CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
- BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC -Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
- MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT – Chú giải của Lm Vũ Phan Long 5
- GIÀU CÓ TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA – Chú giải của Noel Quesson. 9
- KHO TÀNG TRÊN TRỜI – Inhaxiô Hồ Thông. 14
- NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 21
- NHỮNG GI NGƯƠI SẮM SẴN ĐÓ SẼ VỀ TAY AI? – Carôlô Hồ Bặc Xái 24
- CÁCH DÙNG CỦA CẢI ĐỜI NÀY – Lm Giuse Đinh lập Liễm… 34
- CẨN TRỌNG KHI SỬ DỤNG TIỀN CỦA – Jos. Vinc. Ngọc Biển. 46
- HÃY CHỌN CÁI BỀN VỮNG VÀ BỎ CÁI TẠM THỜI – Antôn Nguyễn Văn Độ. 50
- HÃY GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 53
- QUÁN TRỌ CUỘC ĐỜI – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn. 57
- KHO LẪM TÌNH THƯƠNG – Trích Logos C.. 60
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC -Nguồn: UBTK/HĐGMVN
***
BÀI ĐỌC I: Gv 1, 2; 2, 21-23
“Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm”.
Bài trích sách Giảng Viên.
Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không. Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao. Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm mà phải chịu đau khổ cực lòng dưới phàm trần? Suốt ngày của họ đầy sự đau khổ gian truân, và ban đêm lại không được yên lòng, thế thì chẳng phải là hư không sao?
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9.
Đáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta”.
BÀI ĐỌC II: Cl 3, 1-5, 9-11
“Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Đức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang. Vậy còn sống trên địa cầu, anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn là dân ngoại và Do-thái, chịu phép cắt bì hay không chịu phép cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa, nhưng mọi sự và trong mọi sự có Đức Kitô.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 4, 4b
All. All. – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – All.
PHÚC ÂM: Lc 12, 13-21
“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Người bảo kẻ ấy rằng: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?” Rồi Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”. Người lại nói với họ thí dụ này rằng: “Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: ‘Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?’ Đoạn người ấy nói: ‘Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: “Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi”. Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’ Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT – Chú giải của Lm Vũ Phan Long
***
Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn Ông phú hộ.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu của một người trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và người anh liên hệ đến chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kể Dụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng cho bản thân đến những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Một vụ kiện (12,13-15);
2) Dụ ngôn Ông phú hộ (12,16-20);
3) Nhận định kết luận của Đức Giêsu (12,21).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– Thưa Thầy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến trong Bộ Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11; 36,7-9), một vị tôn sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là những con người thích hợp để tham vấn.
– Này anh (14): Dịch sát là “này người” (hô-cách củaanthrôpos, “người”; x. 5,20). Từ này thường được dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè dặt.
– tham lam (15): Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl 3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây là sự ham muốn có thêm nữa, quá mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).
– Thiên Chúa bảo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp xếp chương trình sống không có Ngài.
– ngốc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).
– người ta sẽ đòi lại mạng ngươi (20): Động từ aitousinở ngôi thứ ba vô định số phức tương đương với một thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ đòi lại mạng ngươi”.
– cho mình (21): nghĩa là không phải cho người khác, như người nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Một vụ kiện (13-15)
Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là một người em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và thụ hưởng chung gia tài, nên muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức Giêsu dứt khoát từ chối can thiệp. Yêu cầu của người ấy và yêu cầu của Đức Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần sở hữu độc lập. Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói về tương quan của con người với của cải. Chính các tranh chấp về gia tài thường đưa ra ánh sáng một liên hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.
* Dụ ngôn Ông phú hộ (16-21)
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là mộttính toán sai lầm.
Theo một quan niệm nào đó về cuộc sống, hoàn cảnh Đức Giêsu phác ra có thể coi là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải quyết. Như thế, ông này có trong tay các phương tiện để sống mộtcuộc sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do sống theo ý thích, trong sự sung túc.
Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngột đảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều năm trời. Tất cả những gì đã thu tích được và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Một người sống như thế thì không giàu có trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu khẳng định rằng để đạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan Thiên Chúa.
* Nhận định kết luận của Đức Giêsu (21)
Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được mức thành toàn nhờ các của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.
+ KẾT LUẬN
Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu là điều quan trọng nhất? Ta có thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộc đời? Đức Giêsu nói rõ ràng các của cải vật chất không thể đảm bảo cho cuộc sống và sự sung túc, thoải mái, không thể là nội dung của cuộc sống được. Sự thành toàn chỉ được một mình Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình trước mặt Ngài.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
- Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng, mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên ngoài các giá trị này, còn những giá trị và mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?
- Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y khoa. Người ta ít nghĩ tới nó chừng nào tốt chừng đó. Người ta tránh để cho lòng mình bị xúc động trước cái chết của người khác. Dĩ nhiên người ta vẫn không tránh được cái chết. Do đó, người ta phải khai thác tối đa thời gian của cuộc sống được ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó, người ta có thể “đạt thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi. Người ta có thể không nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực. Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.
- Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại tình yêu. Chỉ cuộc sống nào nhắm đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân thì mới là cuộc sống trung thực. Chỉ một cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận và được Ngài đưa đến chỗ thành toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta cũng phải nhận cả ý nghĩa của đời sống từ Ngài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện nghi, mà là tình yêu.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
GIÀU CÓ TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA – Chú giải của Noel Quesson
***
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau… Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.
Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
- Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.
- Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một “ẩn ngữ”, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ”, Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
- Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”. Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”.
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính “sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình… Mình… Mình sẽ làm… mình sẽ phá… mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình… kho lẫm của mình… thóc lúa của mình… chính bản thân mình…”.
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại “nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại” người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố” (Lc 6,39). “Điên” ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc 12,33-34).
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHO TÀNG TRÊN TRỜI – Lm. Inhaxiô Hồ Thông
***
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cảnh báo mỗi người chúng ta coi chừng để hết công sức vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.
Gv 1: 2; 2: 21-23
Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.
Cl 3: 1-5, 9-11
Trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Ki-tô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được dự phần vào cuộc Phục Sinh của Chúa Ki-tô, họ trở thành một thụ tạo mới.
Lc 12: 13-21
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca thuật lại dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời này cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)
“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. Câu mở đầu sách Giảng Viên này đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền chắc. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.
1.Tác giả và tác phẩm:
Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.
Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những lời bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, niềm hy vọng vào sự sống mai sau chưa biết đến; sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn thãm (2: 14-16).
2.Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:
Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do được nêu lên. Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.
A-Công lao khó nhọc mà mình nên ra lại phải trao vào tay người khác:
Phải trích dẫn rộng hơn đoạn văn này: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19). Tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.
B-Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:
“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.
Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữu các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)
Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.
1.Lập luận của thánh Phao-lô:
Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Ki-tô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.
2.Thực tại tinh thần:
Phép Rửa hiệp nhất người Ki-tô hữu với Đức Ki-tô Phục Sinh, Đức Ki-tô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
3.Con người mới:
Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Ki-tô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ tròn đầy vào ngày tận thế. Sống theo Đức Ki-tô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.
4.Mặc lấy Đức Ki-tô:
Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Ki-tô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Ki-tô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.
“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thọ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Ki-tô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Ki-tô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát (đoạn văn hoàn toàn đối xứng với đoạn văn của chúng ta): “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 2: 27).
5.Ơn thông hiểu:
“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các Thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo rằng Mặc Khải Ki-tô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3). Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Ki-tô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)
Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giê-su về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.
1.Đức Giê-su từ chối lời thỉnh cầu:
Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giê-su nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giê-su để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.
Chúa Giê-su từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giê-su cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).
2.Sự giàu có đích thật:
Chúa Giê-su chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.
Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giê-su có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm; chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).
Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
***
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước mạnh dùng sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những nước giàu dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh tế trở thành một sức mạnh. Tiền bạc trở thành một vũ khí lợi hại. Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để trở nên giàu có. Thế mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược chiều với xã hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ thấy.
1) Chúa Giêsu xuống trần gian không nhằm giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người đã trả lời: “Ai đặt ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải để giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc giữa con người với nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất trong cuộc sống.
2) Chúa Giêsu muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống lại việc làm giàu, tích lũy của cải. Người chỉ muốn cho việc tích lũy của cải có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong vấn đề cơm, áo, gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và “être” (là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi chất lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì ở ngoài, không làm thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo thành bản thân tôi, gắn bó thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu muốn đời nghèo khổ, không của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của Người không có giá trị. Giuđa chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không phải vì thế mà ông có giá trị hơn người khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần quần áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị hoàng đế đến thăm hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ cần nhà vua đứng tránh ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong hai người ấy, ai cao quý hơn, ai đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quý hơn, sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt được chất lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến phương tiện thành mục đích.
3) Chúa Giêsu mở tầm nhìn vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích. Có được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm nhìn của ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời này. Lời Chúa phán: “Hỡi đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sửa đó sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà hưởng thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà chịu phán xét. Chúa không đánh con người theo khối lượng những gì họ có, nhưng đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá của Chúa, những gì ta thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một tầm nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hay nâng cao cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi Thiên Chúa, kho tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm. Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải có thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về Lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều thứ khác cao quý hơn?
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NHỮNG GÌ NGƯƠI SẮM SẴN ĐÓ SẼ VỀ TAY AI? – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
***
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường và trong nền văn minh hưởng thụ. Bởi đó chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc của cải. Nhưng của cải vật chất vừa có lợi vừa có hại.
Lời Chúa hôm nay sẽ cho ta thấy rõ mặt phải và mặt trái của tiền bạc của cải. Xin Chúa giúp chúng ta có lập trường đúng đắn đối với của cải vật chất.
II. Gợi ý sám hối
- Nhiều khi chúng con đã coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa anh em.
- Nhiều khi chúng con đã vì tiền mà lỗi đạo với Chúa.
- Thực tình chúng con cậy dựa vào tiền bạc hơn vào Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gv 1, 2; 2, 21-23)
Sách Giảng viên gom góp những suy tư khôn ngoan của nhiều thế hệ. Trong đoạn này, có nhiều ý tưởng xem ra bi quan yếm thế nhưng lại rất đúng:
- Có người suốt đời vất vả làm việc để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết phải bỏ lại tất cả.
- Ích gì có được nhiều tiền nhưng đêm ngủ không yên vì sợ tiền bị mất.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tv này như một lời khuyên tiếp nối những nhận định bi quan của bài đọc I: cách sống khôn ngoan nhất là mỗi ngày hãy lắng nghe tiếng Chúa dạy và cứ sống theo đó.
3. Tin Mừng (Lc 12, 13-21)
- Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
- Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
- Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
4. Bài đọc II (Cl 3, 1-5. 9-11)
Thánh Phaolô tiếp tục dạy các kitô hữu về cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép Rửa:
- Vì họ đang sống một cuộc sống mới nên từ nay hãy có một quan tâm mới: đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
- Hãy cởi bỏ con người cũ theo xác thịt để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Chúa Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Có tiền và xài tiền
Một lão trọc phú keo kiệt kia đã tích lũy được một số tiền rất lớn và đang mơ tới tương lai hạnh phúc đang chờ đón lão. Tuy nhiên trước khi lão kịp vung tiền ra mua lấy hạnh phúc thì thần chết hiện ra đòi bắt hắn xuống âm phủ.
Lão thương lượng: “Xin Thần chết cho tôi sống thêm ba ngày nữa thôi. Tôi sẽ chia cho Ngài một nửa tài sản của tôi”. Thần chết không chịu. Lão xuống giá: “Vậy xin cho tôi sống thêm một ngày. Tôi sẽ giao cho Ngài tất cả tài sản”. Thần chết vẫn không chịu. Lão nài nỉ “Xin cho tôi một phút thôi, để tôi kịp viết lời trối”. Thần chết đồng ý. Lão ngồi xuống, cầm bút viết câu sau đây:
“Gửi người nào gặp được tờ giấy này. Nếu bạn có đủ tiền để sống thì đừng uổng phí cuộc đời để kiếm thêm nhiều tiền nữa làm chi. Hãy lo sống thôi! Tiền bạc của tôi rất nhiều, nhưng chỉ một giờ để sống tôi cũng chẳng mua được!”
Tiền của không phải để sở hữu mà để hưởng dùng. Nói nôm na, tiền bạc không phải để “có” mà để “xài”. Nhiều người rất biết cách “sở hữu” nhưng lại không biết cách “hưởng dùng”. Rốt cuộc họ không hạnh phúc bằng một đứa trẻ, sở hữu rất ít nhưng hưởng dùng rất nhiều. Người giàu thật không phải là người có nhiều mà là người hưởng dùng nhiều. Cố gắng để có thật nhiều tiền mà không thể hưởng dùng thì chẳng khác gì một người mù cố gắng thu góp thật nhiều băng Vidéo.
Vấn đề đặt ra là “hưởng dùng” và “xài” tiền như thế nào.
* 2. Nghệ thuật làm giàu
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối”.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Đó chính là “nghệ thuật làm giàu” đích thực. (TP)
* 3. Túi tham không đáy
Tolstoi kể rằng một người nông dân kia tên là Pakhom rất ham thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, anh tậu được một mảnh đất 40 mẫu. Anh mừng lắm. Nhưng chẳng bao lâu anh muốn một mảnh đất rộng hơn. Anh lại làm lụng và để dành, bán mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, mua được một mảnh đất 80 mẫu. Nhưng anh chưa thoả mãn, muốn tìm một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người cho anh biết rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được.
Ngay sáng hôm sau, anh nông dân đi sang vùng bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói: “Anh chỉ cần trả 1000 rúp thì có thể sở hữu được một vùng đất mà anh đi được trong một ngày. Nhưng cần nhớ là anh phải trở lại đúng nơi điểm xuất phát cũng trong ngày đó. Nếu về không kịp thì kể như mất tiền vô ích”.
Đêm đó người nông dân sung sướng ngủ không được. Vừa rạng sáng hôm sau anh nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu bước đi. Càng đi anh càng sung sướng vì thấy đất của mình càng rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên mất thời gian. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh mới hốt hoảng quay về. Nhưng vì anh đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Đến điểm mốc, anh ngã gục xuống.
Vị tù trưởng đến chúc mừng: “Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh”. Nhưng người nông dân không đứng dậy được nữa để nhận lấy tài sản của mình, vì anh đã chết!
Có được một số tiền bạc của cải để sống là điều cần thiết. Vì thế trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái ta cần, mà phê phán lòng tham hơn mức ta cần (tiếng anh: not about need but about greed). Nếu người nông dân trong chuyện trên biết dừng lại khi đã có 40 mẫu đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mãi mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa: ta càng thoả mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm. Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội.
Hãy xem những con chim. Khi chúng xây dựng tổ ấm, chúng chỉ tìm vài nhánh cây đủ cho cái tổ ấy rồi thôi. Hãy xem những con nai. Khi chúng khát, chúng chỉ uống vừa đủ rồi thôi. Sao chúng ta không đơn giản như những con chim và những con nai kia!
* 4. Gia tài để lại cho con cái
Có thể chúng ta cố gắng kiếm tiền không phải để cho mình hưởng, nhưng để làm gia tài trối lại cho con cái.
Xin hãy nghe câu chuyện sau đây:
Người kia làm việc trong một công ty đang phát triển mạnh, lương anh khá cao cho nên gia đình rất hạnh phúc. Anh có một ngôi nhà xinh xắn, một người vợ hiền và mấy đứa con ngoan.
Nhưng anh tự nghĩ: mình còn trẻ, sức lực còn nhiều. Mà công ty hiện không thiếu việc. Thế là anh làm thêm giờ phụ trội. Thu nhập càng cao hơn. Anh lại nghĩ: nếu mình phấn đấu để lên chức thì sẽ được tăng lương nữa. Và anh phấn đấu, và quả thực anh lên chức.
Cho đến một hôm đi khám bệnh, anh được biết mình đã mắc phải một chứng bệnh nguy hiểm và đã tới giai đoạn cuối cùng. Nghĩa là anh không sống được bao lâu nữa. Lúc sắp rời bỏ vợ con ấy, anh mới biết rằng xưa nay anh chẳng hiểu vợ con bao nhiêu, và con cái anh cũng chẳng hiểu anh bao nhiêu. Và anh chết, để lại cho con cái một gia tài lớn. Đối với người khác, anh là một con người thành đạt. Nhưng đối với vợ con thì anh là một con người thất bại. Vợ con anh hưởng gia tài của anh mà chẳng nghĩ tới anh bao nhiêu: bấy lâu nay họ sống không có anh, sau này họ cũng tiếp tục sống không cần anh.
Bởi vậy trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu đã không quan tâm đến gia tài. Khi một người đến nhờ Ngài phân xử việc tranh chấp gia tài. Ngài đã không xử, lại còn cảnh cáo “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”.
* 4. Tiền bạc
Người ta nói trên đời quan trọng nhất là 2 chữ T: tình và tiền. Hôm nay chúng ta có dịp bàn đến chữ T thứ 2, Tiền. Tiền bàn ở đây không phải chỉ là những tờ giấy bạc, mà còn bao gồm tất cả những gì là của cải tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, máy móc v.v.
Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè… Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó… Tóm lại câu nói “có tiền mua tiên cũng được” có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người.
Nhưng hình như đó lại không phải là quan niệm của Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
– Bài đọc 1 trích từ sách Giảng viên thì coi tiền bạc là thứ phù hoa “Phù hoa nối tiếp phù hoa trần gian tất cả chỉ là phù hoa”
- bài đọc trích từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu thành Colossê thì kêu gọi “Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”.
- Còn bài Tin Mừng thì mô tả một người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy từ kho này tới kho khác, nhưng bị Chúa trách “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”, và Chúa Giêsu kết luận: Kẻ nào tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.
Phải chăng Chúa không muốn cho ta có tiền? Phải chăng Chúa muốn người có đạo phải nghèo? Phải chăng Chúa khuyên chúng ta phải chạy trốn tiền bạc? Thưa không, không bao giờ, bởi vì những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Hãy nghe một lời chúc phúc của Chúa ghi trong Tv 71
Khắp xứ sở đầy dư gạo thóc
Đỉnh non cao gợn sóng lúa vàng
Và trong Tv 64:
Thăm trái đất mưa nhuần Chúa rải.
Cho tràn trề của cải sinh ra…
Vùng hoang địa cỏ hoa đua nở
Cảnh núi đồi hớn hở xinh tươi.
Chiên bò gặm cỏ đồng xanh.
Nương vàng sóng lúa lượn quanh dạt dào.
Câu hò tiếng hát trổi cao…
Rõ ràng là Chúa muốn con người sung túc vật chất. Nhưng Chúa cũng biết tiền bạc vật chất vì có khả năng đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói “Kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa thật là khó, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Nhưng, tuy có khó thật chứ cũng có những người giàu có được vào nước thiên đường: trong Tin Mừng ta thấy Chúa cũng đề cao những người giàu có, chẳng hạn như ông Giakêu, tuy giàu nhưng biết sử dụng tiền bạc mình để làm những việc nghĩa.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều: một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng đúng những tiền bạc mà Chúa đã ban.
Bây giờ chúng ta hãy nhận định giá trị của tiền bạc:
- tiền bạc là một yếu tố quan trọng làm cho đời ta được sung sướng
- nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi, nghĩa là nó vừa có thể giúp ta sống tốt hơn “Phú quý sinh lễ nghĩa”, mà cũng có thể làm ta thành xấu đi, xấu đi vì tham lam, xấu đi vì gian lận, xấu đi vì lòn cúi…
- vả lại tiền bạc không được bền vững: thiếu gì người hôm nay đang giàu sụ, thế mà ngày mai đã trở thành tay trắng.
- và nhất là khi chết ta không thể mang tiền bạc theo được.
Sau khi đã nhận định đúng giá trị của tiền bạc, chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy phải xử dụng tiền bạc như thế nào: Hãy dùng tiền bạc đời này để làm giàu cho đời sau.
5. Chuyện minh họa
a/ Ba người bạn
Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích “Phúc”)
b/ Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn. “
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
- Tiền không mua được tình bạn chân thực.
- Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
- Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
6. Mảnh suy tư
Một buổi tối, tôi thả bước lang thang
Tôi đi từ những khu phố lấp lánh ánh đèn
Bước chân dần dần đưa tôi đến vùng ngoại ô vắng vẻ
Ở đấy tôi thấy ngàn vạn ánh sao còn rực rỡ gấp bội.
Và tôi chợt hiểu ra rằng những ngọn đèn trần thế dễ che lấp những ngọn đèn trời đến mức nào.
Và tôi cầu nguyện: Lại Chúa xin cho những hào nhoáng của đời này đừng bao giờ làm cho con mù lòa không còn thấy ánh vinh quang Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khổ là cách làm giàu tốt nhất trước mặt Thiên Chúa. Với ước moong sống trọn vẹn tinh thần bác ái của Tin mừng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn quan tâm giúp đỡ bất cứ ai đang gặp đau khổ / bệnh tật / nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc từ thiện của Hội thánh / xoa dịu được phần nào đau khổ của nhân loại.
- Tiền bạc của cải không đem lại hạnh phúc thật sự cho con người / trái lại làm nhiều người trở nên hư hỏng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết sử dụng đúng đắn tiền bạc có được / do lao động lương thiện của mình.
- Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sống tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
- Giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn là bổn phận của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan tích trữ kho tàng trên trời bằng những việc lành phúc đức của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha có câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều Chúa nhấn mạnh hơn trong câu này không phải là chữ “lương thực” cho bằng chữ “hằng ngày”, nghĩa là chúng ta vừa xin cho có lương thực vừa xin cho khỏi lòng tham, nhưng biết phó thác cuộc sống cho Chúa quan phòng.
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại cuộc sống mà trong đó mọi người bon chen, tranh dành nhau tiền bạc của cải. Là những môn đệ của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sao để vừa làm ăn kiếm tiền vừa không bị tiền làm cho mình ra xấu xa tội lỗi.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CÁCH DÙNG CỦA CẢI ĐỜI NÀY – Lm Giuse Đinh lập Liễm
***
A.DẪN NHẬP.
Người đời coi trọng tiền của, coi nó như chìa khóa thành công trong cuộc đời vì người ta tôn vinh nó bằng câu :”Có tiềân mua tiên cũng được”. Có người coi mục đích cuộc đời chỉ là kiếm cho ra nhiều tiền để hưởng thụ, cho nên họ đã để cho lòng đam mê tiền của chi phối họ, xúi dục họ làm những điều sai trái. Họ coi tiền của là một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống của họ.Nhưng tác giả sách Giảng viên có nói :”Phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”(Gv1,2).Như vậy, tiền của có phải là một bảo đảm cho cuộc sống không ?
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ trích việc thu tích của cải để làm giầu, cũng không khinh chê của cải. Ngài chỉ khuyên người tatrong khi thu tích tiền của để làm giầu thì đồng thời cũng phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa. Đừng bắt chước người phú hộ ngu ngốc chỉ biết thu tích cho nhiều của cải vật chất để hưởng thụ, coi của cải như một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống để ăn chơi xả láng, mà bỏ quên Thiên Chúa, quên cả linh hồn mình. Vả lại, con người đâu có phải sống được mãi, một khi phải chết thì những của cải đó để cho ai ?
Đối với chúng ta tiền của không có gì là xấu vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên thì đều tốt. Tuy thế, tiền của cũng có thể trở nên một đứa đầy tớ trung thành của chúng ta mà cũng có thể trở nên một ông chủ khắc nghiệt biến chúng ta thành những tên nô lệ khốn nạn của nó.. Chúa khuyên chúng ta hãy tránh thói tham lam, hãy biết chia sẻ. Một trong những cách làm giầu trước mặt Thiên Chúa là biết chia sẻ, biết giúp đỡ những người túng thiếu. Tất cả những gì chúng ta cho đi đều còn ở lại với chúng ta và đó là cơ sở để Chúa ban thưởng bội hậu cho chúng ta trên quê hương vĩnh cửu.
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+Bài đọc 1 : Gv 1,2 ; 2,21-22.
Côhêlét là tác giả sách Giảng viên, đã thu góp những tư tưởng thâm thúy và khôn ngoan của nhiều thế hệ.Ngay câu mở đầu, tác giả đã khẳng định :”Phù vân, ôi phù vân, tất cả là phù vân”.
Tư tưởng này diễn tả một cái nhìn bi quan về cuộc sống của con người trên trần gian, nhưnglại rất đúng. Nếu chỉ đứng trên quan điểm nhân sinh trần tục mà nhìn thì ý nghĩa của cuộc đời chẳng qua là một sự phù phiếm, và do đó, đời không đáng sống. Bởi vì :
– Có người suốt đời làm ăn vất vả để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết đi lại phải bỏ lại tất cả.
– Nhiều tiền nhiều của mà phải áy náy, đêm ngủ không yên thì ích lợi gi ?
Thái độ bi quan này của tác giả chất vấn chúng ta : Đời không còn một giá trị nào khác nữa sao ?
+Bài đọc 2 : Cl 3,1-5.9-11.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côlôssê cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép rửa tội.
Thật vậy, nhờ phép Rửa tội, người tín hữu đã trở nên con người mới và hy vọng sẽ được sống cùng Thiên Chúa mãi mãi. Vì thế, họ phải cởi bỏ con người cũ theo tính xác thịt với những đam mê trần tục, hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.
Do đó, người môn đệ của Đức Giêsu cần biết cân nhắc các yếu tố trong cuộc sống và chọn lựa : đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
+Bài Tin mừng : Lc 12,13-21.
Đức Giêsu từ chối can thiệp vào vấn đề phân chia gia tài giữa hai anh em. Sở dĩ Đức Giêsu từ chối làm trọng tài trong vụ tranh chấp gia tài vì Ngài cho rằng của cải không thể đảm bảo cho cuộc sống đúng nghĩa.
Dụ ngôn về người phú hộ thật là phù phiếm. Mặc dầu anh ta có biết lo liệu, nhưng anh ta chỉ có cái nhìn thiển cận : chỉ lo hưởng thụmà không lo gì đến sự tích lũy những của thiêng liêng không hư nát.
Theo nhận định của Đức Giêsu, anh ta là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền mà bảo đảm cho đời mình. Chết đi anh để của cải lại cho ai ? Nếu anh ta khôn thì hãy chia sẻ cho những người nghèo, thì khi anh chết đi, gia sản của anh sẽ biến thành kho tàng không bao giờ hư nát. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Kho tàng không hề hư nát.
I. ĐỒNG TIỀN LIỀN KHÚC RUỘT.
Người ta thường nói :”Đồng tiền liền khúc ruột” nói lên cái tâm lý của con người yêu chuộng tiền của mình có, cố giữ lấy, không thể tin ai, buông cho ai được. Động đến tiền là cảm thấy đau xót như “Của đau con xót” : tâm lý đau xót khi của cải bị mất mát cũng như con cái bị người ngoài bắt nạt, hành hạ.
- Người ta đánh giá cuộc đời.
Đời là một cuộc chiến đấu. Phải chiến đấu để mà sống. Nhưng khi nói tới cuộc sống người ta chỉ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển và giải trí. Nó chỉ là đời sống vật chất. Vậy còn đời sống tinh thần thì sao , nhất là đời sống siêu nhiên ?
Nhìn vào cuộc sống, không biết thi sĩ Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu suy tư thế nào mà phát biểu một câu có tính cách triết lý :
Đời đáng sống hay không đáng sống
Nhấp chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm ?
Nếu có phải trả lời cho thi sĩ thì phần lớn người ta sẽ trả lời là đời đáng sống, nhưng sống để làm gì ? Ta hãy nghe một số sinh viên Mỹ trả lời trong một cuộc phỏng vấn :
Năm 1987, Hội đồng Quốc gia Hoa kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn Đại học về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai : Họ muốn gì ? Họ nhằm điều gì trước hết ? Kết quả như sau : 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết :”Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết :”Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
- Giá trị cuộc đời.
Người ta nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Tiên là nhân vật tưởng tượng trong truyện thần thọai, tượng trưng cho người đẹp nhất, quí nhất. Đây là quan niệm đề cao đồng tiền : có tiền mua gì được nấy.Vì vậy người ta mới nói :
Đồng tiền là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý…
Trong cuộc tương giao của con người trong đời sống xã hội, đồng tiền vẫn giữ vai trò chủ chốt, nó chi phối sự tương giao, nó làm lệch cán cân công lý, nó có thể đổi trắng ra đen, như người ta nói :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Qua kinh nghiệm của cuộc sống, trước sức mạnh của đồng tiền chi phối con người, thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm đã phải than một cách chua cay :
Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay.
Ngạn ngữ La tinh có nói :”Tiền của là tên đầy tớ rất tốt, nhưng lại là người chủ rất xấu”. Và người ta cũng nói chơi với nhau :”Vô văn bất nhóc nhách”, có ý nói không có tiền của, không thể làm gì được.
- Lòng tham của con người.
Khi từ quan về ở ẩn, thi sĩ Nguyễn công Trứ khuyên người ta đừng chờ đợi những gì quá sức mình, hãy biết dừng lại, bằng lòng với những cái mình đang có, cũng nhưthi sĩ biết hưởng cái thú an nhàn trong bài thơ “Chữ Nhàn” :
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Biết đủ tức là đủ, đợi đủ biết bao giờ đủ,
Biết nhàn tức là nhàn, đợi nhàn biết bao giờ nhàn.
Ông Eùsope, một thi sĩ ngụ ngôn của Hy lạp,đã nói lên cái lòng tham vô đáy của con người trong câu truyện sau đây :
Truyện : ông già và con ngỗng.
Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói :”Ôâng hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất.
Ôâng già nghèo đưa con ngỗng về nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ôâng mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một quả trứng ngỗng bằng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái.
Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho hết tuầnmới có được 7 trứng. Ôâng muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ôâng vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại và nói :”Trước đây đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao ? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”.
- Người ta đánh già đồng tiền.
Người đời cũng có kinh nghiệm về đồng tiền : nếu ta biết dùng tiền của cho đúng mức, cho xứng đáng thì nó trở thành đầy tớ trung thành của ta; nhưng khi ta không biết dùng nó thì nó sẽ quay trở lại làm một ông chủ khắc nghiệt và biến ta thành một tên nô lệ khốn nạn của nó.
Nhưng dù sao, con người lên voi xuống chó là lẽ thường. Tiền của đem con người lên, nhưng cũng chính tiền của đã hạ con người xuống. Và sau cùng con người cũng sẽ phải chết và của cải cũng tiêu tan theo, ra đi chẳng mang được gì ngoàihai bàn tay trắng :
Vua Ngô băm sáu tàn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
II.ĐỨC GIÊSU VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
- Vấn đề phân chia tài sản.
Theo luật Do thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản, nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp qui định, phần gấp đôi các động sản.Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử ; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền : Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó (Quesson).
Nhưng trường hợp ở đây, hình như người con trưởng chiếm hết phần gia tài mà không chịu thừa kế bằng cách dùng uy tín để gây áp lực với người con trưởng bất công, vì Ngài được coi như một rabbi nổi danh, Ngài làm cách có uy quyền.
Đức Giêsu đã từ chốikhông muốn tham dự vào việc tranh chấp về tiền bạc. Đức Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vàonhững việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Ngài ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công cuộc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đọat địa vị của nhà cầm quyền :”Này anh, ai đã đặt tôi làm ngườixử kiện hay chia gia tài cho các anh”?
- Dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc.
Đức Giêsu đã từ chối “chia gia tài”. Việc từ chối này có ý nói lên rằng, tuy Ngài có quyền xét xử kẻ sống kẻ chết (Cv 10,42), nhưng sứ mạng lịch sử của Ngài ở trần gianlà sứ mạng tôn giáo chứ không phải việc trần tục. Nhân dịp này Ngài nhắn nhủ với tích cách cảnh cáo rằng cần phải tránh mọi thứ tham lam, vì của cải không làm cho đời sống được bảo đảm. Lời cảnh cáo nàycó ý nhắc khéo rằng đừng an tâm,đừng cậy dựa vàobất cứ một vật nào khác ngoài Thiên Chúa.
Để nói lên ý tưởng đó, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc. Dụ ngôn này cho thấy rằng người phú hộ rất thành công về ngành nông nghiệp. Sự thành công này làm cho ông ta say sưa và suy tính đến việc mở mang rộng lớn kho lẫm của ông. Trong cảnh sống giầu có, sung túc này, ông ta vui chơi ăn uống thả dàn, không nghĩ đến Thiên Chúa, bỏ quên cả linh hồn của mình; nhưng ông ta không nghĩ rằng :”Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó:”Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?
Ôâng ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông tachỉ đặt nền tảng cuộc sốngluẩn quẩn trong thế giới của ông ta.
Truyện : Rồi sao nữa ?
Ngày xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzano, một sinh viên Rôma , đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spazzano hớn hở đến báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời :
– Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì ?
– Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ có nhiều tiền.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ lập gia đình.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ sống hạnh phúc.
– Rồi sao nữa ?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời :
– Rồi… rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác.
– Rồi sao nữa ?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để đảm bảo cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khóac áo tu trì.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánhAthanasiô đưa ra lời khuyên :”Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam ; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Trong dụ ngôn này Đức Giêsu có ý nói lên sự nguy hiểm của giầu sang, và sự tham lam của cải vật chất. Vì vậy, Ngài dùng dụ ngôn này để cảnh giác cho hết mọi người : Người giầu có lo tích trữ của cải, cũng như người nghèo tham lam của cải. Ở đây Chúa trách người con trưởng tham lam chiếm đọat gia tài mà không chia cho người em, đồng thời Ngài cũng trách người em vì ham mê của cải mà tranh chấp gia tài với người anh.
III. CHÚNG TA VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
- Ưu tiên hàng đầu của cuộc sống.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại những gì là ưu tiên hơn cả trong cuộc sống. Những lời sách Giảng viên đã nhắc nhở chúng :”Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh mặt trời”. Chúng mô tả một quan điểm bi đát về cuộc sống, nhưng điều chúng ta muốn nói khiến chúng ta phải hỏi :”Mục đích của đời sống là gì” ? Chắc chắn không phải là tích lũy của cải – của cải trong mọi trường hợp phải để lại đàng sau.
Những sự vật trần gian không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta hạnh phúc mà tâm hồn chúng ta khao khát. Vì thế thánh Phaolô nói :”Anh em hãy hướng lòng trívề những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.Và Đức Giêsu khuyên chúng ta :”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc làm gì, nhưng chúng ta là gì.
- Tiễu trừ tính tham lam.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ nói về những người giầu có, nhưng nói với tất cả mọi người vì bất cứ ai cũng có tính tham lam. Người nghèo cũng tham lam của cải như người giầu, không phải vì có nhiều tiền bạc hay ít của cảilàm cho một người ra tham lam, nhưng khi người ta bị ám ảnh bởi của cải vật chất, người ta không còn biết thế nào là đủ. Túi tham vô đấy, chẳng bao nhiêu cho vừa. Người La mã có câu ngạn ngữ :”Của cải như nươc muối, bạn càng uống thì càng khát”.
Sách Giáo lý Công giáo số 2536 dạy như sau :”Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm thuồng, ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giầu có và quyền lực do sự giầu sang mang lại”.
Chúng ta thường nghe nói :”Tham thì thâm”, quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mìnhthay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cảiđến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lạiphải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả đời sống mình.
Truyện : ham mê của cải.
Ham mê của cải tiền bạc là cái tật mà xưa naycó ngàn lẻ một chuyện từng được kể. Nhưng thời nay lại có câu chuyện lý thú thế này : Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đôla bằng bạc trên đường. Thế là từ đó, mỗi lần đi đâu, anh đều cúi đầu xuống để chú tâm tìm kiếm. Kết quả là sau ba mươi nămanh ta nhặt được 3,5 đôla tiền bằng bạc, 37 đồng nửa đôla bằng đồng, gần 18.500 nút áo đủ cỡ, khoảng 14.400 cây kim may và kim gút đủ lọai. – Nhưng anh phải đổi bằng cái tật khòm lưng. Một tâm trạng bi quan cộng thêm một tính khí khó thương. Vì đôi mắt anh từ lâu đã không nhìn lên bầu trời và bao hoa lá cỏ cây xinh đẹp… Tính ham mê của cải đã “giết chết con người anh”.
Phương pháp làm cho chúng ta được hạnh phúc là biết chấp nhận. Hạnh phúc không phải là có cái chúng ta mong muốn, nhưng là chấp nhận cái chúng ta có. Dù giầu hay nghèo, hạnh phúc là bằng lòng với cái mình đang có, và ngay cả cái mình không có nữa. Hãy biết chấp nhận mọi sự như chương trình của Thiên Chúa đã sắp đặt với lòng biết ơn rằng có Thiên Chúa là có tất cả mọi sự (Dt 13,5-6). Một người không bằng lòng với những cái mình đang có sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Họ luôn sống trong bất mãn và đau khổ, vì lúc nào cũng tham muốn có thêm.
- Hãy biết chia sẻ.
Chúa dạy chúng ta :”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì. Antoine de Saint Exupéry nói :”Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”.
Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau :
- a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
- b) Dùng tiền của để làm giầu trước mặt Thiên Chúa thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giầu chia sẻ của cái cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi.Augier đã nói một câu chí lý :”Trong dự tính của Thiên Chúa, người giầu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp.
ThánhTôma Aquinô quả quyết :”Những người giầu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
- Phần thưởng bội hậu trên trời.
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu không đả kích sự tích lũy của cải. Ngài không phê phán công việc làm ăn của mỗi người,mà chỉ đả kích ý nghĩ khờ dại của một số người khi họ lấy việc thu tích của cải vật chất là quan trọng hơn sự tích lũy của cải thiêng liêng.
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay : Hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”(Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giầu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán :”Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”(Lc 12,33).
Ở Kenya bên Phi châu có một vị thừa sai kể rằng có một số dân Phi châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy.Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. . Đây chính là điều thánh Phaolô đã đề cập đếntrong thư thứ nhất gửi choTimôthê :”Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mangbất cứ cái gì ra khỏi đó”(1Tm 6,7).
Tuy thế, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với nhữøng cái mà chúng ta làm giầu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy cũng là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời.
Truyện : Cho một được mười triệu.
Đang lững thững đi trong một đường phố, có một người ăn mày đến xin bố thí, người kia móc túi da đưa cho một đồng bạc.
Tám hôm sau, nhà từ thiện đã hết sức ngạc nhiên, vì ông nhận được bức thư nặc danh, trong có ngân phiếu 10 triệu quan. Bức thư viết thế này :
Có lẽ ông còn nhớ một hôm ngao du ở Nice, ông đã bố thí cho một người ông tưởng là hành khất. Trong 10 người tôi ngửa tay xin, chỉ có một ông đã thí cho một đồng bạc.Xin ông biết cho rằng : tôi đây là một nhà triệu phú đã trá hình làm người hành khất đó, với mục đích là nắm được phần thưởng trong cuộc đánh đốù. Tôi đã được cuộc, vậy xin ông cho phép tôi chia với ông số tiền thuởng đó.
Truyện rất hào hứng này, đã được tất cả các báo thuật lại và là truyện có thật. Người ta đóan ông Ernest Ingram chủ tiệm vàng ở Nice bên nước Pháp, chính là vai chủ động trong truyện.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẨN TRỌNG KHI SỬ DỤNG TIỀN CỦA – Jos. Vinc. Ngọc Biển
***
Đã từ lâu đời, nơi xã hội loài người, con người luôn coi trọng đồng tiền. Đồng tiền nhiều khi đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại… chẳng thế mà người ta thường nói:
“Đồng tiền là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý…!”.
Và còn có những người mạnh miệng hơn khi tuyên bố rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa hôm nay chỉ ra sự giới hạn của đồng tiền. Đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về cách sử dụng tiền của sao cho hợp lý, để nó không chỉ có ích cho cuộc sống, mà còn có lợi cho phần hồn và ơn cứu chuộc.
- Thái độ của con người về tiền bạc
Khi diễn tả tâm lý của con người về sự quý chuộng đồng tiền, người ta đã đúc kết qua một câu nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”.
Bởi vậy, nhiều người đã dành cả một cuộc đời cặm cụi kiếm tiền, tìm mọi cách để giữ tiền và không chịu rời bỏ đồng tiền. Khi phải sử dụng hay mất mát, họ cảm thấy như mất đi một phần cuộc sống, chẳng khác gì: “Của đau con xót”.
Thực ra, việc kiếm tiền và giữ tiền tự bản chất không xấu. Tuy nhiên, sử dụng tiền làm sao cho hợp lý mới là điều đáng lưu tâm.
Đáng buồn thay, trong thực trạng xã hội hiện thời, người ta coi trọng đồng tiền đến độ tôn thờ nó như ông chủ. Họ sẵn sàng sử dụng đồng tiền để làm cho cán cân công lý bị lệch chuẩn cũng như đổi trắng thành đen…
Thật vậy:
“Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người”.
Chính vì lẽ đó, mà thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thốt lên một cách chua chát:
“Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay”.
Nếu sử dụng đồng tiền cho tốt thì nó sẽ trở thành tên đầy tớ trung thành, còn nếu sử dụng sai, nó sẽ là ông chủ bất nhân và lẽ đương nhiên, ta trở thành nô lệ cho nó.
Kinh nghiệm cuộc sống của mỗi người đã dạy cho chúng ta bài học về đồng tiền. Thật vậy, đồng tiền nó cũng có thể trang điểm cho chúng ta vinh quang, danh dự và giúp chúng ta trở thành con người có nhân nghĩa với anh chị em đồng loại. Nhưng ngược lại, đồng tiền nó cũng nhấn chìm chúng ta xuống tận bùn đen và nó tước hết tất cả những gì là danh thơm tiếng tốt nơi mỗi người nếu đặt để chúng sai vị trí!
- Thái độ và lời dạy của Đức Giêsu về tiền bạc
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc và làm toát lên lời dạy của Ngài cho người đương thời biết sự giới hạn của đồng tiền.
Câu chuyện được khỏi đi từ việc có hai anh em đến nhờ Ngài phân chia tài sản, bởi lẽ, trước mắt họ, Đức Giêsu là một bậc thầy rabbi có uy tín trong dân, nên việc nhờ Ngài phân chia tài sản là điều cần thiết.
Tuy nhiên, trước lời đề nghị này, Đức Giêsu đã thẳng thắn từ chối vai trò trung gian. Ngài từ chối, không phải vì Ngài thờ ơ, lạnh lùng với thực trạng cuộc sống của hai anh em này. Nhưng qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: sứ vụ Thiên Sai của Ngài không phải là để làm những chuyện như thế, mà là loan báo ơn cứu độ và phần rỗi của con người. Vì thế, Ngài đã trả lời khi được đề nghị: “Này anh, ai đã đặt tôi làm ngườixử kiện hay chia gia tài cho các anh”?.
Nhân dịp thuận lợi này, Đức Giêsu đã dạy cho hai anh em này bài học: hãy tránh xa mọi thứ tham lam, bởi lẽ những của cải chiếm dụng được sẽ không đảm bảo cho được sống đời đời. Vì thế, đừng cậy dựa vào chúng quá lẽ.
Như một sự chứng minh, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn nhà phú hộ giàu có, nhưng đã không biết sử dụng tiền của cách chính đáng và hữu ích.
Lý do, ông phú hộ này khi có tiền của dư thừa, đã chè chén say sưa, xây dựng đền đài kho lẫm khổng lồ; ăn chơi phung phí, không hề nghĩ đến việc chia sẻ cho người nghèo và mưu cầu sự sống mai sau, tức là phần hồn. Ông ta coi những thứ đó như là một thứ đảm bảo cho cuộc sống của ông. Vì thế, ông ta đã ngủ mê trên sự giàu có, nhưng thực ra, đến ngày tận cùng, sự giàu có đó đã tố cáo ông và làm cho ông trắng tay.
Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu đưa ra giả thiết: “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó: “Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?.
- Thái độ của người Kitô hữu về việc sử dụng tiền bạc
Lời cảnh tỉnh trên của Đức Giêsu đã là một sự cảnh báo cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Vì thế, với tư cách là Kitô hữu, chúng ta phải chọn sao cho trọn. Tức là trước khi lựa chọn, chúng ta hãy xét đến sự ưu tiên.
Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã đưa ra lời nhắc nhở: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
Sang bài đọc II, thánh Phaolô tiếp nối tư tưởng đó để khuyên bảo tín hữu của ngài khi đã trở nên thụ tạo mới, mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài qua Bí tích Rửa Tội, thì: “Hãy hướng lòng trívề những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
Và, như một sự mặc khải, Đức Giêsu đã chỉ dạy thật rõ ràng: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Nhưng oái oăm thay! Nhiều người trong chúng ta không mảy may đến những lời cảch báo trên, mà ngược lại, chúng ta đã thượng tôn đồng tiền đến độ tôn thờ chúng. Coi chúng như gia tài. Giữ chúng như kho báu. Nên đã tìm mọi thủ đoạn để chụp giật được đồng tiền, đôi khi bán rẻ cả lương tâm để có được đồng tiền. Khi có nó, chúng ta đã phung phí cách thỏa thích nơi các cuộc ăn nhậu vô bổ, hút chích cũng như những việc làm bất chính khác…!
Trước những thái độ trên, hẳn là chúng ta đã đi vào vết xe đổ của nhà phú hộ ngu ngốc trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ điệp Lời Chúa dạy chúng ta rằng:
Nhiều tiền lắm bạc không phải là tội hay xấu xa, nếu đồng tiền được làm ra bởi công khó của mình. Mặt khác, giàu có mà biết sử dụng đúng mục đích thì thật là hữu ích không chỉ cho phần xác, mà còn cả phần hồn. Vì thế, giàu có trước mặt Thiên Chúa không hệ tại ở đồng tiền, mà là ở cách sử dụng đồng tiền.
Cần nhớ rằng: “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1Tm 6,7).
Vì thế, đừng bám víu quá lẽ vào tiền bạc, mà hãy: “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), đó là sự sẻ chia cho người nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự cho đi thì mới là gia tài của chúng con. Bởi vì khi nằm xuống, những gì chúng con đang có, cũng phải trả lại cho đời. Những gì thuộc về chúng con thì từ nay không còn nữa. Chỉ những gì đã cho đi vì lòng mến thì mới thuộc về chúng con và nó sẽ theo chúng con đến trước tòa phán xét để bênh vực chúng con mà thôi. Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY CHỌN CÁI BỀN VỮNG VÀ BỎ CÁI TẠM THỜI – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
“Hư không trên các sự hư không”. Đây là lời của ông Côhelét con vua Đa-vít trong sách Giảng Viên, (Bài đọc I). Côhélet là một vị vua khôn ngoan, ông nhìn thế giới với cái nhìn hướng thượng và truyền lại cho các môn sinh. Một trong các môn sinh lấy lại lời dạy của Thầy và đào sâu hơn: “Hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không“ (Gv 1,2). Sự khôn ngoan này đã trở thành cách ngôn dân gian để con người nhìn thế giới mình đang sống với sự tỉnh táo, không ảo tưởng, với hy vọng những cố gắng của con người sẽ không bị tiêu tan vô ích trong một thế giới thấp hèn!
Tuy nhiên, đây là dịp để chất vấn chúng ta về vị trí của mình trên trái đất này và cách thức chúng ta quản lý thế giới. Chính trong bối cảnh này mà Đức Giêsu ngang qua dòng người, ở giữa đám đông vây quanh Người, với tất cả khổ đau và kêu cứu. Một người trong nhóm họ lên tiếng thưa : “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi“ (Lc 12, 13). Đức Giêsu bỗng dưng bị đặt làm trọng tài giữa hai người trong tương quan nhân loại. Có người hỏi : vì lý do gì mà người kia lại thưa với Đức Giêsu một điều như thế, Người đâu phải là một quan tòa chuyên xử các vụ chia cắt gia tài của các gia đình ? Tuy nhiên chúng ta không vội kết án người này. Anh ta có hai lần đúng khi chạy đến nhờ Đức Giêsu. Trước hết đối với Đức Giêsu không có gì vô nghĩa, thứ đến Đức Giêsu với tư cách là Thầy, Người hoàn toàn có quyền làm trọng tại để giải quyết cho anh vấn đề anh nêu ở trên, nên chạy đến Người cầu cứu!
Tuy nhiên Đức Giêsu nhanh chóng gạt đi và dứt khoát từ chối can thiệp vào những chuyện như thế : “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi? “ (Lc 12,14). Đức Giêsu không can thiệp, nhưng Người lại chỉ cho cách cần phải giải quyết những vấn đề đó với tinh thần nào : “Các ngươi phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu“ (Lc 12,15).
Trở lại bài đọc I ta thấy : “Kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao“ (Gv 1,3). Ở đây “kẻ làm việc vất vả trong sự khôn ngoan“ phải kể đến là cha mẹ hai anh, nên hai anh có lý để tranh dành của cải họ được kế thừa.
Câu “Hư không trên các sự hư không“ không thể hiện điều cam chịu nhưng mở ra con đường ân sủng cứu độ. Thật khôn ngoan khi biết rằng thế giới mà chúng ta đang sống không mang lại ý nghĩa tối hậu chúng ta tìm kiếm trong cuộc đời. Nhưng cũng thật sai lầm khi để mình bị giam hãm trong sự phi lí của thế gian này. Thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta tìm kiếm những sự cao siêu trên trời (x. Cl3, 1).
Câu hỏi được đặt ra : chúng ta đang bám víu vào ai và cái gì ? Dụ ngôn Đức Giêsu kể trên dành cho chúng ta là những kẻ đang ngồi đây, đang tiêu tán cho những dự án và lo lắng mà không biết rằng thế giời này là hư không (ý nghĩa văn chương hư không có nghĩa là hơi nước đọng lại, phù du), chúng ta hy vọng sẽ thỏa mãn vàổn định lâu dài. Một ngày kia, người giầu tỉnh giấc, đau buồn vì của cải thế gian này không còn là của ông nữa.
Người nhà giầu bị trách, không phải vì ông thu góp của cải, những của cải, vật chất đời này không phải là xấu, nhưng tự bản chất, chúng không có giá trị bền vững. Xấu là ở chỗ lòng ông bám bíu trọn vẹn vào chúng, ông đã quên đi cái được cái mất và ý nghĩa cuộc đời. Ông muốn “nghỉ ngơi“, ông muốn bình an “trong nhiều năm“ (x. Lc 12,19). Liệu có phải là mục đích cuộc đời của ông không? Tại sao? Ông có chắc rằng ông có thể tự cho mình nghỉ ngơi vui chơi không ? Những thứ mà ông đang sở hữu có mang lại bình an và niềm vui không? “Đó chính là lý do Đức Giêsu cho ông là “kẻ ngu dại“ (Lc 12,20). Vì hạnh phúc bền lâu không đến từ thế gian này mà đến từ Thiên Chúa. Ông đã nhầm khi chọn cái tạm bợ (đời này) làm chỗ dựa bền vững.
Mỗi lần “kẻ ngu dại“ trong Tin Mừng xuất hiện là một lần Thánh Phaolô hỏi chúng ta về vấn đề này : trong cuộc đời, anh em có “bê tha, nhơ bẩn, dục vọng, ước muốn sấu và thèm khát hưởng thụ không ?“ Chúng ta có chắc rằng “Hư không trên hết các sự hư không?“ Trong đời ta có còn những thần tượng tạm bợ ở đời này không ? Đây là lúc chúng ta gạt bỏ “những thủ đoạn của người xưa“, vì ngu dại chọn lựa sự hư không khi Đức Kitô trao ban cho chúng ta những phương tiện để xây dựng trên sự bền vững.
Phải chăng lời của ông Côhelét trong sách Giảng Viên : “Hư không trên hết các sự hư không“ không phải là một tiếng kêu đầy thất vọng và chán chường sao? Tác giả của Sách Giảng Viên đã bày tỏ nỗi buồn và thất vọng của mình về sự đời, về những việc làm thuần túy nhân loại, vì chúng không mang lại lợi ích bền và không hề có giá trị tồn tại vĩnh cửu.
Đức Giêsu và tác giả Sách Giảng Viên nhắn nhủ chúng ta hay rằng, tất cả là hư không, là lầm lẫn khi con người chỉ lo tìm địa vị, quyền hành và đặt hết tin tưởng của mình vào những sự vật chóng qua, mà lại sao nhãng việc tích trữ các của cải thiêng liêng, thực thi các việc lành phúc đức bác ái, thì chỉ là những kẻ dại dột và thua thiệt. Vì một ngày kia, khi chết, chúng ta sẽ làm được gì với những thứ của cải vật chất chúng ta từng ký cóp cả đời? Chúng ta đã trang bị, sửa soạn cho mình được những gì khi phải ra trước tòa Thiên Chúa? Mọi vất vả khó nhọc của những kẻ sống như thế sẽ hoàn toàn hư không!
Đây là một lời dạy khôn ngoan luôn mang tính cách thời sự. Vì trong thời đại chúng ta, nhiều người đang bỏ quên đi các giá trị tinh thần vĩnh cửu và cố chạy theo tìm kiếm cái tạm thời mau qua và chóng hết.
Thánh Gioan Maria Vianey nói: “Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi… danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió. “
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tìm kiếm và tích lũy những thực tại của Nước Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
***
Người đời thường quan niệm: “Có tiền mua tiên cũng được”. Do đó ai cũng tìm cách kiếm tiền, càng nhiều càng tốt. Làm ăn hợp pháp cũng có mà một cách bất nhân cũng không thiếu. Phải thú nhận rằng thời đại nào tiền bạc cũng dễ có mùi hôi hám! Tiền bạc hôi nhưng người ta vẫn ham, mà vì ham tiền nên người đời sẵn sàng làm bất cứ mọi cách để có tiền, kể cả quật xác lợn dịch lên làm thịt đem bán! Họ mải mê chạy theo lòng tham lam vô độ bất chấp mọi hậu quả. Lòng tham giống như ngọn lửa : càng thỏa mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm.
Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Chính người tham lam phải chịu nô lệ cho một ông chủ thật ác nghiệt là tiền bạc. Theo triết lý Đạo Phật thì tham lam là nguyên nhân mọi khổ đau trên đời.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể chuyện, khi một người đến xin Chúa Giêsu làm quan toà chia tài sản giúp cho anh thì Người khuyên dạy: Hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam.
Bài đọc một theo Sách Giảng Viên đã cho thấy lý do tâm lý tại sao con người “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”, đó là vì “tất cả mọi sự đều là hư không… Vì con người được lợi lộc gì nơi tất cả những cực nhọc và lo toan làm họ phải chịu vất vả dưới ánh mặt trời này? Cả ngày họ quằn quại với sầu muộn và đau thương; ngay đêm về họ cũng còn trằn trọc. Hư không cũng là như thế nữa”.
Khi chưa có của thì mất ăn mất ngủ để tìm cho có, nhưng khi có rồi thì lại lo giữ của, ăn ngủ không yên : “Suốt ngày của họ đầy sự đau khổ gian truân, và ban đêm lại không được yên lòng”. Còn ông chủ nào tàn ác hơn kẻ bắt người ta phải làm đến kiệt sức để mua lấy phù vân : “Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình cho người khác” (Tv 49,11).
Chúa Giêsu kể dụ ngôn ông phú hộ dại dột. Sai lầm lớn nhất của nhà phú hộ khi cho rằng tiền bạc và của cải là một thứ tài sản có giá trị tuyệt đối. Nó đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc của ông ta. Với đống của cải đồ sộ đó, nhà phú hộ tưởng rằng bản thân mình từ nay sẽ được sung sướng, được an toàn ngay cả mạng sống. Thế nhưng, những dự định mà ông cho là khôn ngoan thì đó lại là sự dại khờ. Nhà phú hộ dại khờ vì ông không thể phân định đâu là tài sản đích thực và đâu là tài sản tạm thời chóng qua, mau hư nát; Nhà phú hộ dại khờ vì ông ngỡ rằng có thể xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng là tiền bạc và của cải mà quên đi đó chỉ là những thứ chóng tàn phai, nay còn mai mất; Nhà phú hộ dại khờ vì ông đã sai lầm trong nhận định đâu là chân giá trị, ông chỉ để ý đến của cải, tiền bạc vốn chỉ có giá trị nhất thời, không chắc chắn mà quên mất thứ tài sản trân quý nhất chỉ đến từ Thiên Chúa- Đấng có thể làm cho ông được sống cũng như có thể lấy mạng sống ông bất cứ lúc nào. “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”.
“Người ngốc” được nói đến trong Phúc âm là kẻ chỉ biết có hiện tại, tìm kiếm và hưởng thụ những giá trị hữu hình. Cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi cuộc sống giàu nghèo, sang hèn. Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của con người sẽ ra sao ? Của cải trần gian có giúp họ tìm được hạnh phúc bất diệt hay đưa vào chỗ trầm luân? Người khôn ngoan chính là người sống trong hiện tại nhưng biết hướng về tương lai, ở trong thế giới hữu hình nhưng luôn chuẩn bị cho mình những giá trị và tài sản vô hình thiêng liêng. Người khôn ngoan “khi còn sống trên địa cầu biết kiềm chế các chi thể là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là những sự thờ quấy… (cùng với) nóng giận, gắt gỏng, thâm độc, chửi rửa, thô tục” (Col 3,5,8) Người khôn ngoan là người biết rằng không có gì quí bằng linh hồn, không có gì quan trọng cho bằng sự sống mai sau với Đức Kitô. Từ chỗ nhận biết này người khôn ngoan sẽ lo việc bảo hiểm linh hồn của mình nhiệt thành hơn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh: Hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Sự giầu có lâu bền, vĩnh cửu; chứ không phải của đời này chóng qua, phù vân và bấp bênh. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trở nên giàu có như Đức Kitô, luôn “yêu thương, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng” (Cl 3,12) và “trên tất cả là lòng mến, giềng mối của mọi trọn lành”. (Cl 3,14). Trong cuộc đời này, có biết bao người giàu tình thương, chăm lo cho bệnh nhân, chăm sóc trẻ em tật nguyền, tiếp đón người khổ đau bất hạnh, ưu tư lo lắng cho người sầu khổ, dấn thân phục vụ cho các hoạt động xã hội, bác ái và thăng tiến con người…
Có thể nói được là không ai giàu có, tự do, và mạnh mẽ hơn ‘người giàu trước mặt Chúa”, người mà niềm tin vào Chúa giúp họ vượt lên trên mọi tài sản trần gian, vì đã có “Chúa là nơi họ ẩn náu”(Tv 13,6). Vì thế, mối phúc đầu tiên được dành cho người nghèo, người “đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7). Người giàu trước mặt Chúa không phải là người có nhiều tài sản, mà là người tài sản chỉ đủ dùng nhưng biết lo tìm kiếm Nước Trời : “chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8). Phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc. Tình người đáng giá hơn giàu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. Chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với tha nhân nơi trần thế này để trở nên “giầu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. Hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy : “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
Phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc. Tình người đáng giá hơn giàu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. Chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với tha nhân nơi trần thế này để trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. Hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy : “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
QUÁN TRỌ CUỘC ĐỜI – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
- Sự giới hạn của cuộc sống trần thế:
Với kinh nghiệm sống của mình, nhìn lại các biến động của thời cuộc, nhất là những thay đổi sau ngày thống nhất đất nước, hay gần đây hơn là cơn sốt đất cách đây vài ba năm, những mảnh đất tưởng chừng như chẳng làm gì được, bỗng nhiên lên giá làm cho nhiều người bỗng trở thành triệu phú, và rồi cơn dịch cúm gà H5N1 khiến nhiều người phải lao đao khốn đốn; và năm trước đây lại đến dịch của heo, đến đầu năm tưởng chừng mọi sự đã xong, người chăn nuôi có thể yên ổn với công việc của mình. Thế nhưng, bây giờ lại bùng phát dịch “heo tai xanh” khiến cho nhiều người không dám ăn thịt heo. Người chăn nuôi lại một phen khốn đốn.
Tất cả những điều đó cho chúng ta thấy rằng, chẳng có gì là tuyệt đối an toàn và bền vững. Cũng chính từ những suy tư trên, tác giả sách Giảng Viên sau khi đã nhìn thấy thời tiết bốn mùa thay đổi, cảnh thế sự thăng trầm cùng với việc suy gẫm về cuộc đời của bản thân và lịch sử của dân tộc mình từ những giai đoạn huy hoàng nhất như thời các vua Đavít, Salômon cho đến lúc phải lưu đày, “nhà tan, cửa nát”, ông đã thốt lên: “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không. Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không”.
“Mọi sự đều hư không”, đây là một chân lý. Thế nhưng, trong thực tế, nhiều người trong chúng ta lại quên đi điều này, chúng ta vẫn cứ mãi chạy theo những điều không bền vững đó. Chúng ta cứ vất vả ngày đêm tính toán lo toan làm sao cho có thật nhiều của cải vật chất, là những điều mà không một ai trong chúng ta có trước khi vào đời, và có thể đem nó theo sau khi chết. Chúng ta thật giống như người phú hộ trong bài Tin mừng hôm nay. Ông ta “có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi,nên suy tính trong lòng rằng: “… Tôi sẽ làm thế này là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đo, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: “Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi””.
“Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng:“Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”. Và Chúa Giêsu đã kết luận: “Những kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”.
Vâng, nếu đêm nay Chúa gọi linh hồn chúng ta, thì mọi sự chúng ta có, mọi công lao vất vả của chúng ta sẽ về tay ai? Đó là điều mà chẳng ai trong chúng ta biết trước được. Nếu chúng ta cứmãi lo lắng và tích trữ những điều mà mình không thể hưởng dùng mãi mãi, thì quả thật chúng ta cũng là “kẻ ngu dại” giống như người phú hộ trong bài Tin mừng. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”. Hay nói cách khác, của cải vật chất tự nó không đủ để bảo đảm cho chúng ta có được một sự sống vĩnh cửu. Trái lại, đôi khi nó còn là một trở ngại khiến chúng ta không thể đạt đến cùng đích của đời mình.
- Sống siêu thoát:
Thiên Chúa không cấm chúng ta lo lắng cho hiện tại, Ngài không muốn chúng ta sống nghèo khó, nhưng Ngài muốn chúng ta không lệ thuộc vào tiền của. Chúng ta không được làm nô lệ, nhưng phải là người chủ của nó. Chúng ta cần biết sống tốt giây phút hiện tại, biết sử dụng thời giờ, phương tiện, tiền của Chúa ban như những phương tiện để đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Chính vì thế, Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta: “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình tránh mọi thứ tham lam”. Ngài muốn chúng ta sử dụng của cải, nhưng không tham lam, nghĩa là không quá lệ thuộc vào nó. Và không chỉ là tránh tham lam làm giàu về tiền của, nhưng mỗi người chúng ta còn cần tránh mọi sự tham lam khác. Chúng ta không được tham lam danh vọng, hay chức quyền, cũng không được tham lam lời khen ngợi hay ao ước sự chê bai…,vì tất cả đều là “hư không”
Cũng trong chiều hướng đó, thánh Phaolô mời gọi chúng ta:“Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chớ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Chúng ta đã được tái sinh, được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ phép Rửa tội trong sự chết và Phục Sinh của Đức Kitô, chúng ta không được phép sống như những người không tin. Chúng ta cần làm chủ những đam mê, dục vọng, những đòi hỏi nơi con người tự nhiên của mình, theo lời dạy của thánh Phaolô: “Vậy còn sống trên địa cầu, anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng”. Thánh nhân còn mời gọi chúng ta: “Anh em chớ nói dối với nhau, anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó”. Chúng ta cần sống như những con người mới, cần có một cái nhìn đúng đắn, chính xác hơn về những giá trị vật chất trước mắt. Chúng ta cần có của cải, tiền bạc để nuôi sống thân xác, nhưng đó không phải là tất cả cuộc sống của chúng ta.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta đổi mới cuộc sống. Chúng ta đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất, danh vọng, quyền thế, cũng đừng quá lệ thuộc vào lời khen, tiếng chê…, bởi tất cả đều là “hư không”, nay còn mai mất. Chúng ta hãy biết dùng của cải Chúa ban để “làm giàu trước mặt Chúa”, bằng cách sẵn sàng chia sẻ với anh chị em những gì mình có. Đừng để lợi lộc, tiền tài làm lu mờ tâm trí và bẻ cong chân lý. Nhờ đó, chúng ta có thể làm chứng cho mọi người về giá trị vĩnh cửu của đời sống mai hậu. Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHO LẪM TÌNH THƯƠNG – Trích Logos C
***
Năm 1906, nhà văn Mỹ Jack London đã viết một truyện ngắn rất nổi tiếng mang tựa đề Tình Yêu Cuộc Sống. Cuốn sách được nhiều người ưa thích và được ông V.I Lênin coi như “cuốn sách gối đầu giường” của mình.
Nhân vật chính trong câu chuyện là một chàng trai đi đào vàng ở vùng Alaska lạnh giá. Anh đã đào được một túi vàng lớn. Nhưng trên đường về anh rơi vào một hoàn cảnh bi đát : phải chiến đấu sống còn với thiên nhiên khắc nghiệt, nhất là phải chống chọi với cái đói giữa một hoang mạc bao la. Với một chân bị thương và khẩu súng hết đạn, anh phải vượt qua một chặng đương dài với cái đói khủng khiếp. Khi đã kiệt sức, anh đành phải đổ dần túi vàng ở dọc đường cho nhẹ bớt để tiếp tục lê bước đi tìm sự sống.
Cuối cùng, anh gục ngã bất tỉnh và được một đoàn thám hiểm cứu sống. Nhưng diều đáng nói là sau khi bình phục, anh ta bị khủng hoảng tinh thần như người mất trí : lúc nào anh ta cũng lo sợ bị đói, vì thế anh ta ăn rất nhiều và người ta phát hiện ra anh ta giấu nhiều miếng bánh bích quy trong nệm giường và mọi ngóc ngách trong căn phòng của mình. Anh ta dự trữ thức ăn để đề phòng những cơn đói có thể xảy đến !
Có một thời người ta sợ “nạn nhân mãn” bùng nổ, nghĩa là khi dân số thế giới tăng cao, lương thực sẽ không đủ để cung ứng cho nhân loại. Người ta đã nghĩ đến chuyện khai thác kho lương thực vô tận trong lòng đại dương để nuôi sống con người. Thực ra, dự phòng cho tương lai là một việc rất đáng làm. Người ta ca ngợi những người biết tiết kiệm trong hiện tại để xây dựng tương la, nhưng lại chê trách những kẻ tham lam chỉ biết lo làm giàu mà chối bỏ những giá trị tinh thần cao quý. Họ là những người chỉ biết tích trữ thật nhiều của cải vật chất mà “kho lẫm tâm hồn” lại trống rỗng. Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu đã dạy: “Các con hãy giữ mình tránh mọi thứ tham lam vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”. Chúa Giêsu đã hướng khát vọng của con người lên đến giá trị vĩnh cửu qua dụ ngôn “Người Phú Hộ Xây Kho Lẫm” trong bài Tin Mừng hôm nay.
Người Phú hộ khờ dại
Sau những vụ mùa thành công, ông phú hộ lo lắng tìm chỗ tích trữ hoa màu của mình vì những kho lẫm cũ không còn đủ sức chứa nữa. Ông phá bỏ những kho lẫm cũ và xây những kho mới lớn hơn rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó. Trước đây, hoa màu của cải ít, ông không quan tâm đến những tên trộm, nhưng khi có nhiều tài sản hơn, ông lo lắng bị mất cắp nên xây những nhà kho chắc chắn hơn, khoá lại thật kỹ lưỡng để đề phòng kẻ trộm. Khi nhà kho đã được khóa chặt trong sự an toàn, ông phú hộ mới an tâm trước một tương lai an nhàn sung sướng. Kho lẫm chất đầy của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm, không phải làm lụng cực khổ nữa. Những cái kho lớn là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho ông nghỉ ngơi ăn uống vui chơi. Trước đây, lúc còn nghèo khổ, ông cần đến ơn trên phù hộ và bạn bè giúp đỡ, bây giờ ông chẳng cần đến ai và cũng không muốn ai làm phiền đến mình. Tâm hồn ông đóng chặt như cánh cửa nhà kho. Nếu có mở ra thì chỉ để đổ thêm thóc lúa hoa màu vào chứ không phải để “xuất kho” chia sẻ cho người khác. Kho lẫm càng đầy lên thì tâm hồn ông càng nghèo đi. Ông càng giàu có lại càng cô đơn và khép kín tâm hồn. Ông phú hộ tưởng mình đã tính toán thật khôn ngoan, nhưng có một điều ông không nghĩ tới : cái chết đến bất ngờ giữa đêm khuya ! Thế là ông mất tất cả, trở thành kẻ khờ dại vì đã bám víu vào sự phù vân hư ảo. Đúng như lời sách Giảng Viên nói : “Hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không”.
Những Người Phú Hộ khôn ngoan
Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta trở nên giàu có. Vì thế, tiền bạc, của cải và sự giàu sang chính là ân huệ Chúa ban cho chúng ta, là dấu chỉ lòng quảng đại của Ngài. Chúng ta có quyền được trở nên giàu có và hạnh phúc, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải trở thành những “người phú hộ khôn ngoan” ở đời này.
Trước hết, chúng ta đừng coi tiền bạc của cải như cùng đích đời mình, nhưng hãy coi chúng như phương tiện giúp chúng ta nên thánh và thực thi tình bác ái. Tiền bạc có thể trở thành sợi dây trói buộc chúng ta không cho chúng ta vươn lên, nhưng cũng chính là sợi dây liên kết mọi người trong yêu thương. Của cải có thể là một mãnh lực đè bẹp chúng ta, nhưng cũng là động lực thúc đẩy chúng ta thăng tiến.
Thiên Chúa chỉ có thể đổ tràn đầy ân huệ của Ngài vào những tâm hồn biết trở nên trống rỗng vì anh em mình. Nếu tâm hồn chúng ta chỉ là “nhà kho” hay “két sắt” khóa chặt, chúng ta sẽ không nhận được tình thương Thiên Chúa trao ban. Của cải chân thật không phải là những cái người ta có, nhưng là những cái người ta cho đi. Chỉ khi nào ta mở rộng cánh cửa “kho lẫm” lòng mình, chúng ta mới là những người giàu có và hạnh phúc, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).
Trong danh sách những người giàu nhất hành tinh mới được tạp chí Forbes công bố, lần thứ mười liên tiếp, nhà tỉ phú Bill Gates, ông chủ của công ty Microsoft lừng danh vẫn là người dẫn đầu. Tài sản của ông hiện nay trị giá hơn 46 tỉ đôla.
Hình ảnh của nhà doanh nghiệp Bill Gates sáng rực hào quang khiến cho nhiều lúc người ta quên rằng còn có một Bill Gates của tình nhân ái, của lòng cao thượng, của niềm trắc ẩn trước bao mảnh đời bất hạnh.
Ông đã lập ra Quỹ Bill Gates chuyên thực hiện những dự án nhân đạo trên khắp thế giới. Ông đã ký những ngân phiếu trị giá hàng tỉ đôla và tạo một Quỹ Nhân Đạo hơn 25 tỉ đôla cho những chương trình nhân ái toàn cầu.
Ông Bill Gates quả thật là “người phú hộ khôn ngoan” vì đã biết bỏ vốn đầu tư vào tình thương và sự vĩnh cửu. Ông biết mở kho lẫm lòng mình cho những người đau khổ nên ông trở thành người giàu có về tiền bạc, nhưng cũng là người giàu có về lòng nhân ái.
Hôm nay, đáp lại lời mời gọi của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côlôsê : “Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời”, chúng ta hãy biết tích trữ của cải thiêng liêng là những việc tốt lành chúng ta làm cho tha nhân để trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa. Như giếng nước càng múc, mạch nước càng tuôn trào và càng trong mát, nếu không được múc đi, giếng chỉ là hố nước tù đọng và dần dần cạn khô. Cũng vậy, tâm hồn chúng ta càng cho đi, càng trở nên phong phú và tinh ròng.