúa từ trời xuống để khai thông định mệnh con người. Ngôi Lời Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để làm cho cuộc đời con người có ý nghĩa. Ngài từ trời xuống thế để mở cho ta đường về trời. Ngài đã chiếu ánh sáng vào đêm tối loài người. Ai đi theo Ngài là đi trong ánh sáng. Ánh sáng dẫn đưa tới sự thật và sự sống.
Hôm nay, Ngài muốn nói với ta qua Người Con của Ngài. Nhưng Lời Yêu Thương ấy thì thầm quá, chỉ trái tim rộng mở mới có thể lắng nghe. Lời Cứu Độ ấy nhẹ nhàng quá, chỉ tấm lòng khao khát mới có thể đón nhận. Lời Ánh Sáng ấy sâu thẳm quá, chỉ những tâm hồn thiện chí mới hiểu thấu ý nghĩa. Hãy mở rộng trái tim như Đức Mẹ và thánh Giuse để ta nghe được lời yêu thương của Thiên Chúa. Hãy có tấm lòng khao khát như các mục đồng để ta nhận được ơn cứu độ. Hãy có tâm hồn thiện chí như ba nhà đạo sĩ để ta hiểu được ý nghĩa lời Chúa soi sáng hướng dẫn cuộc đời ta.
Nhật báo Le Figaro (Pháp) số ra ngày 24/12/1995 có đăng tải chứng từ của Nữ tu Emmanuel. Tại một khu ổ chuột ở thủ đô Cairô (Ai Cập), người ta không cử hành lễ Giáng sinh được vì quá nghèo. Tôi đến gặp Đức thượng phụ Sinođa xin Ngài cho một linh mục đến dâng lễ tại đó. Tin vui loan ra, mọi người hăng hái quét dọn, vài miếng vải sáng màu được giăng lên, không có đèn điện, chỉ một vài cây đèn dầu. Đêm khuya, tiếng hát giáng sinh vang lên, mọi vật trong khu ổ chuột đều thức giấc: lừa kêu be be, gà gáy o o, chó sủa inh ỏi… Thật là một bản nhạc mừng giáng sinh vô cùng độc đáo. Vị linh mục không cần giảng nhiều, Ngài chỉ vắn tắt nói: Nếu Chúa Giáng trần một lần nữa, chắc chắn Ngài sẽ sinh ra tại đây để đem tình thương cho anh chị em, chia sẻ nỗi thống khổ và đồng hành với anh chị em tại khu ổ chuột này. Lễ xong, tôi phát cho họ mỗi người một quả quýt và một cái bánh nhỏ. Mọi người chúc mừng nhau rồi ra về hớn hở vui mừng.
Niềm vui giáng sinh đâu có nhất thiết phải đến từ những bữa tiệc linh đình, cảnh huy hoàng giàu sang. Nhưng đến từ những tấm lòng đơn sơ nghèo hèn, đầy tình Chúa và tình người.
Lạy Chúa Cha từ ái, xin mở trái tim con, mở tâm trí con, mở linh hồn con để con lắng nghe được tiếng Chúa, để con đón nhận Chúa Giêsu là Lời của Cha, và để con cũng được hạnh phúc trở thành Con của Cha. Amen.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————————
LỄ BAN NGÀY
ĐÁNH MÁT CƠ HỘI NGÀN VÀNG- Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ giây phút gặp mặt đầu tiên.
Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.
Chúa Giê-su khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài. Những ai cho người đói lang thang vất vưởng trên vỉa hè một bát cơm thì Ngài nói là họ đã cho Ngài ăn. Những ai cho kẻ bần cùng thiếu thốn một tấm áo, thì Ngài nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người vãng lai một chỗ trọ qua đêm thì Ngài nói là họ đã tiếp rước Ngài… (Matthêu 25, 34 – 40).
Và hôm xưa, đang khi Sao-lô rong ruổi trên đường Đa-mát, tìm bắt các môn đệ của Chúa, thì chính Chúa Giê-su quật ngã ông xuống và cảnh cáo ông: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (chứ không nói là tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ Ta) (Rm 9,4).
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng dựa vào giáo huấn nầy để nhắn nhủ các gia đình: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” (trích “Tâm thư gửi các gia đình”)
Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy hình ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ. Mẹ còn dạy các tập sinh hãy trân trọng những người hấp hối cùng khổ trong nhà Lâm chung như tôn trọng Mình thánh Chúa Giê-su.
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
LỄ BAN NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM – Trích trong Niềm Vui Chia Sẻ
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.