CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
- BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN 2
- SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU – Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm. 4
- GÓP PHẦN LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU – Lm. Đan Vinh. 9
- KIÊN VỮNG ĐỨC TIN – Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 16
- ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 20
- CAN ĐẢM VÀ KIÊN VỮNG – Gm. Giuse Vũ Văn Thiên. 22
- NGỌN LỬA TÌNH YÊU – Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 24
- SỰ QUẤY RỐI CẦN THIẾT – Lm. Carolô Hồ Bạc Xái 35
- NGỌN LỬA TÌNH YÊU – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 41
- HOÀNG TỬ BÌNH AN ĐẾN MANG SỰ CHIA RẼ – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 45
- NGỌN LỬA GIÊSU – Trích Logos C.. 48
- THẮP LỬA CHO ĐỜI – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 50
- BÌNH AN – Phêrô Trần Thanh Sơn. 53
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
—————————————————–
BÀI ÐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10
“Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”.
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn. Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: “Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn”. Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 39, 2. 3. 4. 18
Ðáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).
1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu.
2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.
3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa.
4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ.
BÀI ÐỌC II: Dt 12, 1-4
“Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 8, 12
All. All. – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53
“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU – Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm.
—————————————————–
1.- Ngữ cảnh
Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại Lc 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ngài thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- Vài điểm chú giải
– ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiện để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer; BJ).
– Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
– lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
– hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
– cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo; Crampon; Joüon; NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. BảnNova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…
Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiện để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer; BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. Lc 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
- Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữu và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
- Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến mộtcuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
- Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là mộtđiều răn của Thiên Chúa (x. Mc7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.
- Đức Giêsu mô tả cuộc khổ nạn của Người sắp đến như một “phép rửa”. Ngôn ngữ đó sẽ nhắc nhở cộng đoàn được rửa tội của thánh Luca rằng, những gì Đức Giêsu đối diện như là kết quả sứ vụ của Người và họ cũng được đòi buộc phải thi hành sứ vụ đó. Những người được rửa tội sẽ không ngạc nhiên rằng phép rửa sẽ mang lại giá trị cho chúng ta. Phép rửa mang lại cho chúng ta giá trị ở chỗ: tính phổ quát, vì đôi khi chúng ta bày tỏ một quan điểm trái ngược với bạn bè và gia đình chúng ta; sự an ủi, vì chúng ta biết trao ban, thậm chí cả nhu cầu của chúng ta đến những người lâm cảnh khốn khó; thời gian tự do, vì chúng ta làm tình nguyện trong một tổ chức viện trợ cộng đồng ở nhà thờ hoặc ở địa phương; thậm chí nếu họ cô lập chúng ta ra khỏi cộng đồng thờ phượng nơi sở tại của mình, thì chúng ta có thể làm việc đạo đức hoặc cầu nguyện theo thói quen của mình (Siciliano).
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
GÓP PHẦN LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU – Lm. Đan Vinh
—————————————————–
- HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 12,49-53
(49) Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên ! (50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? Thầy bảo anh em biết : Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau : ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai, con trai chống lại cha ; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.
- Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu dạy các môn đệ về sứ vụ của Người và những đòi hỏi đối với những ai muốn trở nên môn đệ của Người :
– SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU : là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giêsu là còn phải chịu một phép Rửa tức là chấp nhận trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban ơn cứu độ cho lòai người.
– NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ : Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình : trong cùng một nhà có những người tin Chúa và có kẻ không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ.
- CHÚ THÍCH:
– C 49-50 : + Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất : Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của Thiên Chúa, nhất là trong ngày tận thế, để thiêu hủy những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (x. Lv 10,2 ; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa, đã làm cho lòng hai môn đệ làng Emmau phải nóng lên, khi cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,32). Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3-19). Lửa còn ám chỉ những đau khổ mà Đức Giêsu phải chịu để thanh luyện con cái Ítraen giống như vàng được thanh luyện trong lửa (x. Mc 13,1-4 ; Is 1,25). + Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên : Đức Giêsu mong ước ban Lửa Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người. + Thầy còn một phép Rửa phải chịu : Phép Rửa là sự dìm mình dưới mặt nước. Thời Giáo hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự chết như trong cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu: Người cũng đã chết và được an táng trong lòng đất, rồi ngày thứ ba Người đã trỗi dậy vinh quang. + Lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất : Đức Giêsu thao thức chu toàn sứ vụ được Chúa Cha trao phó là phải trải qua cuộc tử nạn và phục sinh để ban ơn cứu độ cho loài người.
– C 51-53: + Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? :Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mêsia (x. Is 9,5-6 ; Lc 1,79). + Không phải thế đâu : Thứ bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi, như Người đã nói : “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả đã mơ tưởng (x. Gr 6,16 ; Ed 13,10.16). + Nhưng là đem sự chia rẽ : Đứng trước Đức Giêsu, người ta phải lựa chọn dứt khoát : Tin theo hay chống lại Người. Sự lựa chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ từng gia đình. + Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai…: Theo lời các ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x. Mk 7,6 ; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giêsu đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa và bước theo Người (x. Lc 14,26 ; 18,29-30).
- CÂU HỎI: 1) Theo Thánh kinh, Lửa là biểu tượng cho điều gì ? 2) Phép Rửa mà Đức Giêsu sắp phải chịu ám chỉ sự kiện nào ? 3) Bình an mà Đức Giêsu ban khác với bình an của thế gian ra sao ? 4) Tại sao Đức Giêsu lại đến đem sự chia rẽ cho các gia đình thay vì đem sự bình an ?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49).
- CÂU CHUYỆN:
1) LỄ MỪNG NGÂN KHÁNH MANG LẠI HIỆU QUẢ THIẾT THỰC :
Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau : “Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là : làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi xếp hàng vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc…
2) NGỌN LỬA NHIỆT TÌNH TIN YÊU CHÚA CỦA OZANAM :
Vào năm 1843, khi Thủ đô Paris nước Pháp đang xáo trộn do cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, nhiều cơ sở tôn giáo bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học ngành luật. Dầu mới chỉ là một thanh niên 17 tuổi, nhưng Ozanam đã can đảm dùng ngòi bút và việc làm để bênh đỡ Hội Thánh đang gặp nguy nan. Cậu năng đọc Kinh Thánh, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày. Cậu được thụ huấn với một vị giáo sư nổi tiếng là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ phục vụ Hội Thánh. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia bị rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các vị giáo sư trong trường đều phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức trong nhà trường. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác thành lập hội Bác ái Vinh sơn để thăm viếng chia sẻ bác ái cho những người nghèo khổ bệnh tật. Năm 18 tuổi, cậu cùng các bạn trong hội đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh và sẵn sàng hiến cả mạng sống của mình cho người nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa hồng rực sáng của Đức Kitô. Hội Thánh hôm nay cũng rất cần những tín hữu có tâm hồn nhiệt thành yêu mến phục vụ Chúa và tha nhân giống như Ozanam.
3) HÃY THẮP SÁNG CÂY ĐÈN TIN YÊU TRONG LÒNG MỖI NGƯỜI :
Một hôm, Mẹ Têrêsa ghé thăm một người đàn ông đang sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong căn lều là cả một bãi rác : Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Mọi đồ đạc trong lều đều được che phủ bằng một lớp bụi dầy. Ông sống cô độc và không chịu lui tới với ai nên ông cũng đã bị mọi người chung quanh xa lánh. Mẹ Têrêxa và các chị nữ tu đã vào trong lều và lên tiếng chào hỏi, nhưng ông làm thinh không đáp lại. Thấy căn lều hỗn độn và bụi bặm, các chị đã xin phép ông được dọn dẹp, nhưng ông cũng chẳng trả lời. Mặc kệ ! Các chị cứ bắt tay vào việc dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn dầu, mẹ Têrêxa đã lấy ra lau chùi. Khi lớp bụi được chùi sạch, mẹ đã kêu lên:
– Ồ, cây đèn đẹp quá !
Ông lão bỗng lên tiếng :
– Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới. Mẹ hỏi :
– Ông không bao giờ thắp đèn lên sao ?
– Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn cả.
– Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn lên cho ông không ? Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý.
Từ đó, mỗi chiều các chị nữ tu đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn lên cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời hơn. Ông bắt đầu nói chuyện cởi mở với các nữ tu và khi được khuyến khích, ông cũng đã đi lại thăm viếng các nhà hàng xóm. Mọi người khác cũng bắt đầu đến thăm ông. Căn lều hiu quạnh của ông lão giờ đã trở nên ấm áp hơn. Trước kia, căn lều tăm tối không những vì ông không thắp đèn lên, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông đã bị lịm tắt nên ông không nghĩ đến việc thắp sáng nó lên. Nay căn lều đã bừng lên niềm vui không phải do ánh sáng của ngọn đèn dầu, mà do ánh sáng tin yêu trong trái tim ông đã bùng cháy lên. Trước kia ông tỏ ra thù ghét xa lánh mọi người là do ánh lửa trong trái tim đã tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa tin yêu ấy lại bùng cháy lên. Ông đã biết nghĩ đến người khác và đến thăm nhà hàng xóm, và ông cũng được mọi người chung quanh đến thăm và giúp đỡ ông.
- SUY NIỆM:
Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy : Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức đi theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.
1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU:
Đức Giêsu đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giêsu là mong sớm hoàn tất công cuộc Tử nạn và Phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người.
-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên ! (Lc 12,49):
Lửa do Đức Giêsu ném vào mặt đất là gì ?
+ Là Lửa Thánh Thần được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh, giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi, và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).
+ Là Lửa Tin Yêu được Đức Giêsu mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em với nhau, hầu cho mọi người biết yêu thương và tạo niềm vui hạnh phúc cho nhau.
Đức Giêsu ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau : “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình của Thiên Chúa có “Thiên Chúa là Tinh Yêu” ngự trị (1 Ga 4,8).
–Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !” :
Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy là hình ảnh diễn tả mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là chấp nhận cứu chuộc nhân loại bằng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã báo trước với các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).
Về sau, thánh Phaolô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: «Anh em không biết rằng : Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).
Đức Giêsu được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại bằng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Emmau để động viên họ : « Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công việc cứu độ bằng cuộc tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.
2) NHỮNG ĐÒI HỎI CỦA TIN MỪNG ĐỐI VỚI TÍN HỮU HÔM NAY :
– Ý thức sứ vụ làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu :
Để chu toàn sứ vụ làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường mình đang sống, thì ngoài việc năng cầu xin Thánh Thần ban ơn qua lời cầu nguyện, chúng ta còn phải năng học sống Lời Chúa bằng việc tham dự các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu mỗi lần dự lễ và rước lễ, nhất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa đến cho tha nhân, như hai môn đệ làng Emmau xưa : sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức quay lại thủ đô để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ (x Lc 24,13-35). Rồi các Tông đồ và môn đệ sau khi đón nhận ngọn lửa Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, đã lập tức làm cho ngọn lửa tin yêu ấy bùng cháy bằng việc hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh và làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và đến những miền đất xa lạ khác.
– Sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin : Không phải chỉ những người xấu xa tội lỗi mới bị thù ghét, mà cả những người lương thiện cũng có thể bị thù ghét bách hại. Sự thù ghét này là do bất đồng quan điểm, hoặc do gây ra bất lợi cho họ. Chẳng hạn : Cain đã thù ghét giết hại Abel vì ganh tị với em; Các đầu mục dân Do thái đã thù ghét giết hại Đức Giêsu dù Người vô tội vì Người đã dám phê phán hành động sai trái của họ; Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã khuyến cáo các môn đệ sẽ bị người đời bách hại, và kẻ bách hại có thể lại chính người thân của mình : “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Đó là cái giá người môn đệ phải trả nếu muốn trung thành với đức tin, và cũng là điều kiện để người tín hữu nhận được ơn cứu độ ở đời sau. Trên thế giới cũng đã có nhiều tín hữu can đảm thi hành sứ vụ ngôn sứ và chấp nhận trả giá bằng chính cái chết của mình : Mục sư Martin Luther King đã can đảm rao giảng Tin Mừng để bênh vực quyền bình đẳng cho người da đen và đã bị bọn phân biệt chủng tộc ám sát. Đức Giám mục Helder Camara cũng đã can đảm đấu tranh cho người nghèo và cuối cùng đã bị những thế lực thù đich giết hại. Nhưng chính nhờ cái chết của các ngài, trở thành ngọn lửa thiêng làm bùng cháy lên sự thật và giúp nhiều người khác thức tỉnh cộng tác.
– Chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng : Ngày nay Chúa Phục Sinh cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng tình thương, để góp phần xua tan bóng tối văn hóa sự chết là những bất công hận thù, nghèo đói, tội ác… bằng cách làm bùng lên ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ vô vụ lợi. Sở dĩ ngày nay sau hơn hai mươi thế kỷ loan báo Tin Mừng mà nhân loại vẫn còn nhiều sự ác, một phần cũng do lỗi của các tín hữu chúng ta đã thiếu nhiệt tình thi hành sứ vụ làm bùng lên ngon lửa tin yêu, như MAHATMA GANDHI, vị thánh của dân tộc Ấn Độ đã nhận định : “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh”.
Mỗi tín hữu chúng ta hãy cố gắng sống Tin Mừng Tình Thương và cầu xin ơn Chúa trợ giúp, noi gương mẹ Têrêsa Canquýtta đã cầu nguyện như sau : “Lạy Chúa Giêsu thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”
- CÂU HỎI: 1) Thế giới hiện còn nhiều bóng tối của ma quỷ. Vậy tâm hồn bạn hiện đang ở trong bóng tối ganh ghét hay trong ánh sáng tình thương? 2) Bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là văn hóa sự chết như : tội lỗi, bạo lực, đam mê và các tệ nạn xã hội… ra khỏi môi trường sống là gia đình, khu xóm và nơi làm việc ?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Thần. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nhận biết Chúa.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KIÊN VỮNG ĐỨC TIN – Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
—————————————————–
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi các Ki-tô hữu phải kiên vững đức tin trong sứ mạng của mình dù gặp phải những chống đối, thù nghịch.
Gr 38: 4-6, 8-10
Vì trung thành với sứ mạng của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mọi người thù ghét và bách hại. Các Ki-tô hữu coi vị ngôn sứ này là hình bóng của Đức Ki-tô.
Dt 12: 1-4
Tác giả khuyên những Ki-tô hữu gốc Do thái của ông phải kiên trì đức tin trong mọi gian nan thử thách bằng cách noi gương các bậc tiền nhân, nhất là mẫu gương tuyệt hảo của Đức Ki-tô.
Lc 12: 49-53
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt đến tuyệt đỉnh khi Ngài báo trước sứ mạng của các môn đệ sẽ đồng nhất với sứ mạng của Ngài trong cùng một tình yêu tận mức dành cho con người.
BÀI ĐỌC I (Gr 38: 4-6, 8-10)
1.Hoàn cảnh bi thương của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Đây là một trong những bài trình thuật kể về những đau khổ mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a phải chịu vì trung thành với sứ mạng của mình. Ngôn sứ đã tuyên sấm rằng thành đô Giê-su-sa-lem sẽ bị điêu tàn nếu dân chúng vẫn cứ bất trung với Thiên Chúa của mình. Dĩ nhiên, đối với các thủ lãnh, lời tuyên sấm này phản ảnh tinh thần chủ bại và phản quốc, vì thế họ tìm cách bịt miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a bằng cách thả ông xuống “hầm không có nước mà chỉ có bùn”. Nhưng ngôn sứ được cứu nhờ viên thái giám người Cút là ông E-vét Me-léc.
2.Một cuộc đời trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa:
Để có thể hiểu những nỗi đau giằng xé trong tâm khảm của vị ngôn sứ, chúng ta đừng bỏ qua những lời tâm sự đến xé lòng của ông theo hình thức cầu nguyện, như “Con vô phúc quá, mẹ ơi, me ính con ra làm gì, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với con? Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người, thế mà vãn cứ bị nguyền rủa. Quả vậy, lạy Đức Chúa, con đã chẳng đem thiện chí phục vụ Ngài hay sao? Nào con đã chẳng cầu khẩn với Ngài cho thù địch khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải gian truân?” (Gr 15: 10-11), nhất là “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’ Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, ầm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến pahri hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20: 7-9). Thật ra, ngôn sứ Giê-rê-mi-a vốn là một con người hiền lành, không muốn làm mất lòng bất kỳ một ai. Trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa mà ông trở nên kẻ thù địch của mọi người, vì những thông điệp của ông đi ngược lại những mong ước của mọi người. Vì thế, đoạn trích dẫn hôm nay không nên nhấn mạnh sự giải thoát cho bằng sứ mạng trung thành chuyển giao lời của Đức Chúa mà ông bị loại trừ và chịu đau khổ. Quả thật, sự đau khổ của Giê-rê-mi-a tiên trưng sự đau khổ của Đức Giê-su, được phác họa trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 1-4)
1.Noi gương các bậc tiền nhân:
Trong Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc Thư gởi tín hữu Do thái mà chúng ta đã khởi sự đọc vào Chúa Nhật trước. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc lời khuyến dụ kết thúc danh sách các bậc anh hùng Cựu Ước. Các ngài là những “chứng nhân” về niềm tin sắc son kiên vững trong mọi gian nan thừ thách. Tác giả Thư gởi tín hữu Do thái mời gọi chúng ta noi gương các bậc tiền nhân kiên trì giữ vững đức tin trong mọi gian nan thử thách. Như một vận động viên, để có thể đạt được vòng nguyệt quế chúng ta phải chấp nhận cởi bỏ khỏi bản thân mình bất kỳ thứ gì làm vướng víu cuộc chạy đua của mình.
2.Đức Giê-su là mẫu gương tuyệt hảo của người Ki-tô hữu:
Đối với người Ki-tô hữu, Đức Giê-su còn vĩ đại hơn gấp vạn lần các bậc anh hùng Cựu Ước. Khi sống tại thế, Ngài đã không chỉ “khai mở” con đường đức tin nhưng còn “kiện toàn” lòng tin bằng cách “cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Chính nhờ hướng về Ngài, người Ki-tô hữu sẽ thành toàn cuộc đời mình qua những gian nan thử thách của cuộc đời này.
TIN MỪNG (Lc 12: 49-53)
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt tới cao điểm khi Ngài mặc khải rằng việc họ thuộc về các môn đệ Ngài sẽ đặt họ vào những tình huống không yên thân thoải mái đâu. Thực vậy, ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giê-su được đề cập ở 12: 49-50 có những phản hồi trực tiếp đến các môn đệ ở 12: 51-53. Tin Mừng hôm nay có hai ý được gợi lên qua hai cặp hình ảnh: “lửa và phép rửa” (12: 49-50), “hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53).
1.“Lửa và phép rửa” (12: 49-50)
Bằng cặp hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giê-su nói đến sứ mạng sắp đến của Ngài. Trước hết, “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”: Trong Kinh Thánh, hình ảnh “lửa” thường mô tả tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa cho con người (x. Đnl 4: 24; Xh 13: 22; vân vân). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người tận mức ở nơi biến cố Nhập Thể của Con Ngài (Ga 3: 16). Qua hình ảnh “lửa”, Đức Giê-su tự nguyện hiến dâng mạng sống mình vì chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Vì thế, Chúa Giê-su những ước cùng mong đến giờ thực hiện tình yêu tận mức của Ngài đối với con người được bừng cháy trên Thập Giá.
Tiếp đó, Đức Giê-su mô tả cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài qua hình ảnh phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”, nghĩa là Ngài sẽ dìm mình vào trong cái chết, nhưng từ cái chết Ngài sẽ sống lại trong vinh quang để không bao giờ chết nữa. Qua hình ảnh “phép rửa”, Đức Giê-su tha thiết ước mong được hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Cũng thế, chúng ta chịu phép rửa, nghĩa là chúng ta dìm mình vào trong cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô, tức là chết cho tội lỗi mình, và được tái sinh vào một đời sống mới chan chứa muôn vàn ân sủng: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4).
Qua cuộc sống mới này, chúng ta, những người Ki-tô hữu, phải bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu theo cùng cách thức như Đức Giê-su đã châm ngọn lửa ở nơi các môn đệ Ngài: “Kinh ngạc rất tự nhiên về những việc Thiên Chúa làm, tâm hồn chiêm niệm tràn đầy lòng nhiệt thành tông đồ. ‘Nghe trong mình nung nấu tự tâm can, càng nghĩ ngợi, lửa càng bừng cháy’ (Tv 39: 4). Ngọn lửa này là gì nếu không là ngọn lửa mà Đức Ki-tô nói đến: ‘Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!’ (Lc 12: 49). Ngọn lửa tông đồ được tăng cường trong lời cầu nguyện: không có cách thức nào tốt hơn điều này là tiếp tục đấu tranh cho hòa bình khắp cùng thế giới, vì cuộc chiến này mỗi người Ki-tô hữu được kêu gọi lấp đầy những gì còn thiếu ở nơi những đau khổ của Đức Ki-tô (x. Col 1: 24)” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 120).
2.“Hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53)
Con Thiên Chúa đã giáng trần với một sứ điệp hòa bình: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14) và hòa giải: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5: 11). Các ngôn sứ cũng đã loan báo sứ mạng của Đấng Ki-tô là sứ mạng hòa bình (x. I s 9: 5tt; Dcr 9: 10) và thánh Phao-lô cũng xác quyết chính Đức Giê-su “là bình an của chúng ta” (Ep 2: 14-15). Tuy nhiên, vì cưỡng kháng lại công trình cứu độ của Đức Ki-tô do tội, con người trở thành những đối thủ của Ngài: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?”. Bất công và lầm lạc dẫn đến chia rẽ và chiến tranh. “Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Ki-tô đến. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người vượt thắng tội lỗi và cũng vượt thắng bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: ‘Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thánh lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không tập luyện để chiến đấu’ (Is 2: 4)” (Vatican II, Gaudium et spes, 78).
Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên, dù rằng “Người đã đến loan Tin Mừng bình an” cho hết mọi người (Ep 2: 17-18), tuy nhiên, suốt cuộc đời tại thế, Đức Giê-su đã là dấu chỉ của sự mâu thuẫn (x. Lc 2: 34). Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết rằng sự bất đồng và chia rẽ đồng hành với công việc truyền bá Tin Mừng (x. Lc 6: 20-23; Mt 10: 24). Ngay cả trong gia đình vốn là nơi yêu thương và đùm bọc nhau, đôi khi vì niềm tin vào Ngài và vào Tin Mừng của Ngài lại trở thành cuộc bách hại ngay trong gia đình mình. Vì thế, Chúa Giê-su nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình theo kiểu thế gian, nghĩa là không có chiến tranh, bách hại, mà là hòa bình của Thiên Chúa, một thứ hòa bình ngự trị trong cõi thâm sâu của lòng người, đó là hòa bình mà thế gian không thể nào ban cho được.
“Lời Chúa Giê-su nói về sứ mạng của Người cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Người: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là một thứ bình an mà phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân không cùng niềm tin với mình. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: ‘Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa’ (Cv 14: 22). Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng ‘chia rẻ’: a) Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác; b) Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
—————————————————–
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CAN ĐẢM VÀ KIÊN VỮNG – Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
—————————————————–
Chúa nhật 20 thường niên năm nay nhằm ngày 14-8, lễ nhớ thánh Maximilianus Maria Kolbe, linh mục người Ba Lan, dòng Hiến sĩ Đức Mẹ, tử đạo trong trại tập trung của Phát xít Đức. Tháng 7 vừa qua, nhân dịp đến Ba Lan gặp gỡ các bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới để dự Đại hội Giới trẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm Auschwitz, nơi trước đây là trại tập trung. Vị Chủ chăn của Giáo Hội đã thinh lặng cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé dưới tầng hầm, là nơi cha Kolbe cùng với 9 tù nhân khác bị giam giữ và chết vì hơi độc. Cha Kolbe đã tự nguyện chết thay cho một tù nhân. Hành động này khiến những viên cai tù ngỡ ngàng. Sau khi cha Kolbe bị giết chết trong phòng hơi ngạt, những viên cai tù trở nên trầm ngâm ít nói và hành động của họ bớt đi sự dữ dằn, ác nghiệt. Cha Kolbe đã hành động dũng cảm, vừa chết thay cho một tù nhân, vừa làm cho những cai tù bớt tàn ác. Ngài đã nêu gương Chúa Giêsu, chấp nhận khổ hình để đem cho nhân loại hạnh phúc, chấp nhận thập giá để thay cho bạo lực, mời gọi con người sống với nhau nhân ái hơn. Cái chết của ngài là một chứng từ về Đức yêu thương: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13). Tình yêu của Cha Kolbe là tình yêu ở mức hoàn hảo nhất. Sống ở đời, ai cũng muốn một cuộc sống tiện nghi, an bình, mạnh khỏe và trường thọ, nhưng Chúa lại dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 14,25). Cha Kolbe đã chấp nhận hy sinh mạng sống mình, và ngài chắc chắn sẽ tìm lại nó trong vương quốc vĩnh cửu.
Lời giảng của Chúa Giêsu hôm nay xem ra như một nghịch lý khó chấp nhận. Người tuyên bố, Người đem cho trần gian sự chia rẽ. Những ai đón nhận Lời Hằng sống, phải can đảm chọn lựa. Sự chọn lựa này rất quyết liệt, có khi đòi hỏi chúng ta phải hy sinh những mối liên hệ thiêng liêng thân thiết như vợ chồng, cha con, anh em ruột thịt, người thân kẻ nghĩa. Chúa muốn tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa phải là một tình yêu ưu tiên, vượt lên trên tình yêu mà chúng ta dành cho người thân, không để những mối liên hệ ấy ngăn cản chúng ta theo Chúa. Vì thế, con đường theo Chúa là con đường thập giá hy sinh.
Những hy sinh để theo Chúa không phải là những việc làm vô nghĩa. Nếu chúng ta chấp nhận đánh đổi mọi thứ để chọn Chúa Giêsu, thì Người sẽ bù đắp cho chúng ta gấp trăm ở đời này. Người sẽ cho chúng ta được niềm vui và hạnh phúc ở đời này và đời sau.
Ông Giêrêmina là một ngôn sứ sống trong bối cảnh xã hội rất phức tạp, trước khi người Do Thái bị bắt đi lưu đày ở Babylon. Vì trung thành với sứ mạng ngôn sứ, ông đã bị một số gian thần trong triều đình nhà vua xúc xiểm, vu oan. Ông đã bị bỏ xuống giếng sâu nguy hiểm. Tuy vậy, giữa bao nhiêu chống đối thử thách, ông vẫn trung thành với Chúa, và Chúa đã giải thoát cho ông qua một quan cận thần khác. Ngôn sứ Giêrêmia phải chịu khổ nạn vì dân tộc mình và do những người thân gây ra. Cả đời của ông đã trở nên dấu chỉ cho vận mệnh của dân tộc. Ông là vị ngôn sứ trung thành, tận tụy và cam đảm đối diện với sự ác. Ông là hình ảnh của Đấng Cứu thể chịu khổ nạn.
“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận, hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất, vì trông mong niềm vui đang chờ đợi mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn…”. Tác giả thư Do Thái khích lệ chúng ta trong trận chiến cuộc đời để duy trì đức tin. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những phong ba bão tố trần gian sẽ tôi luyện chúng ta trở nên vững vàng trong hành trình làm môn đệ Đức Giêsu.
Lửa mà Chúa Giêsu đem đến trần gian là ngọn lửa của yêu thương bác ái. Người mời gọi các tín hữu hãy làm cho lửa ấy bừng cháy lên nơi cuộc đời còn nhiều tăm tối và hận thù. Cũng nhân dịp Đại hội Giới trẻ vừa qua tại Ba Lan, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, ngài có một giấc mơ, mong ước có một triệu bạn trẻ trở thành những người sống Tin Mừng và nỗ lực truyền giáo trong môi trường sống cụ thể của họ, dù là công nhân hay nông dân, dù là học thức hay bình dân, dù là doanh nghiệp hay trí thức, tất cả đều cố gắng sống giáo huấn của Chúa Giêsu và giới thiệu Người với thế giới hôm nay. Mong cho lửa yêu thương bừng cháy, đó cũng chính là giấc mơ của Chúa Giêsu. Người gửi gắm nơi chúng ta để làm cho giấc mơ ấy trở thành hiện thực, nhờ vậy, vương quốc tình yêu sẽ bao trùm thế giới này.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGỌN LỬA TÌNH YÊU – Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
—————————————————–
- DẪN NHẬP.
Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói :”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian ? Thầy bảo cho các con biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì ?
Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói :“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.
Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn : tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi : phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 38,4-10.
Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.
Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,1-4.
Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
+ Bài Tin mừng : Lc 12,49-53.
Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính :
- a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
- b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn : một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.
Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ngọn lửa tình yêu bùng cháy.
- ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.
- Điều Đức Giêsu muốn nói.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc : Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”? Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới ?
Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên” ? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?
- Lửa trong Thánh Kinh.
Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực : ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).
Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).
Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).
Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng :”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.
(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).
Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài :”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng :”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.
- Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ.
Đức Giêsu nói :”Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư ? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn ? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng : bằng hai chữ hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53) : Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm : chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa : hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).
Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ : Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.
- ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.
- Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu.
Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu : cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao :”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới ? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người ? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.
Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.
- Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu.
Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.
Đức Giêsu cũng thế : ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa : theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa ! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
- Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.
Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.
Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.
Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình :”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh : những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.
Truyện : Chấp nhận bị chửi.
Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ” ! Vì sao ? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất. !
Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói :”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư ? Thầy bảo thật các con : không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.
III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.
- Kitô hữu phải lựa chọn.
Nếu đặt câu hỏi : là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa ? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.
Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi :”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai” ? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.
- Chọn lựa phải dứt khóat và hiệu quả.
Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý ? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).
Truyện : Thánh nữ Perpetua.
Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha :”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết :”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời :”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ :”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
- Lựa chọn và Thập giá.
Đức Giêsu đã nói :”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu : tử đạo, cái chết ! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.
Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).
Truyện : Họ đã chọn một phép rửa.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.
Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.
Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.
Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.
Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.
Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không ? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.
Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng :”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.
Truyện : Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề :”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.
Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
SỰ QUẤY RỐI CẦN THIẾT – Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
—————————————————–
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ai ai cũng thích được sống yên ổn trong những thói quen của mình. Tuy nhiên cứ mãi ở yên trong những thói quen xấu thì rất là tai hại. Bởi vậy cần phải có ai đó đánh thức lương tâm, kết án sự xấu và lôi kéo con người trở về đường tốt. Đó là những sự quấy rối cần thiết.
Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta can đảm đón nhận những sự quấy rối đó, và cũng can đảm dám quấy rối trước những tình trạng xấu của kẻ khác.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta chỉ thích nghe những lời êm tai vừa ý và không đón nhận những lời thật sửa lỗi chúng ta.
- Nhiều khi chúng ta còn thù ghét những người thành tâm sửa lỗi chúng ta.
- Chúng ta không can đảm đấu tranh cho công bình và sự thật.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Gr 38, 4-6. 8-10)
Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục làm tội và cậy vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia vạch rõ những sai lầm ấy và đe dọa rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày.
Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu. Nhưng Chúa đã cho người cứu ông lên.
- Đáp ca (Tv 39)
Tâm tình Tv này rất hợp với Giêrêmia: Tôi đã trông cậy Chúa và Người đã nghiêng mình về bên tôi. Người đã kéo tôi lên khỏi lỗ mồ, khỏi chỗ bùn nhơ…
- Tin Mừng (Lc 12, 49-53)
Đoạn này có hai ý:
a/ Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
b/ Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).
- Bài đọc II (Dt 12, 1-4) (Chủ đề phụ)
Hoàn cảnh: Các kitô hữu gốc Do Thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do Thái cũ thù ghét vì coi họ là những người phản đạo. mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Tác giả thư Do Thái đã nêu gương Chúa Giêsu để an ủi và khuyến khích họ: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu. Ngài cũng gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
- Gợi ý giảng
* 1. “Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian”. Còn nhớ có lần Phêrô tuốt gươm ra để bênh vực Ngài khi quân dữ đến bắt Ngài. Khi ấy Ngài đã bảo Phêrô xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài nói “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy đến để đem sự chia rẽ!”.
Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.
Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v. v.
Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.
* 2. Sứ mạng ngôn sứ
Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa. Mà lời Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thuận tai loài người. Cho nên ngôn sứ thường bị coi là những người quấy rối, và bị ghét bỏ.
Nhưng kitô hữu chúng ta có sứ mạng ngôn sứ. Chúng ta có sứ mạng nói lên sự thật để vạch trần sự gian dối; chúng ta có sứ mạng đòi hỏi công bình mỗi khi gặp bất công.
Kinh nghiệm cho thấy không có gì khiến người ta khó chịu cho bằng đòi hỏi sự thật và công bình.
Vì thế sứ mạng của kitô hữu càng khó khăn hơn.
Trước chúng ta, đã có nhiều kitô hữu can đảm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: Martin Luther King rao giảng cho hòa bình và cho quyền tự do của người da đen. Ông đã bị ám sát chết. Đức Giám mục Helder Camara tranh đấu cho người nghèo và cũng bị bắn gục.
Xã hội ngày nay có nhiều điều xấu, và những điều xấu ấy vẫn tồn tại lâu dài. Phải chăng vì Kitô hữu đã bỏ quên hay đã hèn nhát không thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình?
* 3. NGỌN LỬA TÌNH YÊU (Lc 12,49-53)
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.
Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
***
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12, 49). Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vắn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại.
Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
***
lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trsi tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngời trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc )
* 4. Chấp nhận bị ghét
Lòng ganh ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà v. v.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyến cáo các kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị ghét bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…”
Đó là những sự ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin Mừng của mình.
* 5. Hoà bình thật và hòa bình dỏm
Một đầm lầy xem ra rất phẳng và đẹp ở bề mặt của nó
Nhưng sâu bên dưới toàn là bùn sình rác rưởi hôi thúi.
Một thứ hoà bình dựa trên những giả dối và bất công được thoả thuận với nhau chỉ là thứ hòa bình dỏm. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để mang lại thứ hoà bình dỏm này.
Thứ hoà bình thật Chúa Giêsu mang đến là thứ hòa bình mà trong đó sự thật được tôn trọng, mọi quyền lợi của con người được tôn trọng.
Những người cố gắng xây dựng nền hòa bình của Thiên Chúa có thể bị người đời cho là những kẻ quấy rối, nhưng họ được Thiên Chúa gọi là “Con” của Ngài.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu của Người xuống trần gian để sưởi ấm con tim băng giá của nhân loại. Với ước mong ngọn lửa ấy bừng lên trên toàn thế giới, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh đã và đang làm hết mọi cách / để giúp các Kitô hữu hiệp nhất với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho nỗ lực cao quý / nhưng đầy khó khăn này.
- Ngày nay / sự ganh tỵ / lòng ghen ghét / vẫn đang ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
- Hiện giờ / bất hòa / chia rẽ vì bè phái / vẫn đang hoành hành trong các cộng đoàn giáo xứ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết dẹp bỏ bất hòa và chia rẽ / để luôn sống hiệp nhất với nhau.
- Đời sống gia đình chỉ thật sự hạnh phúc / khi các thành viên trong gia đình biết sống trên thuận dưới hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn nêu gương cho các gia đình khác về đời sống bác ái yêu thương.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, ghen ghét, hận thù, vừa trái với tinh thần bác ái của Chúa vừa dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại trong mối quan hệ thường ngày. Vì thế, xin Chúa cho chúng con biết sống theo Lời Chúa dạy, và đừng bao giờ để cho lòng ghen ghét và sự hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Nước Thiên Chúa là nơi chân lý và công lý ngự trị. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta làm một việc rất khó, đó là làm chứng cho sự thật và công bình. Với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng cao cả này.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGỌN LỬA TÌNH YÊU – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
—————————————————–
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: “Xưa Thiên Chúa đã phán: ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm’, Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2Cr 4, 6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
“Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình”.
“Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
“Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu”.
“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó”.
“Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác”.
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HOÀNG TỬ BÌNH AN ĐẾN MANG SỰ CHIA RẼ – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
—————————————————–
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay xem ra thật nghịch lý: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba : cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 51-53).
Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Đức Giêsu được Isaia loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thiên chào đón với những lời ca tiếng hát : “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Khi đi rao giảng, Người đã từng công bố : “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, 9). Chính Đức Giêsu, khi bị bắt, đã truyền cho Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26, 52). Nay lại tuyên bố : “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51). Chúng ta lý giải sao cho sự mâu thuẫn này?
Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt xem đâu là sự bình an và hiệp nhất mà Đức Giêsu mang đến, và đâu là sự bình an và sự hiệp nhất Người muốn tẩy chay. Người đến ban bình an và hiệp nhất cho người lành, bình an dẫn tới sự sống đời đời, và Người tẩy chay sự bình an và hiệp nhất giả tạo, chỉ ru ngủ lương tâm và dẫn tới sự đồi bại.
Không phải Đức Giêsu có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn. Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn, chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau. Lời và con người Đức Giêsu sẽ phát hiện những điều gì giấu kín nhất trong chốn sâu thẳm lòng người. Cụ già Simeon đã tiên báo điều này, khi bồng Hài Nhi Giêsu trên tay mình và nói : “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Isrel phải sụp đổ. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư của nhiều tâm hồn được biểu lộ” (Lc 2,35).
Phải chăng “lưỡi gươm” mà Đức Giêsu đã mang xuống trái đất, chính Người là nạn nhân đầu tiên cho sự chống đối này? Đúng thế, Chính Đức Giêsu sẽ là nạn nhân thứ nhất, Người sẽ thí mạng sống Người vì nó. Tiếp theo, người trực tiếp hơn hết dính líu trong thảm cảnh này là Đức Maria Mẹ Người, như cụgià Simeon đã nói về Mẹ : “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).
Chính Đức Giêsu cũng đã phân biệt hai kiểu bình an khi nói với các môn đệ mình rằng : “Thầy để lại bình an cho các con ; Thầy ban bình an của Thầy cho các con ; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các các con đừng xao xuyến” (Ga 14, 27). Sau khi phá hủy sự bình an và tình liên đới giả tạo của loài người trong sự dữ và sự tội nhờ sự chết của Người, Đức Giêsu đã hoàn tất sự bình an và hiệp nhất mới là hoa quả của Chúa Thánh Thần. Đó là sự bình an Người cống hiến cho các môn đệ trong đêm Phục Sinh, khí nói “Bình an cho anh em!”
Đức Giêsu nói rằng sự “chia rẽ’ này cũng có thể xảy ra trong gia đình: giữa cha và con trai, mẹ và con gái, anh em và chị em, nàng dâu và mẹ chồng. Và vô phúc thay, chúng ta biết điều này thỉnh thoảng gây đau đớn thật sự. Người nào đã gặp được Chúa và muốn nghiêm chỉnh theo Chúa, thường thấy mình ở trong tình huống khó khăn phải lựa chọn: Hoặc làm cho những người tại nhà được hạnh phúc và lơ là Thiên Chúa và việc thực hành đạo đức, hoặc là theo những cái sau và đặt mình xung đột với những người của mình, những kẻ mang lại rắc rối cho mình vì mọi sự nhỏ mọn mình làm cho Thiên Chúa và vì lòng sốt sắng.
Nhưng sự chống đối thâm nhập còn sâu hơn, trong chính con người, và trở thành một trận chiến giữa xác thịt và tinh thần, giữa tiếng mời gọi đi tới ích kỷ và sự hưởng thụ quá đáng, và tiếng gọi lương tâm. Sự chia rẽ và xung đột bắt đầu bên trong chúng ta. Thánh Phaolô đã minh họa điều này cách rất kỳ lạ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt; đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gal 5,17).
Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy: ” Bản chất của hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động…Do đó, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi. Vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải canh phòng cẩn thận.
Phát sinh từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là kết quả của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà đến. Vì chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính xác thể Người, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.
Nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: “Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để chiến đấu” (Is 2,4). (Trích Hiến chế “Gaudium et spes”, số 78).
Xin cho thế giới được hưởng nền hòa bình do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Nữ Vương Bình An cầu cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGỌN LỬA GIÊSU – Trích Logos C
—————————————————–
Ngôn từ của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôn nay thật lạ: “Đừng tưởng ta đến để đem lại hoà bình!… Ta đến để đem lửa đến trần gian và mong sao lửa đó cháy bùng lên!” Không lẽ Đức Giêsu lại là Đấng khai hoả chiến tranh sao?
Hoà bình của Đức Giêsu là gì?
Theo nghĩa thông thường: hoà bình là không có chiến tranh. Tuy thế, có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tình trạng không chiến tranh.
Kẻ mạnh áp đảo kẻ yếu và kẻ yếu cúi mình chấp nhận phận hèn, thế là chiến tranh biến mất. Đây là thứ hoà bình bất công. Hoà bình này ngấm ngầm mang một ngòi nổ hận thù và sẵn sàng bùng lên chiến tranh tương tàn.
Có thứ hoà bình ma quỉ. Đó là trường hợp người ta thoả hiệp với sựdữ để cầu lợi, xuôi chiều theo điều sai trái để được yên thân. Sa tan và con người trở thành “liên minh ma quỉ” lập hoà ước theo tinh thần Sa tan.
Hoà bình theo đường lối Đức Giêsu là sự hiệp nhất có được do mọi người thuận theo thánh ý duy nhất của Chúa. Để có được thứ hoà bình này, con người phải can đảm cùng bước ra khỏi bóng tối sự dữ để đến với anh em, dám dứt khoát nói “không” với cám dỗ, dám lội ngược dòng với khuynh hướng thấp hèn. Đức Giêsu đến như ngọn lửa tạo ra vùng trời ánh sáng đócho ta.
Ngọn lửa Giêsu soi sáng
Đức Giêsu đã dùng đời sống và lời giảng của Ngài để minh định đường lối nên Thánh thật. Người ta hay nhập nhằng giữa Danh Chúa và danh mình. Con người hay nhân Danh Chúa để vẽ hào quang cho mình. Đức Giêsu đã lôi nhưng cách sống lập lờ ấy ra ánh sáng. Chúa khẳng định: đó là giả hình, giả hình như ngôi mộ tô vôi đẹp bề ngoài mà dơ bẩn bên trong (cf Mt 23, 13-28). Người ta hay nhân Danh Chúa mà xúc phạm đến nhau, triệt hạ nhau; nhân Danh Chúa để ném đá nhau (cf Ga 8, 2-11); nhân Danh Chúa để khinh bỉ, loại trừ nhau (cf Ga 9, 1-34) nhân Danh Chúa để thờ ơ trước tha nhân đang khốn khổ (cf Lc 10, 29-47).
Chúa đã làm lộ ra những vết đen trong đời sống con người bằng ánh sáng lời Chúa. Anh sáng ấy làm chói mắt những kẻ quen bóng tối và chỉ muốn an thân. Thế nhưng ánh sáng ấy lại cần thiết để khởi sự việc thăng tiến con người. Nhờ đó,con người thấy chỗ sai của mình. Mà có biết sai thì mới biết sửa sai cho đúng.
Ngọn lửa Giêsu thanh tẩy
Đức Giêsu còn là ngọn lửa thanh tẩy. Ngài đốt cháy những hình thức sai trái có thể làm biến chất đạo tình yêu. Ngài thiêu rụi những rơm rác mà qua bao năm tháng người ta đã tha vào đạo để dựa vào đạo mà kiếm chác lợi lộc.
Người ta truyền tụng một câu chuyện về vùng di cư Gia Kiệm thuở mới lập trại như sau:
Ngày xưa khi mới di cư, vùng Gia Kiệm là những trại di cư dọc theo quốc lộ 20. Nhà nhà là những căn nhà tranh vách nứa lụp sụp, tạm bợ, thiếu vệ sinh trầm trọng. Nhưng vì hoàn cảnh chân ướt chân ráo mới tới, chẳng ai nghĩ đến thay đổi mái nhà của mình.
Một buổi trưa hè, có một ngọn lửa đã đốt cháy một trong những căn nhà tranh vách nứa đó. Thế là ngọn lửa lan nhanh, chẳng ai có thể tắt ngọn lửa giữa trưa hè hừng hực và nó thiêu rụi hết nhà này sang nhà khác. Thật tang thương! Sau đó, mọi người buộc lòng phải dựng lại căn nhà của mình để ở.
Sau biến cố cháy trại đó,người ta dường như thấy bộ mặt trại di cư đổi mới: những căn nhà gỗ, mái ngói, mái tôn thay thế cho những mái tranh vách nứa đã cháy rụi mấy ngày qua. Ngọn lửa tưởng là tai họa đó lại trở thành ngọn lửa thanh tẩy bộ mặt trại di cư.
Quả vậy, có những trường hợp cần có ngọn lửa đốt cháy những cặn bã, những hư hỏng để thanh tẩy. Đức Giêsu như ngọn lửa cần thiết để thanh luyện con người nên tinh ròng. Các KiTô hữu đích danh là những người dám để cho ngọn lửa Đức Giêsu tôi luyện hầu nên Thánh. Ngài dùng Lời Chúa như lưỡi gươm loại trừ những ý tưởng đen tối, nhỏ nhen, ích kỷ… nơi trí lòng ta. Ngài dùng Hội Thánh để chỉnh sửa những thái độ hiềm khích, bất công với tha nhân nơi ta. Ngài dùng bí tích để băng bó những vết thương tâm hồn ta và ban ơn nâng đỡ để bồi dưỡng cho ta thêm mạnh sức linh hồn. Để trở nên thành phần dân của Đức Giêsu, con người phải can đảm để ngọn lửa Giêsu thanh luyện.
Đường dẫn tới bình an là đường đấu tranh.
Chúng ta chắc đã hiểu được ngôn từ của Chúa: “Ta đến để đem sự chia rẽ”. Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía thiện tâm của Ngài mà chống lại tà tâm của Satan. Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía công bằng để chống lại bất công. Ngài mời gọi chúng ta đứng lên phất cờ yêu thương để đẩy lui hận thù. Ngài mời gọi chúng ta quảng đại tha thứ để dẹp tan những chấp nhất nhỏ nhen. Đó chính là thái độ lội ngược dòng. Nó làm cho người lội ngược dòng trở nên ngườiđối kháng với những kẻ thoả hiệp xuôi dòng thế gian.
Lạy Chúa, Đấng mời gọi chúng con lội ngược dòng theo Chúa,xin nâng đỡ chúng con..
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THẮP LỬA CHO ĐỜI – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
—————————————————–
Cuối tháng Bảy vừa qua, trong ngày Quốc Khánh của Pháp, một cuộc khủng bố đẫm máu đã xảy ra giết chết hơn 85 người và nhiều người khác bị thương. Kẻ khủng bố đã dùng ô tô lao vào đám đông đang tụ tập tại Nice để ngắm pháo hoa và vui chơi trong ngày lễ. Đứng sau cuộc khủng bố này là những người Hồi Giáo quá khích cực đoan. Chắc chắn không một tôn giáo nào dạy người ta làm điều ác. Với lương tri con người, ai cũng thấy việc giết chóc và gây đau khổ cho người khác là một tội ác. Mục tiêu của những kẻ khủng bố này là gieo rắc sự chết chóc và sợ hãi. Những kẻ này mang trong mình ngọn lửa thù hận, lửa hủy diệt, lửa chiến tranh ; lửa này không thể sưởi ấm tâm hồn con người nhưng chỉ gieo sợ hãi và tang tóc mà thôi.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sứ mạng của Ngài là : Mang lửa xuống thế gian. Ngài ước ao cho lửa ấy bùng cháy lên. Lửa Chúa Giêsu đem đến thế gian là lửa gì ? Trước hết, đó là lửa của khao khát sự nhiệt thành. Lòng nhiệt thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ nung đốt tâm hồn Chúa Giêsu. Ngài thao thức trăn trở và miệt mài để mời gọi và giúp mọi người có thể đón nhận được ơn cứu độ, được sống trong yêu thương và hạnh phúc. Ngọn lửa khao khát này đã thôi thúc Đức Giêsu thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu chuộc nhân loại bằng con đường thập giá. Chúa Giêsu đã so sánh con đường này như là một phép rửa mà Ngài sẽ trải qua để thể hiện trọn vẹn tình yêu đối với Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài và trọn vẹn tình yêu với nhân loại mà Ngài yêu thương.
Lửa Chúa Giêsu mang đến là lửa của tình yêu, một thứ lửa làm dịu mát tâm hồn và không làm bỏng ai. Lửa này giúp cho người đau khổ, cô đơn được an ủi, được ấm lòng ; giúp người mệt mỏi, uể oải với cuộc sống được thôi thúc, nung nấu để phấn chấn, mạnh mẽ vươn lên. Hơn nữa, lửa của Chúa Giêsu còn là lửa của Thánh Thần, là chính Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân đổi mới vũ trụ địa cầu, nâng đỡ những tâm hồn yếu đuối, sưởi ấm những tâm hồn băng giá vô cảm, Đấng hướng dẫn con người bước đi trong ánh sáng chân lý và sự thật.
Chính từ ý tưởng này mà Chúa Giêsu đã dùng cách so sánh khiến nhiều người thắc mắc : Thầy đến không đem hòa bình nhưng là đem sự chia rẽ. Vậy Chúa Giêsu có phải là người gây chia rẽ, chiến tranh hoặc khủng bố không ? Chắc chắn Chúa Giêsu không gieo chiến tranh, cũng không gieo khủng bố, nhưng Ngài đem lửa chân lý và sự thật đến thế gian. Sự chia rẽ xảy ra là do giằng co giữa tin và không tin, đón nhận hoặc từ chối. Sự chia rẽ này trước hết là sự chia rẽ nội tâm trong mỗi người, là cuộc chiến xảy ra trong tâm hồn mỗi người khi đón nhận sự thật và chân lý của Chúa.
Con người cũ là con người sống theo bản năng, chiều theo tự do của xác thịt, bị cuốn hút vào những hấp dẫn của thế gian, điểm cuối cùng của chọn lựa con đường này là sự suy thoái và sự chết. Con người mới là con người hướng thượng, cố gắng vươn lên đến Chân, Thiện, Mỹ. Con người mới này được mời gọi bước theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, để cho Chúa Giêsu dẫn dắt. Từ sự đối nghịch giữa con người cũ và con người mới đã dẫn đến sự phân rẽ trong nội tâm con người, khiến cho con người luôn phải giằng co và chiến đấu với chính mình. Kẻ thù nguy hiểm chưa phải là kẻ thù trước mặt, nhưng là kẻ nằm ngay trong chính mỗi người, nó có thể tấn công ta bất cứ lúc nào, đó cũng là kẻ thù mà ta dễ thua nhất.
Cũng từ việc chon lựa tin hay không tin, theo hay không theo đã xảy ra chia rẽ ngay trong các gia đình. Có những người quảng đại đón nhận giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, có những người nấn ná hay từ chối khiến cho sự chống đối xảy ra. Sự chống đối Chúa Giêsu nói ở đây không phải là sự phản đối nhau bằng bạo lực hoặc súng đạn, cũng không phải là chiến tranh nhân danh tôn giáo theo kiểu ngày nay, nhưng là cuộc chiến đấu âm thầm mà liên lỉ của chân lý, của tình yêu.
Người môn đệ khi lãnh nhận ngọn lửa tình yêu, lửa Tin Mừng của Chúa, được mời gọi bước vào một cuộc chiến vượt lên chính mình và cũng là cuộc chiến từng ngày đẩy lùi sự ác, sự dữ và bất công. Cuộc chiến này đòi hỏi kiên trì nhẫn nại để làm cho lửa tình yêu lan tỏa trong thế giới độc ác này, để cho ánh sáng chân lý đẩy lùi bóng tối của bất công, gian dối, giúp cho sự thật lên ngôi và tình yêu được triển nở. Như thế, sự chống đối trong gia đình giữa cha mẹ, con cái, anh em, không phải là một cuộc nội chiến, nhưng là một cuộc tâm chiến, tức là chiến đấu trong tâm hồn và trong sứ vụ.
Trong xã hội từ xưa đến nay, chúng ta thấy dường như sự dữ và sự ác vẫn thắng thế, con người vẫn thích nghe và đi theo sự giả dối hơn là sự thật. Tiên tri Giêrêmia là vị tiên trị đau khổ nhất, ông phải chiến đấu liên tục với chính mình và chiến đấu liên tục cho chân lý. Ông nói lời sự thật, nói lời của Thiên Chúa, thì dường như vua quan và dân chúng không muốn nghe ông, vì cho là ông nói điều bất lợi. Họ muốn nghe theo lời giả dối đường mật của các ngôn sứ giả, họ còn tìm cách thủ tiêu ông vì không muốn ông nói lời của Chúa.
Vì thế, để có thể sống ngay thẳng thật thà theo lương tâm, sống công minh chính trực theo Tin Mừng trong một xã hội gian dối lọc lừa không phải là điều dễ. Người ta thường biện minh cho mình : Người ta sao, tôi làm vậy, hoặc cho rằng sống thẳng thắn thật thà thường thua thiệt. Vì thế mà nhiều người Công Giáo đã đầu hàng trong cuộc chiến đấu bảo vệ chân lý đức tin của mình. Họ đầu hàng không phải vì những viên đạn hay vũ khí, nhưng đầu hàng trước những món lợi nhuận, dù biết là bất chính, nhưng vẫn không dám từ chối.
Nhiều cha mẹ đã hoàn toàn buông xuôi để cho kẻ thù là sự tự do dễ dãi, là vật chất hưởng thụ bước vào giày xéo gia đình mình. Cùng với kẻ thù này là những viên đạn ích kỷ, vô cảm, độc ác đang từng ngày sát hại tâm hồn của các thành viên trong gia đình, biến gia đình trở thành một lò thuốc súng, một ổ chiến tranh. Các thành viên khác của gia đình cũng đang phải từng ngày chiến đấu với chính mình, giữa công bằng và bất công, sự thật và gian dối trong công việc làm ăn cũng như trong các tương quan với những người khác.
Để có thể chiến thắng trong cuộc chiến này, thư Do Thái đã chỉ cho chúng ta : Chúng ta phải loại bỏ gánh nặng và tội lỗi trói buộc, từ bỏ các thứ vũ khí của thế gian để bước vào một cuộc chiến và cũng là cuộc đua mà đích điểm luôn là Chúa Kitô. Chúa Giêsu là Đấng đã đem lửa đến thế gian, Ngài muốn mỗi chúng ta sẽ là những cộng tác viên, là người thắp lửa cho thế giới hôm nay. Muốn cộng tác với Chúa Giêsu và trở nên chiến sĩ của Người, chúng ta phải thắp cuộc đời mình, không bằng một thứ lửa nào khác, mà phải là lửa tình yêu, lửa Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trước hết, hãy để cho ngọn lửa này đốt nóng tâm hồn mỗi chúng ta, biến chúng ta trở thành người nhiệt thành đem ánh sáng cho anh chị em. Kế đến là để cho lửa tình yêu, lửa Thánh Thần đốt cháy và biến đổi chúng ta, để chúng ta trở nên những con người mới, con người thuộc về Chúa Giêsu, thấm nhuần Tin Mừng tình yêu của Chúa Giêsu để khi tiếp xúc gặp gỡ chúng ta, người khác có thể cảm nhận được sức nóng từ lòng yêu mến lan tỏa đến họ, khiến họ cảm nhận được an ủi và chữa lành từ Tin Mừng của Chúa.
Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta tham gia thực hiện khao khát của Ngài. Để có thể trở thành những người thực hiện khao khát của Chúa Giêsu, làm cho ngọn lửa Tin Mừng, lửa thương xót được bùng cháy lên, đòi chính mỗi chúng ta phải không ngừng chiến đấu với bản thân để làm cho lửa Tin Mừng và lửa thương xót lan tỏa và thiêu đốt tâm hồn và cả cuộc sống chúng ta.
Xin Chúa thêm sức mạnh để mỗi chúng ta sẽ là những người cộng tác với Chúa, tiếp lửa cho đời. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BÌNH AN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
—————————————————–
Khi nói về Thiên Chúa, chúng ta vẫn thường nghe và nghĩ về một Thiên Chúa quyền năng, hay thương xót, đem đến bình an cho nhân loại như lời thiên thần hát trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Và đúng như thế. Thiên Chúa luôn là Đấng ban bình an, Ngài là nguồn của mọi sự bình an. Thế nhưng, trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại nói: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Vậy thì chúng ta phải hiểu lời này của Chúa Giêsu như thế nào?
Khái niệm về bình an
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là bình an. Theo Tự điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ học, xuất bản năm 2001 thì bình an là “sự yên lành, không gặp điều gì tai hại, rủi ro”. Bình an là không gặp điều gì rủi ro, tai hại. Và chúng ta vẫn thường đồng hóa sự rủi ro, tai hại này với sự nghèo túng, thất bại, bị hiểu lầm … Do đó, khi gặp những một thử thách nào, chúng ta lại nghĩ rằng mình chưa được bình an.
Tuy nhiên, bình an theo tinh thần của Tin Mừng thì không phải như vậy. Bình an theo Tin Mừng là một tình trạng tinh thần của con người sống ngay thẳng, trong sạch trước mặt Thiên Chúa. Khi đó, cho dù cuộc sống hiện tại có khó khăn, bản thân có gặp nguy hiểm, thậm chí cả lúc tính mạng bị đe dọa, thì con người đó vẫn bình an.
Do đó, nếu hiểu bình an là không gặp tai nạn, rủi ro về mặt thân xác, thì quả thật là Chúa Giêsu đã không đem đến sự bình an. Trái lại, nếu hiểu bình an là tình trạng của tâm hồn ngay thẳng, công chính, thì Chúa Giêsu chính là Nguồn của bình an và là Đấng duy nhất có thể đem lại bình an cho chúng ta. Như thế, bình an thật trước hết đòi chúng ta tránh xa sự dữ. Kế đó là sống công chính.
Không thỏa hiệp với sự dữ
Sự bình an chân thật và lâu dài, trước hết đòi mỗi người chúng ta phải tránh không được thỏa hiệp với sự dữ dưới bất cứ hình thức nào. Việc không thỏa hiệp với sự dữ đòi mỗi người chúng ta phải đi vào một cuộc chiến thật sự, đó là: chiến đấu với bản thân, chiến đấu với gia đình và chiến đấu với xã hội.
– Chiến đấu với bản thân: trong bài đọc hai, tác giả thư Do Thái mời gọi: “Chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta”. Những điều làm cho chúng ta ra nặng nề là sự ươn lười, là việc chiều theo dục vọng đam mê, là sự ganh tỵ, kiêu căng và cả sự mặc cảm tự ti. Tất cả những điều đó làm cho chúng ta chỉ biết dừng lại nơi bản thân mình. Và chính vì chỉ nghĩ đến bản thân mình, tâm hồn mỗi người chúng ta sẽ rất nặng nề, vì không bao giờ chúng ta có thể tự thỏa mãn được. Chỉ những ai vượt thắng đam mê của bản thân và những cám dỗ xung quanh, hay nói một cách khác, những ai “Ngẩng lên không thẹn với trời, nhìn xuống không hổ với đất, nhìn vào lòng không thẹn với lương tâm” thì người đó mới có thể có được một sự bình an chân thật. Cuộc chiến đấu này tuy có vất vả, nhưng chúng ta hãy yên tâm, vì Thiên Chúa không làm gì quá sức của chúng ta, như lời khẳng định của tác giả thư Do thái trong bài đọc hai: “Trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu”.
– Chiến đấu với gia đình:
Trong bài Tin mừng Chúa Giêsu đã nói rõ: “Từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba”. Bình an thật không bao giờ là một thỏa hiệp, kể cả sự thỏa hiệp với người thân trong gia đình. Không vì “cả nể” mà im lặng trước điều xấu. Muốn có bình an thật thì chúng ta phải chấp nhận “mất lòng trước được lòng sau”. Với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng nhận ra rằng: Ai muốn làm vừa lòng tất cả mọi người, thì người đó sẽ chẳng được lòng ai cả.
– Chiến đấu với xã hội.
Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Trong hoàn cảnh đó, thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục sống trong tội và cậy dựa vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia đã vạch rõ những sai lầm ấy và báo cho họ biết rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày.
Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu, nhưng Thiên Chúa đã cho người cứu ông lên như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một.
Ngôn sứ Giêrêmia được Thiên Chúa gọi để trở nên sứ giả của Ngài. Ông đã không hề làm tổn hại ai, nhưng suốt cả sứ vụ của mình, vị ngôn sứ vẫn luôn gặp sự chống đối. Lý do là vì ngôn sứ Giêrêmia tố cáo tội lỗi của triều đình và những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, lẫn sự bất trung của dân chúng. Ông đã không dua nịnh, che dấu nhưng nói rõ những lỗi lầm của họ, không tìm cách nói cho vừa lòng họ, nên họ tìm cách làm hại ông. Họ vu cáo vị ngôn sứ: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người nầy, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ”.
Thế nhưng, cho dù trước mắt, vị ngôn sứ là người bị hại, nhưng thật ra, ông chính là người được bình an. Còn những người ra tay làm hại ông lại là người chẳng có bình an. Hành động của họ chỉ càng chứng tỏ sự bất an trong lòng họ.
Trận chiến chống lại sự dữ là một trận chiến hết sức gay go, và cam khổ, tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt qua được. Do đó, sức mạnh giúp chúng ta đứng vững và chiến thắng trong trận chiến này đó là ân sủng của Chúa Giêsu. Tác giả thư Do thái mời gọi chúng ta: “hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng mang đức tin và làm cho nó nên hoàn tất”. Vâng, chỉ có nhìn thẳng vào Chúa Giêsu, vào thập giá của Ngài, mỗi người chúng ta mới đủ dũng lực đi trọn con đường đức tin của mình. Thánh nhân còn nói tiếp rằng: “Anh en hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng”.
Kết quả
Tìm được bình an thật. Đây là thứ bình an của một tâm hồn thanh sạch, bình an của những người đã cố gắng hết sức mình cho dù phải chết để chiến đấu trong một cuộc chiến chính nghĩa. Đây là thứ bình an không mua được bằng tiền, hay có thể chiếm đoạt bằng sức mạnh của vũ lực, nhưng là thứ bình an đạt được do nỗ lực kiên trì trong đức tin để sống công chính. Đây là thứ bình an có được do nỗ lực vượt thắng những đam mê của bản thân, là một cố gắng vượt qua áp lực của gia đình, của xã hội để sống trung thành với lời dạy của Thiên Chúa.
Nếu mỗi người chúng ta luôn sống ngay thẳng, công chính thì cho dù cuộc sống hiện tại có khó khăn, trở ngại, nhưng chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ có bình an. Và đây là thứ bình an mà không ai có thể cướp đoạt được. Amen.