CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ANH EM HÃY SẴN SÀNG- Chú giải của Noel Quesson. 5
SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 12
MÙA VỌNG:MÙA MÀU XANH- ĐGM. Vũ Duy Thống. 16
HÃY SỐNG TRONG TƯ THẾ SẴN SÀNG– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 21
CÁC CON HÃY SẴN SÀNG- R. Veritas. 36
HÃY SẴN SÀNG CHO MỘT TƯƠNG LAI TƯƠI ĐẸP- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 40
CHÚNG CON HÃY TỈNH THỨC- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 53
KHÔNG MỘT AI BIẾT GIỜ- Lm FX Vũ Phan Long, ofm.. 72
THÁI ĐỘ MONG CHỜ CHÚA ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 82
NỀN HOÀ BÌNH TUYỆT ĐẸP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 87
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG- Trích Logos A.. 94
NGÀY CỦA THIÊN CHÚA- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn. 99
——————————————————-
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Is 2, 1-5.
“Thiên Chúa quy tụ các dân tộc trong nước Người, để hưởng bình an đời đời”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Điềm Isaia con trai của Amos đã thấy về Giuđa và Giêru-salem. Điềm sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, là núi của nhà Chúa được xây đắp trên đỉnh các núi, và núi ấy sẽ cao hơn các đồi, và các dân nước sẽ đổ về đó. Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà?Thiên Chúa? của Giacóp. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người, và chúng ta sẽ đi theo ý định của Người”; vì luật pháp sẽ ban ra từ Sion, và lời Chúa sẽ phát ra từ Giêrusalem. Người sẽ xét xử các dân ngoại và khiển trách nhiều dân tộc. Họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa; người ta cũng sẽ không còn thao luyện để chiến đấu nữa. Hỡi nhà Giacóp, hãy đến, và chúng ta hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5. 6-7. 8-9
Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”(c. 1).
1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít.
4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn.
5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo.
BÀI ĐỌC II: Rm 13, 11-14
“Phần rỗi chúng ta gần đến”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Tv 84, 8
All. All. – Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. – All.
PHÚC ÂM: Mt 24, 37-44.
“Hãy tỉnh thức để sẵn sàng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. “Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”.
Đó là lời Chúa.
————————————————————-
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
ANH EM HÃY SẴN SÀNG- Chú giải của Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang lâm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua!
Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở “vào thời No-ê”. Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế (16,5-13), cơn hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; “Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày”. Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả “sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục… và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót…” (chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ “không biết sớ hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu… không có một nhận thức đúng đắn về thực tại…
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết “nuốt trôi” để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là “những thần linh” và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở vào “những ngày thời No-ê!”.
Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ “quang lâm” “parousia” trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự “hiện diện”, “đã đến”: Có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ “những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng đế”.
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa “parousia” cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến “thăm chính thức” chúng ta trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu “ngự đến”, “đến cuối cùng”, “có mặt ở đó”.
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại…
Đó là cuộc sống hằng ngày.
Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm… và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải “tỉnh thức”: Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa “đến”, Chúa “có mặt” mọi ngày.
Đức Giêsu “đến” tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa “cứu độ”. Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa “cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ… một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người “đang đứng”, những người “canh thức”, những người “đang rình”. Cái “liều lĩnh” trong cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp đang “thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc “viếng thăm” của Người.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hay biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức…
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!
Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ “được sống”. Tỉnh thức không hề có nghĩa là “tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh”, “chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp”: Không! Tỉnh thức, chính là “sắn sàng” để đối phó, chính là “được vận động liên tục” để hành động:.. Tỉnh thức, chính là trái nghịch với “để buông trôi”, lo lắng, bất cần.
Không nên nói “giá mà tôi đã biết trước” vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến… Hẳn ông đã thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ trộm” gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó “khoét vách nhà” anh” ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến “để mở” thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc khải này của Chúa không?
———————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
– Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
– Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
———————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
MÙA VỌNG:MÙA MÀU XANH- ĐGM. Vũ Duy Thống
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người” nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người” cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh.
Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên.
Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
—————————————————-
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
HÃY SỐNG TRONG TƯ THẾ SẴN SÀNG– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Hằng năm, Phụng Vụ Lời Chúa khai mở viễn cảnh về thời tận thế và Triều Đại Thiên Chúa. Như vậy, ngay từ đầu, ý nghĩa được ban cho suốt lộ trình mà Giáo Hội dẫn chúng ta đi, kể từ việc chuẩn bị Lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Ki-tô Vua: một cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, về thế giới không tội lỗi, được các ngôn sứ loan báo và được Chúa Ki-tô hứa vào ngày Quang Lâm của Ngài.
Đó là thực tại tương lai, vận mệnh tối hậu của nhân loại, và đồng thời đó cũng là thực tại hiện nay mà mọi người cũng như mỗi người không ngừng xây dựng. Đó là bài học mà các bài đọc của Chúa Nhật I Mùa Vọng này đề nghị cho chúng ta.
Is 2: 1-5
Bài Đọc I là sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a, biểu dương ơn gọi của dân Ít-ra-en nói chung và của Giê-ru-sa-lem nói riêng: dạy cho muôn dân biết những đường lối dẫn đến Thiên Chúa chân thật, như vậy chuẩn bị triều đại công lý và hòa bình chung cuộc.
Rm 13: 11-14
Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu phải ăn ở như con cái sự sáng để chiến đấu chống lại tội lỗi, đó là cách thức duy nhất chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô.
Mt 24: 37-44
Trong đoạn Tin Mừng Mát-thêu được trích hôm nay từ bài diễn từ của Chúa Giê-su liên quan đến thời tận thế và ngày Quang Lâm của Ngài, Chúa Giê-su loan báo rằng việc Ngài trở lại hoàn toàn bất ngờ sẽ ấn định vĩnh viễn số phận của mỗi người. Vì thế, mỗi người phải sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến, như ông Nô-ê, bắt tay vào việc đóng con tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho trận hồng thủy mà ông không biết ngày nào, giờ nào.
BÀI ĐỌC I (Is 2: 1-5)
Muôn dân muôn nước lũ lượt kéo nhau lên đền thờ Thiên Chúa để được lắng nghe Lời Thiên Chúa. Đó là viễn tượng hùng vĩ mà Bài Đọc I đề nghị cho chúng ta để khai mạc Mùa Vọng cũng như chu trình Năm Phụng Vụ, Năm C này.
Sấm ngôn này được định vị ở đầu tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên); chúng ta cũng gặp thấy sấm ngôn này với một phiên bản và một phần thêm vào, tại ngôn sứ Mi-kha (Mk 4: 1-5), cũng vào thời với ngôn sứ I-sai-a. Vì thế, sấm ngôn này có thể xuất xứ từ một ngôn sứ vô danh trước đó; tuy nhiên, giọng văn mang âm hưởng của ngôn sứ I-sai-a.
Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất muôn dân nước:
Vị ngôn sứ thoáng thấy trong một tương lai xa, không được xác định, có thể kỷ nguyên Mê-si-a hay, xem ra có thể hơn, kỷ nguyên của thời sau hết, cuộc hành trình của muôn dân về núi Chúa, ngọn đồi Xi-on trên đó tọa lạc “Đền Thờ Chúa nhà Gia-cóp”. Tên Gia-cóp và tên Ít-ra-en được dùng thay cho nhau mà không phân biệt để chỉ tổ phụ của dân Chúa chọn (x. St 32: 29).
Chúng ta ghi nhận rằng vào đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ ngỏ lời với Giu-đa, tức là vương quốc Giu-đa mà Giê-ru-sa-lem là thủ đô; nhưng khi nêu lên Đền Thờ thì ông gọi “Đền Thờ nhà Gia-cóp”, theo kiểu nói này tác giả khẳng định rằng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là Đền Thánh chung cho mọi chi tộc, trong khi chờ đợi là Đền Thờ chung cho muôn dân. Như vậy ông công bố sứ mạng hoàn vũ của Giê-ru-sa-lem; ông không nhấn mạnh các lễ tế được dâng tiến cho Thiên Chúa chân thật, nhưng lời xuất phát từ miệng Thiên Chúa, Lời Chúa phải là dấu chỉ của việc quy tụ và hiệp nhất mọi dân mọi nước.
Tính siêu việt và uy thế tâm linh của Lời Chúa này được diễn tả bởi biểu tượng ngọn núi: “Núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao”. Vào thời sau hết, núi thánh Xi-on sẽ vươn mình lên cao hơn tất cả các đỉnh núi, tức là “các nơi cao” mà lương dân thường dùng làm nơi tế tự cho các thần linh của mình.
Muôn dân muôn nước lũ lượt kéo nhau lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không phải để chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ, hay để dâng tiến lễ tế lên Thiên Chúa, nhưng để gặp gỡ Thiên Chúa và lắng nghe Lời Ngài phán dạy. Lời mặc khải của Ngài được ký thác cho Giê-ru-sa-lem: “Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền”.
Thánh luật được xem như chính Lời Thiên Chúa, như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”. Những hình ảnh “lối” và “đường” là từ vựng truyền thống của các Thánh Vịnh, nhất là Tv 119: 33-35: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ. Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi, vì con ưa thích đường lối đó”, và cũng của các sách minh triết.
Hậu cảnh lịch sử:
Không có sấm ngôn nào mà không có hậu cảnh lịch sử nào đó mà tầm nhìn của vị ngôn sứ vượt qua. Cũng vậy, Giê-ru-sa-lem phô bày một viễn cảnh về cuộc quy tụ đông đảo dân chúng vào những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều. Người ta đặc biệt nghĩ đến lễ Lều vào mùa thu, lễ mang tính quần chúng như lễ thu hoạch mùa màng ở nơi các dân ngoại giáo, và vào ngày lễ này những khách ngoại kiều cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem đều được quyền tham dự (Đnl 16: 14).
Bản văn gợi lên lời giải thích này: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa”. Chính bằng những ngôn từ tương tự mà đám đông xướng lên những “bài thánh thi lên đền” khi cùng nhau tiến bước lên Đền Thánh (Tv 121, 122, 125, vân vân). Cũng vậy, lời khuyên bảo cuối cũng là lời mời gọi gia nhập vào đoàn rước: “Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!”.
Thị kiến của vị ngôn sứ nhắm đến bên kia đám đông này; nó phóng chiếu lòng nhiệt thành của Ít-ra-en đối với Lề Luật vượt ra bên ngoài những biên giới của miền đất Pa-lét-tin; nó mở rộng thời gian cho đến giờ sau hết, giờ của niềm vui và bình an, thành quả sự công chính của Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát của sứ mạng Giê-ru-sa-lem là đề tài sẽ được các môn đệ của vị ngôn sứ lập lại, hoặc I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, như: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49: 6); hay I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày (Is 56: 7-8; 60; 66: 18-19).
Cung giọng thời Mê-si-a:
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Sự kiện chiến tranh không còn nữa là một trong những biểu thị thời cánh chung; thường nhất, chính Thiên Chúa phá hủy những chiến cụ gây tang tóc cho con người (x. Hs 2: 20; Dcr 9: 10; Tv 46: 10). Ở đây, một khi nhân loại cùng tin nhận và tôn thờ một Thiên Chúa đích thật, thì lúc đó, sẽ phát sinh những tương quan mới mẻ giữa con người với nhau: không còn mâu thuẫn và đối kháng giữa người với người nữa. Và lúc ấy, chắc chắn sẽ không còn chiến tranh nữa, những vũ khí để giết hại lẫn nhau sẽ biến thành những dụng cụ để phục vụ và thăng tiến đời sống con người.
Những đường nét phác họa chân dung Đức Chúa cũng sẽ là những đường nét tiêu biểu Đấng Mê-si-a vương đế, chồi non Đa-vít, trong những viễn cảnh được ngôn sứ I-sai-a mô tả. Nếu sấm ngôn phải được quy cho vị ngôn sứ I-sai-a này, nó dể dàng được ghi ở bên cạnh chương 9, Đấng Mê-si-a sẽ “lập nên nền hòa bình vô tận” và “vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9: 6); và chương 11, Đức Chúa nhiều lần công bố rằng “cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” (I s 11: 10).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người chịu phép rửa được gọi là “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
Từ Giê-ru-sa-lem đến Giáo Hội:
Giê-ru-sa-lem lý tưởng, mà vị ngôn sứ loan báo, tiên trưng Giê-ru-sa-lem trên trời mà mọi dân tộc lũ lượt đưa nhau tới cho một cuộc tụ họp cánh chung vĩ đại, như sách Khải Huyền miêu tả (Kh 21: 24-26). Nhưng bài thơ này cũng giàu những linh cảm của các sách Tin Mừng. Theo thánh Mát-thêu, chính trên đỉnh núi Ga-li-lê Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc Thật vượt lên trên mọi lề luật của con người. Cũng theo tác giả Tin Mừng này, cũng chính trên đỉnh núi Ga-li-lê Chúa Giê-su Phục Sinh gặp lại các môn đệ Ngài và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28: 19-20).
Giáo Hội lại được ủy thác Lời Chúa; Giáo Hội có trách nhiệm truyền đạt sứ điệp Tin Mừng và đứng lên làm cờ hiệu tụ họp muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 11-14)
Bản văn này được chọn vì nó minh họa tuyệt vời bản văn Tin Mừng hôm nay. Bức thư này Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma, vào mùa xuân 57-58, chắc hẳn từ Cô-rin-tô.
Bối cảnh:
Vị thừa sai không hề biết mệt mỏi này ôm ấp những dự định mới: viếng thăm Giáo Đoàn Rô-ma và sau đó đi loan báo Tin Mừng cho Tây Ban Nha. Thư của thánh nhân nhằm mục đích chuẩn bị cuộc hành trình của mình và cho sáng kiến của mình một phẩm chất: tư cách vị Tông Đồ của dân ngoại (Rm 1: 15). Thánh nhân không có mối liên hệ nào với Giáo Đoàn Rô-ma: ngài đã không thiết lập Giáo Đoàn này, thật ra, người ta không biết gốc tích của Giáo Đoàn này và ai là người đã sáng lập Giáo Đoàn này. Thánh Phê-rô chắc chắn đã đến Giáo Đoàn này vào năm 60; thư thứ nhất của thánh nhân được viết từ Rô-ma.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô có những linh cảm lành ít dữ nhiều; thánh nhân phải đến Giê-ru-sa-lem ở đó ngài biết rằng ngài có những kẻ thù không đội trời chung với ngài. Những người Do thái không tha thứ cho ngài, vì đối với họ ngài là kẻ phản đạo và bêu xấu Lề Luật; thánh Phao-lô xin các tín hữu Rô-ma cầu nguyện cho ngài. Quả thật, sau đó thánh nhân bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Ngũ Tuần năm 58, bị giam ở Xê-da-rê trong hai năm, sau đó bị dẫn độ đến Rô-ma. Chính trong cảnh xiềng xích mà thánh nhân tiếp xúc với Giáo Đoàn này mà ngài đã mong ước được quen biết.
Thư gởi cho các tín hữu Rô-ma cốt yếu là đạo lý: hai chủ đề chính yếu được đề cập ở đây: cứu độ nhờ ân sủng và tương lai của dân Ít-ra-en. Đoạn trích hôm nay thuộc phần thứ hai của bức thư.
“Đã đến lúc phải tỉnh thức”:
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. “Đêm” và “bóng tối” ám chỉ đến những hoạt động gian ác, tội lỗi, điều quan trọng là từ bỏ lối sống xưa của dân ngoại. “Ngày” và “ánh sáng” diễn tả thời kỳ cứu độ, đây là giai đoạn quyết liệt trong lịch sử thánh, được khai mào từ ngày Đức Ki-tô Phục Sinh. Thánh Phao-lô lấy lại những hình ảnh này trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5: 8). Thánh nhân còn thêm câu trích dẫn: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!” (Ep 5: 14).
Tất cả biểu tượng này được sử dụng nhất là trong khoa giáo lý phép rửa. Những người lãnh phép rửa được gọi “những người đã lãnh nhận ánh sáng”, “những người được ơn thần khải”.
Ngày cứu độ đã đến gần:
“Vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo”. Phải chăng thánh Phao-lô nghĩ rằng mỗi ngày người Ki-tô hữu tiến gần đến ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô? Không nhất thiết phải là như thế: công thức mà thánh Phao-lô dùng: “đêm sắp tàn, ngày đến gần” là diễn ngữ cánh chung của các sách khải huyền Do thái, để nói lên sự khẳng định chắc chắn hơn là kỳ hạn thời gian. Đối với thánh nhân, thời cứu độ không chỉ là kỷ nguyên trung gian phân cách cuộc Tử Nạn-Phục Sinh của Chúa Ki-tô với cuộc trở lại vinh quang của Ngài. Đây là thời gian mà mọi tín hữu phải nổ lực đáp trả ân sủng trong tiến trình cuộc sống hiện nay của mình. Trong một đoạn văn song song của Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân giải thích rõ hơn tư tưởng của mình: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhũ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu… Vậy đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6: 1-2). Có thể nói là thánh Phao-lô đã nội tâm hóa ngày Quang Lâm.
Thế nên, về vấn đề liên quan đến ngày Quang Lâm, thái độ của thánh Phao-lô đã có những bước tiến triển trong bức thư này. Trong hai bức thư gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, hai thư đầu tiên của thánh Phao-lô, thánh nhân phát biểu rõ rằng thánh nhân chia sẻ với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi niềm hy vọng về ngày Quang Lâm sắp đến gần, dù thời gian vẫn chưa được xác định, nhưng nay mai, ngay chính trong thời của họ. Trái lại, vào lúc thánh nhân viết thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân đã nghiền ngẫm một cách đau đớn về việc dân Ít-ra-en từ chối nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a; tuy nhiên, thánh nhân thâm tín rằng “con cái của Lời Hứa” một ngày kia sẽ đạt đến ơn cứu độ sau thời lương dân. Vì thế, thánh nhân lại đưa viễn cảnh ngày Chúa Ki-tô trở lại vào tương lai rất xa.
Cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu:
Thánh Phao-lô nhiều lần diễn tả cuộc sống Ki-tô hữu như một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại sự ác; thánh nhân mượn từ vựng lúc thì ở nơi ngôn từ thể thao, lúc thì ở nơi ngôn từ quân đội như ở đây: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Kiểu nói “cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” được dịch theo sát từ là: “mặc lấy áo giáp mà chiến đấu”. Chiếc áo giáp đảm bảo cuộc chiến thắng không gì khác hơn là chính Chúa Ki-tô: “Quả thật, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27), nghĩa là, người Ki-tô hữu phải nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, nên một với Ngài trong mọi sự và mọi lúc, và gặp thấy ở nơi sự hiệp nhất này sức mạnh chiến thắng. Nói cách khác, những người Ki-tô hữu phải giữ vững tư thế chiến đấu như những người chiến sĩ can trường: mình mặc chiếc áo giáp của Chúa Ki-tô để chiến đấu, tức là để Ngài hành động trong chúng ta đến mức chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Cuộc chiến của con cái ánh sáng chống lại con cái bóng tối này xuất hiện rồi trong những bản văn trước Ki-tô giáo, như những bản văn Qumran làm chứng; một trong những thủ bản danh tiếng nhất của Biển Chết có nhan đề “luật cuộc chiến của con cái sự sáng chống lại con cái bóng tối”. Cuộc đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cũng là một trong những đề tài đem lại cung giọng đầy kịch tính cho Tin Mừng thứ tư.
Một đời sống mới:
“Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”, nghĩa là trong sự chiếu sáng của kỷ nguyên mới này, tức là kỷ nguyên của ân sủng, thời đại của Chúa Thánh Thần. Vì thế, “đừng chiều theo tính xác thịt”, chữ “xác thịt” được hiểu theo sắc thái ngữ nghĩa sê-mít để chỉ những thử thách trần thế, những ham muốn của con người yếu đuối và vị kỷ.
Chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên về những thói hư tập xấu mà thánh nhân vạch mặt chỉ tên ở đây: chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tuông. Thật thích hợp để đặt những thói hư tật xấu này lại vào trong bầu khí phóng đãng của thành phố Cô-rin-tô và cũng như nghĩ rằng thánh Phao-lô viết bức thư này vào mùa đông, thời kỳ của những lễ hội ngoại giáo ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma, kể cả những cuộc truy hoan thả cửa, chứ chưa nói đến những lễ hội chè chén, như lễ hội thần Saturnale của dân Rô-ma. Thánh Lu-ca, môn đệ và bạn đồng hành của thánh Phao-lô, cũng đưa ra những huấn lệnh tương tự: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21: 34-36).
TIN MỪNG (Mt 24: 37-44)
Ba Tin Mừng nhất lãm: Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca, đều định vị cuộc nói chuyện của Chúa về ngày tận thế và Quang Lâm vào sứ vụ sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó của Ngài. Tại Lu-ca, cuộc nói chuyện này được nói công khai trước công chúng ngay trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 5-7); tại Mác-cô, cuộc nói chuyện này là cuộc trò chuyện riêng tư giữa thầy và vài môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, trên núi Ô-liu (Mc 13: 1-4). Tại Mát-thêu, Chúa Giê-su ngỏ lời với “các môn đệ Ngài”, chính xác là nhóm Mười Hai, quây quần chung quanh Ngài trên núi Ô-liu (Mt 24: 1-3). Đây là diễn từ cuối cùng trong năm diễn từ của Chúa Giê-su, được gọi là “diễn từ về thời cánh chung”.
Bối cảnh:
Trước đó, Chúa Giê-su đã rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đang trên đường đến núi Ô-liu. Vào lúc này, các môn đệ Ngài chỉ cho Ngài xem công trình kiến trúc huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả cho xây dựng lại và sắp được hoàn tất (khởi công từ năm 19 trước Công Nguyên và hoàn thành vào năm 64 sau Công Nguyên, chỉ trong vòng sáu năm trước khi bị các đạo quân Rô-ma phá hủy thành bình địa vào năm 70). Chúa Giê-su trả lời cho họ “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24: 2).
Các Tông Đồ, vốn là những người Do thái mộ đạo, biết rằng họ sống điều gì mới, nhưng đồng thời chắc chắn cũng bị giao động bởi viễn cảnh này. Kinh ngạc, họ không thể không liên kết thảm họa như thế với ý tưởng về ngày tận thế. Khi đến núi Ô-liu, họ hỏi Chúa Giê-su: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điểm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?” (Mt 24: 3).
Sau khi đã nói cho họ liền một mạch về các ngôn sứ giả, các cuộc bách hại, cơn gian nan khốn khó tại Giê-ru-sa-lem và những nỗi truân chuyên của thời sau cùng, Chúa Giê-su đề cập đến ngày Quang Lâm của Ngài được phác họa bởi những đường nét của “việc Con Người ngự đến”. Đoạn Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay được trích từ cuộc nói chuyện này từ câu 37, tuy nhiên phải bắt đầu từ câu 36 mới phải, bởi vì hai từ ngữ: “ngày và giờ” ở câu 36 được lập lại ở các câu 42-44 làm thành lối hành văn đóng khung và cho phân đoạn này một đơn vị thống nhất: câu 36 là phần khai đề, các câu 37-41 là phần triển khai, và các câu 42-44 là phần kết.
“Con Người”:
Diễn ngữ “Con Người” là đặc ngữ sê-mít, không có nghĩa gì khác ngoài một con người với điểm nhấn được đặt trên tính chất con người trần thế của mình: “một phàm nhân”. Diễn ngữ này thường được ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng và cũng được gặp thấy ở nơi khác như Is 51: 12; G 25: 6; Tv 8: 5. Ví dụ như trong Ed 2: 1: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây”, diễn ngữ: “con người” tương đương với đại từ “ngươi” để chỉ chính vị ngôn sứ, ông xem mình chỉ là một phàm nhân, qua ông Thiên Chúa sắp ký thác sứ điệp của Ngài cho dân Ngài.
Nhưng trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” xuất thân từ thiên giới. Vị ngôn sứ mô tả ngày khải hoàn của các thánh dưới quyền thống trị của một “Con Người” ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho nhân vật này “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 13-14).
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” theo ngôn sứ Đa-ni-en để nói về chính mình. Khi thủ đắc tước hiệu này cho riêng mình, Chúa Giê-su diễn tả vừa tính siêu việt của mình vừa nhân tính mà Ngài dự phần vào, nhờ đó Ngài có thể mang lấy số phận của nhân loại; đồng thời phải hiểu rằng cuối cùng Ngài sẽ chiến thắng.
Lời mời gọi hãy sống trong tư thế sẵn sàng:
Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài tính cách bất ngờ không thể đoán trước được của “ngày và giờ Con Người ngự đến”. Thiên hạ kinh ngạc như họ đã kinh ngạc khi trận hồng thủy bất ngờ ập đến.
Theo hình thức so sánh và dụ ngôn, Chúa Giê-su kêu gọi hãy luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Ngài trở lại. Vào thời ông Nô-ê, thiên hạ vẫn lo ăn uống, cưới vợ lấy chồng, chơi bời phóng túng trong cuộc sống thường ngày mà không một chút bận lòng đến ngày phán xét của Thiên Chúa, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu mà vẫn không hay biết gì về tai họa sắp ập xuống trên họ. Việc Chúa Ki-tô trở lại để xét xử thế gian cũng xảy ra một cách đột ngột bất ngờ như thế: những người này “được đem đi” để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, những người khác “bị bỏ lại” để chịu án phạt. Hai người ở cùng một chỗ, làm cùng một công việc, có thể có những số phận khác nhau. Ở đây đừng hiểu các con số này theo toán học, bằng không, chúng ta có thể tin rằng chỉ một nữa nhân loại sẽ được cứu. Đây là kiểu nói đối ngẫu sê-mít: chúng ta sẽ gặp lại kiểu nói này ở nơi dụ ngôn về năm cô trinh nữ khờ dại và năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Việc so sánh theo sau cũng nhắm đến sự mê muội này: giả như chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã tỉnh thức. Đó cũng là lời khuyên bảo của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 1-2).
Các môn đệ là những người duy nhất lắng nghe những lời này; vì thế, từ nay đây sẽ là công việc của các ông: phá vỡ sự mê muội của con người và loan báo ơn cứu độ. Như vậy, cái bất ngờ của ngày Chúa đến không phải là không được báo trước, nhưng chính vì thái độ vô tâm mê muội của con người: cố chấp, nhắm mắt bịt tai trước lời cảnh giác của Ngài, lời ấy vẫn hằng vang lên trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta không thể không liên tưởng đến vài ngày sau đó, hầu như cùng một nơi chốn, trong vườn Ô-liu, Chúa Giê-su sẽ nói với cũng chính các môn đệ này đến hai lần: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện…”, còn họ thì cứ ngủ mê miệt không sao mở mắt nổi.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
———————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG – Năm A
CÁC CON HÃY SẴN SÀNG- R. Veritas
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri Isaia “các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm”, nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo tiếp: “Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa”. 700 năm sau, sau lời tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: “Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
———————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG – NĂM A
HÃY SẴN SÀNG CHO MỘT TƯƠNG LAI TƯƠI ĐẸP- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Dẫn Vào Thánh Lễ
Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
Gợi Ý Sám Hối
Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi?
Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy?
Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không?
Lời Chúa
Bài đọc I (Is 2,1-5):
Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị:
Ðó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh: “Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi”. Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài: “Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp”.
Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình: “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”.
Ðáp ca (Tv 121)
Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121: “Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ về nhà Chúa”
Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)
Ðức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều:
a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe: thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ”.
b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ “được đem đi” (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ “bị bỏ lại”, nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý: một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là “bị đem đi” và “được để lại”).
c/ Ðược tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Ðức Giêsu kết luận: “Vậy các con phải sẵn sàng”
Bài đọc II (Rm 13,11-14)
Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi: “Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến… Ðêm sắp tàn, ngày gần đến”. Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng:
a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là “từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống: Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Ðức Giêsu Kitô.
Gợi Ý Giảng
Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Ðấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Ðấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác: Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Ðó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Ðiều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được: bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau…; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác…
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
“Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy”
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi?
Ðúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù:
– Chúng ta ngủ vì “những việc làm đen tối”
– Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng”
– Chúng ta ngủ vì lòng đầy “tranh chấp đố kỵ”
– Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: “Ðêm sắp tàn, ngày gần đến” và “Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Ðây là lúc chúng ta phải thức dậy”.
– “Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày”
– Hãy “cầm lấy khí giới của sự sáng” để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
– Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để “mang lấy Ðức Giêsu Kitô”.
Hai người, hai số phận
“Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi”.
Ðức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện “ăn uống, dựng vợ gả chồng”.
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ “được tiếp nhận”, kẻ nào mãi thờ ơ thì như “đàn gãy tai trâu” và sẽ “bị bỏ lại”.
Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ÐHV 971)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Ðọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
– “Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó”.
– “Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện”.
– “Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói ‘Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp'”
– “Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: ‘Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng…'”
– “Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa” (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)
Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Ðức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: “Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ, nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa.” Chính cái biến cố đó đã làm cho Ðức Cha Samuel Ruiz “thức dậy”. Từ đó trở đi, ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều: 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Ðức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.
- Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.
- Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.
- Thánh Phaolô kêu gọi: / “Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
- Ðức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: / “Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT: Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin…
(Phần “Lời nguyện cho mọi người” của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
TRONG THÁNH LỄ
– Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi:
. Sau lời tung hô sau truyền phép: “Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ… đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này…”
. Sau truyền phép, đoạn 4: “Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này… Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha…”
– Trước Kinh Lạy Cha: Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây:
– Chúc bình an: Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
– Trước lúc rước lễ: “Ðây Chiên Thiên Chúa, Ðấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
GIẢI TÁN
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)
–——————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG – Năm A
CHÚNG CON HÃY TỈNH THỨC- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Mùa Vọng lại trở về sau một năm phụng vụ. Mùa Vọng, tiếng La tinh là “Adventus”. Adventus có nghĩa là “đến, hiện diện hay hiển trị”. Người đến hay hiển trị ở đây là Chúa Cứu Thế. Ngài đã đến và hiển trị, sao mỗi năm còn chờ Ngài đến nữa ? Thực ra, chờ ở đây không phải là chờ Ngài đến vì Ngài đã đến rồi, nhưng là chờ ngày Quang lâm của Ngài, ngày Ngài đến trong vinh quang như một vị Vua Thẩm phán oai hùng.
Trong mùa Vọng này, trước mắt là chúng ta dọn lòng để mừng lễ Giáng sinh cho sốt sắng, nhưng còn là dịp để thúc đẩy chúng ta dọn mình đón Chúa đến lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày tận thế, nhưng đặêc biệt để chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến lần sau hết của đời mình. Số phận đời đời của mỗi người mỗi khác tùy theo mình có chuẩn bị hay không.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ là Ngài sẽ đến lúc họ không ngờ. Vì thế họ cần phải tỉnh thức và tích cực chuẩn bị. Ngài nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ của ngày Ngài đến để khuyên chúng ta luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Tuy thế, phần đông người ta xưa nay vẫn coi thường lời cảnh cáo đó, họ coi như không bao giờ chết, họ cứ sống mà hưởng thụ, hoặc khá hơn thì họ còn chần chừ chưa muốn sám hối, chưa chịu chuẩn bị cho số phận tương lai của mình.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Is 2,1-5.
Đọan văn này có lẽ được viết vào sau thời Giêrusalem thất thủ, bị các đạo quân của vua Babylon xâm chiếm và tàn phá. Trong một thị kiến vĩ đại về tương lai, tiên tri Isaia ngắm nhìn Giêrusalem thời Thiên Sai. Giêrusalem mới này là một Giêrusalem huy hòang rực rỡ, người người tiến về đó, và tin chắc sẽ tìm được ở đó một nền hòa bình viên mãn và một niềm hạnh phúc chứa chan.
Tiên tri đã thấy trước Ngày của Chúa, ngày mà Thành được xây dựng lại từ trong đống đổ nát của mình, sẽ nhìn ngắm các dân tộc, sau khi giao hòa với nhau, tuốn về mình như một thành trì của Thiên Chúa. Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng là thời thái bình :”Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lữỡi cầy, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”.
Thành Giêrusalem lý tưởng này chính là Hội thánh do Đức Giêsu thiết lập. Nhờ Hội thánh và trong Hội thánh, Đức Giêsu chiếu giãi ánh sáng của Ngài trên mọi dân tộc, hòa giải họ với nhau để biến họ thành dân Thiên Chúa.
Bài đọc 2 : Rm 13,11-14.
Thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Rôma khuyên họ đừng mê ngủ nữa, hãy tỉnh thức vì Ngày tươi sáng đó rất gần rồi :”Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”.
Theo đó, thánh nhân khuyên tín hữu hãy tỉnh thức sẵn sàng là hãy từ bỏ những việc làm đen tối của thời chưa tin đạo, hãy cầm lấy khí giới của sự sáng mà chiến đấu, nghĩa là phải tích cực lọai trừ sự dữ và cổ vũ sự thiện.
Ngòai ra, tỉnh thức sẵn sàng còn là đổi mới cuộc sống : khử trừ các tệ đoan xã hội, ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị… Thay vào đó hãy tạo nên một cuộc sống mới theo gương Đức Kitô. Lời khuyên này vẫn còn hiệu nghiệm đối với chúng ta : hãy chuẩn bị cho ngày Chúa đến.
Bài Tin mừng : Mt 24,37-44.
Trong đọan Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ là Ngài sẽ đến vào lúc họ không ngờ. Vì thế họ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến để khỏi bị ngỡ ngàng.
Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến yếu tố bất ngờ như thời ông Noê, cơn đại hồng thủy xẩy đến lúc người ta đang mải mê với những sự thế tục “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi chính ngày ông Noê vào tầu mà người ta không ngờ”. Do đó, khi ngày của Chúa đến, có người sẽ bị lọai ra, có người sẽ được nhận vào hưởng hạnh phúc đời đời.
Vì thế, trong Ngày Chúa đến, số phận của mỗi người sẽ khác nhau : có người sẽ được đem đi về với Chúa, có người sẽ bị bỏ lại trong hư vong, nghĩa là có người được cúu rỗi, có người bị trầm luân. Được chấp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng không. Do đó, Đức Giêsu kết luận :”Vậy các con phải sẵn sàng” (Mt 24,14).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Dọn tâm hồn đón mừng Chúa
MÙA VỌNG LẠI ĐẾN.
Mùa Vọng Giáng sinh bởi chữ “Adventus” nguyên gốc tiếng La tinh xưa được đọc trại theo lối chuyển âm là “Mùa Apventô” hay “Mùa Aùp” mà chúng ta vẫn gọi ngày xưa, nay được chuyển thành “Mùa Vọng”. Mùa Vọng là thời gian chờ đợi cái gì sắp xẩy đến, bởi vì Vọng có nghĩa là chờ, là mong. Chúng ta đợi cái “Adventus” : sự đến, tức là “Quang lâm”. Vậy Quang lâm là gì ? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý là người trên đem vinh quang đến cho người dưới.
Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêu, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ “Quang lâm”(Parousia). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là “đến, hiện diện”. Theo văn hóa La-Hy, người ta dùng nó để chỉ việc hòang đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung.
Người Rôma xưa có thờ một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ Januarius (tháng giêng). Vị thần này được các họa sĩ vẽ bằng hình đầu người có hai mặt : một mặt nhìn về đàng sau, mặt kia nhìn về đàng trước. Mùa Vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía : một lần nhìn lại lần Giáng sinh đầu tiên của Đức Giêsu trong lịch sử, đàng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Hôm nay chúng ta bước vào Mùa Vọng của năm phụng vụ mới. Mùa Vọng mang hai đặc tính thiết thực cho chúng ta : vừa là mùa chuẩn bị mừng lề Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với lòai người; vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế (AC 39).
Chúng ta đang đứng giữa hai biến cố lịch sử này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngóai cổ về đàng sau và ngóng trông về đàng trước, mà phải xắn tay áo lên dấn thân vào công việc mà Đức Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
Ý NGHĨA CỦA MÙA VỌNG.
Tin mừng hôm nay nói với chúng ta về hai lời cảnh cáo : một lời cảnh cáo về trận lụt lớn trong thời ông Noê. Lời cảnh cáo nữa là ngày tận thế sẽ đến. Chúng ta thấy có mối liên lạc giữa hai lời cảnh cáo này.
Việc Đức Giêsu đến trong ngày phán xét cuối cùng sẽ như trận lụt cuốn hết mọi người, trừ những người ở trong tầu Noê. Đức Kitô cảnh cáo chúng ta :”Vậy các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa mình sẽ đến”. Ngài còn nói thêm:”Các con phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ, Con người sẽ đến”. Ngài còn nói đi nói lại về ngày Tận thế. Ngài bảo chúng ta không biết ngày nào giờ nào, nên phải sẵn sàng.
Ngày tận thế.
- a) Một bí mật.
Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài giảng về ngày tận thế, ngày Chúa đến.
Đức Giêsu tuyên bố : ngày và giờ tận thế không ai biết, kể cả Con Người, trừ một mình Chúa Cha mà thôi. Nói thế, Đức Giêsu không có ý phủ nhận việc Ngài biết. Về bản tính Thiên Chúa sao Ngài lại không biết, song không phải biết để mà nói. Ngài có ý bảo ta : không phải sứ mạng của Ngài định đọat và công bố ngày đó. Việc định đọat và công bố ngày giờ thuộc thẩm quyền Chúa Cha, cũng như việc sắp đặt chỗ ở trên trời ở trong quyền quan phòng của Chúa Cha.
Ngày và giờ là bí mật của Chúa Cha. Đó không phải là cơn thịnh nộ và sự trừng phạt vào ngày đã định. Nói rằng, chỉ một mình Chúa Cha biết ngày tận thế và việc Con Người trở lại, có nghĩa là đặt thế giới và nhân lọai trong tay của Ngài, trong đôi tay nhân từ của Ngài. Đó là đặt chúng ta trong sự thanh thản, an tòan : ai có thể rứt chúng ta ra khỏi đôi tay của Chúa Cha ? Chúng ta còn sợ gì, nếu chúng ta được ấp ủ trong tình yêu của Ngài ?
Vì thế, việc tìm biết ngày giờ Chúa Quang lâm là một việc làm phạm thượng, vì làm điều đó là tìm cách chiếm đọat những bí mật riêng của Thiên Chúa. Phận sự của con người không phải là tìm cách xác định ngày Chúa trở lại nhưng là chuẩn bị chính mình và tỉnh thức đợi chờ ngày đó.
- b) Một bất ngờ.
Nói về ngày tận thế, trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rằng :”Các con hãy sẵn sàng vì chính giờ phút các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”(Mt 24,14). Thời giờ sẽ đến hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài nơi vật chất thế gian.
Trong câu chuyện ngày xưa, Noê đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt sẽ sẵn sàng cho cơn nước lụt đến, thì ông đã chuẩn bị, nhưng những người còn mải mê ăn uống, cưới vợ gả chồng nên bị nước lụt cuốn đi cách bất ngờ. Những câu này là lời cảnh cáo cho lòai người, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi đời đời, đừng bao giờ quá quan tâm đến việc thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa, và vấn đề sống chết nằm trong tay của Ngài. Bất cứ khi nào Ngài gọi, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Truyện : Biến cố bất ngờ.
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng nhưng một tiếng nổ vang trời động đất mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).
- c) Phải đề cao cảnh giác.
Sách có câu :”Cẩn tắc vô ưu” : cẩn thận đềâ phòng thì khỏi bị ưu phiền. Ai lơ là trong cuộc sống sẽ gặp nhiều bất trắc xẩy đến mà không kịp đối phó, hậu quả sẽ tai hại khôn lường. Sống không cảnh giác sẽ phải rước lấy tai họa. Một tên trộm sẽ không bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ đến viếng nhà nào. Vũ khí chính của anh ta là sự bất ngờ, vì vậy một chủ nhà có của cải lúc nào cũng phải canh chừng.
Tuy nhiên chúng ta cần phải hiểu điều này cho đúng, chúng ta phải luôn nhớ rằng Chúa cảnh giác chứ không nhằm chơi khăm chúng ta, dường như cứ nhằm lúc nào chúng ta sơ hở là Chúa trở lại. Đàng khác, người Kitô hữu trông đợi Chúa mình trở lại không phải sống trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng đó là một sự trông chờ náo nức ngày vui vẻ vinh quang sắp đến.
Truyện : Tư thế sẵn sàng.
Vào năm 79 trước công nguyên, núi Vésuve bất thình lình phun lửa dữ dội, chôn vùi thành phố Pompei phồn vinh dưới một lớp nham thạch dầy tới 7 mét. Năm 1748, sau 18 thế kỷ, người ta bắt đầu khai quật thành phố xấu số này. Giữa bao dinh thự đổ nát, bao đồ vật ngổn ngang, bao người chết đau đớn hỏang sợ, người ta ngạc nhiên tìm thấy xác của 38 người lính La mã đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong lúc xẩy ra tại họa khủng khiếp đó. Điều đáng nói là những người lính này đang tuần canh, tay còn cầm gươm, đi trong tư thế thi hành nhiệm vụ mặc dù cái chết kề bên.
Phải tỉnh thức.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức, đừng ngủ vùi trong việc trần thế. Chúng ta đang mê ngủ sao ? Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù :
– Chúng ta ngủ vì “những việc làm đen tối”.
– Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng”.
– Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở rằng :”Đêm sắp tàn, ngày gần đến” và “Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”. Nhưng khi nào là đêm, khi nào là ngày ? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm ?
Truyện : tha nhân là anh em.
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình :
– Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?
Một anh nhanh nhảu đáp :
– Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt nó là con bê hay con lừa.
Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý :
– Thưa thầy, khi nào con nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.
Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra, nhưng dường như vị sư phụ không thóang một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng :
– Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh em chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.
Thế ra, không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng tỏa rạng. Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời ta cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, lừøa dối… Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi đường lối.
Chúng ta còn phải tỉnh thức trong những công việc rất bình thường ta vẫn làm mỗi ngày. Ở đây Đức Giêsu kể ra các việc bình thường như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, làm ruộng, xay bột… Mỗi Kitô hữu hôm nay đều có thể kể ra những công việc chính mình vẫn làm hằng ngày, từ việc nội trợ, gia công, đến việc buôn bán hay nghề nghiệp. Đức Giêsu nhắc đến nạn lụt lớn thời ông Noê, mà không nói đến sự sa đọa của lòai người thời đó. Ngài có ý đặt chúng ta trong bối cảnh bình thường hiện ta đang sống. Chính trong bối cảnh đó chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa đến với chúng ta.
Phải sẵn sàng.
Theo cách viết của Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm điều gì có tội, chỉ làm những việc bình thường :”ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ làm gì tội, mà vì họ không làm những việc phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả.
“Hai người đàn ông đang làm ruộng… hai người đàn bà đang kéo cối xay… thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại” : những người bề ngòai hòan tòan giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
Đức Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Ngài sẽ đến bất cứ lúc nào. Ngài dùng một dụ ngôn để nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức. Ngài ví ta như chủ nhà nọ, nếu biết vào canh nào trộm sẽ đến, chắc chắn sẽ canh thức không để nó đào ngạch khóet vách ! Ngài đã dùng tới bản năng tự vệ của thính giả để giúp họ hiểu được sự tỉnh thức quan trọng như thế nào đối với sự an tòan của mình. Với của cải vật chất mà đã phải tỉnh thức như vậy, phương chi là với chính tính mạng của ta, thì lại càng phải tỉnh thức hơn gấp bội.
THỰC HÀNH TRONG MÙA VỌNG.
Chờ đợi trong tin yêu.
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi. Chờ đợi trong tin yêu chứ không lo lắng sợ hãi, như chờ người cha thân yêu đến với con cái. Mùa vọng là mùa chờ đợi :
– Không phải đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng.
– Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ.
– Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi phải mang tính năng động, tránh tính trì trệ (inertie) của vạn vật. Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ năm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh khỏi sự trì trệ kiểu đó. Nó được biểu lộ trong :
– Sự nguội lạnh, phai lạt : một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng và trở thành lạnh ngắt. Sự “nhiệt thành” của ta đối với Nước Trời cũng vậy.
– Sự cạn kiệt : Một chiếc xe Honđa chạy mãi mà không được châm thêm, xăng dầu sẽ cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói :”Quỳ lâu, chầu mỏi” (Cf Carôlô, Hạt giống nảy mầm).
Trong cuộc sống hằng ngày người ta hay có ảo tưởng rằng thời gian còn nhiều, chưa vội, cứ từ từ mà sống, tương lai còn dài. Người ta có một nhược điểm hết sức phổ biến là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma qủi.
Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế họach cám dỗ lòai người.
Con quỉ thứ nhất nói :
– Tôi sẽ bảo với lòai người là không có Thiên Chúa.
Con quỉ thứ hai nói :
– Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.
Satan trả lời :
– Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ lòai người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.
Con quỉ thứ ba nói :
– Tôi sẽ bảo với lòai người đừng có vội vã làm gì.
Satan đáp :
– Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số lòai người bằng cách đó.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng mình còn lắm thời giờ. Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời của một người là khi người đó học được chữ ngày mai, và trì hõan vì không ai biết ngày mai có đến với mình nữa không.
Truyện : Pháp quan Archais.
Lịch sử còn ghi lại câu truyện bi thảm sau đây : Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi áo và nói :”Để mai hễ hay”. Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra thì cả chính phủ bị bắt trọn.
Vị pháp quan Archais đã hất sứ điệp ấy qua một bên vì ông nghĩ hãy còn nhiều thời giờ. Quan tổng đốc Phêlít ngày xưa đã run rẩy trước sứ giả của Chúa là Phaolô nhưng vẫn chần chừ nói rằng :”Bây giờ ngươi hãy lui ra, đợi khi nào rảnh , ta sẽ gọi lại”. Nhưng từ chỗ đó chúng ta không thấy chỗ nào nói đến ông ta rảnh cả.
Dọn mình chết lành.
Đức Giêsu không mời gọi ta sợ hãi, nhưng mời gọi ta tỉnh thức. Ngài so sánh lụt đại hồng thủy và ông Noê. Người ta không nghi ngờ gì hết cho đến khi lụt đại hồng thủy đến cuốn trôi hết tất cả mọi sự. Tất cả mọi người mải lo lắng sự đời… Chúng ta cũng vậy, chúng ta mải lo lắng sự đời và đó là điều cần thiết. Chính lúc đó, Chúa đến gặp chúng ta. Nhưng để khỏi bị bất ngờ khi Ngài đến, chúng ta phải chuẩn bị như ông Noê. Cũng giống như ông, chúng ta có Lời Chúa cảnh báo và nhắc nhở chúng ta. Đức Giêsu nói : Đó, Thầy đã báo trước cho các con. Ngài đến gặp chúng ta một cách bất ngờ, nhưng không phải là không báo trước. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra vào lúc tận thế. Cái chết của mỗi người cũng sẽ bất ngờ. Phải
chăng cái chết không phải là ngày tận thế, ngày tận thế riêng của mỗi người, lúc mà Đức Giêsu đến gặp riêng mỗi người chúng ta đó sao ? (Fiches dominicales, năm A, tr 6).
Đối với những người không tin tưởng, chết là tận điểm cuộc sống, chết là hết, chết phá tan sự nghiệp công danh và mọi lạc thú trên đời. Kiếp sống của con người vì thế chỉ là kiếp bèo bòng, lo hưởng thụ :”Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì theo sau”.. Họ không chờ đón và mong đợi gì sau cuộc sống ! Nhưng đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chết là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Trong giây phút vĩnh biệt cuộc đời trần thế để về thế giới bên kia, mỗi người chúng ta phải trình diện trước tôn nhan Chúa. Cuộc gặp gỡ quyết định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
Nhưng khốn nỗi mấy ai quan tâm, mấy ai đặt cho đúng tầm hệ trọng và tính cách vô cùng khẩn thiết của giây phút lìa đời ấy ! Chúng ta như người mê ngủ, từ sớm tinh sương đến chiều tàn, chúng ta bận tâm lo ăn lo mặc, lo sinh kế, lo công danh, lạc thú… Cuối tuần chúng ta dành thời giờ đi dạo ở đồng quê, leo đồi, leo núi hay tắm biển phơi nắng. Nại vào những bận tâm vật chất ấy, chúng ta lơ là việc thiêng liêng, bỏ rơi cầu nguyện, bỏ suy niệm Lời Chúa, bỏ dâng lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, không chịu các phép bí tích. Tựu trung, một cuộc đời hòan tòan vật chất, hiện sinh, sống như là không bao giờ phải chết, sống cuộc đời không có Chúa.
Ta đã suy niệm câu “Lúc Con Người đến”. Lúc Con Người đến chính là ngày tận thế, ngày Chúa Quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật là trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Vì vậy chúng ta phải dọn mình luôn, cứ tưởng tượng rằng hôm nay Chúa có thể đến gọi tôi. Tôi sẽ vui vẻ ra đi với Chúa.
Truyện : Chiếc quan tài.
Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng :
– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì ?
Vị sư trả lời :
– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ : người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.
Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào Mùa Vọng. Giáo hội nhắc nhở chúng ta hãy đào sâu và sống tinh thần tỉnh thức đích thực của Kitô giáo. Tinh thần tỉnh thức của Kitô giáo nhắc nhở chúng ta về ngày trở lại của Chúa Kitô và mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng ngày sinh của Ngài. Chúa Kitô sẽ trở lại không phải vì Ngài đang vắng bóng, mà đúng hơn, Ngài đang hiện diện và đến trong từng phút giây của cuộc sống mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự gặp được Ngài, mặt đối mặt, khi chúng ta ra đi về với Ngài. Nhưng muốn được gặp Ngài trong tình thương yêu của tình Cha con, chúng ta cần phải dùng từng giây phút hiện tại để chuẩn bị cho cuộc ra đi gặp gỡ đó.
——————————————————-
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
KHÔNG MỘT AI BIẾT GIỜ- Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Khối diễn từ cuối cùng gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Pharisêu”, trước đây vẫn được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và cuộc phán xét đang đến. Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối cùng này.
Phụng vụ cho đọc từ câu 37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
– Bài học thời Nôê (24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c. 37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm là “ngày Quang Lâm của Con Người”;
– Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (24,40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;
– Bài học về canh thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42) và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác giả Mt dùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.
Vài điểm chú giải
– thời ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).
– quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa chữ là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.
– một người được đem đi, một người bị bỏ lại (40.41): Hai động từ của bản văn Hy Lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”, aphietai, có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.
– canh thức (42) (HL: grêgoreô): có nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức, ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8).
– không biết ngày nào (42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.
– kẻ trộm (43): Kinh Thánh dùng hình ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15).
– vào canh nào (43): Một đêm thường được chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa đêm (từ 9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).
– khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.
Ý nghĩa của bản văn
Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.
Trước tiên, cần phải xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện: ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa ra ba ví dụ.
* Bài học thời Nôê (37-39)
Vào thời Nôê, có hai hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh thức biết lắng nghe các lời lưu ý.
Những người hoàn toàn để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn sàng.
Bài học là: Vào thời Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân theo lời Người, cũng sẽ chết khi Thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc đoàn dân Người.
* Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (40-41)
Với ví dụ thứ hai rút ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.
Bài học là: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).
* Bài học về canh thức và sẵn sàng (42-44)
Đến đây, Đức Giêsu cho ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).
Tất cả những lời kêu gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.
Trong mỗi khoảnh khắc, chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa. Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Người.
+ Kết luận
Theo kinh nghiệm thông thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên quy định dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là xảy ra một tai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được. Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.
Gợi ý suy niệm
– Đức Giêsu khẳng định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải, mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ chúng ta.
– Vì đã được Đức Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”, người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.
– Nhìn bề ngoài, không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản thân và nhất là để mình rơi vào một thứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng.
– Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.
——————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
THÁI ĐỘ MONG CHỜ CHÚA ĐẾN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi : Chúa đã đến chưa ? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng : Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích : một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Ðức Trinh Mữ Maria ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết : « Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi », và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van : « Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống ».
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Các bài đọc Thánh lễ trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Ðức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Ðức Chúa. Lòng kính sợ Ðức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở…” (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế : thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng : “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (…) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng : “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu :
– Chúa nhật I Mùa Vọng : Ad Te levavi… (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )
– Chúa nhật II Mùa Vọng : Populus Sion … (Này hỡi Dân Sion…)
– Chúa nhật III Mùa Vọng : Gaudete … (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
– Chủ nhật IV Mùa Vọng : Rorate … (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính…)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần thứ nhất. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu nhắc bảo chúng ta hãy tỉnh thức để sẵn sàng cho lần đến cuối cùng của Ngài (Mt 24, 37-44).
Ðức Giêsu nói về ngày Ngài đến sẽ giống như thời ông Nôe: “Thình lình đại hồng thủy đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (Mt 24, 37). Những điều Chúa loan báo trên đây thật quá bất ngờ, vì bất ngờ nên “phải tỉnh thức” là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm 2012 người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến, mua dầu, mua mì tôm… Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta : “ Các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta tự hỏi: về phần tôi, tôi đang chờ đợi điều gì? Trong lúc này của đời tôi, con tim tôi đang hướng về điều gì? Lòng tôi có bị vướng vào những hành vi ám muội… ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị… thỏa mãn xác không? (x. Rm 13, 11-14) Trái tim tôi có bị nặng nề bởi những lo âu trần thế không? Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt sức ta, khiến ta không còn khả năng mở lòng mình ra với Chúa và tha nhân? Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim. Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất, nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao. Thánh Phaolô bảo chúng ta: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy” (Rm 13, 11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta “hãy tỉnh thức”. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “phải thức dậy” (Rm 13, 11). Vậy mỗi người chúng ta đây hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Con Người là Đức Giêsu ngự đến trên mây trời, Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế sẵn sàng, đứng thẳng, không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê, nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ “đầy ân sủng”, Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin giúp chúng con cởi mở tâm hồn đón nhận Chúa Giêsu Con Mẹ.
Lạy Ðấng Cứu Thế là Vua Hòa Bình xin ngự đến. Amen.
————————————————————
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
NỀN HOÀ BÌNH TUYỆT ĐẸP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm Phụng Vụ khởi đầu bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao, luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau….để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi…
Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục …
Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến:Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo :
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán: “Sự việc phải như vậy”. Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán: “Tất cả như thế là tốt”. Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.
– Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.
Và Thiên Chúa phán: “Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành”. Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến “trời mới, đất mới” (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú.
Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.
Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.
Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu : Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen
——————————————————–
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG- NĂM A
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG- Trích Logos A
Năm 79 sau công nguyên, một thành phố lớn trên 20 ngàn dân, bất thình lình bị núi lửa vùi lấp dưới lớp phún xuất thạch dày trên 5 mét. Thành phố đó tên Pompê gần thành Napôli thuộc nước Ý.
Ngày nay, các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người đóng trong một lớp tro bụi chai cứng. Dựa theo những bộ xương, người ta dùng thạch cao để đắp thành những hình người trong tư thế y hệt lúc xảy ra nạn núi lửa phun. Những bức tượng thạch cao đó cho thấy những hành vi cuối cùng của một số người Pompê :
Một người mẹ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay.
Một người lính trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, đang đứng gác.
Một nhóm người khác đang cầm gươm, chân đạp trên đống vàng bạc. Bên cạnh họ là 5 xác chết. Có lẽ đó là bọn người cướp của giết người.
Những bức tượng thạch cao được dựng lại cho thấy những tư thế và hành động của những con người đã chết một cách bất ngờ khi núi lửa phun. Những hình ảnh này gợi lên nội dung lời giáo huấn của Chúa hôm nay : Hãy tỉnh thức, sẵn sàng vì không biết giờ nào Chúa đến.
Thánh Matthêu đã thuật lại trong bài Tin Mừng lời Chúa Giêsu báo trước “ngày Chúa đến”.
Ngày ấy sẽ đến một cách bất ngờ như câu chuyện Đại Hồng Thuỷ thời ông Noe : thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục “người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ ”.
Trong ngày ấy, nhân loại được chia thành 2 hạng : có người sẽ “được tiếp nhận” vào Nước Trời, có người sẽ “bị bỏ rơi” trong án phạt muôn thuở. Được tiếp nhận hay bị bỏ rơi là tuỳ thuộc người ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay không. Vì thế, hôm nay Chúa đã nhắc nhở chúng ta hãy biết tỉnh thức và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến.
Tỉnh thức và sẵn sàng
Tỉnh thức là biết thức dậy từ giấc ngủ của tâm hồn thờ ơ nguội lạnh với Chúa và tha nhân. Tỉnh thức là biết chỗi dậy từ những mê đắm tội lỗi và lầm lạc để mở rộng tâm hồn tiếp nhận Chúa.
Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của xã hội hôm nay, khi màn đêm buông xuống, có nhiều người vẫn thức : thức vì không ngủ được, thức để xem xong một cuốn truyện hay một bộ phim video nhiều tập.
Nhưng cũng có người thức để làm việc : họ là những người lính gác đêm, là nhân viên trực bệnh viện, là những người lính cứu hoả trực bên điện thoại cấp cứu, là những công nhân làm việc ban đêm.
Nhưng Lời Chúa dạy hôm nay hướng chúng ta đến một ý nghĩa khác của sự tỉnh thức. Tỉnh thức không phải là không ngủ. Nhưng tỉnh thức là luôn ở trong tư thế sẵn sàng đón tiếp Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ : Chúa đến để gọi ta về với Chúa, Chúa đến trong ngày Quang Lâm để phán xét nhân loại, Chúa đến viếng thăm ta trong cuộc sống hằng ngày.
Tỉnh thức còn là chu toàn bổn phận, mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, là chè chén say sưa.
Tỉnh thức là tỉnh táo nhận ra Chúa bất ngờ viếng thăm ta. Chúa đến với ta qua mọi biến cố của cuộc sống : những biến cố mừng vui hy vọng và cả những biến cố đau buồn tang tóc.
Nếu chúng ta biết lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được bước chân Chúa đến và sẵn sàng mở cửa đón tiếp Ngài.
Đón tiếp Chúa đến viếng thăm
Vào năm 1994, cô gái người Mỹ tên Cloris McVeil trong chuyến đi tham quan đã chụp một bức hình tòa nhà Liên Hiệp Quốc tại New York.
Khi chụp tấm hình này, cô không thấy gì ngoài tòa nhà cao tầng. Nhưng khi về nhà rửa hình ra, cô rất kinh ngạc vì trên tấm ảnh xuất hiện thêm một bóng người mờ ảo rất giống Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu cao gần bằng tòa nhà đang giơ tay như muốn gõ cửa, như muốn tìm lối vào trụ sở của tổ chức gìn giữ hoà bình danh tiếng này.
Cô McVeil đã gửi cho Tòa Thánh tấm ảnh này, nhưng Tòa Thánh không có ý kiến. Còn các nhà bình luận Công Giáo thì cho rằng : đây là cách Thiên Chúa muốn nói cho chúng ta biết hãy để cho Ngài tham dự vào các vấn đề của thế giới. Ngài đang chờ đợi để được mời vào. Ngài cũng đang thao thức về vấn đề hoà bình thế giới.
Thế giới hoà bình đó là ước muốn của mọi người. Đó là cũng là giấc mơ về viễn cảnh thái bình của ngôn sứ Isaia đã được phác họa trong bài đọc 1 : “Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”.
Điều quan trọng, nếu thế giới hôm nay biết tiếp nhận Thiên Chúa như Vị Vua của hoà bình và tình thương, biết dành cho Ngài một chỗ trong trái tim thì mọi người sẽ thực sự sống trong cảnh thái bình.
Hôm nay, Chúa vẫn đứng đó, giơ tay trước cánh cửa mọi nhà, mọi tâm hồn. Nhưng đôi mắt mờ đục vì dục vọng của chúng ta đã không nhận ra Ngài. Ngài vẫn đứng đó trong cô đơn, lạc lõng. Ngài vẫn đứng đó, bên cạnh cuộc đời chúng ta, mà chúng ta không hề hay biết ! Ngài vẫn đứng đó trong bộ áo quần rách rưới của người hành khất, trong khuôn mặt đầy tuyệt vọng của một người anh em cần giúp đỡ. Ngài vẫn đứng đó với giọt nước mắt đau khổ của người cha, người mẹ khóc vì người con hư hỏng. Ngài vẫn đứng đó trong hình dáng đứa trẻ không cửa không nhà, đang run rẩy cần một vòng tay ôm.
Liệu chúng ta có tỉnh thức để nhận ra Ngài và đón tiếp Ngài không ?
———————————————
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG – NĂM A
NGÀY CỦA THIÊN CHÚA- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào một năm Phụng vụ mới với Chúa Nhật I mùa Vọng. “Mùa Vọng là Mùa của những lời loan báo: loan báo việc Chúa sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô” (Lm. Phêrô Trần Đình Tứ, Năm Phụng Vụ, Đại Chủng Viện thánh Giuse, 1997, trang 91). Do đó, tiếp nối tư tưởng của những ngày cuối năm Phụng Vụ, lời Chúa trong những ngày đầu mùa Vọng hướng chúng ta đến ngày tái lâm của Đức Giêsu Kitô.
Mặc dù chúng ta không biết ngày nào Đức Giêsu sẽ trở lại, nhưng đây lại là một điều hết sức chắc chắn. Thế giới này đã có một khởi đầu, tất sẽ có ngày kết thúc. Trong ngày đó, tất cả mọi người thuộc mọi dân, mọi nước, cho dù tin hay không tin, tất cả đều phải ra trình diện và chịu sự phán xử của Đức Kitô. Vì thế, để có thể được hân hoan trong ngày đó, phụng vụ hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Ngày của bình an:
Trước hết, chúng ta cùng trở lại với bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia. Ông là vị ngôn sứ nổi tiếng nhất trong các ngôn sứ sống vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Chúa Giáng Sinh. Về mặt lịch sử, đây là giai đoạn nhiễu nhương nhất trong lịch sử của dân Chúa, bên trong thì tình trạng luân lý sa đoạ, bên ngoài thì ngoại xâm đang lăm le xâm chiếm. Tuy nhiên, ngay giữa sự rối ren đó, vị ngôn sứ vẫn kêu gọi “mọi người tin tưởng nơi một mình Thiên Chúa: đó là cơ may giải thoát duy nhất cho họ. Ông biết sự thử thách sẽ nặng nề, nhưng ông trông cậy một “số sót” sẽ được dung tha và Đấng Messia sẽ là vua của họ. Vị Messia ấy thuộc dòng dõi David và Ngài sẽ thiết lập trên trần gian hoà bình và công bằng” (Lm. Nguyễn Thế Thuấn, Kinh Thánh trọn bộ, 1976, trang 1752-1753).
Vào ngày Đấng Messia đến, dân Israel sẽ không còn phải sợ hãi, họ cũng sẽ không còn bị dân ngoại áp bức, nhưng trái lại, trong ngày đó, “núi nhà Chúa được xây đắp trên đỉnh các núi, và núi ấy sẽ cao hơn các đồi. Và các dân nước sẽ đổ về đó. Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacob. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người, và chúng ta sẽ đi theo ý định của Người… Người sẽ xét xử các dân ngoại và khiển trách nhiều dân tộc”.
Tuy nhiên, vào ngày của Giavê Thiên Chúa, Ngài đến không chỉ để xét xử và khiển trách, nhưng đúng hơn, Ngài đến để đem lại hoà bình và bình an cho mọi dân tộc. Ngày ấy sẽ không còn chiến tranh giữa các dân tộc, trái lại “họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm”. Trong ngày đó, “nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng sẽ không còn thao luyện để chiến đấu nữa”, nhưng tất sẽ cùng “bước đi trong ánh sáng của Chúa”.
Như thế, ngay giữa cơn khủng hoảng chính trị của dân tộc, giữa cảnh hỗn loạn của thời cuộc, dưới ánh sáng mạc khải, vị ngôn sứ đã mở ra một viễn cảnh mới, một thời đại thật huy hoàng, đầy an bình. Trong ngày đó sẽ không còn cảnh chiến tranh, giết chóc, nhưng tất cả sẽ qui tụ về núi Thánh của Chúa, để vui sống trong bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Như cảm nghiệm được điều này, tác giả Thánh vịnh đã reo lên: “Ôi, tôi vui sướng biết bao khi nghe nói: Chúng ta sẽ tiến về nhà Chúa”
Tuy nhiên, để thực sự hưởng được niềm vui trong ngày của Chúa, ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta cũng phải tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng, bởi vì: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến”.
Hãy tỉnh thức:
Cũng như bất cứ thực tại nào cũng thường có hai mặt, “Ngày của Thiên Chúa” cũng thế, ngày đó trước tiên là ngày phán xử. Trong ngày đó, Thiên Chúa sẽ qui tụ muôn dân trước mặt Người, và mọi dân, mọi nước sẽ phải trả lẽ về cuộc sống của mình. Đồng thời, đó cũng là ngày của sự ân thưởng cho những kẻ trung thành. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã nói về ngày đó như sau: “Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi”.
Do đó, nếu mỗi người chúng ta muốn hưởng được niềm vui trong ngày của Thiên Chúa, thì ngay từ bây giờ chúng ta cần phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng theo lời mời gọi của Đức Giêsu: “Vậy các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến”. Và một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của sự tỉnh thức đó cởi bỏ đời sống cũ, như lời mời gọi của thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị… và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt”. Đây là những đòi hỏi không phải là dễ dàng gì, vì bản tính tự nhiên của chúng ta luôn hướng chiều về những dễ dãi, luôn muốn hưởng thụ. Nhất là trong xã hội hôm nay, một xã hội đánh giá mọi sự qua đồng tiền. Các vụ án tham nhũng, giết người cướp của ngày càng nhiều trong xã hội hôm nay là một thí dụ cụ thể.
Thật vậy, ngay bây giờ, trong nhà thờ này, có lẽ tôi và quý OBACE dễ dàng nói hai chữ “từ bỏ”, nhưng khi đối diện với cuộc sống thực tế mỗi ngày, việc từ bỏ này quả thật không phải là đơn giản. Ngay một việc chúng ta bỏ đi một chút ý riêng để xếp xe theo trật tự, đến nhà thờ vào trước thì lên những ghế trên … cũng không phải là dễ dàng. Còn trong đời sống, khi thấy chung quanh ai cũng gian dối, chúng ta cũng dễ suy nghĩ: “mình không làm thì thiệt, ai cũng vậy thôi”, và thế là chúng ta cũng gian dối như mọi người.
Bước vào mùa Vọng, mùa của đợi trông và sám hối, khởi đi từ ngày hôm nay, chớ gì từng người chúng ta đủ can đảm dứt bỏ những cám dỗ bất chính, hy sinh những sở thích không cần thiết, vượt qua những đam mê, tự ái cá nhân, để “mặc lấy Chúa Kitô”. Hay nói một cách khác, cũng như Đức Kitô đã hiến thân làm tấm Bánh bị “bẻ ra” cho chúng ta trên bàn thờ mỗi ngày, thì tới lượt mình, chúng ta cũng phải dám chấp nhận để con người mình bị “bẻ ra” cho anh chị em qua việc hy sinh thời giờ công sức cho công việc chung, hoặc các công việc bác ái, chấp nhận bị làm phiền… Nhờ đó, vào ngày trở lại của Đức Kitô, không ai trong chúng ta bị bất ngờ, nhưng tất cả đều được Ngài “tiếp nhận” vào hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.