CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HỒI ẤY…- Chú giải của Noel Quesson. 5
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 13
MÙA VỌNG : MÙA MÀU TÍM- ĐGM. Vũ Duy Thống. 18
HÃY SỐNG TRONG TƯ THẾ SẴN SÀNG– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 23
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA- Chú giải của Fiches Dominicales. 38
XÂY DỰNG NƯỚC THIÊN CHÚA TRONG CÔNG BÌNH VÀ BÁC ÁI- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 46
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 58
LỜI LOAN BÁO CỦA GIOAN TẨY GIẢ- Lm FX Vũ Phan Long, ofm.. 76
HÃY THỐNG HỐI, VÌ NƯỚC TRỜI GẦN ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 89
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A.. 92
SỨ ĐIỆP SÁM HỐI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 92
CON ĐƯỜNG HÒA BÌNH- Trích Logos A.. 100
NGÀY CỨU ĐỘ- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn. 104
——————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Is 2, 1-5.
“Thiên Chúa quy tụ các dân tộc trong nước Người, để hưởng bình an đời đời”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Điềm Isaia con trai của Amos đã thấy về Giuđa và Giêru-salem. Điềm sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, là núi của nhà Chúa được xây đắp trên đỉnh các núi, và núi ấy sẽ cao hơn các đồi, và các dân nước sẽ đổ về đó. Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà?Thiên Chúa? của Giacóp. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người, và chúng ta sẽ đi theo ý định của Người”; vì luật pháp sẽ ban ra từ Sion, và lời Chúa sẽ phát ra từ Giêrusalem. Người sẽ xét xử các dân ngoại và khiển trách nhiều dân tộc. Họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa; người ta cũng sẽ không còn thao luyện để chiến đấu nữa. Hỡi nhà Giacóp, hãy đến, và chúng ta hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5. 6-7. 8-9
Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”(c. 1).
1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít.
4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn.
5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo.
BÀI ĐỌC II: Rm 13, 11-14
“Phần rỗi chúng ta gần đến”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Tv 84, 8
All. All. – Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. – All.
PHÚC ÂM: Mt 24, 37-44.
“Hãy tỉnh thức để sẵn sàng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. “Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”.
Đó là lời Chúa.
—————————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG NĂM A
HỒI ẤY…- Chú giải của Noel Quesson
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói… hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến… còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu’. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
————————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?
Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.
Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.
Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.
Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.
Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.
Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.
Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.
Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.
Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.
Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:
Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.
Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?
2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?
3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?
4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?
——————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
MÙA VỌNG : MÙA MÀU TÍM- ĐGM. Vũ Duy Thống
Nếu Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, với lối nhìn viễn cảnh, người ta thấy sáng lên dung mạo của Thiên Chúa, Đấng hằng hy vọng vào con người, đồng thời cũng nhận ra dáng đứng của tín hữu là biết hy vọng vào Thiên Chúa bằng lòng tỉnh thức, để Mùa Vọng được gọi là mùa xanh lên niềm hy vọng thì Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, với lối nhìn cận cảnh, người ta lại thấy Phụng Vụ được diễn tả bằng một màu khác, không còn êm ả mướt xanh nữa mà đã đi vào lắng đọng tím màu để Mùa Vọng cũng gọi được là mùa màu tím.
Tím không ở chân trời nắng xế; tím không ở dòng sông Giođan chiều về nơi Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa; tím cũng không ở sắc phục linh mục bước ra dâng lễ, mà tím ở tâm can những tín hữu biết chân thành ăn năn lầm lỗi bao ngày qua để thấy trong lệ sa màu tím của lòng mình. Mùa Vọng đích thực là mùa của màu tím sám hối.
Nhưng làm sao để lòng sám hối diễn tả được nỗi lòng Mùa Vọng, hay nói lên được sắc màu hy vọng? Trả lời câu hỏi này tức là cùng lúc phải xét đến những đặc tính sám hối của Mùa Vọng.
Sám hối mang màu hy vọng không cúi gập trên những lầm lỗi của mình mà hướng mở về tình thương Thiên Chúa.
Đối với nhiều người, sám hối cũng đồng nghĩa với lòng hối hận, tức là nhận thức về thân phận tội lỗi của mình, ý thức về những lỗi lầm mình đã phạm và buồn vì mình đã làm xấu cuộc đời mình đi. Tất nhiên, lòng hối hận như thế tự nó có một ý nghĩa nhất định, nhưng nếu chỉ có thế và chấp nhận dừng lại như thế, rõ ràng là có khuynh hướng co cụm lại và cúi gập trên những lầm lỗi của mình. Hối lỗi thì ít mà xem ra hận mình lại nhiều, để rồi khi tự mình vùng vẫy trong tình huống mất thăng bằng ấy, người ta dễ bị rơi xuống vực sâu thất vọng, giống như con muỗi sa vào lưới nhện càng vùng vẫy càng bị xiết chặt, và giống như những kẻ sa vào vũng lầy càng ngoi ngóp càng bị lún sâu.
Thực ra, hối hận chỉ là một thành phần trong hành vi sám hối, hay đúng hơn là khởi điểm của cả một tiến trình trở về mà Thiên Chúa chính là cao điểm và kết điểm. Chính vì đối diện với Thiên Chúa mà tôi biết mình có tội và cũng vì hướng đến Thiên Chúa mà tôi hối hận tìm về. Người ta vẫn bảo sám hối là hai mắt nhìn của con người nội tâm: một mắt nhìn vào mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng đã dẫn tới sa ngã rồi xa lìa tình thương Thiên Chúa và mắt khác nhìn vào Thiên Chúa để thấy nơi Ngài một tình yêu như tấm lòng người cha, như trái tim người mẹ bao dung thương xót mà xin ơn làm lại cuộc đời.
Hai con mắt, hai hướng nhìn nhưng vẫn chỉ là một lòng sám hối mang màu hy vọng. Thiếu một trong hai, sắc màu hy vọng đều bị nhạt nhòa. Sẽ là thất vọng nếu chỉ nhìn tội mình mà quên nhìn tình Chúa và sẽ là vô cùng ảo vọng nếu chỉ nhìn tình Chúa mà quên nhìn tội mình; nhưng sẽ là hy vọng dâng đầy cho những ai vươn lên tình yêu Thiên Chúa khởi đi từ lòng sám hối tội lỗi của mình. Hình như trong lời kêu gọi “Hãy sám hối” đã có tiếng giục giã “Hãy hy vọng”, và sở dĩ Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối hôm nay là bởi vì đã có niềm hy vọng dọn đường chờ mong Chúa đến.
Sám hối mang màu hy vọng không dừng lại trong nội vi tâm thức mà biết tỏa rộng lên cả cuộc đời.
Đối với một số người khác, sám hối là một cách nói ám chỉ một chuyển biến từ một tình trạng cũ và xấu đến một tình trạng mới và tốt hơn, nhưng hối lỗi chỉ là một chuyển biến xảy ra trong nội vi ý thức của cuộc sống tâm hồn, cùng lắm cũng chỉ được diễn ra bằng những nghi thức đã được quy định. Thế thôi. Rõ ràng cách nhìn như thế quả là không ổn. Không ổn ở chỗ nó quá máy móc, làm như cứ tham dự một số nghi thức sám hối là đương nhiên mình được thanh tẩy bất kể đời sống của mình ra sao; và không ổn ở chỗ nó quá nội giới, làm như sám hối chỉ là một thứ tâm lý liệu pháp nào đó theo kiểu kể tội trong gió, gió thổi bay đi là xong.
Sám hối Mùa Vọng đâu phải là thứ sám hối như thế, mà thật ra phải là thứ sám hối toàn diện đúng mức với lòng hối cải, vốn bao gồm hai động tác cơ bản đan xen: “hối” có nghĩa là hối lỗi và “cải” là kiểu nói tắt của chữ cải thiện. Nếu hối lỗi là lời đoạn tuyệt với quá khứ tội lụy, thì cải thiện là lời quyết tâm dấn bước vào một tương lai tươi mới. Và đến khi sám hối trở thành một thói quen ăn sâu vào trong nhịp sống để nỗ lực chuyển đổi không ngừng lên những tình trạng tốt hơn thì đó chính là một cuộc lột xác đổi đời; không giống như đổi đời xe đời máy mà là đổi đời sống cách sống với những hệ lụy cụ thể không thể lần lữa chần chừ được.
Không phải vô tình mà Gioan Tẩy Giả bảo những kẻ đến với ông là “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” nhưng qua đó ngài cho thấy lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể của mình.
Sám hối mang màu hy vọng biết vượt qua những động tác để trở thành một thái độ sống.
Đối với một số người khác nữa, sám hối thường được quan niệm như một cao trào chỉ bùng lên một năm vài lần vào những dịp lễ đặc biệt như cách phân bổ Lịch Công Giáo hiện nay, tức là xuân thu nhị kỳ: một lần vào Mùa Vọng để dọn lòng mừng lễ Giáng Sinh cho sốt sắng và lần nữa vào Mùa Chay để tỏ bày sự thông công vào lễ Phục Sinh cho phải đạo, “Xưng tội một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh”.
Xem ra cách thực hành sám hối như vậy cũng có những nét cụ thể nhất định, nhất là lại phù hợp với đại đa số giáo dân vốn đầu tắt mặt tối chạy vạy với cuộc sống kinh tế gia đình hoặc xã hội. Nhưng từ căn bản có cái gì đó chưa ổn. Một mặt quá gắn liền động tác sám hối với việc đón nhận Bí tích Hòa Giải sẽ dẫn tới ý nghĩ rằng khi mình không nhận Bí tích Hòa Giải thì mình cũng chẳng cần đến sám hối nữa; và mặt khác coi sám hối chỉ như một động tác diễn ra trong khoảnh khắc sẽ tới lúc nghĩ rằng sám hối chỉ là điều kiện ắt có và đủ cho việc xưng tội chứ không như một thái độ thường xuyên phải có trong đời Kitô hữu.
Thực ra sám hối mang màu hy vọng không đơn thuần là một động tác cho bằng là một thái độ. Sám hối là một thành phần của đời sống đức tin, nhưng lại gói ghém và len lỏi vào mọi ngõ ngách của toàn bộ cuộc sống đức tin ấy. Chả thế mà Gioan Tẩy Giả khi trả lời cho đám đông về việc thực thi sám hối đã mở ra cho họ một nhãn giới thật rộng bao gồm cả việc thực thi công bình và sống tình bác ái. “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt thấp” đâu phải chỉ là chuyện dọn dẹp đường xá, mà đã trở thành chuyện khai quang tâm hồn để nhìn thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. Cũng thế, việc chia cơm sẻ áo đâu phải chỉ là chuyện cứu trợ, mà đích thực đã là cách diễn tả cụ thể của lòng sám hối chờ mong Chúa đến.
Tóm lại, sám hối mang màu hy vọng là sám hối tìm về tình thương Thiên Chúa, chấp nhận thay đổi cuộc đời và biết để cho ơn tha thứ thấm đẫm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đức tin. Đó là sám hối Mùa Vọng chuẩn bị đón lễ Noel, nhưng đó cũng là thái độ thường xuyên của đời tín hữu. Và cũng vì có sám hối như vậy, Mùa Vọng đúng nghĩa chính là mùa màu tím từ bên trong ra bên ngoài và từ ngôn ngữ tới hành vi. Chúc mọi người những ngày Mùa Vọng thật sốt sắng.
——————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
HÃY SỐNG TRONG TƯ THẾ SẴN SÀNG– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Hằng năm, Phụng Vụ Lời Chúa khai mở viễn cảnh về thời tận thế và Triều Đại Thiên Chúa. Như vậy, ngay từ đầu, ý nghĩa được ban cho suốt lộ trình mà Giáo Hội dẫn chúng ta đi, kể từ việc chuẩn bị Lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Ki-tô Vua: một cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, về thế giới không tội lỗi, được các ngôn sứ loan báo và được Chúa Ki-tô hứa vào ngày Quang Lâm của Ngài.
Đó là thực tại tương lai, vận mệnh tối hậu của nhân loại, và đồng thời đó cũng là thực tại hiện nay mà mọi người cũng như mỗi người không ngừng xây dựng. Đó là bài học mà các bài đọc của Chúa Nhật I Mùa Vọng này đề nghị cho chúng ta.
Is 2: 1-5
Bài Đọc I là sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a, biểu dương ơn gọi của dân Ít-ra-en nói chung và của Giê-ru-sa-lem nói riêng: dạy cho muôn dân biết những đường lối dẫn đến Thiên Chúa chân thật, như vậy chuẩn bị triều đại công lý và hòa bình chung cuộc.
Rm 13: 11-14
Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu phải ăn ở như con cái sự sáng để chiến đấu chống lại tội lỗi, đó là cách thức duy nhất chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô.
Mt 24: 37-44
Trong đoạn Tin Mừng Mát-thêu được trích hôm nay từ bài diễn từ của Chúa Giê-su liên quan đến thời tận thế và ngày Quang Lâm của Ngài, Chúa Giê-su loan báo rằng việc Ngài trở lại hoàn toàn bất ngờ sẽ ấn định vĩnh viễn số phận của mỗi người. Vì thế, mỗi người phải sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến, như ông Nô-ê, bắt tay vào việc đóng con tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho trận hồng thủy mà ông không biết ngày nào, giờ nào.
BÀI ĐỌC I (Is 2: 1-5)
Muôn dân muôn nước lũ lượt kéo nhau lên đền thờ Thiên Chúa để được lắng nghe Lời Thiên Chúa. Đó là viễn tượng hùng vĩ mà Bài Đọc I đề nghị cho chúng ta để khai mạc Mùa Vọng cũng như chu trình Năm Phụng Vụ, Năm C này.
Sấm ngôn này được định vị ở đầu tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên); chúng ta cũng gặp thấy sấm ngôn này với một phiên bản và một phần thêm vào, tại ngôn sứ Mi-kha (Mk 4: 1-5), cũng vào thời với ngôn sứ I-sai-a. Vì thế, sấm ngôn này có thể xuất xứ từ một ngôn sứ vô danh trước đó; tuy nhiên, giọng văn mang âm hưởng của ngôn sứ I-sai-a.
Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất muôn dân nước:
Vị ngôn sứ thoáng thấy trong một tương lai xa, không được xác định, có thể kỷ nguyên Mê-si-a hay, xem ra có thể hơn, kỷ nguyên của thời sau hết, cuộc hành trình của muôn dân về núi Chúa, ngọn đồi Xi-on trên đó tọa lạc “Đền Thờ Chúa nhà Gia-cóp”. Tên Gia-cóp và tên Ít-ra-en được dùng thay cho nhau mà không phân biệt để chỉ tổ phụ của dân Chúa chọn (x. St 32: 29).
Chúng ta ghi nhận rằng vào đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ ngỏ lời với Giu-đa, tức là vương quốc Giu-đa mà Giê-ru-sa-lem là thủ đô; nhưng khi nêu lên Đền Thờ thì ông gọi “Đền Thờ nhà Gia-cóp”, theo kiểu nói này tác giả khẳng định rằng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là Đền Thánh chung cho mọi chi tộc, trong khi chờ đợi là Đền Thờ chung cho muôn dân. Như vậy ông công bố sứ mạng hoàn vũ của Giê-ru-sa-lem; ông không nhấn mạnh các lễ tế được dâng tiến cho Thiên Chúa chân thật, nhưng lời xuất phát từ miệng Thiên Chúa, Lời Chúa phải là dấu chỉ của việc quy tụ và hiệp nhất mọi dân mọi nước.
Tính siêu việt và uy thế tâm linh của Lời Chúa này được diễn tả bởi biểu tượng ngọn núi: “Núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao”. Vào thời sau hết, núi thánh Xi-on sẽ vươn mình lên cao hơn tất cả các đỉnh núi, tức là “các nơi cao” mà lương dân thường dùng làm nơi tế tự cho các thần linh của mình.
Muôn dân muôn nước lũ lượt kéo nhau lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không phải để chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ, hay để dâng tiến lễ tế lên Thiên Chúa, nhưng để gặp gỡ Thiên Chúa và lắng nghe Lời Ngài phán dạy. Lời mặc khải của Ngài được ký thác cho Giê-ru-sa-lem: “Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền”.
Thánh luật được xem như chính Lời Thiên Chúa, như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”. Những hình ảnh “lối” và “đường” là từ vựng truyền thống của các Thánh Vịnh, nhất là Tv 119: 33-35: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ. Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó”, và cũng của các sách minh triết.
Hậu cảnh lịch sử:
Không có sấm ngôn nào mà không có hậu cảnh lịch sử nào đó mà tầm nhìn của vị ngôn sứ vượt qua. Cũng vậy, Giê-ru-sa-lem phô bày một viễn cảnh về cuộc quy tụ đông đảo dân chúng vào những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Người ta đặc biệt nghĩ đến lễ Lều vào mùa thu, lễ mang tính quần chúng như lễ thu hoạch mùa màng ở nơi các dân ngoại giáo, và vào ngày lễ này những khách ngoại kiều cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem đều được quyền tham dự (Đnl 16: 14).
Bản văn gợi lên lời giải thích này: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa”. Chính bằng những ngôn từ tương tự mà đám đông xướng lên những “bài thánh thi lên đền” khi cùng nhau tiến bước lên Đền Thánh (Tv 121, 122, 125, vân vân). Cũng vậy, lời khuyên bảo cuối cũng là lời mời gọi gia nhập vào đoàn rước: “Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!”.
Thị kiến của vị ngôn sứ nhắm đến bên kia đám đông này; nó phóng chiếu lòng nhiệt thành của Ít-ra-en đối với Lề Luật vượt ra bên ngoài những biên giới của miền đất Pa-lét-tin; nó mở rộng thời gian cho đến giờ sau hết, giờ của niềm vui và bình an, thành quả sự công chính của Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát của sứ mạng Giê-ru-sa-lem là đề tài sẽ được các môn đệ của vị ngôn sứ lập lại, hoặc I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, như: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49: 6); hay I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày (Is 56: 7-8; 60; 66: 18-19).
Cung giọng thời Mê-si-a:
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Sự kiện chiến tranh không còn nữa là một trong những biểu thị thời cánh chung; thường nhất, chính Thiên Chúa phá hủy những chiến cụ gây tang tóc cho con người (x. Hs 2: 20; Dcr 9: 10; Tv 46: 10). Ở đây, một khi nhân loại cùng tin nhận và tôn thờ một Thiên Chúa đích thật, thì lúc đó, sẽ phát sinh những tương quan mới mẻ giữa con người với nhau: không còn mâu thuẫn và đối kháng giữa người với người nữa. Và lúc ấy, chắc chắn sẽ không còn chiến tranh nữa, những vũ khí để giết hại lẫn nhau sẽ biến thành những dụng cụ để phục vụ và thăng tiến đời sống con người.
Những đường nét phác họa chân dung Đức Chúa cũng sẽ là những đường nét tiêu biểu Đấng Mê-si-a vương đế, chồi non Đa-vít, trong những viễn cảnh được ngôn sứ I-sai-a mô tả. Nếu sấm ngôn phải được quy cho vị ngôn sứ I-sai-a này, nó dể dàng được ghi ở bên cạnh chương 9, Đấng Mê-si-a sẽ “lập nên nền hòa bình vô tận” và “vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9: 6); và chương 11, Đức Chúa nhiều lần công bố rằng “cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (I s 11: 10).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người chịu phép rửa được gọi là “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
Từ Giê-ru-sa-lem đến Giáo Hội:
Giê-ru-sa-lem lý tưởng, mà vị ngôn sứ loan báo, tiên trưng Giê-ru-sa-lem trên trời mà mọi dân tộc lũ lượt đưa nhau tới cho một cuộc tụ họp cánh chung vĩ đại, như sách Khải Huyền miêu tả (Kh 21: 24-26). Nhưng bài thơ này cũng giàu những linh cảm của các sách Tin Mừng. Theo thánh Mát-thêu, chính trên đỉnh núi Ga-li-lê Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc Thật vượt lên trên mọi lề luật của con người. Cũng theo tác giả Tin Mừng này, cũng chính trên đỉnh núi Ga-li-lê Chúa Giê-su Phục Sinh gặp lại các môn đệ Ngài và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28: 19-20).
Giáo Hội lại được ủy thác Lời Chúa; Giáo Hội có trách nhiệm truyền đạt sứ điệp Tin Mừng và đứng lên làm cờ hiệu tụ họp muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 11-14)
Bản văn này được chọn vì nó minh họa tuyệt vời bản văn Tin Mừng hôm nay. Bức thư này Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma, vào mùa xuân 57-58, chắc hẳn từ Cô-rin-tô.
Bối cảnh:
Vị thừa sai không hề biết mệt mỏi này ôm ấp những dự định mới: viếng thăm Giáo Đoàn Rô-ma và sau đó đi loan báo Tin Mừng cho Tây Ban Nha. Thư của thánh nhân nhằm mục đích chuẩn bị cuộc hành trình của mình và cho sáng kiến của mình một phẩm chất: tư cách vị Tông Đồ của dân ngoại (Rm 1: 15). Thánh nhân không có mối liên hệ nào với Giáo Đoàn Rô-ma: ngài đã không thiết lập Giáo Đoàn này, thật ra, người ta không biết gốc tích của Giáo Đoàn này và ai là người đã sáng lập Giáo Đoàn này. Thánh Phê-rô chắc chắn đã đến Giáo Đoàn này vào năm 60; thư thứ nhất của thánh nhân được viết từ Rô-ma.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô có những linh cảm lành ít dữ nhiều; thánh nhân phải đến Giê-ru-sa-lem ở đó ngài biết rằng ngài có những kẻ thù không đội trời chung với ngài. Những người Do thái không tha thứ cho ngài, vì đối với họ ngài là kẻ phản đạo và bêu xấu Lề Luật; thánh Phao-lô xin các tín hữu Rô-ma cầu nguyện cho ngài. Quả thật, sau đó thánh nhân bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Ngũ Tuần năm 58, bị giam ở Xê-da-rê trong hai năm, sau đó bị dẫn độ đến Rô-ma. Chính trong cảnh xiềng xích mà thánh nhân tiếp xúc với Giáo Đoàn này mà ngài đã mong ước được quen biết.
Thư gởi cho các tín hữu Rô-ma cốt yếu là đạo lý: hai chủ đề chính yếu được đề cập ở đây: cứu độ nhờ ân sủng và tương lai của dân Ít-ra-en. Đoạn trích hôm nay thuộc phần thứ hai của bức thư.
“Đã đến lúc phải tỉnh thức”:
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. “Đêm” và “bóng tối” ám chỉ đến những hoạt động gian ác, tội lỗi, điều quan trọng là từ bỏ lối sống xưa của dân ngoại. “Ngày” và “ánh sáng” diễn tả thời kỳ cứu độ, đây là giai đoạn quyết liệt trong lịch sử thánh, được khai mào từ ngày Đức Ki-tô Phục Sinh. Thánh Phao-lô lấy lại những hình ảnh này trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5: 8). Thánh nhân còn thêm câu trích dẫn: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!” (Ep 5: 14).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người lãnh phép rửa được gọi “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
Ngày cứu độ đã đến gần:
“Vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo”. Phải chăng thánh Phao-lô nghĩ rằng mỗi ngày người Ki-tô hữu tiến gần đến ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô? Không nhất thiết phải là như thế: công thức mà thánh Phao-lô dùng: “đêm sắp tàn, ngày đến gần” là diễn ngữ cánh chung của các sách khải huyền Do thái, để nói lên sự khẳng định chắc chắn hơn là kỳ hạn thời gian. Đối với thánh nhân, thời cứu độ không chỉ là kỷ nguyên trung gian phân cách cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Chúa Ki-tô với cuộc trở lại vinh quang của Ngài. Đây là thời gian mà mọi tín hữu phải nổ lực đáp trả ân sủng trong tiến trình cuộc sống hiện nay của mình. Trong một đoạn văn song song của Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân giải thích rõ hơn tư tưởng của mình: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhũ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu… Vậy đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6: 1-2). Có thể nói là thánh Phao-lô đã nội tâm hóa ngày Quang Lâm.
Thế nên, về vấn đề liên quan đến ngày Quang Lâm, thái độ của thánh Phao-lô đã có những bước tiến triển trong bức thư này. Trong hai bức thư gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, hai thư đầu tiên của thánh Phao-lô, thánh nhân phát biểu rõ rằng thánh nhân chia sẻ với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi niềm hy vọng về ngày Quang Lâm sắp đến gần, dù thời gian vẫn chưa được xác định, nhưng nay mai, ngay chính trong thời của họ. Trái lại, vào lúc thánh nhân viết thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân đã nghiền ngẫm một cách đau đớn về việc dân Ít-ra-en từ chối nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a; tuy nhiên, thánh nhân thâm tín rằng “con cái của Lời Hứa” một ngày kia sẽ đạt đến ơn cứu độ sau thời lương dân. Vì thế, thánh nhân lại đưa viễn cảnh ngày Chúa Ki-tô trở lại vào tương lai rất xa.
Cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu:
Thánh Phao-lô nhiều lần diễn tả cuộc sống Ki-tô hữu như một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại sự ác; thánh nhân mượn từ vựng lúc thì ở nơi ngôn từ thể thao, lúc thì ở nơi ngôn từ quân đội như ở đây: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Kiểu nói “cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” được dịch theo sát từ là: “mặc lấy áo giáp mà chiến đấu”. Chiếc áo giáp đảm bảo cuộc chiến thắng không gì khác hơn là chính Chúa Ki-tô: “Quả thật, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27), nghĩa là, người Ki-tô hữu phải nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, nên một với Ngài trong mọi sự và mọi lúc, và gặp thấy ở nơi sự hiệp nhất này sức mạnh chiến thắng. Nói cách khác, những người Ki-tô hữu phải giữ vững tư thế chiến đấu như những người chiến sĩ can trường: mình mặc chiếc áo giáp của Chúa Ki-tô để chiến đấu, tức là để Ngài hành động trong chúng ta đến mức chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Cuộc chiến của con cái ánh sáng chống lại con cái bóng tối này xuất hiện rồi trong những bản văn trước Ki-tô giáo, như những bản văn Qumran làm chứng; một trong những thủ bản danh tiếng nhất của Biển Chết có nhan đề “luật cuộc chiến của con cái sự sáng chống lại con cái bóng tối”. Cuộc đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cũng là một trong những đề tài đem lại cung giọng đầy kịch tính cho Tin Mừng thứ tư.
Một đời sống mới:
“Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”, nghĩa là trong sự chiếu sáng của kỷ nguyên mới này, tức là kỷ nguyên của ân sủng, thời đại của Chúa Thánh Thần. Vì thế, “đừng chiều theo tính xác thịt”, chữ “xác thịt” được hiểu theo sắc thái ngữ nghĩa sê-mít để chỉ những thử thách trần thế, những ham muốn của con người yếu đuối và vị kỷ.
Chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên về những thói hư tập xấu mà thánh nhân vạch mặt chỉ tên ở đây: chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tuông. Thật thích hợp để đặt những thói hư tật xấu này lại vào trong bầu khí phóng đãng của thành phố Cô-rin-tô và cũng như nghĩ rằng thánh Phao-lô viết bức thư này vào mùa đông, thời kỳ của những lễ hội ngoại giáo ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma, kể cả những cuộc truy hoan thả cửa, chứ chưa nói đến những lễ hội chè chén, như lễ hội thần Saturnale của dân Rô-ma. Thánh Lu-ca, môn đệ và bạn đồng hành của thánh Phao-lô, cũng đưa ra những huấn lệnh tương tự: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21: 34-36).
TIN MỪNG (Mt 24: 37-44)
Ba Tin Mừng nhất lãm: Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca, đều định vị cuộc nói chuyện của Chúa về ngày tận thế và Quang Lâm vào sứ vụ sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó của Ngài. Tại Lu-ca, cuộc nói chuyện này được nói công khai trước công chúng ngay trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 5-7); tại Mác-cô, cuộc nói chuyện này là cuộc trò chuyện riêng tư giữa thầy và vài môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, trên núi Ô-liu (Mc 13: 1-4). Tại Mát-thêu, Chúa Giê-su ngỏ lời với “các môn đệ Ngài”, chính xác là nhóm Mười Hai, quây quần chung quanh Ngài trên núi Ô-liu (Mt 24: 1-3). Đây là diễn từ cuối cùng trong năm diễn từ của Chúa Giê-su, được gọi là “diễn từ về thời cánh chung”.
Bối cảnh:
Trước đó, Chúa Giê-su đã rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đang trên đường đến núi Ô-liu. Vào lúc này, các môn đệ Ngài chỉ cho Ngài xem công trình kiến trúc huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả cho xây dựng lại và sắp được hoàn tất (khởi công từ năm 19 trước Công Nguyên và hoàn thành vào năm 64 sau Công Nguyên, chỉ trong vòng sáu năm trước khi bị các đạo quân Rô-ma phá hủy thành bình địa vào năm 70). Chúa Giê-su trả lời cho họ “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24: 2).
Các Tông Đồ, vốn là những người Do thái mộ đạo, biết rằng họ sống điều gì mới, nhưng đồng thời chắc chắn cũng bị giao động bởi viễn cảnh này. Kinh ngạc, họ không thể không liên kết thảm họa như thế với ý tưởng về ngày tận thế. Khi đến núi Ô-liu, họ hỏi Chúa Giê-su: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điểm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?” (Mt 24: 3).
Sau khi đã nói cho họ liền một mạch về các ngôn sứ giả, các cuộc bách hại, cơn gian nan khốn khó tại Giê-ru-sa-lem và những nỗi truân chuyên của thời sau cùng, Chúa Giê-su đề cập đến ngày Quang Lâm của Ngài được phác họa bởi những đường nét của “việc Con Người ngự đến”. Đoạn Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay được trích từ cuộc nói chuyện này từ câu 37, tuy nhiên phải bắt đầu từ câu 36 mới phải, bởi vì hai từ ngữ: “ngày và giờ” ở câu 36 được lập lại ở các câu 42-44 làm thành lối hành văn đóng khung và cho phân đoạn này một đơn vị thống nhất: câu 36 là phần khai đề, các câu 37-41 là phần triển khai, và các câu 42-44 là phần kết.
“Con Người”:
Diễn ngữ “Con Người” là đặc ngữ sê-mít, không có nghĩa gì khác ngoài một con người với điểm nhấn được đặt trên tính chất con người trần thế của mình: “một phàm nhân”. Diễn ngữ này thường được ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng và cũng được gặp thấy ở nơi khác như Is 51: 12; G 25: 6; Tv 8: 5. Ví dụ như trong Ed 2: 1: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây”, diễn ngữ: “con người” tương đương với đại từ “ngươi” để chỉ chính vị ngôn sứ, ông xem mình chỉ là một phàm nhân, qua ông Thiên Chúa sắp ký thác sứ điệp của Ngài cho dân Ngài.
Nhưng trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” xuất thân từ thiên giới. Vị ngôn sứ mô tả ngày khải hoàn của các thánh dưới quyền thống trị của một “Con Người” ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho nhân vật này “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 13-14).
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” theo ngôn sứ Đa-ni-en để nói về chính mình. Khi thủ đắc tước hiệu này cho riêng mình, Chúa Giê-su diễn tả vừa tính siêu việt của mình vừa nhân tính mà Ngài dự phần vào, nhờ đó Ngài có thể mang lấy số phận của nhân loại; đồng thời phải hiểu rằng cuối cùng Ngài sẽ chiến thắng.
Lời mời gọi hãy sống trong tư thế sẵn sàng:
Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài tính cách bất ngờ không thể đoán trước được của “ngày và giờ Con Người ngự đến”. Thiên hạ kinh ngạc như họ đã kinh ngạc khi trận hồng thủy bất ngờ ập đến.
Theo hình thức so sánh và dụ ngôn, Chúa Giê-su kêu gọi hãy luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Ngài trở lại. Vào thời ông Nô-ê, thiên hạ vẫn lo ăn uống, cưới vợ lấy chồng, chơi bời phóng túng trong cuộc sống thường ngày mà không một chút bận lòng đến ngày phán xét của Thiên Chúa, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu mà vẫn không hay biết gì về tai họa sắp ập xuống trên họ. Việc Chúa Ki-tô trở lại để xét xử thế gian cũng xảy ra một cách đột ngột bất ngờ như thế: những người này “được đem đi” để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, những người khác “bị bỏ lại” để chịu án phạt. Hai người ở cùng một chỗ, làm cùng một công việc, có thể có những số phận khác nhau. Ở đây đừng hiểu các con số này theo toán học, bằng không, chúng ta có thể tin rằng chỉ một nữa nhân loại sẽ được cứu. Đây là kiểu nói đối ngẫu sê-mít: chúng ta sẽ gặp lại kiểu nói này ở nơi dụ ngôn về năm cô trinh nữ khờ dại và năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Việc so sánh theo sau cũng nhắm đến sự mê muội này: giả như chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã tỉnh thức. Đó cũng là lời khuyên bảo của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 1-2).
Các môn đệ là những người duy nhất lắng nghe những lời này; vì thế, từ nay đây sẽ là công việc của các ông: phá vỡ sự mê muội của con người và loan báo ơn cứu độ. Như vậy, cái bất ngờ của ngày Chúa đến không phải là không được báo trước, nhưng chính vì thái độ vô tâm mê muội của con người: cố chấp, nhắm mắt bịt tai trước lời cảnh giác của Ngài, lời ấy vẫn hằng vang lên trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta không thể không liên tưởng đến vài ngày sau đó, hầu như cùng một nơi chốn, trong vườn Ô-liu, Chúa Giê-su sẽ nói với cũng chính các môn đệ này đến hai lần: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện…”, còn họ thì cứ ngủ mê miệt không sao mở mắt nổi.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
———————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – Năm A
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Nước trời đã gần đến.
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “… Gioan xuất hiện”
+ Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.
+ Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?
+ Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.
Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.
+ Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ
+ Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”.
Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”
+ “Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).
+ Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.
Sự cấp bách trở về.
Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?
+ Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.
+ Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.
+ Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).
+ Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.
BÀI ĐỌC THÊM
Không thể có Phúc Âm hóa mà không có sự trở lại.
“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực… Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình: Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.
Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận.
Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!
——————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – NĂM A
XÂY DỰNG NƯỚC THIÊN CHÚA TRONG CÔNG BÌNH VÀ BÁC ÁI- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Dẫn Vào Thánh Lễ
Lời Chúa trong Chúa nhựt vừa qua hé mở cho chúng ta thấy một tương lai tốt đẹp đang sẵn chờ chúng ta, và kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức sẵn sàng để đón nhận nó. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ hơn tương lai tốt đẹp ấy chính là Nước Thiên Chúa. Trong Nước này, chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp cai trị và mọi công dân sẽ sống rất hạnh phúc trong công bình và bác ái.
Trên cơ bản, Giáo Hội chính là Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, trên thực tế Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Nước Thiên Chúa vì ở một số phương diện vẫn còn rất nhiều lỗi lầm sai sót. Bởi đó mỗi người trong Giáo Hội cần phải sám hối sửa đổi cuộc sống mình để Giáo Hội ngày càng xứng đáng là Nước Thiên Chúa hơn.
Gợi Ý Sám Hối
- Công dân Nước Thiên Chúa phải phục quyền Thiên Chúa là vua của mình. Nhưng chúng ta thường không vâng phục Thiên Chúa.
- Công dân Nước Thiên Chúa phải sống hòa thuận với nhau. Nhưng chúng ta thường bất hòa với nhau.
- Công dân Nước Thiên Chúa phải tích cực xây dựng và mở mang Nước Thiên Chúa. Nhưng chúng ta rất thờ ơ với trách nhiệm này.
Lời Chúa
Bài đọc I (Is 11,1-10)
Với Isaia, chúng ta đang ở thế kỷ VIII trước công nguyên. Khi ấy, dân Do Thái thất vọng chán chường về những ông vua đã và đang cai trị họ: chỉ lo cho bản thân và gia đình mình chứ không lo cho dân, xã hội đầy dẫy bất công, luân lý suy đồi, tín ngưỡng nguội lạnh…
Ðúng lúc đó Ngôn sứ Isaia lên tiếng tiên báo rằng sẽ có ngày Thiên Chúa sai Ðấng Messia của Ngài đến để thiết lập Nước Thiên Chúa:
- Ðấng Messia ấy sẽ sinh ra từ gốc tổ Giêsê. Ngài sẽ đầy tràn thần linh Thiên Chúa, tức là thần khôn ngoan, thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho dân Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.
- Ngài sẽ xét đoán công minh, bênh vực người hiền lành, trừng trị những kẻ áp bức.
- Dân sẽ sống hoà thuận hạnh phúc: “sói sống chung với chiên con, beo năm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau… trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc…”
Ðáp ca (Tv 71)
Tv 71 diễn tả lời cầu xin của dân chúng cho triều đại ấy mau đến: “Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại Người cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng”.
Tin Mừng (Mt 3,1-12)
Gioan Tẩy giả cho biết Ðấng Messia mà ngôn sứ Isaia tiên báo sắp đến rồi và do đó Nước Thiên Chúa ấy cũng gần đến. Vậy mọi người hãy dọn đường cho Ngài. Dọn đường bằng cách:
– Sám hối từ bỏ tội lỗi
– làm việc lành cho xứng với lòng sám hối ấy.
Bài đọc II (Rm 15,4-9)
Ðấng Messia chính là Ðức Giêsu. Nước Thiên Chúa mà Ngài thiết lập chính là Giáo Hội.
Thánh Phaolô dạy các kitô hữu, tức là những công dân trong Nước Chúa, phải sống với nhau như thế nào: thông cảm với nhau, tiếp rước nhau, phục vụ nhau.
- Gợi Ý Giảng
Giấc mơ thời thái bình
Khi đọc sách lịch sử, hoặc đọc báo mỗi ngày, chắc hẳn là nhiều lần chúng ta phải xấu hổ vì mình đã làm người. Lịch sử loài người thế nào? Thưa là chiến tranh, chiến tranh và chiến tranh. Bao nhiêu là chết chóc, bao nhiêu là sợ hãi, bao nhiêu là nước mắt. Một triết gia đã than: Homo homini lupus! (Con người là sói dữ của con người)
Các nhà du hành vũ trụ là những người đầu tiên được nhìn thấy trái đất từ bên ngoài. Từ ngoài vũ trụ nhìn vào, họ thấy trái đất như một gia đình đông đúc cùng cư ngụ trong một mái nhà chung. Một nhà du hành kể: ngày thứ nhất trong vũ trụ, mọi người chúng tôi ai cũng nhìn xuống tìm đất nước của mình; ngày thứ hai tìm lục địa của mình, và ngày thứ ba ai nấy đều ý thức mình cùng chung một trái đất.
Trên đây là hai cái nhìn vào trái đất và loài người: một cái nhìn từ bên ngoài và một cái nhìn từ bên trong.
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Isaia cũng dùng một cái nhìn từ bên ngoài để mô tả cảnh thái bình mà ông nghĩ sẽ được thực hiện vào thời đại Messia: “Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm ngủ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô; trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc; các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào…”
Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia. Khi Ngài đến, Ngài đã thiết lập thời đại thái bình ấy. Thánh Marcô kể rằng trong 40 ngày ở hoang địa, Ðức Giêsu đã sống chung một cách hòa thuận với các dã thú, và các thiên sứ hầu hạ Ngài (Mc 1,12). Giáo Hội thời sơ khai cũng là một cảnh thái bình. Sách Công vụ tông đồ viết: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Ðền thờ. Khi làm lễ Bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến” (Cv 3,44-47).
Nhưng rồi cảnh thái bình ấy đã dần dần biến mất: con người đối xử với nhau còn tệ hơn dã thú, thay vì chia sẻ cho nhau thì lại tranh dành với nhau, thay vì tất cả đồng tâm nhất trí thì mỗi người một ý không ai chịu ai… Trong Mùa Vọng, chúng ta hãy nỗ lực tái tạo cảnh thái bình ngày xưa, ít ra là trong gia đình mình, trong khu xóm mình, trong tập thể mà mình đang sống.
Thông cảm, tiếp rước và phục vụ
Khi Thánh Phaolô muốn dạy các tín hữu phải sống với nhau thế nào để cộng đoàn Giáo Hội của họ thực sự là một cuộc sống hạnh phúc trong Nước Chúa, Ngài đã chỉ họ 3 việc: thông cảm nhau, tiếp rước nhau và phục vụ nhau.
- Thông cảm: phải chăng lý do khiến người ta buồn giận nhau, chỉ trích nhau, kết án nhau… là vì người ta không thông cảm cho nhau?
- Tiếp rước: phải chăng nguyên cớ của những cảnh “mạnh ai nấy sống”, “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, “sống chết mặc bây”… là vì người ta không tiếp rước nhau?
- Phục vụ: phải chăng nguồn gốc của những chèn ép, tranh dành, ích kỷ… là vì người ta không phục vụ nhau?
Thử tưởng tượng một tập thể mà ai nấy đều thông cảm, tiếp rước và phục vụ mọi người khác. Cảnh tượng sẽ chẳng kém gì giấc mơ thái bình của ngôn sứ Isaia và bức tranh tuyệt vời của cộng đoàn tín hữu sơ khai.
“Hãy dọn đường Chúa”
“Hãy dọn đường Chúa”, đó là lời Thánh Gioan Tiền hô kêu gọi.
Xin được phép gợi lên một vài suy nghĩ hơi thi vị về những con đường.
Thánh kinh có nói tới nhiều con đường:
- Con đường dân Do thái đã đi qua trong sa mạc: một con đường quanh co đi hoài đi mãi suốt 40 năm lang thang để tìm về Ðất Hứa.
- Con đường từ Giêrusalem xuống thành Giêricô: một con đường hiểm trở đầy những ổ phục kích của bọn cướp, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về một người lữ hành đi qua con đường đó bị bọn cướp đánh dở sống dở chết.
- Con đường của Chúa Giêsu và các tông đồ một lần kia đi ngang qua xứ Samaria ngoại đạo: một con đường đã bị chặn lại không cho đi vì những thành kiến thù nghịch giữa hai dân tộc.
- Con đường thập giá của Chúa Giêsu: một con đường khổ đau rải rác những giọt máu của Ðấng Cứu thế.
- Con đường về làng Emmau mà có lần sau phục sinh, hai môn đệ của Chúa Giêsu đã cùng Ngài sánh bước: một con đường mù sương che mắt khiến hai ông không nhận ra Thầy mình.
- Và con đường là chính Chúa Giêsu “Ta là Ðường, là sự thật và là sự sống”.
Những con đường trong Thánh kinh ấy, thực ra là hình bóng của những con đường trong đời người: trong cuộc đời, có:
- những con đường chăng dây kẽm gai: con đường của những kẻ thù hận nhau, nó ngăn chận những tương giao qua lại.
- những con đường đầy ổ phục kích: con đường của những kẻ cạnh tranh nhau, chờ cơ hội để khai thác nhau, lợi dụng nhau, làm hại nhau.
- những con đường hầm u tối: con đường của những kẻ lọc lừa, gian dối.
- những con đường quanh co trong rừng rậm: con đường của những kẻ lén lút sống trong vòng tội lỗi.
- những con đường gồ ghề lồi lõm: con đường của những kẻ mang một tật xấu thâm căn cố đế, hoặc kiêu căng, hoặc hà tiện, hoặc đam mê sắc dục…
- những con đường cỏ dại mọc đầy: con đường của những kẻ không vướng mắc tội nặng nhưng còn rất nhiều tội nhẹ.
- những con đường sa mạc cát nóng: con đường của những kẻ khô khan việc đạo.
- và cũng có những con đường cái quan thẳng tắp: con đường bình an của những kẻ đạo hạnh, ngày càng tiến nhanh về Chúa.
Cuộc đời mỗi người chúng ta là một con đường: con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta.
– Ðó chính là con đường mà Chúa Giáng Sinh muốn đi, đi để đến với ta, và qua ta để đến với tha nhân: đến để mang cho ta và cho anh em ta muôn ơn lành: ơn bình an, ơn hạnh phúc, ơn đạo hạnh.
Hội Thánh là tôi
* Hội Thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội Thánh có Lời Hứa của Chúa. Hội Thánh là một phép lạ liên lỉ. Tuy nhiên đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Cũng đừng vì đó mà tha hồ làm gương xấu để Chúa phải làm phép lạ mỗi ngày (ÐHV 264)
Nữ tu đời Ange Hattei, trong tác phẩm “Jesus Caritas” có thuật lại câu chuyện như sau:
Trước Công đồng Vaticanô II, một hôm có người bạn vô thần tôi yêu mến đã nhận định với tôi rằng: Hội Thánh là một thế lực tiền bạc, là điểm tựa của các nhà độc tài và đại tư bản. Ông ta thắc mắc về các vị lãnh đạo Hội Thánh độc đoán và phe phái, về các tín hữu tự cho mình là tốt mà hành động xấu xa, về các linh mục lo lắng thụ hưởng và làm giàu…
Tôi kiên nhẫn lắng nghe ông rồi nói: “Tôi đã làm gì mà anh hạ nhục tôi như vậy?”
Ông ta sừng sỏ bảo: “Tôi sỉ nhục cô ư? Nhưng tôi đâu có nói gì cô! Không nói gì cô mà cũng chẳng nói gì về một người bạn nào của cô cả, như linh mục X, hay chị Y chẳng hạn. Tôi nói đến Hội Thánh cách chung mà!”
Tôi trả lời: “Hội Thánh cách chung là tôi, Hội Thánh cách chung là tất cả những người mà anh chỉ trích, những kẻ mà anh loại trừ. Họ trộn lẫn với nhau một cách không thể phân ly được. Hội Thánh cách chung là họ, là tôi, là tất cả những người ấy”.
Ông bạn tôi từ đó không bao giờ còn thắc mắc với tôi về Hội Thánh. Và nhiều lần trước mặt tôi ông còn tìm cách làm nổi bật những dấu hiệu tích cực về sự hiện diện của Hội Thánh trong thế giới này nữa. (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)
Lời Nguyện Cho Mọi Người
CT: Anh chị em thân mến
Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi người kitô hữu cố gắng làm nhiều việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng thống hối thực sự và quyết tâm đổi mới đời sống. Với lòng sám hối chân thành, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
- Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các kitô hữu sám hối tội lỗi và canh tân đời sống / để nên hoàn thiện như Cha trên trời. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết luôn khiêm tốn lắng nghe / và hết lòng thực hiện lời giáo huấn của Hội Thánh.
- Ngày nay / tội ác vẫn hoành hành trên khắp thế giới / tạo nên một bầu khí bất an / đe dọa nếp sống yên lành của những người lương thiện. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu / biết nỗ lực sống thánh thiện / để nêu gương sáng cho những người chung quanh.
- Ngôn sứ Isaia đã mô tả một thế giới lý tưởng / trong đó không còn hận thù / không còn chiến tranh / không còn những thảm cảnh đau lòng / vì muôn loài muôn vật đều chung sống hòa bình với nhau. / Nhưng tiếc thay / cho đến ngày hôm nay / đó chỉ là một giấc mơ đẹp. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho ước mơ này sớm trở thành hiện thực / để mọi người đang hiện diện trên trái đất / đều sống trong an bình và hạnh phúc.
- Thánh Gioan kêu gọi: / “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trong Mùa Vọng này / biết can đảm dứa khoát với tội lỗi / khôn ngoan xa lánh dịp tội / cố gắng sửa chữa các tật xấu / và nhất là quyết tâm làm nhiều việc thiện / như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh / những ai đang đau khổ vì bệnh tật / đang gặp hoạn nạn vì thiên tai.
CT: lạy Chúa là Cha nhân ái, tất cả chúng con đang buồn sầu vì tội lỗi đã phạm. Chúng con hết lòng sám hối ăn năn. Cúi xin Chúa đoái thương thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng Ngôi Hai Con Chúa giáng trần. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho “Nước Cha trị đến”.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban cho chúng con một lòng sám hối chân thành để chuẩn bị đón Con Cha lại đến. Xin đoái thương ban cho những ngày chúng con đang sống được bình an… đang khi chúng con đời chờ ngày hồng phúc, ngày Ðức Giêsu Kitô Ðấng cứu độ chúng con ngự đến”.
– Chúc bình an: Ngôn sứ Isaia viết “Trong ngày ấy, sói sống chung với chiên, beo nằm chung với dê…”, nghĩa là mọi người không ai làm hại ai, mọi người đều hòa thuận với nhau. Chúng ta hãy chúc cho nhau được hưởng sự hòa thuận đó.
– Trước rước lễ: “Ðây Chiên Thiên Chúa, Ðấng mà thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu cho chúng ta là Ðấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến…”
Giải Tán
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta lo dọn đường cho Chúa đến. Trong tuần này, anh chị em hãy tích cực dọn đường cho Chúa đến với tâm hồn mình và với anh chị em mình.
——————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – Năm A
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay cho thấy một vương quốc lý tưởng Đức Kitô thiết lập trên trần gian cho hết mọi người. Nhưng Ngài cũng cho biết là không phải ai cũng được vào đâu. Muốn vào thì phải chấp nhận và chu tòan một số những điều kiện. Thánh Gioan Tẩy giả được sai đến rao giảng cho dân chúng phép rửa sám hối và Tin mừng Nước Trời :”Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,1). Ông giới thiệu cho họ Đấng Thiên Sai sẽ đến và khuyến khích họ hãy dọn đường để chuẩn bị đón Ngài vì thời gian gấp rút :”Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi”(Mt 3,3).
Theo thánh Gioan Tẩy giả, dọn đường chính là sám hối, là khử trừ mọi tội lỗi, canh tân đời sống và quay trở về với Chúa. Sám hối đây là một cuộc thay đổi tòan diện trong tư tưởng, trong hành động, trong việc làm, một hướng đi, một đời sống mới. Ta chỉ trở lại thật sự khi ta quyết định đổi cả não trạng, cả nguyên tắc cuộc sống và đem ra thực hành trong việc làm. Việc sám hối này phải được mọi người thực hiện vì ai cũng đã phạm tội; còn những ai nói mình không cần phải sám hối là những kẻ không biết con người thật của mình, chỉ là những người cố chấp đi sâu vào con đường tội lỗi.
Theo thánh Phaolô trong bài đọc 2, sám hối cũng còn là phải đi đến với mọi người theo gương Đức Kitô đến trần gian để cứu hết mọi người. Hết mọi thành phần trong cộng đòan, cách riêng cộng đòan Rôma, phải đối xử tốt với nhau, phải nhất trí trong tình yêu thương, tránh mọi chia rẽ, phải biết thông cảm với nhau, không phân biệt họ là ai, giầu nghèo, sang hèn. Để mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta hãy thực hiện lời Chúa phán:”Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ…”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Is 11,1-10.
Tiên tri Isaia xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên đang khi dân Do thái chán chường về những ông vua đang cai trị ï. Họ bỏ bê việc cai trị, chỉ lo vinh thân phì gia, làm cho xã hội xuống cấp trầm trọng : xã hội đầy dẫy những bất công, luân lý suy đồi, đời sống tôn giáo sa sút, nguội lạnh.
Trước cái tâm trạng thất vọng của mọi người, tiên tri Isaia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ sai Đấng Messia đến thiết lập Nước Thiên Chúa. Bằng những lời lẽ trữ tình, ông đã mô tả con người Đấng Messia với những đức tính rất đặc biệt và phong phú. Đấng ấy sẽ sinh ra từ gốc tổ Giesse là cha của Đavít. Ngài sẽ xét xử công minh, bênh vực những kẻ hiền lành và trị tội những kẻ áp bức. Trong nước mà Đấng Messia sẽ thiết lập, dân chúng sẽ được sống trong công bình và chân lý, trong hạnh phúc và trong hòa bình thịnh vượng.
Bài đọc 2 : Rm 15,4-9.
Thánh Phaolô giới thiệu cho chúng ta : Đấng Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo trước, Đấng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng sẽ đến thiết lập Nước Thiên Chúa, đây chính là Giáo hội,
Lúc ấy, cộng đòan tín hữu đầu tiên ở Rôma gồm nhiều người đến từ nhiều nơi khác nhau. Vì thế, khó mà thông cảm và giữ được mối đồàng tâm nhất trí với nhau. Do đó, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Rôma là những công dân trong Nước Chúa, hãy noi gương Đức Kitô – Đấng đến cứu chuộc mọi người không phân biệt họ là ai, giầu nghèo – mà thực hiện được tinh thần hiệp nhất là thông cảm với nhau, tiếp nhận nhau và phục vụ nhau trong tinh thần yêu thương.
Bài Tin mừng : Mt 3,1-12.
Gioan Tẩy giả xuất hiện cùng thời với Đức Giêsu. Ngài cho dân chúng biết : Đấng Messia mà tiên tri Isaia loan báo cách đây 8 thế kỷ sắp đến rồi. Ngài lặp lại lời tiên tri Isaia đã loan báo xưa :”Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Theo ngài, dọn đường cho Chúa đến là sám hối, mà sám hối bằng hai cách :
- a) Phải từ bỏ tội lỗi, chính tội lỗi đã làm cho ta xa cách Chúa, để từ đó, chúng ta đã đi lạc đường, mà từ bỏ tội lối là quay trở về cùng Chúa.
- b) Phải làm việc lành cho xứng với lòng sám hối ấy. Thánh Gioan Tẩy giả đã làm gương trước về đời sống khắc khổ : ngài vào hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ngòai ra, hãy hạ mình khiêm nhường trước mặt Chúa, nhận mình là người tội lỗi, chớ tự phụ cho mình là con cháu Abraham mà cứng lòng.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Anh em hãy sám hối.
Hãy dọn đường cho chúa.
Lời rao giảng của ông Gioan Tẩy giả.
Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu đã viết :”Hồi ấy, ông Gioan đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng:”Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1). Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong hoang địa mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi ? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới có kẻ hưởng ứng, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ ?
Thế nhưng lời hô của ngài vẫn được người ta hưởng ứng vì “Hữu xạ tự nhiên hương” chăng ? Có lẽ lý do chính là ngài chỉ nói sau khi đã làm, hay là đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói. Quả thực, chính Gioan đã ăn năn sám hối trước, ngài đã vào trong hoang địa để ăn chay hãm mình. Trong những năm tháng ở đây, ngài đã thực sự ăn năn và sống với Chúa mỗi ngày. Những ngày tháng cô đơn, buồn tẻ của hoang địa đã tinh luyện ngài thành con người hữu ích và hữu dụng cho Nước Trời. Chính kinh nghiệm đời sống khắc khổ của hoang địa đã làm ngài trưởng thành và kinh nghiệm mà hướng dẫn được người khác. Bí quyết thành công của đời ngài là làm rồi hãy nói, việc làm không mâu thuẫn với lời nói và lời nói không mâu thuẫn với việc làm. Đó là bí quyết để sống và truyền sức sống sang cho người khác.
Lời rao giảng được hưởng ứng.
Tin mừng còn cho biết tiếp:”Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giorđan, kéo đến với ông”(Mt 3,5). Điều này chứng tỏ người ta nhiệt liệt hưởng ứng lời rao giảng của ông Gioan. Chúng ta có thể đưa ra hai lý do làm cho lời rao giảng của ông Gioan được đón nhận một cách tích cực : Sự vắng bóng của tiên tri một thời gian dài và tình cảnh bi đát của người Do thái.
Sự vắng bóng các tiên tri.
Sự xuất hiện của Gioan giống như tiếng nói của Thiên Chúa thình lình vang lên. Lúc bấy giờ người Do thái buồn bã nghĩ rằng tiếng nói của các tiên tri không còn nữa. Trải qua 400 năm không còn tiên tri nào, suốt 4 thế kỳ dài đằng đẵng, tiếng nói của tiên tri hòan tòan yên lặng. Nhưng trong ông Gioan tiếng nói tiên tri lại đang vang lên. Vậy đặc diểm của sứ điệp Gioan rao giảng là gỉ ? Trong tất cả các lời rao giảng của Gioan, điều đòi hỏi cơ bản là : Sám hối. Đó cũng là sứ điệp căn bản của Đức Giêsu :”Các ngươi hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.
Tình cảnh bi đát của người Do thái.
Sứ điệp đã làm cho dân chúng hài lòng muốn nghe, vì từ bao nhiêu thế kỷ, họ bị đặt dưới ách thống trị của các quyền lực ngọai bang là người Ba tư, người Ai cập, người Syria, và người La mã. Mặc dầu bị ức hiếp, dân chúng vẫn hy vọng, Chúa sẽ không bỏ rơi họ.
Họ mong đợi một anh hùng giải phóng dân tộc, mong đợi một kỷ nguyên mới. Họ mong đợi Đấng Cứu thế sẽ đến. Đấng Cứu thế họ tin là một người lỗi lạc, siêu quần bạt chúng. Ngài sẽ phục hưng nền độc lập quốc gia, sẽ mở rộng bờ cõi, và đó là kỷ nguyên hòa bình hạnh phúc. Đó là thời đại vàng son, thời đại vô cùng phồn thịnh về vật chất cũng như tinh thần.
Tóm lại, uy tín của Gioan đã lan rộng khắp vùng. Điệp khúc của Gioan rao giảng là hãy sửa đổi đời sống để đón Chúa đến. Sử gia Joseph Flavius đã ghi rằng :”Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông răn bảo”. Hết mọi hạng người đến gặp ông để xin ông chỉ dạy cách sống.
Lời rao giảng bị từ chối.
Trong số những người đến với ông, theo thánh Matthêu, cũng có cả những người biệt phái và những người saducêu đến chịu phép rửa rất đông. Tuy hòan tòan đối lập nhau, hai nhóm tôn giáo này cũng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giorđan theo lời kêu gọi của ông, cũng như chẳng bao lâu sau, họ cùng liên minh với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu. Thấy họ là những người giả hình, có ý đồ xấu, Gioan đã thẳng thừng cảnh cáo họ :”Đừng tưởng có thể bảo mình rằng :”Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì, tôi nói cho các ông hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham, cho nên “hãy sinh hoa quả để chứùng tỏ lòng sám hối” vì “cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”.
Dọn đường đón chúa là sám hối.
Sám hối là gì ?
Từ ngữ Do thái dùng để chỉ sự sám hối có ý nghĩa sâu sắc. Đó là danh từ của động từ có nghĩa là “quay lại”. Sám hối là từ bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý của tòan dân tộc hoặc của cá nhân.
Học giả Monteflore đã viết:”Đối với các rabbi, bản chất của sám hối là ở chỗ hòan tòan thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”. Maimonide, một học giả Do thái danh tiếng trong thời trung cổ, định nghĩa sự sám hối như sau : “Sám hối là gì ? Là tội nhân lìa bỏ tội và khai trừ nó ra khỏi tư tưởng mình, hòan tòan quyết định trong tâm trí sẽ không tái phạm nữa như có lời chép rằng :”Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng của nó”.
Sám hối, theo tiếng Hy lạp là “Metanoia” có nghĩa là “thay đổi” = meta… não trạng = noia. Như vậy sám hối có nghĩa là sự đổi mới của con người từ trong con người, từ trong tâm hồn, biểu lộ qua ngôn ngữ và hành vi. Không phải chỉ như người bộ hành xoay mặt ngó lui thấy mình đi lầm đường rồi thôi, mà phải đi trở lại để đi vào đúng con đường chính.
Sám hối không phải chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo hòang đầu tiên thay mặt Hội thánh bầy tỏ lòng sám hối :”Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi xin anh chị em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức Sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000.
Những ai cần phải sám hối ?
Mọi người cần phải sám hối, không trừ ai vì mọi người đã phạm tội, mà phạm tội là đi lạc đường, đã lạc đường thì cần phải quay lại con đường chính. Quay trở lại con đường công chính là Sám hối. Sám hối đòi hỏi một cuộc đổi mới tòan diện. Sám hối bắt đầu bằng một tác động khiêm nhường, một việc nhận thức rằng mình mắc tội, và việc quyết định trở về với Chúa.
Cái ngăn trở lớn cho việc sám hối là “không biết mình”. Điều kiện của sám hối là con người phải tự biết mình, biết rõ chân tướng con người của mình. Nhà hiền triết Socrateđã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même) vì không biết mình thì không tiến bộ được. Tục ngữ Việt nam cũng có câu :”Vô tri bất mộ:”: không biết thì không mến. Trong binh pháp của Tôn Tử, muốn chiến thắng được đối phương, người ta phải thực hiện lời khuyên của ông :”Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng” : biết mình biết người thì trăm trận trăm thắng.
Biết mình có tội là khởi đầu của một sự tiến bộ, nếu không biết mình thì còn làm ăn gì được ! Vậy cần phải biết mình yếu đưối, hay sa ngã, cần phải ăn năn trở lại. Thánh Kinh nói :”Người lành thánh có thể sa ngã mỗi ngày 7 lần”(Cn 24,16). Nói khác đi, con người trở nên yếu đuối vì tội tổ tông và tội riêng mình, nên sa ngã là điều tất yếu, bình thường. Nhưng Thánh Kinh lại viết tiếp :”(Sau 7 lần sa ngã)người lành thánh ấy lại chỗi dậy ngay”(Cn 24,16). Đúng như tục ngữ Việt nam nói :”Không ai có thể nắm tay đến tối, gối đầu đến sáng được”.
Truyện : Nhìn thấy mặt thật của mình.
Một linh mục nọ có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong xứ. Một hôm sáng Chúa nhật nọ, giáo dân bỗng nghe một lời rao bảo như sau :”Một nhân vật tên tuổi trong giáo xứ vừa qua đời, tang lễ sẽ được cử hành vào lúc 9 giờ sáng thứ tư tới”. Nghe lời rao bảo, cả xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng đó là ai.
Đúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm nượp tuốn đến nhà thờ. Người ta đến không để cầu nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau Thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào lời từ biệt lần cuối cùng. Ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài người chết, mọi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm gương. Và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài mọi người chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Sau đó linh mục giải thích :”Con người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mọi người trong chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mọi người trong chúng ta cần phải mai táng chính mình…”.
Ai trong chúng ta không cần sám hối ? Chỉ những ai không bao giờ phạm tội mới không cần sám hối. Nhưng ai dám nói là mình chưa bao giờ phạm tội ? Không ai dám khẳng định mình là người không có tội; nói như thế, theo thánh Gioan, thì đó là những kẻ nói dối. Mà đã phạm tội thì cần phải ăn năn trở lại :
“Một lần nói dối, sám hối 7 ngày”(Tục ngữ)
Xưa nay cũng có một số người dám nói rằng mình chẳng có tội gì hết vì họ cho rằng họ không trộm cướp, không ngọai tình, không giết người, không làm chứng dối, không bỏ lễ ngày Chúa nhật… Tuy nhiên, nếu đi sâu vào tâm hồn, thì mỗi người càng cần sám hối, mỗi người cần lọai bỏ những rác rưởi trong linh hồn. Lời kêu gọi sám hối trong Tin mừng phù hợp cho mọi thời đại, mọi hòan cảnh, mọi lớp người.
Trả lời cho những người nói là mình không có tội, không cần sám hối thì cha Lacordaire, một nhà giảng thuyết trứ danh của Pháp, đã nói cho họ :”Tổ tông chúng ta đã phạm tội, cha ông chúng ta đã phạm tội, thì tại sao chúng ta lại thanh sạch đến thế ? Chớ thì con cái lại khôn hơn ông bà cha mẹ ư ? Kẻ nói mình không có tội là người có tội – có tội vì nói dối – có tội vì kiêu ngạo. Kiêu ngạo và nói dối mà không có tội gì, thì thế nào mới là có tội”?
Truyện : tẩy xóa vết xâm trên mình.
Một nhà báo Mỹ có đưa ra một chương trình ngồ ngộ liên quan đến việc tẩy xóa các vết xâm trên mình, mà người ta không còn muốn để nữa, đặc biệt là các vết xâm của băng nhóm nọ trên khắp thân thể các bạn trẻ, có những hình xâm không thể chấp nhận được. Bài báo vừa xuất hiện, ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy trên cả ngàn lá thư của các bạn trẻ trên tòan quốc gửi tới yêu cầu cho biết thêm chi tiết về chương trình trên.
Để đáp ứng sự nhiệt tình trên, người ta cho sản xuất một cuốn phim nhan đề “Untattoo You” (Hãy tẩy xóa các vết xâm của bạn đi). Cuốn phim kể lại những nguy hiểm của tục xâm mình và cho biết rõ những vết xâm ấy khó tẩy xóa biết bao. Các diễn viên trong phim là chính đám người trẻ. Họ thẳng thắn trình bầy lý do tại sao trước đây họ xâm mình, và tại sao bây giờ họ lại muốn tẩy xóa những vết xâm ấy đi.
Cuốn phim trên đã đọat được giải thưởng quốc gia và hiện được trình chiếu trên tòan quốc (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 12-13).
Cuốn phim này làm cho người ta phải suy nghĩ và rút ra được kết luận : câu chuyện đàng sau cuốn phim Untattoo You làm nổi bật lên một chủ điểm quan trọng, đó là tất cả chúng ta đã gây ra những điều mà giờ đây chúng ta hối tiếc và muốn tẩy xóa đi. Chúng ta muốn rút lại những điều lầm lỡ đã qua, muốn tẩy xóa đi cả một dĩ vãng đen tối để tiến sang một tương lai huy hòang.
Công đồng Vatican II trong Hiến chế về Phụng vụ có khẳng định :”Giáo hội rao giảng Tin mừng cứu độ cho dân ngọai để họ nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa, và cải tạo đời sống”. Tuy nhiên, Công đồng cũng xác nhận trong cùng một văn kiện là “đối với những người đã tin, Giáo hội cũng tiếp tục rao giảng đức tin và sám hối”.
Sám hối và quyết tâm chừa cải.
Trong Huấn ca, con của Sirach viết : Đừng nói “Tôi phạm tội, có việc gì xẩy đến cho tôi đâu” ? Vì Chúa là Đấng khoan nhân. Đừng dại dột tin vào của lễ chuộc tội, rồi cứ tiếp tục thâm vào tội, và đừng nói “Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Ngài sẽ tha thứ vô số tội lỗi cho tôi”, vì Ngài là Thiên Chúa của tình thương lẫn của thịnh nộ, Ngài sẽ giáng thịnh nộ trên kẻ phạm tội. Đừng trì hõan việc trở lại cùng Chúa và đừng lần lữa ngày này qua ngày khác”(Hc 5,4-7).Tác giả viết tiếp :”Một người đụng đến xác chết bị ô uế đi tắm rửa có ích gì ? Cũng vậy, một người kiêng ăn vì đã phạm tội nhưng lại tái phạm thì ai sẽ nghe lời cầu xin của kẻ ấy ? Kiêng ăn và hãm mình của người ấy có ích gì”(Hc 34,25).
Người Do thái chủ trương sự ăn năn thật không chỉ biểu hiện bằng một cảm xúc buồn thảm mà thật sự thay đổi đời sống. Đây cũng là quan điểm của người Kitô hữu. Người Do thái chủ trương kết quả chứng minh cho sự ăn năn thật, người Kitô hữu cũng thế.
Truyện : Hoạ sĩ Leonardo da Vinci.
Trong khi thực hiện bức họa nổi tiếng “Bữa tiệc cuối cùng”. Leonardo da Vinci đã cãi vã với một người bạn. Ông mắng nhiếc người bạn với những lời gay gắt và những cử chỉ dọa nạt. Khi cuộc cãi cọ đã qua, ông trở lại công việc đang làm là vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu. Ông không thể vẽ được một nét. Cuối cùng, ông nhận ra được sự lo lắng phiền lòng. Ông liền bỏ bút vẽ đấy, đi tìm người bạn mà ông đã xúc phạm, và xin người ấy tha thứ cho mình, thế rồi ông trở về xưởng vẽ và bình tĩnh vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu (Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 7-8).
Thực hành tinh thần sám hối.
Hãy dọn đường cho Chúa.
Ý tưởng chính của lời Chúa hôm nay là “Dọn đường”. Tiên tri Isaia cho biết mục đích của việc dọn đường là “để Chúa đi”. Đi đâu ? Đi đến với con người, cụ thể là đến với mọi người chúng ta. Gioan Tiền hô kêu gọi thính giả dọn mình bằng cách sám hối và giới thiệu Chúa Kitô cho người khác.
Theo Đức Giáo hòang Gioan Phaolô II thì “Con người là con đường của Giáo hội”. Muốn dọn đường cho Chúa là phải làm cho con người nên tốt hơn, còn đường xứng đáng để Chúa đi qua. Vì thế có nhiều con đường, ta thử suy nghĩ về mấy con đường cần phải sửa lại :
. Có những con đường chăng dây kẽm gai : con đường của những kẻ thù hận nhau, nó ngăn chận những tương giao qua lại.
. Có những con đường đầy ổ phục kích : con đường của những kẻ cạnh tranh nhau, chờ cơ hội để khai thác nhau, lợi dụng nhau, làm hại nhau.
. Có những con đường u tối : con đường của những kẻ lọc lừa, gian dối.
. Có những con đường quanh co trong rừng rậm : con đường của những kẻ lén lút sống trong vòng tội lỗi.
. Có những con đường gồ ghề lồi lõm : con đường của những kẻ mang một tật xấu thâm căn cố đế, hoặc kiêu căng, hoặc hà tiện, hoặc đam mê sắc dục.
. Có những con đường cỏ dại mọc đầy : con đường của những kẻ không vướng mắc tội nặng nhưng còn rất nhiều tội nhẹ.
. Có những con đường cát nóng : con đường của những kẻ khô khan việc đạo.
. Và có những con đường cái quan thẳng tắp : con đường bình an của những kẻ đạo hạnh, ngày càng tiến nhanh về Chúa.
Cuộc đời mỗi người chúng ta là một con đường : con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta.
Đó chính là con đường mà Chúa Giáng sinh muốn đi, đi để đến với ta, và qua ta đến với tha nhân : đến để mang cho ta và cho anh em ta muôn ơn lành : ơn bình an, ơn hạnh phúc, ơn đạo hạnh (Trích Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 25-26).
Hãy dọn lòng mừng lễ Giáng sinh.
Chúng ta đã biết dọn đường cho Chúa đến tức là dọn lòng chúng ta cho xứng đáng, mà theo thánh Gioan Tẩy giả, dọn đường chính là sám hối là hóan cải. Hóan cải từ nội tâm để rồi vươn tới tha nhân. Có nghĩa là từ bỏ những định kiến, lòng ích kỷ, những tính tóan lấy cái tôi làm tiêu chuẩn, sự chạy theo những quyền lợi có thể là mang dáng dấp thiêng liêng đấy, nhưng lại chẳng có chút dấu vết của Tin mừng. Từ bỏ những cái đó để bước vào con đường yêu thương và phục vụ anh em.
Để dọn lòng mừng lễ Chúa Giáng sinh, một cách cụ thể, người Công giáo chúng ta có một phương thế đặc biệt để thống hối, đó là Bí tích Cáo giải, và những người Công giáo đích thực sẽ nỗ lực sử dụng phương thế thống hối trước lễ Giáng Sinh. Sự xưng tội không chỉ là tẩy trừ tội lỗi, nó còn đem lại cho chúng ta phục vụ Chúa một cách chân thành hơn. Hãy đi thanh tẩy tâm hồân trong tòa cáo giải để dọn lòng đón Chúa đến trong ngày lễ Giáng sinh.
Truyện : Làm gì để đón tiếp Chúa.
Alphonse vừa là một hiền triết vừa là vua xứ Aragon, nổi tiếng vì có lòng đạo đức và lối sống một Kitô hữu gương mẫu. Một hôm, trước lễ Noel ít ngày, đến thăm một hiệp sĩ Tây ban nha. Hiệp sĩ này đã dành cho nhà vua một cuộc đón tiếp nồng hậu, chu đáo hết mức. Tuy nhiên có một điều không hay là hiệp sĩ này xưa nay vẫn mang tiếng xấu vì lối sống bê tha sa đọa của ông đến nỗi ai cũng chê bai xa tránh. Biết thế, nên trước khi chia tay ra về, nhà vua mới nói những lời thân tình như sau :”Hỡi hiệp sĩ quí phái ! Ông đã dành cho ta một cuộc đón tiếp đầy vinh dự và huy hòang. Nhưng ít ngày tới đây, Vua các vua sẽ đến và Ngài muốn cử hành lễ Noel tại nhà ông. Chính vì thế mà khi đón tiếp Ngài, ông hãy cố gắng trang trí sửa sọan tâm hồn ông như ông đã trang hòang dọn dẹp lâu đài của ông hôm nay để đón tiếp ta”.
Năm ấy, Noel trở thành lễ long trọng của nhà hiệp sĩ để đón tiếp cuộc viếng thăm của Thiên Chúa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 3).
Chúng ta sẽ làm gì để đón tiếp Chúa Hài Đồng trong ngày Giáng sinh ? Có lẽ những lời khuyên khôn ngoan trên đây của vua Anphonse cũng như những lời tha thiết kêu mời của thánh Gioan trong bài Tin mừng hôm nay đều mang cùng một ý nghĩa vừa cấp bách cảnh cáo vừa tha thiết kêu mời mỗi người chúng ta phải mau mắn bắt tay làm một cái gì đó, phải khéo léo sửa sọan như thế nào đây để đón tiếp thật xứng đáng, thật chu đáo cuộc viếng thăm của Ngôi Hai đến cung lòng mỗi người chúng ta.
———————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
LỜI LOAN BÁO CỦA GIOAN TẨY GIẢ- Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
– Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
– Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10);
– Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12).
Vài điểm chú giải
– Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa cho Người (c. 14).
– hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (YHWH) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V 19).
– Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
– hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong TM Mt, danh từ metanoia được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17; 11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc 2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
– Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho YHWH (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
– mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
– nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
– Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
– cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2] có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
– những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
– gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc Babylon]: Đn 4,7-12).
– quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
– quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
– trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là “hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả, nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl 2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc. 1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8) là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt 11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong vương quốc ấy.
Dân chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
Gợi ý suy niệm
* Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho dân chúng biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
* Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di sản quốc gia hay dòng tộc, nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người. Trong cuộc dấn thân này, con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có thể đáp trả trọn vẹn hơn những đòi hỏi của Thiên Chúa.
* Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
* Các lời Gioan trách giới lãnh đạo Israel cũng liên hệ đến các nhà hữu trách của cộng đoàn Mátthêu, cũng như tất cả các vị hữu trách của mọi cộng đoàn Kitô hữu mọi thời. Các ngài cũng được mời gọi “sinh hoa quả tốt”. Và đây chính là tiêu chí giúp biện phân ra các ngôn sứ thật với các ngôn sứ giả.
————————————————
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
HÃY THỐNG HỐI, VÌ NƯỚC TRỜI GẦN ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề : Populus Sion … (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy… ” (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta : « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là : hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống… Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở… ” (x. Is 11, 1-10).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, từ trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân Do Thái sám hối. Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút nhiều người. Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra nhiệm vụ đích thực của ông là để ” dọn đường cho Chúa”, loan báo Chúa đến.
Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng : “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến … chớ tự phụ nghĩ rằng : tổ tiên chúng tôi là Abraham. Vì ta bảo cho các người hay : Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.” Kết quả là : “Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.” Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay.
Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu gọi : “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận Ân Sũng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Trong năm vừa qua, chúng ta đã đi trọn con đường đặc biệt cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như “tiền đường” để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, ngõ hầu Mùa Giáng Sinh sắp đến gặp thấy chúng ta sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!
“Hãy ăn năn thống hối”. Ðể gặp được Ðấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.
“Vì nước trời gần đến”. Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng : Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát ; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích “Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng “, § 39, 1-3.
Chúng ta hãy đặt vào tay Mẹ Maria Nữ Vương của niềm hy vọng mọi ước muốn tốt lành của chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Cầu chúc cộng đoàn chúng ta thăng tiến luôn mãi với ơn Chúa. Amen.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
SỨ ĐIỆP SÁM HỐI- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ : Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi : Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy hối cải vì nước trời đã cận kề”. Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp hãy sám hối
Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Lập lại lời sấm của ngôn sứ Isaia nói với người xưa, thánh Gioan muốn nói với người thời nay về một cuộc xuất hành thiêng liêng mà tất cả những ai muốn đi vào Nước Trời đều phải thực hiện. Không phải chỉ xuất hành khỏi Ai cập để đi vào Đất Hứa chảy sữa và mật. Không phải chỉ xuất hành khỏi vương quốc Babilon để trở về xây dựng lại Đền Thờ đã bị phá hủy. Nhưng là xuất hành khỏi con người tội lỗi để lột xác thành con người mới. Như thế, muốn được trở thành con người mới và con đường cho Chúa đến, người ta phải sám hối, phải quay đầu trở lại. Gioan đi thẳng vào một thái độ gốc rễ cần phải thay đổi của nhóm Pharisiêu và Xađốc. Họ lúc nào cũng tự phụ là con cháu tổ phụ Abraham mà khinh người và sống câu nệ vào Lề Luật đến nỗi hoàn toàn mất đi động lực đích thực là giữ luật vì lòng yêu mến. Cho nên Gioan nói thẳng nói thật: “Tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”. Sám hối phải cụ thể bằng cách thay đổi trong lối sống, là thay đổi não trạng, là sẵn sàng và mở lòng để đón đấng Cứu Thế đến. Trong tiến trình sám hối ấy, vai trò của Gioan chỉ là chuẩn bị. Ông khẳng định: “Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối”. Còn giai đoạn chính là công việc của Chúa Giêsu “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa”. Gioan là tiếng kêu, còn Chúa Giêsu mới là người rao giảng. Gioan răn đe, còn Chúa Giêsu dạy dỗ và hoàn tất. Gioan nói đến niềm hy vọng cuộc sống mới, còn Chúa Giêsu thể hiện niềm hy vọng ấy. Gioan là chiếc cầu nối liền Cựu Ước với Tân Ước. Cựu Ước không bị hủy bỏ, nhưng sát nhập với Tân Ước như dòng sông nối vào biển cả. Cuộc chuyển tiếp này được thực hiện như một chương trình: chương trình sám hối canh tân. (Lm Đaminh Trần Đình Nhi).
Đường vào cõi lòng
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao ngạo cần bạt thấp xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Tỉnh thức và sẵn sàng
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, các điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
——————————————————–
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- NĂM A
CON ĐƯỜNG HÒA BÌNH- Trích Logos A
Theo luật nước Mỹ, mỗi khi tổng thống đi đến đâu, nơi đó sẽ được một lực lượng đặc nhiệm đi dọn đường trước để bảo vệ tổng thống. Sứ mạng của những người đi dọn đường rất nặng nề. Họ mang trên vai vận mạng của vị tổng thống và phải gánh lấy trách nhiệm lớn lao trước toàn dân.
Tuy nhiên, những người đi dọn đường có thể không chu toàn sứ mạng. Ngày 22/11/1963, tổng thống Kennedy, vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ, đang ngồi trên xe hơi mui trần, chạy ngang qua thành phố Dallas, tiểu bang Texas để vận động tranh cử tổng thống, thì những phát đạn vang lên, ông Kennedy gục xuống và đã tắt thở khi mang đến bệnh viện cấp cứu.
Sứ Giả Hòa Bình
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Matthêu giới thiệu khuôn mặt của một vị sứ giả lớn lao : thánh Gioan Tẩy Giả, người đi dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa với phong cách và dáng vẻ của một con người đặc biệt. Ngài khước từ đời sống dễ dãi tiện nghi để chấp nhận một cuộc sống khắc khổ và hoang dã : mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng.
Thánh Gioan đã hoàn thành sứ mạng của người dọn đường và đã chết như một chứng nhân.
Thánh Gioan đến kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Đấng Cứu Thế và triều đại của Ngài. Khi Chúa Cứu Thế đến, Ngài sẽ đem lại sự bình an và Nước Thiên Chúa chính là thực tại của “nền hòa bình viên mãn”. Vì thế, thánh Gioan Tẩy Giả chính là vị Sứ Giả Hòa Bình, một vị sứ giả thật khiêm tốn, sẵn sàng lui vào bóng tối để Chúa Cứu Thế được lớn lên.
Sứ điệp hòa bình
Với lời kêu gọi sám hối và phép rửa tại sông Giođan, thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với mọi người. Ngài đem đến sứ điệp hòa bình qua lời nói hùng hồn làm lay động cả miền Giuđa. Qua sứ điệp đó, thánh Gioan giới thiệu một Đấng Messia mang dung mạo của “ông vua thái bình”. Ngài chuẩn bị một con đường bằng phẳng trong lòng dân chúng để đón chờ Đấng Cứu Thế đến. Khi Chúa đến, Ngài sẽ thiết lập một thời đại thái bình và Ngài chính là hiện thân của sự bình an. Thánh sử Marcô đã phác họa bức tranh diễn tả cảnh thái bình khi Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày : Ngài sống chung bên cạnh các dã thú, có các thiên sứ hầu cận (Mc 1, 12).
Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ làm hiện thực giấc mơ thái bình của ngôn sứ Isaia trong bài đọc I : “Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau … trẻ em vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc…”.
Nhưng sứ điệp hòa bình của thánh Gioan Tẩy Giả có được đón nhận, hay chỉ “tiếng kêu” lạc lõng trong hoang địa ?
Người ta chỉ có thể đón nhận sứ điệp ấy với lòng ăn năn sám hối và cải thiện đời sống như lời thánh Gioan đã kêu gọi. Người ta cũng chỉ có thể đón nhận sứ điệp ấy khi mở lòng ra để tiếp đón mọi người.
Sứ mạng hòa bình
Khi Chúa Cứu Thế đến, Ngài sẽ thiết lập một triều đại hòa bình. Đó là Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả loan báo “đã đến gần”. Thực sự, Nước Thiên Chúa đã ở giữa nhân loại, nhưng người ta lại chưa nhận biết, chưa đón nhận và chưa sẵn sàng để trở thành một người công dân xứng đáng của Nước Thiên Chúa.
Để trở thành công dân xứng đáng của Nước Thiên Chúa, mỗi người phải thực hiện “cảnh thái bình” thời Giáo Hội sơ khai : tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung … Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ … (Cv 3, 44 – 47).
Phải chăng đó là sứ mạng hòa bình mà mỗi người chúng ta phải thực hiện hôm nay, để làm cho Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong cuộc sống hiện tại ?
Phải chăng để làm cho Nước Thiên Chúa được tỏ hiện, chúng ta phải sống hòa thuận thương yêu nhau như lời thánh Phaolô dạy : thông cảm với nhau, tiếp rước nhau và phục vụ lẫn nhau ? (Bài đọc II).
Con đường hòa bình
Sau khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Hồng Y Suenens mang qua Liên Xô (cũ) và được quốc hội Liên Xô tiếp nhận đầy thiện cảm. Thông điệp ấy cũng được đem đến Liên Hiệp Quốc và cũng được đón chào một cách trân trọng. Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã được trao giải thưởng Pulitzer vì là tác giả của thông điệp ấy.
Ngày hôm nay, mọi người trên thế giới đều khao khát hòa bình. Người ta làm mọi cách để giảm bớt chiến tranh và vãn hồi hòa bình. Nhưng thực sự con đường dẫn đến hòa bình luôn xuất phát từ trái tim yêu thương.
Trong Mùa Vọng, chúng ta hãy trở nên con đường hòa bình để đón tiếp Chúa và để Chúa đến với mọi người.
————————————————-
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG-Năm A
NGÀY CỨU ĐỘ- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Trong Chúa Nhật đầu tiên của mùa Vọng, lời Chúa đã loan báo cho chúng ta về Ngày của Thiên Chúa. Đó là ngày của bình an và hy vọng, ngày của niềm vui khi được đến cư ngụ trong núi Thánh của Chúa.
Tiếp tục tư tưởng đó, lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta một vẻ đẹp tuyệt vời trong Nước của Thiên Chúa, nơi mà trời đất và vạn vật được giao hoà với nhau.
Tuy nhiên, để hưởng được niềm vui này, cùng với việc tỉnh thức và sẵn sàng, lời Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta chỉnh đốn lại cuộc sống, để có thể xứng đáng hưởng trọn vẹn niềm vui trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta trở lại.
Bình an trong Nước Thiên Chúa:
Trước hết, chúng ta cùng đọc lại bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia. Khi đó, đất nước Israel đang lâm vào cảnh rối ren, bên trong thì nền luân lý đang xuống dốc, bên ngoài thì quân thù tứ phía bủa vây. Do đó, có lẽ họ không còn tồn tại được lâu nữa. Thế nhưng, dưới ánh sáng của mạc khải, vị ngôn sứ đã có một cái nhìn xuyên thời gian để trình bày cho chúng ta một viễn cảnh an bình trong Nước của Thiên Chúa. Isaia đã loan báo về một triều đại mới sẽ được thiết lập, “Ngày ấy từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa”.
Dưới triều đại mới này, chẳng những không còn chiến tranh giữa các dân tộc, mà sự bình an giữa con người và vạn vật đã bị tội lỗi làm hư hoại từ thuở ban đầu, giờ đây cũng được tái lập. Lúc đó “sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi Thánh của Ta”. Đây quả là một hình ảnh đẹp, có thể nói là một mô hình lý tưởng tuyệt vời mà con người thuộc mọi thời đại vẫn hằng ước mơ. Một thời đại không còn bạo loạn, không còn tranh giành, không còn gian dối, không còn cướp bóc, nhà cửa cũng không cần phải khoá, “bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đầy đại dương”.
Đây còn là một triều đại của sự công chính và bình an, bởi vì “Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng sẽ lấy sự công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở”. Đồng thời, “Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ”.
Hơn nữa, triều đại mà Đấng Messia thiết lập không giới hạn nơi dân Israel, nhưng được mở ra cho toàn thể nhân loại, như lời tung hô của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại Người cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng, và Người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia từ sông cái đến tận cùng trái đất”.
Một lời mời gọi sám hối:
Cùng với việc giới thiệu cho chúng ta một viễn ảnh tươi sáng trong Nước Thiên Chúa, lời Chúa hôm nay, còn gởi đến mỗi người chúng ta một lời kêu gọi sám hối. Sám hối chính là sứ điệp quan trọng trong suốt sứ vụ của Gioan, vị Tiền hô của Đấng Messia. Ngay khởi đầu sứ vụ của mình, Gioan đã lên tiếng kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Lòng sám hối cũng không được dừng lại ở một suy nghĩ hay một lời nói, hoặc một vài nghi lễ bên ngoài, nhưng lòng sám hối thật cần được thể hiện bằng một việc làm cụ thể. Gioan đã cảnh báo các biệt phái và văn nhân đến xin chịu phép rửa: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng thống hối”. Hay nói một cách khác, một vài hành vi sám hối bên ngoài mà thôi thì chưa đủ, nhưng lòng sám hối cần được thể hiện qua việc từ bỏ cuộc sống cũ để bước vào đời sống mới.
Đồng thời, Gioan còn nhắc nhở họ: “chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì Ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham”. Như thế, mỗi người phải tự lãnh lấy trách nhiệm về mọi hành vi của mình. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không thể nói rằng: mình là con cháu của các thánh Tử đạo Việt Nam; chúng ta cũng không thể nói với Chúa: con có nhiều bằng ân nhân lắm… Tất cả những cái đó không có ích gì cho linh hồn chúng ta, nếu chúng ta không thật lòng trở về với Chúa với cả tâm hồn của mình.
Và một trong những dấu chỉ cụ thể nhất của lòng sám hối đó là việc giao hoà với anh chị em, những người đang sống chung quanh chúng ta, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em để làm rạng danh Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã tiếp nhận chúng ta bằng cách từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để nhận lấy một thân phận thấp hèn của một con người nghèo hèn, bé nhỏ, sinh ra trong nơi ở của súc vật. Con Thiên Chúa đã trở nên một người nghèo nhất trong các người nghèo giữa chúng ta, để ai trong chúng ta cũng có thể đến với Ngài mà không sợ mặc cảm. Ngài đã tiếp nhận chúng ta với tất cả lòng thương yêu của Thiên Chúa, yêu cho đến nỗi hiến mạng sống của Ngài vì chúng ta. Ngài đã tiếp nhận chúng ta bằng một tình yêu tha thứ trọn vẹn. Đức Giêsu đã tha thứ cho những kẻ vô ơn, bội nghĩa, tha thứ cho những kẻ đã vu oan Ngài. Ngài còn tha thứ cho cả những kẻ đã đánh đòn và đóng đinh Ngài trên thập giá. Lời cầu xin cuối cùng của Ngài trước lúc giã từ cuộc sống trần thế là một lời cầu xin tha thứ cho những kẻ làm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Giao hoà với anh chị em là dấu chỉ cụ thể của việc giao hoà với Thiên Chúa.
Mặt khác, sám hối không phải là một việc mà chúng ta muốn làm lúc nào cũng được. Trái lại, đây là một việc quan trọng, và có thể nói là cần thiết nhất cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Do đó, chúng ta phải làm ngay, không thể chần chờ, vì thời giờ không còn nhiều. Gioan đã cảnh báo các thính giả của ngài và cũng là lời nhắn gởi đến từng người chúng ta hôm nay: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa”.
Đã có biết bao mùa Vọng đã đi qua cuộc đời chúng ta. Thế nhưng, cuộc đời chúng ta đang sinh trái gì? Tốt hay xấu? Có lẽ đây là điều mà mỗi người chúng ta cần dành thời gian suy nghĩ trong thời gian Mùa Vọng này. Chớ gì, nhờ ơn Chúa trợ giúp, hết thảy mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta đều mau mắn đến giao hoà với Chúa và tha nhân nơi toà Cáo giải. Nhờ đó, không cần chờ đến ngày Chung thẩm, nhưng ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta vẫn có thể được kết hợp mật thiết với Đức Giêsu qua việc sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể mỗi ngày. Amen.