CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPV/HĐGMVN ấn bản 1973.. 2
THỎA MÃN VỀ BẢN THÂN VÀ TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA- Lm FX Vũ Phan Long, ofm 5
LỜI CẦU NGUYỆN ĐÍCH THỰC– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 15
XIN THƯƠNG XÓT CON– ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 23
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 26
NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 38
NGƯỜI PHARISÊU VÀ NGƯỜI THU THUẾ– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 54
VỖ NGỰC – ĐẤM NGỰC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 58
TIN MỪNG CHO KẺ KHỐN CÙNG- Trích Logos Năm C.. 64
MỘT LỜI CẦU NGUYỆN ĐẸP- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn. 68
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPV/HĐGMVN ấn bản 1973
BÀI ĐỌC I: Hc 35, 12-14.16-18
“Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”.
Bài trích sách Huấn Ca.
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 17-18. 19 và 28
Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
3) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18
“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.
Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
All. All. – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Đó là lời Chúa.
—————————————————————
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THỎA MÃN VỀ BẢN THÂN VÀ TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA- Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Ngữ cảnh
Tại điểm này của bài tường thuật cuộc hành trình (điểm cuối, theo Luca), tác giả Lc thêm vào một dụ ngôn khác liên hệ đến đề tài cầu nguyện, đó là dụ ngôn Người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14). Có lẽ bản văn này được đặt đi theo Dụ ngôn Quan tòa bất chính vì hai bản văn giống nhau về đề tài “cầu nguyện”, chứ không vì được nói ra trong cùng một hoàn cảnh. Đoạn này làm thành một kết luận rất khớp với bài tường thuật cuộc hành trình của riêng Luca (9,51–18,14. Xem “Ngữ cảnh” của Lc 9,51-62), vì kết thúc bằng đề tài quan trọng của Lc là cầu nguyện.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
– Mở (18,9);
– Dụ ngôn (18,10-13);
– Kết luận khuyến thiện (18,14).
Vài điểm chú giải
– một số người tự phụ là công chính mà khinh chê người khác (9): Dịch sát là “những người tin chắc về bản thân họ rằng họ là công chính và cư xử với phần còn lại (của loài người) với sự khinh bỉ”. Mặc dù tác giả không có ý nói đây là những người Pharisêu, những lời của Đức Giêsu ở 16,14-15 vẫn gợi ý như thế. Tuy nhiên, bản văn cũng nhắm đến một nhóm mở rộng hơn, theo như lời Ed 33,13, nghĩa là đúng cho cả các môn đệ của Đức Giêsu.
– lên Đền Thờ (10): Từ ngữ “Đền Thờ” nói đến hai điều. Trước tiên, vì Giêrusalem được xây dựng trên một quả núi với bốn đỉnh, vua Salômôn, nhằm xây dựng một nơi để thờ phượng Đức Chúa, đã san bằng một đỉnh để làm một cái nền làm lễ đài, trên đó, ông quy tụ dân Israel lại để làm công việc thờ phượng. Ta có thể tưởng tượng lễ đài này có hình thang, chung quanh có tường, các bức tường chạy từ bắc xuống nam dài khoảng 450m. Trên cái nền này, có một số công trình xây dựng, để góp phần vào việc thờ phượng Thiên Chúa. Cái nền này được gọi là Đền Thờ. Điều thứ hai, công trình xây dựng ở tại trung tâm trên nền này được làm giống như một cung điện. Cung điện này chạy từ tây sang đông, với một cửa ra vào ở phía trước, cửa này nằm ở cuối phía đông. Phía sau cung điện này tiếp giáp với bức tường phía tây của “Đền Thờ”. Cung điện này gốm có ba phòng hay vùng. Có hai cái sân quây chung quanh (ở về phía đông của tòa nhà), tại đây các phụ nữ và người nam Israel đứng để thờ phượng Thiên Chúa. Rồi có một phòng ở giữa gọi là Gian Thánh, tại đây có bàn dâng hương (x. ông Dacaria gặp thiên thần Gabriel) và một chân nến luôn luôn cháy sáng. Chỉ có các tư tế mới được vào phòng này, còn những người nam Israel thì có thể vào hai hành lang dọc hai bên phòng này. Cuối cùng, có một phòng phía cực tây, Gian Cực Thánh, đã được bao đời coi là Nơi Cư Ngụ của Thiên Chúa, hoặc của Danh Ngài hoặc Vinh Quang Ngài, trên trái đất. Không ai được vào gian phòng này, ngoại trừ thầy thượng tế, mà cũng chỉ mỗi năm một lần. Cung điện này, với ba phòng, cũng được gọi là Đền Thờ. Phía trước Đền Thờ, và trên nền Đền Thờ, có một bàn thờ để dâng những lễ hy sinh và một bể chứa nước, và một hồ nước to.
– cầu nguyện (10): Người ta có thể cầu nguyện tại Đền Thờ vào bất cứ lúc nào trong ngày, nhưng có hai khoảng thời gian được dành cho việc cầu nguyện chung: giờ thứ ba (tức khoảng 9g sáng; x. Cv 2,15) và giờ thứ chín (tức khoảng 3g chiều; x. Cv 3,1).
– Người Pharisêu (10): x. 5,17. Theo sử gia Gioxép (Ant. 18.1,2 § 11), nhóm Pharisêu là một trong ba “triết học” của người Do Thái thời ông; đôi khi ông cũng gọi họ là “phái” (haireseis; x. Ant. 13.5,9 § 171; Cv 15,5). Tên Hy Lạp Pharisaioi rất có thể đã được phiên âm từ tiếng Aram Perishayê, “những người tách biệt”. Đây hẳn là một tên do những người khác dùng mà gọi nhóm này, có thể bởi vì nhóm này có một sự xa cách và tranh giao thiệp với những người Do Thái giữ Tôrah không nghiêm túc (x. Cv 26,5). Họ giải thích Luật Môsê rất chặt, nhấn mạnh không những trên việc tuân giữ luật Torah viết, mà cả trên Luật truyền khẩu, tức là truyền thống được gán cho Môsê và các vị tiền nhân (x. Mc 7,3). Họ coi việc hiểu biết Tôrah và những điều luật truyền và cấm như dấu chỉ và đảm bảo cho lòng đạo đức. Do đó họ tuân giữ chi li ngày sa-bát và các ngày lễ, những quy tắc về thanh tẩy, thuế thập phân, ăn chay. Họ tin vào sự sống lại của thân xác, tin có các thiên thần, có việc Đấng Mêsia đến.
– người thu thuế (10): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus. Nền hành chánh Rôma quy định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được áp dụng cách võ đoán, nên người thu thuế bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế.
– đứng thẳng (11): Chúng ta không biết ông này đứng ở đâu, nhưng dựa vào câu đối lập là c. 13, ta có thể suy ra là ông đứng trước Sân dành cho Israel bên trong khuôn viên Đền Thờ.
– Lạy Thiên Chúa, xin rủ lòng thương con là kẻ tội lỗi (13): Người thu thuế cầu nguyện trong tinh thần của Tv 51; anh nói ra lời xin được thương xót và tha thứ, chứ không phải tạ ơn. Trong tình trạng bế tắc, anh đọc những câu đầu tiên của Tv 51 và chỉ thêm vào “là kẻ tội lỗi” theo nghĩa đối lập: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (c. 3) “là kẻ tội lỗi”, tức là “dù con là kẻ tội lỗi”. Nhưng cũng trong Tv này, có câu: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (c. 19). Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa giống như được Tv mô tả: Ngài chiếu cố đến người tội lỗi đang tuyệt vọng và Ngài không chiếu cố đến kẻ chỉ cậy dựa vào “sự công chính” của riêng mình.
Ý nghĩa của bản văn
* Mở (9)
Hoàn cảnh đưa Đức Giêsu đến chỗ kể dụ ngôn này chính là: Người thấy “một số người tự phụ là công chính mà khinh chê người khác”. Như thế, chúng ta đã linh cảm thấy bài này có mục đích giúp người ta hiểu thế nào là cầu nguyện đúng đắn, đâu là sự đạo đức chân thật. Đức Giêsu giúp hiểu nhiều điều liên quan đến cách xử sự sai lạc và cách xử sự đúng đắn đối với Thiên Chúa, đối với người lân cận và đối với chính mình.
* Dụ ngôn (10-14a)
Bài dụ ngôn phác ra một cảnh tưởng tượng, nhưng đối với các thính giả của Đức Giêsu, cảnh này cũng rất thực. Ông Pharisêu, một người sống thánh thiện, hẳn là ở trong vùng đông hoặc vùng tây, nơi mà những người nam Israel có thể đứng cầu nguyện. Rất có thể ông Pharisêu này không ở trong một hành lang nào vây quanh. Lời cầu nguyện của ông quay hướng về Thiên Chúa trên trời, Ngài ngự dưới dạng huyền bí trong Gian Cực Thánh. Rất có thể Đức Giêsu muốn ta hiểu rằng người thu thuế cũng ở tại nơi mà các người nam cầu nguyện với nhau, trong một tư thế mà ông Pharisêu có thể thấy và bình luận về anh ta trong khi cầu nguyện. Không chắc là người thu thuế đứng gần ông Pharisêu. Rất có thể khi cầu nguyện, ông Pharisêu quy chiếu về một dung mạo có lẽ xa nơi ông vẫn cầu nguyện.
Trong lời cám ơn Thiên Chúa, người Pharisêu nêu ra cả một danh mục gồm những nhân đức, như một lý do để tự hào. Phần đầu với những yếu tố tiêu cực: Ông không giống như những người khác (trộm cắp, bất chính, ngoại tình), nhất là “tên thu thuế kia”. Phần hai với những yếu tố tích cực: Ông ăn chay và đóng góp quá mức được yêu cầu. Ông nói sự thật. Nhưng ông không cám ơn Thiên Chúa bởi vì Ngài đã gìn giữ ông khỏi điều dữ và đã làm cho ông có khả năng làm điều thiện. Ông xác tín rằng ông nên công chính do sức lực riêng, nên ông tin là Thiên Chúa ủng hộ ông. Như thế, ông đã diễn tả cho thấy ông hết sức bằng lòng về mình và Thiên Chúa cũng phải bằng lòng về ông.
Khởi điểm của người thu thuế rõ ràng là tiêu cực: anh đứng đàng xa, nhìn xuống, đấm ngực, và xin Thiên Chúa đoái thương anh là kẻ “tội lỗi”; anh không biện minh gì về những gì anh đã làm. Anh không đi vào chi tiết trong những tội lỗi của anh. Chúng ta biết một sự vi phạm thường xảy ra trong nghề thu thuế là lừa đảo người khác (x. 3,12; 19,8). Qua phong thái của anh và nhất là trong lời cầu nguyện, người thu thuế chứng tỏ anh nhận định đúng đắn về hoàn cảnh và tình trạng của mình. Anh là một kẻ tội lỗi, nhưng anh nhìn nhận như thế; anh biết mình không xứng đáng được tha thứ, bởi vì muốn được tha thì phải bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là bỏ nghề, và phải đền bù (số tiền đã lấy cộng thêm một phần năm); mà làm sao có thể biết những ai là nạn nhân của anh để đền bù. Do đó, tình trạng của anh là vô vọng. Tuy nhiên anh biết là Thiên Chúa có thể cứu anh khỏi tình cảnh vô vọng này, Ngài có thể tha thứ cho anh, nên anh cứ kêu cầu. Chính vì thế, anh lại tìm được tình trạng công chính trước mắt Thiên Chúa: anh ta được Thiên Chúa tha thứ. Trong khi đó, người Pharisêu nghĩ rằng tự mình đã đạt được sự công chính, vì ông vẫn tránh trộm cắp, ngoại tình, làm điều gian ác, và lại còn ăn chay và cúng dâng cho nhà Chúa. Nhưng Đức Giêsu cho biết: trước mắt người đương thời, ông này chẳng phải là “người thu thuế” hay kẻ “tội lỗi”, nhưng ông không tìm được tình trạng “công chính trước mắt Thiên Chúa”, vì ông tự mãn.
Bài dụ ngôn nhắc lại phản ứng của Đức Giêsu đối với hai kiểu đạo đức, nhưng cũng cho một ví dụ về cách Người khẳng định thái độ đối với người Pharisêu và người thu thuế trong xã hội Paléttina đương thời (x. 5,20-32; 7,36-50).
* Kết luận khuyến thiện (14b)
Kết luận đã có ở 14,11, cho thấy rõ rằng dụ ngôn không chỉ được ngỏ với những người đương thời Đức Giêsu, nhưng còn cho các môn đệ Đức Giêsu (các Kitô hữu) nói chung.
Bản văn cung cấp nhiều gợi ý phong phú do sự tương phản giữa hai nhân vật, hai thái độ ở trong Đền Thờ, và do những lời hai người thưa gửi với Thiên Chúa. Chúng ta chẳng bao giờ biết được người Pharisêu đã phạm tội gì hoặc người thu thuế đã đền bù được gì. Đức Giêsu đã để chuyện ấy lại cho phán xét của Thiên Chúa (hoặc cho trí tưởng tượng của độc giả). Người chỉ tuyên bố rằng một người thì được nên công chính dưới mắt Thiên Chúa, còn người kia thì không. Và độc giả hiểu được lý do: người ta không đạt được sự công chính do tự hào hoặc thậm chí do sinh hoạt theo kiểu tự tin vào bản thân hay làm việc thiện khi tuân giữ Luật Môsê và các quy tắc Pharisêu, mà là do biết nhìn nhận bản thân dưới mắt Thiên Chúa.
+ Kết luận
Có những nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu muốn ban một giáo huấn về việc cầu nguyện, hoặc về sự khiêm nhường, hay về việc cầu nguyện khiêm tốn. Trong thực tế, ta có thể theo ý kiến của đa số mà cho rằng Đức Giêsu ban một giáo huấn về hai kiểu sống nội tâm.
Cách thức chúng ta hành động và chịu đựng, hoàn cảnh trong đó chúng ta được đặt vào hoặc trong đó chúng ta rơi nào, có một tầm mức đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, quan trọng hơn, đó là cách thức chúng ta nhìn và sống những điều ấy trước nhan Thiên Chúa. Đức Giêsu diễn tả minh bạch điều này qua lời cầu nguyện của người Pharisêu và người thu tuế. Cả hai trình diện trước nhan Thiên Chúa và đưa đến cho Ngài hoàn cảnh trong đó họ đang sống. Bản thân họ, các cách họ sống và các lời họ cầu nguyện khó mà có thể được giới thiệu trong thế mâu thuẫn sâu sắc hơn được nữa. Đức Giêsu tuyên bố dứt khoát về cách Thiên Chúa theo đó mà đánh giá lối sống của họ, và như thế, Ngài đã cho biết đâu là cách xử sự đúng đắn trước mặt Thiên Chúa.
Gợi ý suy niệm
Độc giả hiện đại có thể nghĩ rằng ít ra người Pharisêu cũng lương thiện với chính mình, vì tuy ông khoe khoang trước mặt Thiên Chúa, ông cũng đang cố gắng sống công chính, cố gắng giữ các điều răn, và thậm chí còn làm hơn thế nữa, trong khi người thu thuế dường như chẳng hề cố gắng gì hay cố gắng không bao nhiêu. Do đó, độc giả hôm nay khó mà tự đồng hóa với người thu thuế. Tuy nhiên, lý luận như thế là ép bản văn quá ý hướng của nó. Bản văn chỉ muốn nêu ra một khía cạnh là sự khoe khoang và kích thích độc giả suy nghĩ thêm; nhưng phần suy nghĩ thêm không được che mất điểm chính của sứ điệp.
Thật đáng khen khi ta biết tránh những điều xấu và làm những điều tốt. Cũng thật đáng khen khi biết cám ơn Thiên Chúa về những ân huệ Ngài ban. Chúng ta sẽ không bao giờ cám ơn Thiên Chúa cho đủ được. Do đó, cần coi chừng khuynh hướng pharisêu: coi những điều mình đã làm được như là những công trạng riêng, chứ không phải là những ơn Chúa; coi những việc đó như một điểm tựa cho phép mình được đánh giá mình cao hơn và từ đó, nhìn xuống kẻ khác với ánh mắt khinh bỉ. Những người Pharisêu hôm nay đang khẳng định: “Tôi không giết ai cả; tôi chẳng ăn cắp của gì của ai; tôi không hề ngoại tình. Tôi có gì phải trách mình đâu? Tôi có cần gì đến bí tích hòa giải? Mọi sự nơi tôi đều phải phép mà! Thiên Chúa cũng như người ta phải bằng lòng về tôi thôi, cũng như tôi vẫn đang bằng lòng về tôi đây này!”. Nhưng khi nói như thế, người này không thấy rằng Thiên Chúa không những cấm làm những điều tồi tệ như ngoại tình, giết người và trộm cắp, nhưng còn truyền người ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau như chính mình. Như thế, ai còn có thể bằng lòng về mình?
Đứng trước lệnh truyền yêu thương, chúng ta phải thường xuyên suy nghĩ, nhìn nhận những thiếu sót của mình và bắt đầu lại không ngừng, với lòng tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Điểm khởi hành của người Pharisêu thì tốt. Nhưng chính những điều ông làm là tốt đã đẩy ông đến chỗ chắc chắn về mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa, nên ông đã tỏ ra ngạo mạn đối với người thân cận; ông trở nên mù quáng và tự mãn, nên thành thiếu sót đối với những bổn phận lớn hơn.
Hôm nay chúng ta cũng có dịp xét lại cách thức chúng ta cầu nguyện. Chúng ta có thể tự hỏi về những thái độ chúng ta thường có khi cầu nguyện. Phải chăng đó là những thái độ hướng chiều về sự tự phụ, tự mãn, hoặc nghi kỵ đối với Thiên Chúa? Chúng ta có thẳng thắn và khiêm nhường trình bày hoàn cảnh của mình trước nhan Thiên Chúa chăng, hay là chúng ta không màng thưa chuyện với Ngài, lấy cớ là không nên quấy rầy Thiên Chúa?
Cuối cùng, một hệ luận có thể rút ra là: Ai đã làm được những điều đúng đắn, thì cũng đừng sao nhãng những bổn phận lớn hơn khi tỏ ra tự phụ, ngạo mạn khinh bạc hoặc đi theo sự mù quáng của mình. Còn ai thấy mình còn trĩu nặng tội lỗi, thì đừng coi thường hoặc thất vọng, nhưng cứ tin tưởng quay về với Thiên Chúa, vì Ngài không bao giờ từ chối tha thứ cho ai khiêm tốn xin Ngài ban cho.
Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy việc cầu nguyện không phải là một sinh hoạt phụ thuộc, bên lề cuộc sống của một con người, nhưng lời cầu nguyện của một người chịu ảnh hưởng của lối sống tổng quát của người ấy. Như thế, lời giáo huấn về cách cầu nguyện đúng đắn trở thành lời giáo huấn về cách cư xử đúng đắn.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN ĐÍCH THỰC– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.
Hc 35: 15b-17, 20-22a
Bài Đọc I, trích từ tác phẩm Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những kẻ nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.
2Tm 4: 6-8, 16-18
Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là tán dương Thiên Chúa.
Lc 18: 9-14
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)
Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những đòi hỏi luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) phải được xem cũng đòi buộc như những tuân giữ Lề Luật. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.
Phụng tự làm đẹp lòng Thiên Chúa:
Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc tế tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận: “Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa, chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3) hay “Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu. Đừng ỷ vào hy lễ bất chính. Vì Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).
Lời cầu nguyện của người khiêm hạ:
Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ: “Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng. Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn, chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).
Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập khuôn theo truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của ông; ông ca tụng lời cầu nguyện hết lời; ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác một lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan.
Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.
BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)
Đoạn cuối thư thứ hai gởi cho ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.
Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng chịu thương chịu khó của mình cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.
Hiến Lễ:
Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của ngài sẽ đổ ra làm rượu tế.
Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành riêng cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).
Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhũ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhũ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).
Bài ca khải hoàn:
Phúc tử đạo này thánh Phao-lô chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ thánh nhân phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.
Tâm tình cảm tạ và tri ân:
Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.
TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)
Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẻo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc; còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.
Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái giáo trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông vì họ tự mãn về kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần rộng mở đối với đạo lý, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã nẩy sinh thiện cảm đối với Đức Giê-su khi mời Ngài đến dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố, khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).
Lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu:
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác…Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu nhóm Pha-ri-sêu, những người tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và được người khác xem là những người đạo đức.
Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của ngài: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).
Lời cầu nguyện của người thu thuế:
Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.
Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ võn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.
Lời kết:
“Vì phàm ai tôn vinh mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Lời kết này đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng Lu-ca, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat): “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không không phải vì làm những gì Luật dạy (Rm 3: 28). Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẫn mực đạo đức so với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mõng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
————————————————————–
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
XIN THƯƠNG XÓT CON– ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn.
Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?
2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?
3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Chúa đón nhận lời cầu nguyện khiêm nhường của người nghèo khổ
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Chúa không nhậm lời cầu nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
Gợi ý sám hối:
Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
Như người thu thuế, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
Lời Chúa
Bài đọc I (Hc 35, 12-14. 16-18)
“Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn”. Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.
Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
Tin Mừng (Lc 18, 9-14)
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống:
– Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
– Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
Bài đọc II (2 Tm 4, 6-8. 16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết:
+ Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.
+ Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
+ Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
Gợi ý giảng
* Tội và thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế: hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v. v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội của người khác! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là “Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con”
Thực ra người biệt phái cũng có tội: tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác… Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán người biệt phái vì: a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội; b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình; d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người thu thuế vì: a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
“Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh” (Yiddish).
Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội Do Thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha: theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5. . .
Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng: nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 (“Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa”). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu “Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói: “Ta nói cho các ông biết: người này khi trở về thì đã nên công chính rồi”.
Lòng trí hướng về ai?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt phái hướng về ai?
Trước hết là hướng về người khác: “Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”
Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”
Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua!
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái: khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
Ai là người công chính?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
– Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
*
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: “Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia” (Lc, 8, 11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3, 9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).
*
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen. (TP)
Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ: tội lỗi mà đến nhà thờ làm chi? Chỉ là giả hình! Nhà thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không!
Chúng ta đến nhà thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Tin tưởng vào lòng từ bi của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn mời gọi con cái mình tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa là Đấng hay thương xót và thứ tha.
- Hiện nay / nạn kỳ thị chủng tộc / khinh dể những sắc tộc yếu kém hơn mình / thanh lọc sắc tộc bằng các cuộc chiến tranh diệt chủng / vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / thấm nhập và tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
- Tự cho mình là thánh thiện và coi thường người khác / là thái độ kiêu căng đáng ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi của mình / để đừng bao giờ kết án hay khinh khi anh chị em của mình.
- Cầu nguyện trong khiêm tốn là điều mà mỗi Kitô hữu cần ghi lòng tạc dạ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thân thưa cùng Chúa / Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm tốn và ghét kẻ kiêu căng. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, Con Chúa là Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện với lòng tin tưởng, biết ơn và kiên trì. Chúa nhật này Ngài còn tiếp tục dạy các ông phải cầu nguyện trong tinh thần khiêm nhường và thống hối, vì Thiên Chúa luôn tỏ ra thương yêu những người công chính và nghèo hèn bé mọn. Để nói lên tư tưởng ấy, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện.
Trong khi cầu nguyện hai người có hai thái độ khác nhau và trái ngược nhau. Người biệt phái tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ơn cứu chuộc, lại còn tỏ ra khinh miệt người thu thuế tội lỗi nữa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của tâm hồn ông đã làm đẹp lòng Chúa. Lời cầu nguyện khiêm nhường của ông làm cho ông nhận được ơn tha thứ.
Qua dụ ngôn này, ta nhận thấy, mặc dù người biệt phái này thích khoe khoang những công đức của mình, lại còn khinh dể người khác, nhưng cái sai trái lớn của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Còn người thu thuế nhận thấy mình thiếu thốn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa, kêu xin với lòng khiêm nhường, ông đã được Chúa nhận lời ban ơn tha thứ. Đúng là :
Muôn đời Chúa cự kiêu căng,
Và người khiêm nhượng Chúa hằng ban ơn. (Gc 4,6)
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 35,15b-17.20-22a.
Chúa nhận lời kêu xin của kẻ nghèo hèn. Đây là chủ đề của đoạn sách Huấn ca này. Trong một xã hội, tiền bạc và quyền lực là tất cả, “dân nghèo” không có cơ may. Nhưng bài đọc 1 hôm nay khẳng định Thiên Chúa đối xử tử tế với hết mọi người. Ngài không thiên vị người giầu có và quyền thế. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện khiêm nhường của người công chính và bé mọn, vì Ngài là thẩm phán công minh và là người Cha nhân hậu.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 4,6-8.16-18.
Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma. Ngài biết cuộc đời của mình sắp được kết liễu. Trong thư gửi cho Timôthêô, Ngài đã nói lên những suy nghĩ rất lạc quan :
– Ngài sung sướng vì mình như một vận động viên sắp về tới đích vì ngài đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin mừng.
– Ngài cảm tạ Chúa vì đã ban sức mạnh cho ngài được vượt qua những gian lao thử thách phải chịu. Ngài còn nôn nóng mong chờ ngày ngài được gặp lại Đấng mà ngài đã dành trọn cuộc đời mà phục vụ.
– Cái chết của ngài sẽ là một lễ tế dâng cho Chúa và ngài đón chờ vinh quang Chúa sắp ban cho ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 18,9-14.
Bài Tin mừng đưa ra hai mẫu người đối lập nhau về thái độ sống :
- a) Người biệt phái : Ông này tự mãn khoe khoang những việc tốt của mình : không có tội gì cả, lại còn ăn chay, dâng cúng 1/10 lợi tức cho Chúa… Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ta ơn cứu chuộc. Thực ra, ông ta không có lòng yêu Chúa, chỉ khoe khoang công lênh của mình và Chúa phải yêu thương cũng như ban thưởng cho ông.
- b) Người thu thuế : Người này cũng chẳng có gì để khoe khoang, anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Anh biết anh chỉ là một tội nhân, vì thế anh phó thác mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Anh chỉ nói ít lời :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Thái độ khiêm nhường của anh làm đẹp lòng Chúa và được nhận lời.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai hạ mình xuống ?
DỤ NGÔN NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ.
Hai mẫu người trái ngược nhau.
Dụ ngôn nói về người biệt phái và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện : thái độ của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của chính mình; còn thái độ của người thu thuế, tuy là một tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Kết quả : một người bị từ chối, một người được chấp nhận. Dụ ngôn này nêu lên hai nhân vật đặc biệt có tính cách tương phản để nói lên hai thái độ khác biệt khi cầu nguyện.
a) Người biệt phái.
Biệt phái thuộc nhóm Pharisêu, bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidin) có từ thời Maccabê. Những người này sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ để nên thánh. Họ chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Họ tin linh hồn bất tử, tin có sự sống lại, tin Thiên Chúa là Đấng thông suốt duy nhất. Nhưng họ lại quá bảo thủ những tập tục truyền thống của cha ông hơn cả Thánh Kinh. Họ thi hành luật quá đến câu nệ vào hình thức, giữ từng nét, mà thiếu hẳn Đức Ai. Đức Kitô đã không tiếc lời phê phán họ (Mt 23,13t; Lc 11,39; Mc 12,38t).
b) Người thu thuế.
Họ là những người cộng tác với đế quốc Rôma, thu thuế của người Do thái nộp cho người Rôma. Họ thường hà khắc để thủ lợi, để làm giầu cho bản thân mình. Hạng người này bị người Do thái căm ghét, khinh bỉ, coi họ là những tội nhân ngang hàng với gái điếm, cần phải tránh xa.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện.
a) Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ là nơi cầu nguyện, có tầm quan trọng đối với người Do thái. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào những ngày sabát, ngày lễ, ngày chay để nghe Thánh Kinh, hát thánh vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên, mỗi người cũng có thể đến đó vào những lúc khác.
Có lẽ người biệt phái và người thu thuế đã lên Đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong Đền thờ.
b) Người biệt phái cầu nguyện.
Người biệt phái đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế cuả họ. Ông đứng thẳng người giống người Do thái quen làm khi cầu nguyện.
Lời nguyện của người biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm và cuối cùng là bản báo cáo thành tích vẻ vang của ông : chẳng những ông đã làm các việc đạo đức như Luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp 1/10 lợi tức cho Đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho Đền thờ 1/10 tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng.
Xét ra, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Ông thật là con người đúng mức, một con người hoàn hảo, không có gì đáng chê trách, một tín đồ trung thành với Lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Chúng ta thấy ông không xin gì cho bản thân mình, nhưng chỉ là lời tạ ơn.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự kiêu tự mãn nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bèo bọt của mình mà trôi ra sông biển hết, lại còn có thái độ khinh bỉ người khác nữa :”Vì con không như bao người khác : tham lam , bất chính, ngọai tình, hoặc như tên thu thuế kia”(Lc 18.11). Nếu ông biết nhìn vào mình và đối chiếu với Đức Kitô thì ông không dám có thái độ ấy.
Còn một cái sai lầm nữa của ông là ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
c) Người thu thuế cầu nguyện.
Người thu thuế cũng đến Đền thờ cầu nguyện. Anh ý thức rằng mình làm cái nghề không tốt đẹp, ai cũng ghét, bị cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh tự cho mình là một tội nhân, ngang hàng với gái điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người biệt phái (“hay như người thu thuế kia”), nên anh khỏi cần cáo tội mình, anh chỉ đặt mình trước mặt Thiên Chúa, cúi đầu xuống, đấm ngực ăn năn :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng. Ngay lúc đó, anh đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho anh nên công chính.
d) Kết quả sau lời cầu nguyện.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người biệt phái và thu thuế, thì Đức Giêsu đã phê cho một câu :”Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14). Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người thu thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người biệt phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ. Người biệt phái này tuy tốt về phương diện không sai lỗi luật, nhưng ông không nhận ra rằng những ân tứ ông đang có là do Chúa ban cho chứ không phải tự ông mà có. Cái sai lầm của ông ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban, nên ông đã tự mãn về sự công chính của ông.
Chúa đã tha thứ cho người thu thuế, còn người biệt phái thì không “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 18,14). Người ta thường nói :”Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại không sao ? Nhiều lần, Đức Giêsu bày tỏ cho chúng ta biết : Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15).
THÁI ĐỘ PHẢI CÓ KHI CẦU NGUYỆN.
Phải thống hối.
Trong khi cầu nguyện chúng ta phải làm 4 việc : thờ lạy, cám ơn, xin ơn và thống hối. Ta thường quên việc sau cùng này, nên hay đến với Chúa với tâm tình của người biệt phái. Trái lại, người thu thuế thì nhìn rõ trình trạng tội lỗi, bê bối của mình. Anh ta không quan tâm cái gì khác ngoài việc thấy rõ khoảng cách giữa tình trạng xấu xa với tình trạng lành thánh. Dù biết vậy, nhưng anh ta vẫn cố gắng kiên trì vươn lên, đồng thời chỉ còn biết van nài lòng thương xót của Chúa giúp sức mà thôi. Chính thái độ và cung cách đó của anh ta, lại được Chúa tha thứ và thương yêu. Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm cho cuộc sống mới.
Truyện : Qủi không sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:”Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào”! Chúa liền hỏi nó rằng:”Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng”? Bấy giờ tên quỉ mới đáp:”Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và con ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao” ? Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:”Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa”? Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng :”Ma qủi chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa.
Cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô:”Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là tôi được giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cầu nguyện còn là mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại :”Người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng:”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ có tội, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
Cầu nguyện không chỉ là tạ ơn.
Xem thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ta thấy ông ta rất tự hào và tự mãn. Ông ta đem cái kho công nghiệp của ông để trình bầy cho Chúa. Nhưng khốn nỗi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, không như người khác. Rốt cuộc, ông biệt phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói :”Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Ông biệt phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người biệt phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
Cầu nguyện với thái độ khiêm nhường.
Tục ngữ ta có câu :”Cái thùng trỗng thì kêu to” hoặc “Biết ít thì khoe khoang, biết nhiều thì khiêm tốn”. Thêm một danh nhân có nói đại ý : người khiêm tốn là người sáng suốt vì biết mình và biết người, còn người kiêu căng thì ngược lại… Vũ trụ thế giới có biết bao điều kỳ lạ. Càng sống, càng học ta phải nhận ra mình còn “dốt”, vì hiểu biết thì hạn hẹp, so với cả thế giới thì chẳng nghĩa lý gì. Huống chi là dám kể công với Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ muôn vật thì quả là một sai lầm biết bao !
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng. Sau nữa, khi cầu nguyện ta không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Ta phải luôn nhớ rằng ta thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Thiên Chúa đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho. Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ qùi xuống bằng đầu gối, mới vào được.
Truyện : Hãy qùi gối xuống.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói :
– Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói :
– Ông phải qùi xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải qùi gối xuống mà van xin.
KHIÊM NHƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY.
Nết xấu hàng đầu : Kiêu ngạo.
Trong kinh bảy mối tội đầu, ta đọc thấy ngay : Cải tội bảy mối có bảy đức, thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Qua đó ta thấy kiêu ngạo là nết xấu làm đầu mà không ai tránh được, kẻ nhiều người ít vì nó đã thâm căn cố đế vào trong con người ta.
Liền sau khi con người phản bội, Thiên Chúa hiện đến chỉ vào mặt :
– Hỡi người, hãy nhớ mình xuất thân là một hạt bụi (St 11,19). Đã là một hạt bụi thì chớ nên tự cao tự đại.
Thế nhưng, người đời mấy ai còn nhớ tới lời dặn bảo của Thiên Chúa !
Tính kiêu căng rõ là một chứng bệnh gia truyền nan trị. Nó nan trị vì nó bắt nguồn từ tính TỰ ÁI.
Tự ái, ích kỷ, ngu muội, là ba chứng bệnh nguy hiểm mà nhà Phật gọi là Tham, Sân, Si.
THAM là vì ích kỷ.
SÂN là vì tự ái.
SI vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói :”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Nếu nói rằng kiêu ngạo có nguy hiểm gì đâu, làm gì bằng tội giết người ? Nhưng thực sự nó nguy hiểm nhất trong các tội, vì nó làm hỏng các tính tốt và làm phát sinh ra các tính xấu khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm, thay thế cho Thiên Chúa. Họ quay ra thờ ngẫu thần : đó là họ tôn thờ chính mình. Họ không coi Chúa là trung tâm điểm nữa. Tha nhân không là gì khác mà chỉ là những diễn viên trong một vở kịch, mọi người phải lo phục vụ cho riêng họ. Họ trở nên tự tôn tự đại, muốn cho mọi người để ý đến mình, họ tự tạo ra những hàng rào ngăn cách, tạo ra giai cấp, những chênh lệch trong xã hội, tạo ra xung khắc giữa người này người khác, dân này với dân khác, nước này với nước khác, kỳ thị da trắng da đen…
Họ coi thế giới như là của riêng mình. Mình có thể dùng khoa học để điều khiển được tất cả theo ý mình. Con người có thể tự tạo ra được hạnh phúc, biến thế giới này thành thiên đàng. Họ loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài để thành lập một thứ tôn giáo mới, trong đó con người được tôn thờ chứ không phải là Thiên Chúa nữa.
Tính tốt hàng đầu : Khiêm nhường.
Ai cũng thích người khiêm nhường, ai cũng ca tụng đức khiêm nhường, nhưng ít người thực hiện được đức khiêm nhường, thậm chí lại có người đả kích tính khiêm nhường. Môn phái của triết gia Nietzsche nói thẳng thừng:”Khiêm nhường là đức tính của kẻ nô lệ”.
Sự thật thì Khiêm nhường tức là hiểu biết mình, là can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ mình, và sợ mình hơn hết. Kẻ mà tôi tìm cách tránh né nhất là … chính mình tôi. Cần phải là người quân tử mới dám đối thoại với mình. Cuộc đối thoại với chính mình là cuộc đối thoại hồi hộp nhất, dễ sợ nhất. Nhiều lúc bi đát, đắng cay, xỉ nhục vô cùng cho tính tự ái. Nhưng tôi cần nó để tự giác và sống làm người.
Đức Khổng Tử đã nói:”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri tức tri dã” : Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy.
Người ta thường nói :”Cao nhân tức hữu cao nhân trị” hay “Bảy mươi còn học bảy mốt”, đã cho thấy rằng dù ta có giỏi đến đâu cũng có người giỏi hơn. Ta phải tự thấy rằng mình chưa biết, trình độ mình còn kém thì ta mới có thể thâu nhận những lời dạy bảo của người khác, có như thế ta mới tiến bộ và có thể hiểu biết mình nhiều hơn được. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói rất đúng:”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nói như thế có vẻ cường điệu, nhưng nó nói lên sự hiểu biết hạn hẹp của con người đối với ngoại vật, nhất là đối với chính mình.
Tâm tính người đời bất cứ ai làm việc gì thường muốn như ngọn hải đăng, càng đặt lên cao, càng chiếu rọi ra xa, nhưng đồng thời chung quanh dưới chân hải đăng tối tăm mờ mịt. Vì thế, một vị Linh mục dòng Tên nói:”Đức khiêm nhường của người công giáo không phải là ngọn hải đăng, nhưng là một ngọn đèn giấu kín giữa bản thân, nó có sức chiếu sáng khắp cùng thân thể, thấu ra bên ngoài, không nơi nào không có ánh sáng”.
Theo tâm lý chung của con người, thì người ta thích là con công hay múa hơn là một con sò im lìm dưới đáy biển. Con công có bộ lông thật đẹp để làm cảnh cho thiên hạ. Suốt ngày con công chỉ biết múa để mua vui cho thiên hạ :
Con công hay múa,
Nó múa làm sao ?
Nó rụt cổ vào,
Nó xòe cánh ra…
Con công chỉ có một công dụng là múa để làm trò cho thiên hạ, ngoài ra không dùng vào được việc gì. Trái lại, con sò tuy im lìm sống dưới đáy biển, không mấy người trông thấy nó, nhất là không bao giờ trông thấy diện mạo cuả nó, nhưng thịt của nó là một món ăn tốt, thơm ngon. Nhất là… đôi khi nó ngậm một hòn ngọc trai ! Con sò mà ngậm hạt trai thì quí hóa biết bao, bao nhiêu con công cũng không sánh kịp.
Đức Hồng y Mercier kể : Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch tôi vui mừng bắt tay và nói: : “Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân lọai”. Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói :”Thưa Đức Hồng y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa”.
Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau:”Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó”. Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường , cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng:”Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”. Còn khi ngài nghe nói : Ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui suớng và biết ơn.
Đức Khiêm nhường cần thiết.
Khiêm nhường là nhân đức quan trọng nhất trong việc nên thánh. Người ta coi khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ nên có giá trị khi đứng chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị : càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
————————————————————
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGƯỜI PHARISÊU VÀ NGƯỜI THU THUẾ– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta : một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người ” tốt “, không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng “cho những ai hay tự hào mình là người công chính.” (x.Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa” ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát : “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. ” (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: “Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con.” Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần! “
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: “Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin. “
Một kết luận thực tế : Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
VỖ NGỰC – ĐẤM NGỰC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa. Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa. Ông Pharisêu đứng thẳng ngước cao vỗ ngực kể công và chê bai người khác. Người thu thuế đấm ngực và nguyện thầm: “Xin thương xót vì con đầy tội lỗi!”.
Vỗ Ngực
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện : Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân : Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình, tự “vỗ ngực xưng tên”. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.
Đấm Ngực
Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin : Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng : dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.
Khiêm Nhường
Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.
Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.
Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.
Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói : Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.
Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.
Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta ! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).
Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844), nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói : tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói : Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.
Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi : không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái ? Tôi hướng tới xác tín rằng : các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa ! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “ Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy :“Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn đấm ngực nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
——————————————————–
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TIN MỪNG CHO KẺ KHỐN CÙNG- Trích Logos Năm C
Sứ điệp lời Chúa hôm nay chính là Tin Mừng Cho Kẻ Khốn Cùng. Người thu thuế tội lỗi, kẻ khốn cùng trong dụ ngôn Tin Mừng, cuối cùng, lại là người được Chúa đoái thương ban ơn cứu độ. Ngược với ông thu thuế là vị biệt phái đáng kính lại trở nên kẻ mất ơn cứu độ. Vì sao vậy?
Khách quan mà nói
Người biệt phái có đời sống xem ra đạo đức hơn người thu thuế. Người biệt phái có công với dân tộc. Họ can đảm duy trì căn tính dân tộc và tôn giáo cha ông để lại. Có thể nói, về mặt tinh thần, họ là nhưng anh hùng kháng chiến giữ cho dân tộc Do Thái không bị biến chất trước thế lực của ngoại bang đang đô hộ đất nước. Về mặt giữ đạo truyền thống, họ là người gương mẫu trong hình thức: hằng tuần vào ngày Thứ Hai và ngày Thứ Năm họ giữ chay nghiêm ngặt; họ đóng góp 1/10 lợi tức cho đền thờ gọi là thuế thập phân (cf Lc 27, 30; Đnl 14, 22). Họ giữ lề luật một cách khắt khe còn hơn cả mức độ lề luật đòi hỏi!Người thu thuế có thể nói là hạng Do Thái gian. Những người này đã tiếp tay với đế quốc La mã để bắt thuế dân mình. Họ thu hơn chỉ tiêu phải nộp và phần dư thuộc về họ! Do vậy, những kẻ làm nghề thu thuế xưa đều là những người giầu có: giầu trên xương máu, mồ hôi của đồng bào. Xã hội coi họ tương đương với phường trộm cắp, “ăn cướp hợp pháp”!Tiếc thay cho người biệt phái.
Tiếc thay cho người biệt phái
Tiếc thay cho người biệt phái vì không đứng đúng vị trí của mình khi đến với Chúa. Việc giữ đạo xem ra nghiêm túc nơi ông đã trở nên cái bẫy cho ông. Nó là nguyên nhân dẫn ông tới thái độ tự phụ. Nó làm ông không còn sáng suốt nhận ra vị trí đúng đắn của mình khi đứng trước Thiên Chúa chí thánh. Ông ảo tưởng về mình. Ông thấy mình thánh thiện trọn hảo. Ông khoe công đức của ông trước Chúa. Ông khinh thiên hạ chẳng “đạo đức” bằng ông. Trong tâm trạng tự phụ ấy, đầu óc ông không còn chỗ cho tâm tình xin ơn tha thứ. Ông tự làm phá sản đời sống thiêng liêng! Lòng kẻ kiêu ngạo như ly nước đầy tràn chẳng còn chỗ cho Thiên Chúa đổ ơn vào! Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.
May thay cho người thu thuế
May thay cho người thu thuế! Dù đời sống ông rất tệ nhưng may mắn cho ông vì ông đã nhận ra tình trạng khốn nạn của mình. May mắn hơn nữa, ông không mặc cảm và tìm cách tránh xa Chúa. Như con bệnh đi đúng địa chỉ tới thầy hay thuốc tốt, ông đã đến với Chúa trong thái độ khiêm tốn xét mình, thành tâm ăn năn, tin tưởng vào lòng khoan dung vô bờ của Chúa và chờ Chúa chữa lành thương tật thiêng liêng cho ông. Người thu thuế đã không lầm. Thiên Chúa rất ghét tội nhưng không ghét tội nhân. Chúa luôn đi tìm tội nhân (cf Mt 18, 12). Chúa luôn chờ đợi tội nhân (cf Lc 13, 6-9). Chúa vui lòng thấy tội nhân đến với Chúa (cf Mt 9, 9-13). Thái độ hạ mình xuống như chiếc chìa khoá mở cửa lòng thương xót của Thiên Chúa. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
May mắn thay cho chúng ta
May mắn cho chúng ta vì tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa trước sau như một. Thiên Chúa không xét theo dáng vẻ bề ngoài như con người vẫn đánh giá nhau. Chúa loại trừ bảy người con tuấn tú, cao ráo, chững chạc để chọn người con út Đavit của gia đình Isai làm vua thay thế Saulê. Chúa đón nhận cả người nghèo, người cùng đinh, người yếu đuối, kẻ bị ruồng bỏ… chỉ cần họ tin Chúa. Anh mù Bartimê bị thiên hạ chửi mắng lại được Chúa gọi đến ban ơn. Chúa lắng nghe người kiên trì cậy trông Chúa. Lời nói của kẻ vô danh tiểu tốt, của người nghèo… chẳng ai thèm nghe lại có sức xuyên qua ngàn mây thẳm thấu tới toà Chúa cao sang!
Do vậy
Thái độ mặc cảm tự ti trước Chúa là một sai lầm. Giuđa Iscariôt đã sai lầm khi thất vọng không tin Chúa có thể tha thứ cho ông. Khiêm tốn, tin cậy tín thác vào Chúa là thái độ khôn ngoan đúng đắn hợp với ơn cứu độ. Phêrô đã xử sự khôn ngoan sau khi lỗi lầm khi khóc lóc ăn năn.Loài người đừng dại dột đòi Chúa ban ơn theo công trạng của mình. Dùng đôi tay nhỏ bé của con người mà nhận ơn Chúa thì được ít hơn là nhờ bàn tay quảng đại của Chúa đong ơn lành cho ta.
Một em bé nghèo đứng trước cửa hàng bánh kẹo thèm thuồng nuốt nước miếng. Ông chủ cửa tiệm tốt bụng biết hoàn cảnh của em nên nói với em: “Ta cho con bốc một vốc kẹo nào con thích!” Em bé vui mừng thò tay vào lọ kẹo em cho là ngon nhất. Nhưng tức khắc em rụt tay lại. “Sao con không bốc? Ta cho con thật mà?” ông chủ ngạc nhiên hỏi em bé. Em giải thích: “ Thưa ông, con nghĩ là tay ông to hơn tay của con!”
Trên đời này,chẳng có ai thực sự khốn cùng nếu còn lòng khiêm tốn phó thác cậy trông vào Chúa.
——————————————– ——
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN C
MỘT LỜI CẦU NGUYỆN ĐẸP- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Cầu nguyện luôn là điều không thể thiếu nếu chúng ta muốn được tăng trưởng trong đời sống tâm linh. Chính vì thế, tiếp theo lời kêu gọi hãy kiên trì cầu nguyện trong Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong tinh thần khiêm tốn để nhờ đó, chúng ta xứng đáng đón nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa:
Bài Tin mừng kể lại câu chuyện có hai người lên Đền thờ để cầu nguyện, hay đúng hơn, luôn có hai hạng người cầu nguyện trong Đền thờ. Trước hết là “những người tự hào mình là công chính”. Những người này bước vào Đền thờ “đứng thẳng, (và) cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia”. Lời đầu tiên của ông ta là lời cảm tạ Thiên Chúa thì quả là đúng đắn, bởi vì mọi sự chúng ta có đều là do Chúa ban. Tuy nhiên, liền sau đó ông ta liền làm một bản so sánh mình với người khác. Và để có thể làm nổi bật mình lên, ông ta đã nêu lên những lầm lỗi của người khác. Thậm chí, ông ta còn chỉ đích danh một người đang cùng cầu nguyện trong Đền thờ với ông “tên thu thuế kia”. Và hình như chưa lấy thế làm đủ, ông ta bắt đầu kể ra một loạt những việc đạo đức mà ông ta đã làm: “tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”.
Với “bản thành tích” này, với cái nhìn tự nhiên, chúng ta có thể nhận thấy: người Biệt phái này quá hoàn hảo. Chẳng những ông ta trung thành giữ những điều luật dạy, mà còn làm quá những điều luật dạy “ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng 1/10 tất cả hoa lợi”. Vâng, ông ta chẳng làm gì sai, nhưng có lẽ động lực thúc đẩy ông ta làm những việc này chưa đúng. Ông ta thực hiện không phải vì lòng mến Chúa, nhưng là để kể công. Ông ta cần một “giấy chứng nhận”, một “Bằng khen” của mọi người. Ông ta đã giữ luật thật nghiêm ngặt, tỉ mỉ không phải vì lòng mến Chúa, nhưng ông đã làm tất cả chỉ để cho người khác thấy mà ca ngợi ông.
Chính vì chỉ nhìn mình trong tương quan với chính bản thân và so sánh với người khác, nên người biệt phái này đã không nhận ra được những giới hạn của mình. Ông nghĩ mình có thể làm được tất cả. Thiên Chúa nợ ông, cần biết ơn ông, chứ ông không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người biệt phái này đến Đền thờ chỉ để kể cho Chúa biết những việc ông đã làm, và kết án người khác, chứ ông không hề cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính vì ông không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên khi ra về ông vẫn ở trong tình trạng cũ của mình, “Tội ông không được tha”. Và thậm chí, ông ta còn phạm thêm một tội nữa, đó là tội nói hành, nói xấu người khác.
Như thế, cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Corinhtô: “Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên toà nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, những không phải cứ thế là tôi đựơc giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa” (1 Cr 4, 3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa:
Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình, nhìn ra những giới hạn và bất toàn của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại: “Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ tội lỗi, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
Thật vậy, kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta bảo các ngươi: người nầy ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”. Mặc dù thân mang nhiều tội lỗi, nhưng người thu thuế đã khiêm tốn thú nhận và xin Thiên Chúa tha thứ và Người đã tha thứ cho anh. Còn người Biệt phái không được tha tội, không phải vì Thiên Chúa không muốn tha, nhưng bởi vì ông ta đã không nhận ra tội mình, để sám hối nên Thiên Chúa không thể tha cho ông được.
Chúng ta cần đến với Chúa bằng chính con người thật của mình. Cho dù chúng ta tội lỗi, và yếu đuối đến đâu đi chăng nữa, nếu chúng ta thật lòng sám hối, trở về, thì giống như người Cha nhân hậu, Thiên Chúa sẽ mở rộng vòng tay để ôm chúng ta vào lòng và tha thứ hết mọi lỗi phạm của chúng ta. Thiên Chúa luôn yêu thương và sẵn lòng đón nhận lời cầu nguyện của những tâm hồn ý thức sự nhỏ bé của mình, đó cũng chính là cảm nghiệm của tác giả sách Huấn Ca mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ người goá bụa, khi nó tỏ lời than van. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”. Còn tác giả Thánh vịnh thì khẳng định: “Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo”, và “Phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi”. Thiên Chúa ghét tội, nhưng lại hết lòng thương xót những tội nhân. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta. Chỉ cần chúng ta thành tâm thống hối đến với Ngài, Ngài sẽ mở rộng vòng tay đón nhận và ban ơn tha thứ cho chúng ta.
Mở rộng lòng mình, khiêm tốn thú nhận tội lỗi để đến với Chúa, không những chúng ta sẽ được Ngài tha thứ, nhưng chúng ta còn được Thiên Chúa ban thưởng, cho ta được chung hưởng phần gia nghiệp đời đời với Ngài, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội lỗi của chúng ta. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong những ngày cuối đời của mình đã tâm sự với Timôthê, người môn đệ yêu dấu: “Cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính sẽ dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy”.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hai bài học:
Trước hết, trong mọi việc chúng ta hãy đặt mình trong tương quan với chính Thiên Chúa chứ không phải chỉ dựa vào xét đoán của người khác hay ý muốn của bản thân chúng ta. Chúng ta cần phục vụ cộng đoàn, tham dự phụng vụ với lòng yêu mến Thiên Chúa chứ không phải để người khác xem thấy mà ca ngợi.
Kế đến, mỗi người chúng ta cần ý thức về sự giới hạn, bất toàn của mình, và thật lòng khiêm tốn mở lòng mình ra để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Đặc biệt, hôm nay trong ngày Khánh Nhật Truyền giáo, chúng ta càng phải lưu ý hơn đến lời cầu nguyện xin Chúa ban nhiều thợ gặt đến làm việc trong đồng lúa của Ngài. Đồng thời, đây cũng là dịp để từng người chúng ta nhìn lại cách sống của mình trong đời sống hàng ngày. Phải chăng chính vì cuộc sống ích kỷ, thiếu cảm thông và đầy chia rẽ của chúng ta khiến cho nhiều người hôm nay chưa đủ can đảm đón nhận Tin mừng? Vì vậy, thay vì những lời kết án người khác, chúng ta cần thành tâm đấm ngực thú nhận với Chúa về lối sống đầy gương xấu của mình. Đồng thời, chúng ta hãy nỗ lực cố gắng cộng tác với ơn Chúa để biến đổi bản thân cho phù hợp với lời dạy của Chúa. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người đón nhận Tin mừng.
Giờ đây, mỗi người chúng ta hãy thành tâm sám hối về tất cả những lỗi lầm của mình, xin Thiên Chúa tha thứ, để chúng ta xứng đáng tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu trên bàn thờ đây. Và nhờ ơn Chúa nâng đỡ, khi trở về nhà, chúng ta cũng có một cái nhìn yêu thương và khoan dung hơn với anh chị em mình. Amen.