CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
ĐỨNG DẬY VỀ ĐI – Chú giải của Noel Quesson. 5
GẶP GỠ ĐỂ TỎ LÒNG BIẾT ƠN– Lm PX Vũ Phan Long, ofm.. 15
ĐẤNG BAN ƠN CỨU ĐỘ– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 26
ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 37
TÂM TÌNH BIẾT ƠN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 40
THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 52
HÃY CÓ LÒNG BIẾT ƠN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 68
SAO KHÔNG QUAY LẠI ĐỂ TẠ ƠN?- Jos. Vinc. Ngọc Biển. 73
LÒNG BIẾT ƠN – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 78
LÒNG BIẾT ƠN- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn 89
—————————————————————
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: 2 V 5, 14-17
“Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa”.
Bài trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông”.
Tiên tri trả lời rằng: “Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu”. Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Đáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 2, 8-13
“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Đức Kitô”.
Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Đavít, đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Đức Giêsu Kitô.
Đây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
All. All. – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! – All.
PHÚC ÂM: Lc 17, 11-19
“Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Đó là lời Chúa.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐỨNG DẬY VỀ ĐI – Chú giải của Noel Quesson
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi…
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó: Đức Giêsu… đi… lên… Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước. Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của những người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với Người Samari” (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính trong tỉnh này mà “sứ vụ Tin Mừng hóa” đã thực hiện những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những “miền Samari”.
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ “phong hủi”, trong tâm thức của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc, để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên; “ô uế! ô uế!” (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Kitô hữu Phương Đông gọi “kinh cầu Chúa Giêsu” chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng theo Luật (Lv 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp; điều này làm ông Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được sạch
Một lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh “giật gân” lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự “thanh luyện”. Lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: “Xin thương xót chúng con”. Đức Giêsu đã yêu cầu họ “trình diện với các tư tế”.
Xuyên qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa”.
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
“Vinh quang của Thiên Chúa! Hãy “cao giọng lên để” ca ngợi vinh quang của Thiên Chúa!”
“Sấp mình xuống dưới chân”! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện: Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa. Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một “Ađam”. Con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất “trước mặt Đức Giêsu”. Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa: Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu!
“Mà tạ ơn!” “eucharistôn!”, “trong khi tham dự vào Thánh Thể “…
Ngày nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, “cám ơn” thì nói “efkaristo”. Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói “tôi đến với Thánh Thể” thì một cách tự phát nghĩ rằng “tôi đến tạ ơn”… tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả, “hành động tạ ơn” Đức Giêsu khi “Người ra khỏi thế gian này để về với Chúa Cha”.
“Người cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: “này là Mình Ta, này là Máu Ta, chịu nộp vì các con”. Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài “berakha” “kinh tạ ơn”. Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con người: thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta.
Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra “đức tin”. Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các “tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ “cảm tạ” Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của Người.
—————————————————————
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ƯU TIÊN CHO VIỆC TẠ ƠN- Achille Degeest
Theo lề luật Do thái, bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là ‘ô uế’, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình thường. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi trình diện các tư tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được chữa lành vì có đức tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải chăng Người muốn gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có thể nêu ra hiểm họa tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm ghiếc nhất của tính ích kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên Chúa.
Tại sao chín kẻ phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội. Họ quan tâm trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn, hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn. Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm tình muốn tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn lên án như vậy nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu đức tin sống động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết luận: Nếu vì tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức tính tự nhiên hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm –con người lúc đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên của thánh Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của người Kitô hữu. “Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức Kitô tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức Kitô là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
GẶP GỠ ĐỂ TỎ LÒNG BIẾT ƠN– Lm PX Vũ Phan Long, ofm
NGỮ CẢNH
Với giai thoại Đức Giêsu chữa mười người phong này (17,11-19), tác giả bắt đầu phần thứ ba (17,11–18,14) của bài tường thuật hành trình lên Giêrusalem: tại c. 11a, độc giả gặp lời nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai lần trước: 9,51; 13,22). Cho dù c. 11b tạo ra một điểm khó giải thích (“thập giá của các nhà chú giải”) do có những lời quy chiếu về Samari và Galilê, độc giả vẫn không quên rằng mối bận tâm thần học của Lc là đưa Đức Giêsu về thành định mệnh, để tại đó công cuộc cứu độ loài người được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây là giai thoại chỉ có trong Tin Mừng Luca.
Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Địa điểm (17,11);
2) Đức Giêsu chữa lành mười người phong (17,12-14);
3) Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (17,15-18);
4) Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (17,19).
Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu đi qua giữa hai miền Samari và Galilê (11): “Đi qua giữa (dia meson) hai miền Samari và Galilê” có thể có nghĩa là đi trong giải đất làm thành biên giới giữa hai miền. Nếu thế, hẳn là Đức Giêsu đi theo con đường này để đến thung lũng Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống tới Giêrikhô (18,35), rồi từ đó Người sẽ đi lên Giêrusalem. Từ ngữ meson (mesos, “giữa”) được dùng ở đối-cách, thay vì thuộc-cách[1] (x. 4,30) và không có mạo từ dường như hỗ trợ cho cách giải thích này. Cả về mặt địa lý, cách giải thích này cũng chắc chắn hơn, bởi vì nếu Đức Giêsu đi về Giêrusalem, thì Người đi từ bắc xuống nam; nhưng nếu Người “đi qua Samari và Galilê” (theo một cách dịch), thì dường như Người đi từ nam lên bắc!
Phải chăng chi tiết địa lý này có một ý nghĩa thần học? Trong trường hợp này, chắc là Lc viết “đi qua Samari và Galilê”, mà mắt nhìn lui về phía sau để ngó lại đoạn đường đã đi qua. Con đường và hoạt động của Đức Giêsu luôn luôn được hướng dẫn bởi Giêrusalem, nên bây giờ Người như đứng tại Giêrusalem mà nhìn ngược lại. Ta chỉ có thể hiểu được lộ trình, cuộc tiến bước và tất cả hoạt động của Người nếu khởi đi từ Giêrusalem, nơi số phận bi thương đang chờ Người. Phần tường thuật cuộc hành trình đã bắt đầu với một sự cố nhắc đến Samari, nay Samari cũng bắt đầu chặng cuối của cuộc hành trình. Như thế, Samari là cái cầu chuyển Lời Chúa từ Galilê đến Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với Dân ngoại. Sau khi sống lại, Đức Giêsu sẽ giao cho các môn đệ sứ mạng này: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và miền Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Như thế, con đường Đức Giêsu theo hôm nay phác ra trước con đường Giáo Hội sẽ theo sau này: con đường của Giáo Hội là hoa trái của con đường Đức Giêsu.
Chúng ta ghi nhận rằng về phương diện ngữ học, cách giải thích thứ hai có thể chấp nhận được: cách dùng dia trong thể thơ với từ ngữ chỉ nơi chốn ở đối-cách, dù chỉ có ở đây trong Tân Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau này[2].
Cũng khó có thể chọn lựa dứt khoát cách giải thích nào. Theo N. Guillemette, nếu Lc đã muốn nói “ở biên giới của Samari và Galilê” như BJ (“aux confins de la Samarie et de la Galilée”) hoặc “dọc theo biên giới Samari và Galilê”, hẳn ông đã nói. Về phương diện này, dường như cách dịch của TOB (“Người đi băng qua Samari và Galilê”, “il passa à travers la Samarie et la Galilée”) tự nhiên hơn. Mặc dù cách giải thích thứ hai có thể khiến ta có ấn tượng là hơi ép về mặt thần học, nó lại hài hòa với các bận tâm thần học và địa lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi chờ đợi những khám phá mới, Guillemette nghiêng về cách giải thích này.
– mười người mắc bệnh phong (12): Rất có thể con số “mười” chỉ có nghĩa là một con số tròn.
– Hãy đi trình diện các tư tế (14): Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ cứ đi gặp các tư tế trong tình trạng bệnh tật. Người gợi đến quy tắc Lv 13,49. Các “tư tế” đây có lẽ nói chung là giới chức phục vụ thánh điện, chứ không nhất thiết là tư tế Do Thái đang làm việc tại Đền Thờ Giêrusalem hoặc tư tế Samari đang phục vụ tại Núi Garidim.
– Anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn (16): Hành vi phủ phục cho hiểu là anh ta nhìn nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Ý nghĩa của bản văn
* Địa điểm (11)
Vị trí địa lý cũng như ngôi làng đều không được xác định. Điều quan trọng là Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả Samari, là khối dân bị coi là bội giáo, và Người đã có những khám phá độc đáo.
* Đức Giêsu chữa lành mười người phong (12-14)
Vào thời Đức Giêsu, có câu tục ngữ nói rằng: “Có bốn hạng người có thể được coi như người chết, dù vẫn sống, đó là những người nghèo, người phong cùi, người mù và người không có con”. Mọi chứng bệnh đều bị coi như hình phạt của Thiên Chúa để trừng phạt tội lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi như là chính biểu tượng của tội. Người Do Thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong cùi để trừng phạt kẻ ghen tị, kiêu căng, quân trộm cướp, giết người, thề gian và loạn luân.
Hôm nay Đức Giêsu gặp mười người phong. Đôi khi số phận cướp mất sự tự do hành động của con người, buộc con người phải sống một kiểu sống rất giới hạn. Ai mắc bệnh phong là rơi vào tình trạng đó. Người ấy bị dứt khoát loại khỏi gia đình và làng quê và phải sống bên lề cộng đồng nhân loại. Người ấy chỉ được sống chung với những người cũng mắc chứng bệnh đó. Vì sợ bị lây nhiễm, xã hội bắt họ phải la to hoặc rung chuông mà báo cho biết là họ đang đến; họ sống nhờ xin bố thí, nhưng luôn phải ở cách những vùng dân cư; họ được vào một làng, nhưng không được vào một thành có tường lũy bao quanh. Như thế, vì chứng bệnh này, họ phải sống một kiếp sống thê thảm bên lề xã hội. “Mười” có thể có nghĩa là “toàn vẹn”. Như thế, “mười người phong” tượng trưng cho tình trạng tội lỗi, là biểu tượng của tội, của tình trạng bần khốn của con người, của tình trạng xa lìa Thiên Chúa và người thân cận. Đức Giêsu đã gặp mười người đúng với hoàn cảnh của họ: họ đứng đàng xa và kêu lớn tiếng xin Đức Giêsu giúp đỡ. Đáng ghi nhận là nhóm này gồm cả người Do Thái lẫn người Samari. Hẳn là bệnh tật và sự bần khốn đã giúp xóa đi những tị hiềm giữa Do Thái và Samari (x. Lc 9,53; Ga 4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa họ lại với nhau và làm cho họ thành bạn bè. Mười người phong cùi này không tách riêng nhau ra mà xin giúp đỡ từng người một; họ cùng đi với nhau mà gặp Đức Giêsu. Lời cầu xin của họ là lời thỉnh cầu của cộng đoàn: “Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (c. 13).
Trong trường hợp bà goá Nain (7,11-17) và người phụ nữ còng lưng (13,10-17), Đức Giêsu đã lấy sáng kiến, đến gần và thương xót cứu giúp các bà. Trong trường hợp những người phong này, Người lại để cho họ có sáng kiến, họ cầu khẩn Người. Người cũng chẳng đến gần họ, mà lại bảo họ đi xa Người, như thể Người muốn tránh né họ. Người phái họ đến gặp các tư tế mà bề ngoài chưa hề làm gì để chữa họ cả. Theo quy định của Cựu Ước (Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền tuyên bố về các chứng bệnh này. Các vị phải xác nhận rằng một người phong đã thật sự khỏi bệnh. Nhờ phán quyết này mà một người đã hết bệnh được tái nhập xã hội. Mười người phong này cần được chữa lành đã, thì việc họ đi trình diện các tư tế mới có ý nghĩa. Đức Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì Người đòi hỏi họ có lòng tin để hiểu rằng việc ra đi do Người truyền lệnh có một ý nghĩa và đưa đến một cùng đích. Trong khi đi đường, họ đã được khỏi bệnh.
* Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (15-18)
Cho tới lúc này, mười người phong được giới thiệu như một nhóm. Tất cả đều sống như nhau; tất cả đều sống một biến cố như nhau. Bây giờ có một người tách khỏi nhóm và quay lại với Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn? Tại sao Đức Giêsu than thở về chín người kia khi chính Người đã truyền họ đi và trình diện trước tiên với các tư tế? Phải chăng người Samari đã không vâng lời Người?
Có lẽ những người khác cũng sẽ trở lại cám ơn Đức Giêsu, nhưng lúc này họ vội vã đến gặp các tư tế vì họ muốn được tuyên bố là sạch bệnh càng sớm càng tốt và thế là bỏ được số phận bi đát. Họ mong muốn được trở vào cộng đồng nhân loại càng sớm càng tốt, như là những thành viên có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ. Họ nhìn tới tương lai, chứ không nhìn lui về Đấng đã kéo họ thoát khỏi số phận bi thương. Chỉ có một người duy nhất đã “quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Chỉ có người Samari này đã nhận ra được Đức Giêsu là ai và muốn nhìn nhận tư cách đặc biệt của Đức Giêsu như là trung gian của Thiên Chúa. Chín người kia làm các công việc theo cách quy ước và đi theo những cách hành đạo truyền thống, họ không nhận thấy là một trật tự mới đã được thiết lập. Điều này đã xảy ra cho dân Israel. Những kẻ lạc đạo, những người ngoại giáo là những người đầu tiên nhận ra rằng Đức Giêsu là Đấng trung gian đưa ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho trần gian.
* Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (19)
Người Samari này ca ngợi Thiên Chúa và cám ơn Đức Giêsu. Anh coi điều Đức Giêsu đã làm cho anh là một ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả mười người đều đã được lành. Nhưng chỉ đối với anh Samari này, cuộc chữa lành không những là dịp khôi phục sức khoẻ và đời sống chung với loài người, mà còn trở thành dịp gặp gỡ Thiên Chúa và Đức Giêsu. Chứng nan y đã đưa anh đến một tiếp xúc đầu tiên với Đức Giêsu, một cuộc gặp gỡ từ đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh không chạy xa Đức Giêsu, nhưng đã trở lại với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với lần thứ hai này, anh có thể gặp Người gần kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng thương xót anh. Không những trong tư cách là người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư cách là người có ơn ban thường trực là kinh nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh lộ trình sau này. Tất cả giai thoại kết thúc bằng câu nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
Đức Giêsu không nói: “Tôi cứu chữa anh”, mà lại nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Anh đã nhận biết hoạt động của Đức Giêsu là Đức Chúa, anh đã đón nhận, nay anh dâng trả lại cho Người. Những người khác nhận được sự chữa lành như là một món nợ được trả, họ giữ ân huệ của Thiên Chúa lại cho mình. Chỉ có anh Samari này “quay trở lại”, “hoán cải” và nhận biết rằng anh ta mắc món nợ phải trả. Vì thế, chỉ có anh này mới thật sự “được cứu”.
Bằng việc quay trở lại với Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta thấy rằng anh đã hiểu tại sao lúc đầu anh lại được sai đến với các tư tế. Anh phải nói cho họ biết tin này: Thiên Chúa đã sai đến Đấng từng được các ngôn sứ loan báo, Đấng làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, người chết trỗi dậy và người cùi được lành (x. Lc 7,22). Anh làm chứng rằng Thiên Chúa ở gần mọi người, kể cả người phong cùi. Từ nay sẽ không còn chia cách giữa người khỏe mạnh và người phong cùi, giữa người công chính và kẻ tội lỗi.
Kết luận
Đức Giêsu đã chiếu cố đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ là người Do Thái hay là người Samari. Tuy nhiên cách Người chữa lành đòi hỏi sự cộng tác nghiêm túc của con người. Trước tiên, các bệnh nhân phải đi trình diện với các tư tế, y như thể họ đã lành: họ phải chứng tỏ đức tin bằng cách vâng lời Người mà đi đến với các vị lãnh đạo có quyền cho họ được tái tháp nhập vào trong cộng đồng. Sau đó, điều mà Đức Giêsu chờ đợi chứ không truyền lệnh: họ phải chứng tỏ đức tin vào Người bằng cách nói lên tâm tình biết ơn. Chỉ có một người bị coi là bội giáo, coi như kẻ ngoại, là người Samari, đã quay trở lại mà cám ơn, tức là nhìn nhận rằng điều tốt lành mình có được là do một Đấng khác. Chỉ khi thực hiện được cả hai điều này, vâng lời và cám ơn Thiên Chúa, người ta mới thực sự được lành mạnh trọn vẹn. Đức tin phát sinh từ việc nhận biết ân huệ Thiên Chúa ban và được diễn tả ra bằng một tiếng “cám ơn” không ngừng. Khi nhìn nhận người Samari đã được đức tin chữa lành, Đức Giêsu đã công nhận chỉ có anh này mới được chữa lành hoàn toàn.
Gợi ý suy niệm
Mười người phong cùi được lành bệnh đang khi họ đi đường với nhau. Tân Ước vẫn so sánh đời sống Kitô hữu như một hành trình dài, mệt nhọc. Sự lành mạnh thiêng liêng của chúng ta không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã sống nhiều năm như một người “phong cùi”, chúng ta sẽ không được chữa lành đột ngột. Chúng ta phải đi với nhau, và trên đường đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta đã được chữa lành.
Nghĩ về thân phận người phong, chúng ta phải đặt ra cho mình câu hỏi: Ai là những người đang sống một cuộc sống bên lề cộng đồng chúng ta? Họ đang phải sống kiểu sống nào? Hôm nay, có những dạng bệnh và tật mới, hoặc một sự sa cơ thất thế, cũng khiến người ta có thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải chăng chúng ta coi đó là chuyện đương nhiên, dễ hiểu?
Thông thường khi nhận được một sự trợ giúp, người ta mau quên người đã giúp đỡ mình. Người ta say sưa với viễn tượng tương lai đang mở ra. Đối với Thiên Chúa, có khi ta còn đối xử tệ hơn. Bởi vì Người thường xuyên ban cho chúng ta qua nhiều ơn lành, chúng ta chẳng nghĩ rằng mọi điều ta có đều là do Thiên Chúa xót thương ban tặng. Chúng ta cứ lao tới trước, bỏ lại đàng sau chúng ta Đấng liên tục ban ơn để chúng ta có thể lao tới phía trước.
Khi chúng ta nhận được một điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra cho mình câu hỏi: Điều gì đáng giá hơn đối với chúng ta, ân huệ hay là người ban ơn? Cần phải đặc biệt đặt ra câu hỏi này cho mọi ơn lành nhận được từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến ân huệ (quà tặng), nghĩa là đến các của cải vật chất, đến sức khoẻ, v.v., thì trái tim của chúng ta còn giới hạn, còn ích kỷ. Nếu đi từ quà tặng, chúng ta chú ý đến tình yêu và lòng nhân ái của ân nhân, thì kinh nghiệm về ân huệ trở thành gặp gỡ mới mẻ và riêng tư với người ban ơn. Ân ban có thể là một sự trợ giúp lớn lao. Nhưng điều làm cho chúng ta sung sướng hơn nữa là có thể nhận biết sự tốt lành của Đấng ban và có thể cám ơn Ngài về điều đó. Không phải là Thiên Chúa nhận được gì từ lời cám ơn của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ nên nghèo nàn hơn nếu không cám ơn Ngài. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ nhìn vào tặng phẩm, chúng ta đang mất khả năng nhìn thấy, trải nghiệm và nhận biết tình yêu của Đấng ban ơn.
Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào luồng tương giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài. Người vô ơn là người chặn đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương giao đang có. Công trình cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở lại với Người.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐẤNG BAN ƠN CỨU ĐỘ– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay nêu lên cho chúng ta một bài học: Con đường niềm tin là con đường của tâm tình cảm tạ và tri ân. Con đường này rộng mở cho hết mọi người.
2V 5: 14-17
Sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại chuyện một quan đại thần ngoại bang, kẻ thù của dân Ít-ra-en, ông Na-a-man xứ Xy-ri-a, được chữa lành bệnh phong hủi, nhờ sự can thiệp của ngôn sứ Ê-li-sa. Ông Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân bằng lời tuyên xưng đức tin của mình.
2Tm 2: 8-13
Trong những lời tâm huyết gởi cho người môn đệ thân mến của mình, là ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhắc nhở ông rằng đức tin được đặt trên sự kiện vững chắc: cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Chúa Ki-tô, sẽ được sống lại với Ngài.
Lc 17: 11-19
Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giê-su chữa lành mười người phong hủi. Chỉ một người duy nhất, một người Sa-ma-ri, trở lại bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân. Tâm tình cảm tạ tri ân này mở ra cho anh con đường đức tin và cứu độ.
BÀI ĐỌC I (2V 5: 14-17)
Hai sách Các Vua ghi lại các triều đại của mười chín vị vua Ít-ra-en (vương quốc miền Bắc) và của hai mươi vị vua Giu-đa (vương quốc miền Nam). Hai sách này cũng dành một vai trò quan trọng cho các vị ngôn sứ như Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.
Hai cuốn sách này chứa đựng một số lượng những giai thoại vừa mang tính lịch sử vừa có tính dân gian. Giai thoại về việc chữa lành bệnh phong hủi của quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a không phải là không có cơ sở lịch sử. Công trình biên soạn sau cùng của hai tác phẩm này được đặt vào niên biểu cuối thế kỷ thứ sáu, nhưng những chứng liệu và truyền thống cổ xưa lại được nhà biên soạn sử dụng. Tên Na-a-man được chứng thực trong những bản văn ngoài Kinh Thánh.
Quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a:
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ truyền chân của ngôn sứ Ê-li-a. Tiếp tục sứ vụ của thầy mình, ngôn sứ Ê-li-sa thi hành sứ vụ của mình ở vương quốc miền Bắc, kinh đô là Sa-ma-ri, vào giữa thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên.
Ông Na-a-man là tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (miền Đa-mát). Danh tánh của vị vua này chưa được xác định. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc chiến thắng quân đội Ít-ra-en. Nhưng ông mắc phải chứng bệnh phong hủi.
Cuộc vận động của quan đại thần Na-a-man:
Đoạn trích hôm nay chỉ nói đến tình tiết chính yếu về việc quan đại thần của vua A-ram được chữa lành. Tuy nhiên, những chi tiết trước đó rất ý nhị không thể bỏ qua. Trong những cuộc xuất chinh vào đất Ít-ra-en, quân đội A-ram đã bắt đưa về nhiều tù nhân. Vì thế, bà vợ của quan đại thần Na-a-man có một tớ gái người Ít-ra-en giúp việc. Người tớ gái này gợi ý với bà chủ: “Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phong hủi” (5: 3).
Sau nhiều vận động ngoại giao, quan đại thần Na-a-man đến kinh đô Sa-ma-ri để mong được ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành bệnh cho mình. Ngôn sứ Ê-li-sa không đích thân ra đón tiếp quan đại thần Na-a-man mà chỉ sai sứ giả đến nói với ông Na-a-man là đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan thì ông sẽ được khỏi bệnh. Quan đại thần không ngờ cách tiếp đón và cách chữa trị như thế nên ông đã nổi giận và tức tối bỏ đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông khuyên ông cứ thử thi hành đều ngôn sứ chỉ dạy xem sao. Đại thần Na-a-man bình tâm lại, xuống tắm bảy lần trong dòng sông Gio-đan như lời ngôn sứ truyền và ông được lành sạch.
Niềm tin của quan đại thần Na-a-man:
Chính ở đây bắt đầu chuyện tích về việc ông Na-a-man được chữa lành mà chúng ta đọc hôm nay. Ở nơi chuyện tích này, tác giả đã biết nêu bật những yếu tố tinh thần. Quan đại thần Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và tuyên xưng rằng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Để tỏ lòng tôn kính và tạ ơn, ông muốn dâng những lễ vật cho vị ngôn sứ; nhưng vị ngôn sứ nhất quyết từ chối, bởi vì mình chỉ là người trung gian của Thiên Chúa. Chủ đích của vị ngôn sứ chính là hướng tất cả tâm tình cảm tạ và tri ân của quan đại thần Na-a-man về tác giả duy nhất, Đấng đã chữa lành ông, đó là Đức Chúa. Nước sông Gio-đan chỉ là yếu tố vật chất, yếu tố “bí tích”. Phải nói rằng Đức Chúa đón nhận tấm lòng thành tín và ban ân huệ cả cho những người ngoại bang lẫn cho con cái Ít-ra-en.
Quan đại thần Na-a-man không chỉ tuyên xưng đức tin của mình mà còn làm một cử chỉ thật ý nghĩa: ông xin được đem về quê hương của ông một số đất Ít-ra-en để xây dựng cho mình một bàn thờ dâng hy lễ kính Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Dưới nhãn quang của ông, đất xứ sở ông không là thánh địa.
Chúng ta nên đọc quá khuôn khổ đoạn trích hôm nay, vì những chi tiết tiếp liền sau đó đáng được quan tâm: quan đại thần Na-a-man rất cẩn trọng: ông biết rằng khi trở về quê hương ông, vì những chức vụ ông đảm nhận, ông buộc phải tham dự vào những nghi thức tôn kính các vị thần linh của đất nước ông. Vì thế, ông ngỏ lời với ngôn sứ Ê-li-sa: “Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài”. Lúc đó, ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, cầu chúc cho ông một cách giản dị: “Ông đi bằng an”. Với câu chuyện này, chúng ta sống rồi trong bầu khí Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (2Tm 2: 8-13)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho người môn đệ, đồng thời cũng là cộng tác viên của thánh nhân, là ông Ti-mô-thê.
Bối cảnh:
Thánh Phao-lô, lúc đó đang bị giam cầm và biết rằng cái chết của mình sắp gần kề, gởi cho ông Ti-mô-thê những lời tâm huyết của mình. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân đã khuyên người môn đệ của mình hãy can đảm và kiên vững; trong đoạn trích tuần này, thánh nhân kêu mời người môn đệ hãy cậy trông. Đức Giê-su đã chết và sống lại, vì thế những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Ngài, thì cũng được dự phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Chúng ta có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong bố cục của đoạn văn: phần mở và phần kết có cung giọng phụng vụ. Ngoài ra, phần cuối chắc chắn là một bài thánh thi về phép Rửa. Chúng ta cũng có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong khía cạnh tín lý: biến cố Phục Sinh là trọng tâm giáo huấn của thánh nhân. Cuộc Tử Nạn cứu độ khai mở ánh sáng và vinh quang của biến cố Phục Sinh và đặt nền tảng đức cậy Ki-tô giáo. Nhưng chúng ta cũng có thể đọc đoạn trích này khi để cho mình thấm nhuần mối cảm xúc của một bức thư vĩnh biệt và nhận thức rõ nhân cách của một con người kề cận với cái chết.
Lòng nhiệt thành đối với ơn gọi:
Lời tâm huyết đầu tiên là lòng nhiệt thành của thánh Phao-lô đối với ơn gọi của ngài. Lời tâm huyết ấy hiện rõ trong tiếng kêu “Tin Mừng” mà thánh nhân không ngừng loan báo bằng cả mạng sống mình. Thánh nhân đã nhận lãnh một sứ mạng đặc biệt, chính vì sứ mạng ấy mà thánh nhân đã tận hiến trọn cuộc đời mình không một chút đắn đo suy tính hơn thiệt.
Ngoài ra, chúng ta đọc thấy ở đây tiềm ẩn kỷ niệm mà thánh nhân đã kinh qua trên đường đi Đa-mát: Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân. Thánh Phao-lô đã trở nên sứ giả của Đấng Phục Sinh, đúng hơn, chứng nhân của Đấng Phục Sinh: “Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít”. Đây là tín điều đầu tiên, tín điều đặt nền tảng cho niềm cậy trông.
Giá trị của những đau khổ:
Biến cố Phục Sinh bắt nguồn từ cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Thánh Phao-lô chịu đau khổ trong cảnh giam cầm, ở đó thánh nhân “còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi”, dụng ngữ “gian phi” này cũng là dụng ngữ chỉ những tên cướp bị đóng đinh với Đức Giê-su; nghĩa là thánh Phao-lô đã trở thành người đồng chịu đau khổ với Chúa Ki-tô. Thánh nhân cho rằng những đau khổ này ngang bằng giá trị với lời loan báo: “Lời Thiên Chúa không thể bị xiềng xích”. Như vậy, đối với thánh nhân, đau khổ là một cách thức khác để loan truyền ơn cứu độ, vì những gian nan thử thách mà thánh nhân phải chịu sinh nhiều ơn ích, như thánh nhân nói trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Bấy giờ, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đúng mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1: 24). Đây thật là một bài học quý giá cho ông Ti-mô-thê, hiện nay ông cũng đang chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Đức cậy Ki-tô giáo:
Đức cậy Ki-tô giáo là niềm hy vọng vào vinh quang đời đời. Thánh Phao-lô đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại điều này; nhưng vào lúc cái chết cận kề, thánh nhân nhắc lại điều đó khi áp dụng vào chính bản thân mình: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người”. Trước đây, thánh nhân đã khai triển tư tưởng này trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê và trong thư gởi các tín hữu Rô-ma. Lúc đó, tư tưởng này mặc lấy cường độ bi thảm hơn: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8: 17).
Đoạn kết bằng văn xuôi có vần có điệu xem ra là một bài thánh thi thịnh hành trong Giáo Hội tiên khởi, chắc hẳn là lời tuyên xưng đức tin vào dịp lãnh nhận phép Rửa. Câu cuối cùng khai mở lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình”.
TIN MỪNG (Lc 17: 11-19)
Câu chuyện chữa lành mười người phong hủi là nguồn riêng của Tin Mừng Lu-ca. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca đã tường thuật rồi câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi vào lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài (Lc 5: 14; Mt 8: 2-4; Mc 1: 40-41). Trong câu chuyện mới này, thánh Lu-ca mời gọi người đọc đừng chú ý đến số lượng những người phong hủi được chữa lành cho bằng thái độ của một người trong số họ, người Sa-ma-ri.
Chúa Giê-su ưu ái những người phong hủi:
Nhiều lần Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài đối với những người phong hủi. Ngài đã trả lời cho những sứ giả Gioan Tẩy Giả sai đến: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ được Ngài sai đi thi hành sứ vụ, Ngài vạch ra như một chương trình: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 7-8). Hơn bất kỳ bệnh nhân nào khác, bệnh nhân phong hủi này, được xem như thứ cặn bã xã hội, cần đến lòng xót thương của Đức Ki-tô. Họ bị xem như đồ ô uế, vì thế cấm mọi hình thức giao tiếp. Ấy vậy, Chúa Giê-su không ngừng công bố rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài; chỉ những tư tưởng xấu phát xuất từ lòng con người mới gây nên ô uế đích thật.
2.Lộ trình lên Giê-ru-sa-lem:
Thánh Lu-ca nhắc lại rằng Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Đây là lần thứ ba thánh nhân kể ra việc Chúa Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem như mục đích tối hậu sứ mạng của Ngài (9: 51; 13: 22; 17: 11). Dường như thay vì băng qua miền Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem, thì Đức Giê-su lại rẽ qua hướng Đông, giữa Ga-li-lê và Sa-ma-ri, đến thung lũng sông Gio-đan, xuống thành Giê-ri-cô, và từ đó đi lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, mười người phong hủi mới có thể gặp Ngài ở nơi hoang vắng này, vì họ không được vào bất cứ nơi nào có đông dân cư sinh sống. Tuy nhiên, thánh ký không định rõ lộ trình địa lý; chỉ lộ trình tinh thần mới là mối bận lòng của thánh ký. Từ tình tiết mà thánh nhân sắp thuật lại những bài học sẽ được rút ra.
Lời khẩn cầu của những người phong hủi:
Một nhóm mười người phong hủi đến gặp Đức Giê-su. Họ đứng cách xa như Luật quy định và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Việc kêu cứu Ngài bằng tên thì họa hiếm trong các sách Tin Mừng. Tại Tin Mừng Lu-ca việc gọi tên Ngài như vậy chỉ được gặp thấy ở nơi tiếng kêu cứu của người mù thành Giê-ri-cô (18: 38) và của người gian phí sám hối cùng chịu đóng đinh với Ngài (23: 42); nhưng trong sách Công Vụ, danh xưng này được dùng thường hơn, các Tông Đồ sẽ công bố: “Chính nhờ danh Giê-su mà ơn cứu độ được thực hiện”.
Còn đối với tước vị “Thầy”, chung chung chỉ các môn đệ mới gọi Ngài như thế. Đây là một trường hợp hi hữu khi thánh Lu-ca đặt tước vị này trên môi miệng của những người phong hủi như lời tuyên xưng niềm tin của họ vào quyền năng cứu chữa của Chúa Giê-su.
Lệnh truyền của Đức Giê-su:
Đáp lại lời kêu cứu của họ, Chúa Giê-su truyền lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Theo tâm thức thời đó, mọi bệnh hoạn đều được cho là do tội lỗi. Bệnh phong hủi, vì ấn tượng ghê tởm mà bệnh gây nên nơi thân xác, lại càng chứng tỏ tình trạng tội lỗi bị Thiên Chúa giáng phạt (Đnl 28: 27-35); thế nên, việc lành bệnh thuộc lãnh vực tôn giáo và phải được các tư tế kiểm nghiệm và chứng nhận (Lv 14: 1-32). Vì thế, Chúa Giê-su mới ra lệnh cho mười người phong hủi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Nhưng các tư tế can dự chỉ để chứng thực là bệnh đã được lành và nhận hy lễ thanh tẩy; chỉ như thế người được lành bệnh mới có thể được tái nhập vào đời sống xã hội. Trước đây, trong trường hợp một người phong hủi, Chúa Giê-su đã ra lệnh cho người ấy đi trình diện tư tế chỉ sau khi đã chữa lành bệnh cho anh ta. Ở đây, Chúa Giê-su lại truyền cho mười người phong hủi đi trình diện tư tế trong khi họ chưa được lành bệnh. Xem ra Chúa Giê-su muốn thử thách đức tin của họ.
Một trong số họ quay trở lại, một người xứ Sa-ma-ri:
Tất cả giá trị của câu chuyện cốt ở nơi phần khai triển sau cùng này. “Đang khi đi thì họ đã được sạch”, chỉ một người quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su”, đây là cử chỉ thờ lạy; và anh bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với vị ân nhân đã thi ân giáng phúc cho mình.
Chỉ vào lúc này, thánh Lu-ca mới chỉ ra “anh ta lại là người Sa-ma-ri”. Người Do thái xem người Sa-ma-ri như tên ngoại bang đáng nguyền rủa, kẻ lạc giáo đáng khinh bĩ. Một lần nữa, chính qua cách hành xử của người Sa-ma-ri mà Chúa Giê-su đưa ra một bài học cho đám đông, cho những người Pha-ri-sêu, và cho tất cả môn đệ Ngài. Ơn cứu độ được dâng hiến cho người ngoại bang này vì đức tin ở nơi anh còn lớn hơn nơi chín người Do thái kia. Trước những đồng hương Na-da-rét cứng lòng tin của Ngài, Chúa Giê-su cũng đã trích dẫn cho họ hai mẫu gương của hai người ngoại bang, mà niềm tin của họ còn lớn hơn những đồng hương của Ngài: bà góa xứ Xa-rép-ta và ông Na-a-man, người phong hủi xứ Xy-ri-a (4: 25-27).
Đền Thờ đích thật: con người của Đức Giê-su:
“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”. Chín người kia là những người Do thái, họ tiếp tục con đường lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để chu toàn những nghi lễ thanh tẩy. Bản văn không nói điều này, nhưng lời Chúa Giê-su hàm chứa như vậy: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?”.
Tôn vinh Thiên Chúa chính là ngỏ lời với Đức Giê-su. Từ nay chính qua con người của Ngài mà người ta đến với Chúa Cha. Đền Thờ đích thật không còn là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hay Đền Thờ Ga-ri-dim. Chúa Giê-su đã loan báo điều này cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không ở trên núi này (Đền Thờ Ga-ri-dim) hay tại Giê-ru-sa-lem… (Ga 4: 21), Và Ngài cũng đã công bố: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19). Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2: 21).
Người Sa-ma-ri nhận ra ở nơi Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hiện thân. Với người Sa-ma-ri này và chỉ một mình anh, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành thân xác của anh, nhưng Ngài còn ban cho anh ơn cứu độ: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Đức Giê-su đến để cứu thoát con người khỏi chứng bệnh phong hủi của tội lỗi.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
—————————————————————-
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TÂM TÌNH BIẾT ƠN- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Tâm tình biết ơn. Người cùi xứ Samaria trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa (Lc 17, 15)
Dẫn vào Thánh lễ:
Anh chị em thân mến
“Thánh lễ” còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là “Lễ Tạ Ơn”. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.
Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.
Gợi ý sám hối
– Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.
– Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.
– Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.
Lời Chúa
Bài đọc I (2 V 5, 14-17)
Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram:
Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.
Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.
Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.
Đáp ca (Tv 97)
Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công”
Tin Mừng (Lc 17, 11-19)
Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
+ Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay
+ Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
9 người cùi Do Thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
Bài đọc II (2 Tm 2, 8-13)
Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
Gợi ý giảng
* Suy nghĩ về lòng biết ơn
Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế?
Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ “ở trong nhà” là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những “kẻ ở ngoài” thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó: Tướng Naaman không phải là người Do Thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta: chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.
Chúa Giêsu thì ngược lại: Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?” Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi: Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.
Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta: do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình: chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỳ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng “Tất cả đều là hồng ân”.
* Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn
Chín người cùi Do Thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu: Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.
Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào: đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.
* Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman
Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.
Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.
Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông à Ông trở thành khiêm tốn hơn.
Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận à Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.
Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. à Ông có đức tin.
Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.
Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.
Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích: nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.
* Dòng suối ân tình
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
– Vì đôi mắt của con rất đẹp!
– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?
– Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
*
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13, 1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1, 4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4, 10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
*
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (TP)
Chuyện minh họa
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi:
– Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao?
– Con thấy rất vui.
– Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao?
– Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải.
– Thế sao con đã không cám ơn Chúa?
– Tại sao phải cám ơn Chúa?
– Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, luôn tạ ơn Chúa vì những hồng ân Người ban tặng cho ta là một trong những bổn phận quan trọng của người Kitô hữu. Với tâm tình con thảo, chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
– Hội thánh không ngừng quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho Hội thánh / trong công việc cao quý này.
– Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc / nhưng trong thực tế / bệnh tật vẫn đem đến cho con người đau khổ và bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật hành hạ / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
– Bệnh phong cùi đem lại mặc cảm lớn lao / và nỗi bất hạnh tột cùng cho các bệnh nhân / vì họ cảm thấy bị loại trừ ra khỏi xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / nâng đỡ những anh chị em kém may mắn này.
– Có một thứ bệnh phong cùi đáng sợ hơn là tội lỗi / vì nó làm hoen ố tâm hồn con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này bằng bí tích Giải tội.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao giờ chúng con mới tạ ơn Chúa cho cân xứng với tình thương hải hà của Chúa. Xin cho chúng con biết cố gắng đền đáp phần nào tình thương ấy bằng chính đời sống bác ái yêu thương và tận tụy phục vụ tha nhân. Chúng con cầu xin
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.
– Trước khi rước lễ: Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
Giải tán
“Tất cả đều là hồng ân”. Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Người ta hay nói:“Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của ngưới khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi mà chỉ có một người dân ngoại Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi luôn không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết ơn vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người vô ơn.
Người đời thường nói :”Uống nước nhớ nguồn” hay “An quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường nhưng cũng là một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng “cám ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp có câu :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói : biết ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại càng khó hơn.
Cuộc đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói:”Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói như thế. Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết vì nó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta vì đem lại lợi ích cho chúng ta. Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và người phong cùi Samaria đối với Chúa. Cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa không gì tốt hơn là Thánh Thể và Thánh lễ, vì Thánh Thể và Thánh lễ đều là tạ ơn. Đi tham dự Thánh lễ là đi tạ ơn Chúa. Ngoài ra, tinh thần biết ơn ấy còn phải được thể hiện bằng sự chia sẻ với những người khác về tinh thần cũng như vật chất.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2V 5,14-17.
Ông Naaman là tổng tư lệnh quân đội Syria bị mắc bệnh phong cùi. Nghe tin bên Israel có ông Elisê có thể chữa được, nên ông đã đến xin tiên tri Elisê chữa cho ông.
Tiên tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giorđan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.
Sau khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê nhưng ông nhất định từ chối, vì ông muốn quan chỉ cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 2,8-13.
Lúc đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai. Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn : hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài. Còn riêng với thánh Phaolô, mặc dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết tâm trung kiên với Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 17,11-19.
Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ :
a.Nhận biết phận mình : Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ nên không dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.
Đức Giêsu thử thách họ : Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ :”Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi. Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.
Kết quả : Mười người đều được khỏi bệnh : 9 người cùi Do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi xứ Samariatrở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tâm tình biết ơn.
CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.
Hoàn cảnh :
Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ : Chúa chữa lành mười người phong cùi ở biên giới Samaria và Galilêa.
Mười người phong cùi xin cứu giúp.
Bệnh phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua Palestine, An độ rồi hai đế quốc La Hy. Sau đó truyền sang Au châu. Phong cùi là một bệnh nan y nhơ nhớp, người bệnh phải sống cách biệt với người lành và vì thế họ không được ở trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, trước khi vào Giêrusalem. Đức Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.
Phong cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền : người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên :”Ô uế ! Ô uế !”. Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên bị cấm đến ở những nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.
Mười người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả Samaria và Do thái, không còn phân biệt như trong các cộng đồng của họ ở trước. Họ sống vui vẻ hòa hợp. Chính đau khổ đã đưa con người đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loại ra khỏi xã hội con người, họ đã trở thành một xã hội đầy tình người hơn.
Theo luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin :”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà chỉ bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.
Đức Giêsu đã chữa lành họ.
Để được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ bầy lòng tin vào Đức Giêsu khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy bằng hành động : vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này cũng làm cho chúng ta nghĩ đến thử thách lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.
Lời tạ ơn sau khi được lành.
Trong khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào : anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến đền thờ… hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy : chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.
Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ,”anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Roland Meynet chú giải :”Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngợi khen và tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai Đấng ấy, và anh sấp mình dưới chân Đấng đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa” (Fiches dominicales C, tr 328-329).
“Chớ thì không phải cả mười người được lành sao” ? Đức Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là ngườiSamaria đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa.
HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG.
Biết ơn, một chuyện bình thường.
Trên bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người ta thường nói :
“Uống nước nhớ nguồn” hoặc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Ăn cơm nhớ kẻ đâm, say , giã, sàng”.
Thế nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm !
Ngày nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.
Biết ơn, là trí nhớ của trái tim.
Người Pháp có câu ngạn ngữ :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, và có giáo dục. Thi sĩ người Anh, Samuel Johnson, đã nói rằng :”Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.
Còn Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta :”Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếngcám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng”.
Công ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.
Truyện : Anh lính biết ơn.
Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ :”Cám ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).
Biết ơn là một việc khó.
Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta thấy rằng : nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.
Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều :
– Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn sàng giúp ta nữa.
– Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ cám ơn tớ…
Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người nhà”(Frank Mihalic).
Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn đừng quên.
Bài đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp : Tướng của Syria là Naaman bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiên tri Elisê một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin tiên tri nhận cho. Còn Elisê thì kiên quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.
Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai :
Những người phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Truyện : Không ai cám ơn tôi cả.
Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trườngNorthwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình :”Tôi đã làm việc hết sức chưa ? Quý vị có nghĩ rằng tôi đã làm việc hết mình không”?
Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông :”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.
Biết ơn là thái độ sống căn bản.
Thái độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân Israel đã dâng các lễ vật đầu mùa để cám ơn Thiên Chúa (Đnl 26, 1-10). Trong Tân ước, một hành động cảm ơn trọn vẹn và xứng đáng nhất là phép Thánh Thể thường được gọi là Lễ Tạ Ơn. Sách Talmud nói:”Một ngày kia khi mọi lời nguyện sẽ im bặt trên môi miệng con người, ngoại trừ kinh nguyện tạ ơn”.
Thánh Bênađo đã nói:”Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và bằng chân lý của đời ta : đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó là điều mà Chúa mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”.
III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.
Tất cả đều là hồng ân.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng tri ân.
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,
Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút,
Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,
Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen . (Hosanna).
Truyện : Hồng ân Chúa quá nhiều.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây : Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói :”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi :”Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa :”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi :”Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”(Phạm văn Phượng).
Có nhiều cách tỏ lòng biết ơn.
Tâm tình biết ơn thường được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một bổn phận mà còn là một nhân đức bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn. Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những ngưởi bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này:”Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Hãy tạ ơn Chúa về mọi sự trong cuộc đời.
Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta, nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình : điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút này.
Cám ơn Chúa trong Thánh Lễ.
Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2,42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”. Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách tốt nhất để tạ ơn là việc dâng lễ. Khi mọi người tín hũu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ, ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của Linh mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.
Để kết thúc, chúng ta có thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng ta, bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói:”Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Truyện : Cám ơn.
Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau : một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ : cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích :”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo :
– Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?
– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?
– Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên :
– Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa!. Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông : vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.
“Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY CÓ LÒNG BIẾT ƠN– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Để được khỏi bệnh ô uế, mười người phong cùi muốn đến với Chúa Giêsu, nhưng căn bệnh này không cho phép họ tới gần, nên tất cả đồng thanh kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” Hỏi họ mong đợi điều gì? Thưa họ nuôi niềm hy vọng sẽ được chữa lành. Dù biết rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong cùi. Nhưng Vị Thầy Nazareth đã chẳng cho con gái bà góa thành Naim sống lại đó sao (Lc 7, 11-17)?
Đức Giêsu không đến gần để chạm vào họ, như Ngài vẫn làm khi chữa bệnh; Ngài cũng không phán lời thể hiện quyền năng trên căn bệnh quái ác này. Ngài ra lệnh tẩy sạch bệnh phong cách đơn giản.
Khi bắt họ phải đi trình diện các tư tế ở Đền thờ lúc họ chưa được lành sạch là Chúa Giêsu thử thách niềm tin của họ! Họ bị thử thách hơn ông Naaman thời Êlisê, ông phải tắm bẩy lần ở sông Giođan. Mười người phong cùi có đức tin thật gương mẫu, không thấy họ nói gì: không phản đối Chúa, họ lên Giêrusalem để trình diện các thầy tư tế như lời Ngài truyền.
Vâng lời Đức Giêsu, họ lên đường và đang đi thì họ được điều họ xin. Tuy nhiên, chỉ có người Samaritanô quay trở lại với Đức Giêsu “lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa”. Sự chữa lành chín người bệnh kia đã không thay đổi được nhận thức của họ về Thiên Chúa hay Đức Giêsu, dĩ nhiên tất cả đều lành sạch, nhưng chỉ có người Samaritanô mới nghe được Đức Giêsu nói, “lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Những người kia không thể giải thích nổi dấu chỉ chữa lành họ là lời mời gọi trả lại Đức Giêsu là Đấng có quyền trên sự dữ không chỉ thể xác mà cả linh hồn họ. Họ không biết được rằng việc chữa bệnh thể xác là lời mời gọi Thiên Chúa gửi đến cho họ, không còn ở xa, nhưng tiến lại gần Đức Giêsu để nhận lãnh nhiều hơn như: tình yêu và ơn cứu độ chỉ mình Ngài có thể ban tặng cho chúng ta. Đây là “đức tin cứu độ”.
Cả mười người phong cùi được sạch, nhưng chỉ có một người đi đến cùng việc chữa trị căn bệnh của anh, để được cứu. Người ta có thể nói rằng chín trong số mười người phong cùi cần một người cứu hộ, chỉ có người thứ mười nhận ra Đức Giêsu là vị cứu tinh. Các nhân viên cứu hộ là những bác sĩ, y tá và các dịch vụ khẩn cấp xe cứu thương. Vị cứu tinh chỉ có một là: Đức Kitô của Thiên Chúa.
Chúng ta không biến Đức Giêsu ra “người cấp cứu” như chín người phong cùi trong Tin Mừng hay ông Naaman người Syria, lấy làm khó chịu khi theo quy định của Êlisa đi tắm ở sông Jordan một điều vô thưởng vô phạt?
Có người cầu nguyện: “Lạy Chúa, con trải qua một kỳ thi; cha con đang ốm bệnh; con phải đạt được bằng lái xe… Con sẽ thắp một ngọn nến”. Chắc chắn, thái độ này không có gì sai trái: Chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện luôn; cái đáng lo ngại nhất, là con số đông những “người tin” vào lúc nào đó trở về với Chúa: khi họ cần một “người cứu hộ”. Phần còn lại, họ sẽ đi qua rất nhanh và quên ngay Chúa…
Trái lại, người Samaritanô, anh cảm thấy rất rõ cách thức chữa bệnh của Đức Giêsu mà anh là một người được hưởng: anh trở lại với Đức Giêsu, sấp mình dưới chân và “tạ ơn Người”.
Anh không trở lại để thanh toán một món nợ: cũng không hành động như Naaman người Syria xin Êlisê nhận lấy phần phúc. Ơn nhưng không của Thiên Chúa được ban cho viên sĩ quan ngoại giáo, kẻ thù của Israel, mời gọi chúng ta khám phá ra đơn giản chỉ là tình yêu Thiên Chúa dành cho dân ngoại. Người Samaritanô, một thành viên của một dân tộc được coi là dị giáo đối với người Do Thái, hiểu rằng sự chữa lành anh là một ân sủng của Thiên Chúa; hay vẫn nói là những người biết ơn, biết phục vụ, món quà của tình yêu. Khi anh trở lại bày tỏ lòng biết ơn của mình, tình yêu của mình với Đức Giêsu. Chính sự gắn bó cá nhân khiến anh trở thành môn đệ Ngài.
Người ta kể rằng Abraham Lincoln đã dành một ngày đi đến nơi bán người nô lệ. Thấy một phụ nữ da đen trẻ tuổi, rất đẹp, đang được bán. Lincoln dạm mua. Giá tăng một cách chóng mặt, cuối cùng Lincoln chiến thắng. Người phụ nữ trẻ đã được trao cho ông và cô cùng ông rời khỏi chợ. Cô khinh bỉ người thắng cuộc và tự nhủ: “Bây giờ bắt đầu việc lạm dụng và tôi phải đau khổ”. Lincoln ngạc nhiên nói: “Thưa cô, cô được tự do”. “Tự do ư?” Cô ấy hỏi, “Tự do cái gì? Để tôi muốn nói gì thì nói sao?” Lincoln trả lời “vâng thưa cô”. Cô hỏi tiếp: “Tự do để trở nên cái mà tôi muốn sao?” một lần nữa Lincoln trả lời “vâng đúng vậy”. “Vậy thì” người phụ nữ nói trong nước mắt “nếu như tôi muốn đi với ông”.
Tin tưởng vào Chúa Giêsu là để nhận ra Ngài là Thiên Chúa; trở nên môn đệ của Ngài, có nghĩa là chúng ta đang ngạc nhiên về ơn cứu độ nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta không thể sống không có Chúa được; mỗi ngày chúng ta cảm thấy cần đào sâu hơn mối tương quan với Chúa. Nếu mỗi Chúa nhật chúng ta cùng nhau qui tụ, lắng nghe Lời Chúa và rước Mình Máu cực thánh Chúa, không phải để được chữa lành khỏi bệnh phong tội lỗi sao?
Trong bài giảng tại Vienne, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI qui chiếu vào các vị tử đạo của Abitene, bị bắt trong khi cử hành Thánh lễ ngày Chúa nhật. Các thẩm phán hỏi lý do tại sao họ đã vi phạm cấm hy sinh đời họ, các Kitô hữu đã trả lời: “Nếu không có món quà của Chúa, chúng tôi không thể sống được”. Đức Thánh Cha nhận xét: “Đối với các Kitô hữu, cử hành Thánh Lễ Chúa nhật là một điều cần thiết nội tâm. Không có ai nâng đỡ đời sống của chúng ta, cuộc sống tự nó là trống rỗng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cần phải liên hệ với Chúa Phục Sinh, Người nâng đỡ chúng ta sau khi chết. Chúng ta cần gặp gỡ và qui tụ nhau lại, cần có một không gian tự do, giúp chúng ta nhìn xa hơn sự nhộn nhịp của cuộc sống hàng ngày hướng đến tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, mà chúng ta đến và bước đi”.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ ban xuống ở cuối chặng đường khi chúng ta bắt đầu bước đi, hãy ý thực về sự chữa lành do Đức Kitô thực hiện trong đời sống chúng ta, chúng ta trở lại để tạ ơn Ngài.
Cử hành “Thánh Thể” đúng hơn là tạ ơn, Chúa đã chứng tỏ sự hiện diện của Ngài bên cạnh chúng ta. Để chia sẻ trong Bánh và Rượu đã được truyền phép, sự sống của chính Đức Giêsu, Đấng làm cho chúng ta tham dự vào tương quan tình yêu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Thánh Thần. Amen.
—————————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
SAO KHÔNG QUAY LẠI ĐỂ TẠ ƠN?- Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chúng ta vẫn còn nhớ vào ngày 11 tháng 3 năm 2012, kỷ niệm tròn 1 năm thảm họa sóng thần ập đến với nhân dân Nhật Bản. Sau đại họa đó, Nhật Bản đã hồi sinh nhanh chóng, một phần nhờ vào sự tương trợ của các nước trên thế giới. Vì thế, nhân dịp kỷ niệm này, khoảng 500 em học sinh từ thành phố Ishinomaki thuộc tỉnh Miyagi đã đồng ca bài hát mang tên “Arigato” (Cảm ơn) để tri ân thế giới. Hành động này đã làm cho thế giới nghiêng mình kính phục trước hệ thống giáo dục của nước Nhật.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu chữa lành mười người phong cùi, tuy nhiên, sau đó chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa mà thôi. Vậy, tại sao lại có sự chữa lành đó và thái độ tạ ơn của người Samaria đã đem lại cho anh ta những gì?
Ý Nghĩa Lời Chúa
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về quan niệm của người Do Thái đối với người bị bệnh phong cùi:
Theo lối suy nghĩ của người Do Thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ.
Quả thật sách Lêvi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế ! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).
Tuy nhiên, hôm nay Đức Giêsu đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng vì Ngài có một trái tim rộng lớn, Ngài đã “chạnh lòng thương” để vượt lên trên lề luật, ra khỏi quan niệm của dân chúng để cứu giúp những người đau khổ.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu đi đến một làng kia, và có mười người phong cùi biết tin Ngài đi qua, nên đã đến để xin Ngài chữa lành cho mình: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Lc 17, 13 ). Câu nói này thể hiện niềm tin của họ vào Đức Giêsu cách tuyệt đối. Vì tin, nên những người bệnh này cũng đã phá tan hàng rào kỳ thị của dân chúng xưa nay cũng như lòng tự ti của chính mình để miễn sao gặp được Chúa và mong ước được Chúa yêu thương, chữa lành. Và, khi nghe thấy họ kêu xin mình như vậy, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương” và, Ngài đã ra tay cứu giúp khi nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế. Ðang khi đi thì họ đã được sạch” ( Lc 17, 14 ). Qua hành vi chữa lành bệnh tật này, Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả chính là Đức Giêsu đã giải thoát họ về mặt tinh thần. Từ nay họ không còn bị xã hội xa lánh, khinh miệt và nguyền rủa nữa. Cũng kể từ nay, họ được hòa nhập với xã hội và người thân. Đây có lẽ là điều hạnh phúc nhất của họ.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bài tin mừng hôm nay đó là đức tin và lòng biết ơn:
Trước tiên, vì tin, những người phong cùi mới kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17, 14). Vì tin, họ mới nghe lời Đức Giêsu để đến trình diện tư tế khi chưa lành bệnh. Và, kết quả là nhờ lòng tin, họ đã được lành sạch khi đang trên đường đi trình diện các Tư Tế.
Thứ đến, là lòng biết ơn. Tất cả mười người đều được lành sạch cả, nhưng chỉ có một người trong nhóm họ đến tạ ơn Đức Giêsu mà thôi. Thật chớ trêu thay, người đó lại là người Samaria dân ngoại, còn những người Do Thái thì có những thái độ ngược lại. Thấy vậy, Đức Giêsu mới hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 18-19) . Câu hỏi này vừa nói lên sự ngỡ ngàng và chua chát của Đức Giêsu với người Do Thái, vốn được coi là dân riêng của Thiên Chúa, nhưng đã không hề chân nhận những ơn lành mà Ngài đã thi ân. Thái độ này của họ đã được Đức Giêsu cảnh báo: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.
Cuối cùng, nhờ lòng biết ơn, người Samaria này đã sinh hoa trái về đàng thiêng liêng cho chính mình. Người này được sạch cả bên trong lẫn bên ngoài, còn những người Do Thái thì tuy bên ngoài đã sạch, nhưng tâm hồn của họ vẫn bị thứ bệnh phong cùi vô hình làm cho họ mất cảm thức về ơn cứu độ.
Sống Lời Chúa Hôm Nay
Hôm nay chúng ta được nghe tường thuật bài Tin Mừng Chúa chữa mười người phong cùi về mặt thể lý, và điểm then chốt mà sứ điệp lời Chúa hôm nay muốn nhấn mạnh đó là cần phải có niềm tin và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Đồng thời cũng muốn cho mỗi chúng ta ý thức được mình cũng là người tội lỗi cần được Chúa thứ tha.
Đã nhiều lần ta nghe đâu đó, hay chính chúng ta đã hứa với Chúa: “lạy Chúa, xin cho gia đình con được bình an, hạnh phúc, được nhiều người giúp đỡ. Con cái ngoan hiền, thi cử đỗ đạt, gia đình có công ăn việc làm, buôn bán được thuận lợi”, rồi sau đó hứa với Chúa là sẽ thay đổi như: bỏ rượu, cờ bạc, trai gái và chăm chỉ đi lễ nhà thờ, lần hạt, chia sẻ bác ái… . Nhưng khi đạt được rồi thì bỏ luôn không còn nhớ gì hay nếu có nhớ thì cũng làm ngơ không để ý đến lời thề của mình với Chúa, Đức Mẹ và các thánh nữa. Vẫn còn đó câu ngạn ngữ: “Hết rên, quên thầy”; “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”; “chắp tay lạy Đức Chúa Trời, cho con lấy vợ con thôi nhà thờ”.
Mong thay, mỗi người chúng ta hãy có một đức tin mạnh mẽ và luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Chúa để được cứu độ. Hồng ân này đã được kinh Tiền tụng Thánh Thể IV diễn tả: “Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết tin tưởng vào Chúa như những người phong cùi khi xưa, và xin cho con có thái độ biết ơn như người Samarria trong bài Tin Mừng hôm nay. Ước gì lời tạ ơn của chúng con được Chúa chúc lành và ban ơn cứu độ. Amen.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LÒNG BIẾT ƠN – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm thấy thật buồn về thái độ vô ơn của chín người được ơn. Trong số mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người quay trở lại để tạ ơn. Mười người được ơn, chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần mười. Một tỷ lệ quá thấp. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn có lẽ thật ít. Người biết ơn ấy lại là người ngoại đạo!
Chúa Giêsu hỏi người ngoại giáo: “Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?”. Chúa Giêsu buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Trong cuốn sách “Nói với chính mình” Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện bình thường.
Chuyện phiếm 7 “Hai chữ cám ơn”, Gã Siêu xót xa: Một tác giả nào đó đã viết: Một sự kiện làm chúng ta phải ngạc nhiên không ít, đó là một số người Việt Nam từ nước ngoài trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau. Dầu có cố gắng che dấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, họ vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài, hay là phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”. Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì phải chăng đó là một lời báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu chỉ của sự khô cạn tình người trong xã hội Việt Nam chúng ta. Khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc về tình người cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối bỏ, thì nhiều lãnh vực khác cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ.
Sở dĩ như vậy là vì những người Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp xúc thường xuyên với người phương Tây, nên cũng đón nhận những nét đẹp văn hóa của họ. Những tiếng vốn được người phương Tây xử dụng nhiều nhất là “xin lỗi” và “cám ơn”. Dân Pháp thì luôn miệng nói “pardon” và “merci”. Còn dân Ăng lê thì động một tí là “sorry” và “thank you”. Thói quen tốt đẹp này có được là do sự giáo dục từ trong gia đình. Có người đã tổng kết được mười mấy chữ quan trọng trong việc giáo dục trẻ em ở phương Tây, đó là cám ơn, chào ông bà, xin lỗi, phiền ông bà, tạm biệt, xin mời…Trong đó đứng đầu là hai tiếng “cám ơn”. Như vậy, họ đã dạy cho con em biết cảm động, không được thờ ơ nhìn sự giúp đỡ và làm ơn của người khác.Từ đó, gã suy ra rằng, lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với nhau. Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng biết ơn.(x.dunglac.org).
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn, trong bài “Văn hóa cám ơn” viết chua chát: Cám ơn và xin lỗi đôi khi trở thành một đề tài xã hội. Khoảng 2 năm trước đây, viết trên báo Tuổi Trẻ, một người Hàn Quốc đang làm việc tại Việt Nam “phàn nàn” rằng người Việt Nam ít nói xin lỗi. Tiếp theo đó là một thư khác của bạn đọc người Việt chỉ ra rằng chẳng những ít nói xin lỗi, mà người Việt còn ít nói cám ơn. Điều này có vẻ mâu thuẫn với truyền thống đạo lý của người Việt, vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo, ghi ơn tiền nhân. Nhưng có lẽ trong cuộc sống bề bộn của thời thực dụng kinh tế, không ít người Việt, trong đó có cả những quan chức, quên nói lời cám ơn. Sự thiếu sót này có thể ảnh hưởng đến quốc thể và gây ấn tượng không đẹp ở người nước ngoài về người Việt. Câu chuyện mà tôi sắp kể sau đây còn cho thấy hình như trong một số quan chức thể hiện sự tri ân vẫn còn khá khó khăn. Anh là một kỹ sư người Đức, do cơ duyên nào đó, lấy vợ Việt Nam và quê vợ ở một làng nghèo thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có lẽ để làm một nghĩa cử đẹp cho quê vợ, anh về Đức quyên tiền, và đem số tiền đó về quê vợ xây một bệnh xá cho người dân nghèo. Người dân trong làng ai cũng nhớ anh ta trực tiếp chỉ huy việc xây dựng, rất quan tâm đến chất lượng đến nổi cẩn thận gõ từng viên gạch để đánh giá xem thật hay dỏm. Kết quả là một bệnh xá khang trang và có chất lượng cao. Đến ngày khai mạc, các quan chức trong làng đua nhau cám ơn Đảng và Nhà nước, nhưng không có đến một lời cám ơn chàng rể người Đức dù anh có mặt trong buổi lễ khánh thành bệnh xá. (x.saigonecho.com).
Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Đúng như John Hery Jowett đã viết: “Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng”.
Văn hóa cám ơn được thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người khác giúp đỡ, dù chỉ là nhỏ bé thôi. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe. Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác. Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn nữa: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng “cám ơn”, “xin lỗi” luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.
Có hai thứ chịu ơn: vật chất và tinh thần.
Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất… Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được.
Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật… nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ sẻ chia, giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi.Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn.
Thật là dễ nếu cảm ơn những điều tốt đẹp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực thành tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng có thể giúp ích nhiều cho bạn!
Bạn thân mến.
Hãy cảm ơn vì bạn chưa có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để trông chờ và hy vọng nữa đâu.
Hãy cảm ơn vì còn nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì để học hỏi nữa sao?
Hãy cảm ơn những lúc khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng thành được không?
Hãy cảm ơn vì bạn còn có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng còn cơ hội để tiến bộ, để cải thiện bản thân.
Hãy cảm ơn những thử thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây dựng nên sức mạnh và cá tính của bạn?
Hãy cảm ơn những lỗi lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho bạn những bài học đáng giá như thế đây?
Hãy cảm ơn những khi bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm việc gì hay sao?
Suốt cuộc đời, bạn và tôi đều mang ơn rất nhiều. Cám ơn về tất cả, tri ân về tất cả. Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày.Từ ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ dòng sữa mẹ, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha, nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.
Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng. Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa.
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.
Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống, lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: “Thật ra, Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa. Amen.
————————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TẠ ƠN CHÚA – Logos năm C
Vào ngày 07/9/2004, hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị một nhóm người vũ trang bắt cóc khi họ đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai người phụ nữ này đều thuộc gia đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng cho số phận của 2 con tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu với nhóm người bắt cóc xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi cố gắng của chính phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt cóc, cuối cùng 2 người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004 vừa qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến Vatican xin triều yết Đức Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám ơn ngài đã cầu nguyện và lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức Giáo Hoàng đã cùng với gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hai người phụ nữ đã cám ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ đã lãnh nhận. Đó cũng là thái độ của mọi người trước những hồng ân cao cả của Thiên Chúa. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn trước những ơn lành mình nhận được.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi, nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn Chúa. Và thật trớ trêu, đó lại là một người xứ Samaria, một người dưới mắt người Do thái là một kẻ ngoại giáo! Đó là một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu?”. Có lẽ đó cũng là lời chất vấn dành cho những ai không nhận biết ơn Thiên Chúa để cảm tạ Ngài. Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu mực cho chúng ta về lòng biết ơn Thiên Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời Chúa Giêsu là bài ca tạ ơn.
Chúa Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat),ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.
Lời cám ơn, bông hoa đẹp của cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Đúng vậy, lời tri ân cảm tạ là lời nói của con tim. Lòng biết ơn là nghĩa cử của tâm hồn. Chỉ có những trái tim gỗ đá mới không nhận biết ân huệ được trao tặng. Vì vậy, lòng biết ơn là bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời. Chính những lời cám ơn sẽ làm cho cuộc sống tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm cho cuộc đời này thêm ý nghĩa vì mọi người biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn ngữ Anh nói: “Cho người có lòng biết ơn là cho vay”. Quả thật, cuộc sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời “cám ơn”, sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với những “món nợ tình thương” trao trả cho nhau.
Lời tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì “thật ra, Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời” (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy, những lời tạ ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: “Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin vào Thiên Chúa (bài đọc 1, trích sách Các Vua Quyển thứ hai).
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu: con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác to lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem ông ta phản ứng ra sao?”. Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây để xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về, người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung quanh, nhưng không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho ông một món quà thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước những ân huệ Ngài ban. Chúng ta cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai thầy trò: hãy luôn biết cho đi bằng những “bàn tay vô hình” đầy ắp tình thương. Đó là cách tạ ơn Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÒNG BIẾT ƠN- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
“Cám ơn” hai chữ thật giản đơn, nhưng lại biểu lộ được nhân cách của con người. Đồng thời, lòng biết ơn còn là một dấu chứng cho niềm tin, là giá trị nền tảng cho cuộc sống, bởi lẽ xét cho cùng, mỗi người chúng ta không tự mình hiện hữu. Chúng ta không thể sống mà không sống cùng, sống với người khác. Chúng ta không thể sống hạnh phúc nếu không có sự hỗ trợ của người khác.
Thế nhưng, hai tiếng “cám ơn” hình như ngày càng thiếu vắng hơn trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngại ngần khi phải nói hai tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuộc dốc một cách nguy hiểm.
Do đó, trong giờ này, tôi muốn được chia sẻ cùng quý OBACE về lòng biết ơn dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay.
Tạ ơn, dấu chỉ của lòng tin:
Bài đọc một thuật lại câu chuyện quan Naaman người Syria sau khi được ngôn sứ Êlisê chữa lành khỏi bệnh phung hủi đã đến để dâng lễ vật tạ ơn người của Thiên Chúa. Việc tạ ơn của ông ta không chỉ là sự biểu lộ của một lòng biết ơn sâu sắc đối với vị ngôn sứ, nhưng nó còn là một dấu chỉ của lòng tin. Ông tin rằng không phải là vị ngôn sứ đã chữa lành cho ông, nhưng chính Giavê, Thiên Chúa đã nhờ tay của vị ngôn sứ để chữa lành cho ông. Đối với ông, giờ đây, chỉ có một mình Giavê, Thiên Chúa của Israel mới là Thiên Chúa thật. Ông lớn tiếng tuyên xưng trước mặt vị ngôn sứ: “Thật, tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một mình Thiên Chúa ở Israel”. Như thế, những lời tạ ơn, nhất là lời tạ ơn Thiên Chúa, ngoài việc biểu lộ lòng biết ơn, nó còn là một dấu chỉ cho thấy mức độ của lòng tin nơi mỗi người chúng ta.
Thật vậy, chúng ta làm sao có thể nói nên lời tạ ơn, nếu như lòng chúng ta chưa tin rằng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã chết vì chúng ta? Chúng ta làm sao có thể nói lời cám ơn với một Thiên Chúa, mà chúng ta chưa hề cảm nghiệm được tác động của Ngài trong cuộc đời của chúng ta? Và nếu chưa tin đủ vào tình yêu của Thiên Chúa đối với mình, làm sao chúng ta có thể dâng lời tạ ơn khi cuộc sống hiện tại vẫn đang gặp những thử thách, gian truân?
Chúng ta chỉ có thể nói lời tạ ơn, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đang bao bọc cuộc đời của chúng ta. Chính vì nhận ra được bàn tay uy quyền của Thiên Chúa trong vũ trụ, và cảm nếm được lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với dân tộc và cuộc đời mình, mà tác giả Thánh vịnh đã cất tiếng ngợi ca, tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng cùng với cánh tay thánh thiện của Người”. Lời tạ ơn chân thành chỉ có thể là kết quả của một lòng tin, đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đã khẳng định, khi Ngài nói với người phung cùi đến cám ơn Ngài: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Người phung cùi đã trở lại cám ơn vì anh tin người đã chữa lành anh, chính là Đấng đến từ Thiên Chúa. Và chính lòng tin của anh đã làm cho anh được lành sạch. Anh đã được sạch không chỉ là tật bệnh bên ngoài, nhưng quan trọng hơn, từ đây, tâm hồn anh cũng được đổi mới, tràn đầy niềm vui của một người đã nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhận được tình yêu và lòng xót thương của Thiên Chúa, bổn phận của mỗi người chúng ta là cất tiếng tạ ơn. Và lời tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa nhất không phải là dâng cúng thật nhiều của cải vật chất, vì tất cả vũ trụ này đã là của Ngài. Thiên Chúa chẳng thiếu thốn gì, bởi đó, chúng ta chỉ có thể dâng lời cám ơn bằng việc hiến dâng đời mình để thờ lạy và tôn vinh Ngài.
Tôn vinh Thiên Chúa, dấu chỉ của lòng biết ơn:
Trong bài Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi. Tuy nhiên, chỉ có một người trở lại để nói lời cám ơn, và trớ trêu hơn, đó lại là người Samaria, một người dân ngoại, một người tội lỗi theo cái nhìn của người Do Thái. Thế nhưng, chính con người mà người Do Thái coi là tội lỗi đó đã biết trở lại để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, và như thế, anh đã dùng chính thân xác được lành của anh để làm thành lời ngợi khen, tôn vinh Người. “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này”.
Tôn vinh Thiên Chúa không chỉ bằng một lời nói thốt ra từ môi miệng, nhưng cần được thể hiện bằng cả tấm lòng thành của chúng ta. Người Samaria trong bài Tin mừng hôm nay, khi được chữa lành, anh không vội đi gặp bạn bè để làm một “bữa nhậu tẩy trần”. Anh cũng không vội đi gặp thân nhân để bày tỏ niềm vui, nhưng việc đầu tiên, là anh trở lại với Đấng đã chữa lành cho anh. Anh đã trở về lại với chính nguồn cội của mình. Và thánh Phaolô trong bài đọc hai cho thấy: ngài đã dùng chính cuộc sống của mình để tôn vinh Thiên Chúa. Thánh nhân sẵn sàng chịu mọi đau khổ, tù đày miễn sao cho Tin mừng được rao giảng, Danh Đức Giêsu Kitô được loan truyền. Và như thế, cuộc đời của thánh nhân chẳng phải là một lời tạ ơn tuyệt vời nhất hay sao? Thánh nhân sẵn sàng hy sinh tất cả, lặn lội bôn ba khắp nơi để rao truyền Tin mừng, như là một cách tốt nhất để thánh nhân bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thiên Chúa, Đấng đã thương tha thứ và chọn gọi thánh nhân làm tông đồ cho Ngài.
Còn Chu Văn, tác giả cuốn Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta: “Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếng cám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng” (Chu Văn, Lòng biết ơn, Chuyện tử tế, tập 1, trang 25). Theo gương của người phong cùi Samaria hôm nay, khi rời ngôi thánh đường này trở về nhà, mỗi người chúng ta trong ngày, ít là một lần, hãy nói lên một lời cám ơn với những người chúng ta gặp gỡ. Chồng hãy nói lời cám ơn với vợ vì một bữa cơm ngon, vì tất cả những sự hy sinh âm thầm mà người vợ đã dành cho gia đình; người vợ hãy nói lời cám ơn với người chồng vì những lao nhọc vất vả, vì những giọt mồ hôi anh đã đổ ra để đem lại miếng cơm manh áo cho gia đình. Con cái hãy nói lời cám ơn với cha mẹ vì những lao công vất vả, vì công lao dưỡng dục, và nhất là vì tình thương mà cha mẹ dành cho mình.
Cuối cùng, tất cả chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta sự sống, và nhờ phép Rửa, Ngài còn ban cho chúng ta được trở nên nghĩa tử của Người. Đồng thời, với bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu còn tiếp tục hiện diện đồng hành và sẵn sàng ban cho mọi ân phúc dư đầy để chúng ta chu toàn sứ mạng làm người và làm con Chúa.
Giờ đây, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tham dự hiến tế tạ ơn của Chúa Giêsu. Chớ gì từng người chúng ta cũng biết theo chân Chúa Giêsu, dâng trọn cuộc sống mình làm của lễ, để cả cuộc sống của chúng ta thực sự là một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa. Amen.