CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
LỜI KINH CỦA CHÚA – HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA – Lm. FX. Vũ Phan Long OFM. 4
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO – Chú giải của Fiches Dominicales. 11
THẦN KHÍ CỦA NGƯỜI – Chú giải của Noel Quesson. 14
CẦU NGUYỆN – Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 18
LẠY CHA CHÚNG CON – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 24
CẦU XIN – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 26
CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI – Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 31
KINH LẠY CHA – LỜI KINH CỦA CHÚA – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 40
LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ – Jos. Vinc. Ngọc Biển. 44
TIN TƯỞNG VÀO CHÚA VÀ THA THIẾT NGUYỆN CẦU- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 47
NGUYỆN GIÚP CẦU THAY – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 49
CẦU NGUYỆN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn. 51
KINH LẠY CHA – Trích Logos C.. 54
*************************************************
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
***
BÀI ĐỌC I: St 18, 20-32
“Lạy Chúa, nếu con nói, xin Chúa đừng nổi giận”.
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa phán: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ”.
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu”. Chúa phán cùng Abraham rằng: “Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành”. Abraham thưa lại: “Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa. Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì bốn mươi lăm người công chính, Chúa có tàn phá cả thành không?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành”. Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: “Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?” Chúa phán: “Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt”. Abraham nói: “Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6-7ab. 7c-8
Đáp: Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con (c. 3a).
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin: trước mặt các Thiên Thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.
3) Quả thật Chúa cao cả và thương nhìn kẻ khiêm cung; còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối quân thù giận dữ.
4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
BÀI ĐỌC II: Cl 2, 12-14
“Người đã khiến anh em chung sống với Người và tha thứ mọi tội lỗi”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôssê.
Anh em thân mến, nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Đức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại. Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
All. All. – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. – All.
PHÚC ÂM: Lc 11, 1-13
“Các ngươi hãy xin thì sẽ được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Người nói với các ông: “Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ‘Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'”. Và Người còn bảo các ông rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: ‘Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy’. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: ‘Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được’. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. “Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI KINH CỦA CHÚA – HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA – Lm. FX. Vũ Phan Long OFM.
***
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (Lc 10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Dẫn nhập: Hoàn cảnh (11,1);
2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
– Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8),
– Sáu khẳng định (cc. 9-10),
– Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
– Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy Lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).
Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé[1]. Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha[2]. Dù sao, vào thế kỷ I, danh xưng ’abbâ’ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy Lạp, Rôma và Sêmít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do Thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song[3]. Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
– xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hóa Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
– ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
– xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
– bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
– anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện”[4]. Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou[5] được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.
– tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
– anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.
– cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
– thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
– xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dẫn nhập: Hoàn cảnh (1)
Vào thời xa xưa, đặc tính của các nhóm tôn giáo được xác định không những bởi các chân lý họ tin vào và bởi những luật lệ họ tuân giữ, mà còn bởi các lời cầu nguyện của họ nữa. Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ ông cầu nguyện. Một hôm, có người môn đệ đã xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện.
Tác giả Lc ghi nhận rằng người ấy xin khi Đức Giêsu vừa cầu nguyện xong. Nếu cầu nguyện là một việc xin các ân huệ, thì Đức Giêsu không cần cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện không phải là một hình thức ăn xin. Chúng ta không xin Thiên Chúa thay đổi tâm trí của Ngài, nhưng xin Ngài giúp hiểu Ngài muốn gì, để chúng ta nhận điều đó làm ý mình, và xin Ngài ban sức lực mà thực hiện điều ấy. Đức Giêsu cũng cần lời cầu nguyện kiểu này.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Kinh Lạy Cha không chỉ là một công thức cầu nguyện, nhưng là một tổng hợp toàn thể sứ điệp Kitô giáo. Trong Hội Thánh sơ khai, các tín hữu thường được giám mục dạy trực tiếp kinh này. Lời cầu nguyện phản ánh nội dung đức tin chúng ta và loại thần minh chúng ta tin vào.
Không phải chỉ cầu nguyện là đủ, người ta còn phải biết cách cầu nguyện. Do đó, Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất .
“Khi cầu nguyện, anh em hãy nói : Lạy Cha” (c. 2). Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Thế mà chúng ta không thấy Thiên Chúa và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực. Chúng ta có thể đi thẳng đến với Ngài.
Đức Giêsu phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” (c. 2) không có nghĩa là xin cho có nhiều người hoan hô Ngài; danh thanh Ngài được tôn vinh khi ơn cứu độ của Ngài đạt đến chúng ta, khi can thiệp cứu độ của Ngài đến nơi bản thân chúng ta và đến trong thế giới. Chúng ta biết lời xin này đã được chấp nhận, cho dù chưa biết vào ngày giờ nào, ơn cưu độ này nên trọn vẹn. Lời cầu thứ hai, “Triều Đại Cha mau đến”, xin Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài, xin Ngài tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa) và các nhu cầu thiêng liêng. “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (c. 3). Chẳng lẽ chúng ta không tìm ra những thứ ấy bằng cố gắng riêng sao? Chúng ta cầu xin những thứ đó là để nhớ rằng chúng ta phải tìm cơm bánh không chỉ cho chính mình, mà còn cho tất cả mọi người. Cầu nguyện củng cố nơi chúng ta một thái độ mới và một quyết tâm mới là sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha” (c. 4). Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mặt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (c. 4). Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (c. 4). Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Chúng ta không có kinh nghiệm về điểm này bởi vì chúng ta không biết cách cầu nguyện. Cầu nguyện là đi ra khỏi bóng tối của các tư tưởng và đam mê của chúng ta và để cho mình được thu hút vào trong Thiên Chúa. Mắt chúng ta sẽ mở ra và chúng ta sẽ nhìn thấy các sự viêc khác đi, chỉ sau khi đã trò chuyện lâu giờ với Ngài. Ở bên ngoài, mọi sự vẫn như cũ, nhưng chúng ta thì không còn như trước nữa. Việc cầu nguyện đã đạt hiệu quả: nó thay đổi con tim chúng ta. Khi đó chúng ta hiểu: Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (Lc10,21; 22,42; 23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là mộtlời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.
- Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.
- Khi chúng ta xin Thiên Chúa hủy diệt sự dữ, sự thù ghét, bất công, trả thù, chúng ta đã tự nhắc mình nhờ lại các cam kết lúc nhận bí tích rửa tội, đó là tận dụng tất cả năng lực chúng ta mà phụng sự Thiên Chúa, để cho vương quốc công lý, tình yêu và hòa bình mau đến trên trần gian này. Điều này có nghĩa là chúng ta cầu nguyện không phải là để thay đổi “lòng dạ” Thiên Chúa, nhưng là để thay lòng đổi dạ chúng ta, để chúng ta sẵn sàng chấp nhận hoạt động cứu độ của Ngài.
- Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho mộtnhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng mộtlời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.
- Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin mộtcon rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể quy định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có mộtđiều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
- Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là mộtsự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.
- Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần. Ân huệ này là một hơi thở mới bên trong, để làm cho tinh thần của ta được sống động; thổi một sự sống mới vào trong mọi hoàn cảnh; mang lại niềm hy vọng ngay khi chúng ta hoàn toàn nản chí. Bất cứ nơi nào chúng ta thấy cần có Thánh Thần – hãy xin, tìm và gõ cửa. Khi cầu xin như thế là chúng ta tin tưởng vào dụ ngôn này: chúng ta đang đứng trước cửa và đằng sau cánh cửa ấy là một Người Bạn luôn sẵn sàng cho chúng ta thứ bánh ta cần (Siciliano).
[1] G. KITTEL, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. JEREMIAS, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. MARCHEL, Abba, Père (Roma 1963, 1971).
[2] A. PITTA, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.
[3] Cf. JEREMIAS, Abba, 58-67.
[4] Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995.
[5] Ở chủ-cách là autos.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO – Chú giải của Fiches Dominicales
***
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO NƠI CÁC MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Như chúng ta đã học biết nơi Đấng Cứu Thế.
Tin Mừng theo thánh Luca, mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”, dành một vị trí ưu tiên cho cầu nguyện của Đức Giêsu.
+ Một lời cầu nguyện mà từ ngày chịu phép rửa ở sông Giôdan đánh dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Ngài.
+ Một lời cầu nguyện của con cái, dâng lên Thiên Chúa với sự đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
+ Một lời cầu nguyện, mà các môn đệ đã là những nhân chứng, không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe, vào thời đó, người ta không biết cầu nguyện nhỏ tiếng, và ‘cầu nguyện’, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘nêu lên’. Cha George viết: “Các môn đệ đã phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng.
Đức Giêsu muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người (Cahiers-Evangiles, số 5, trg 43).
Trong khi thánh Matthêu thuật việc truyền lại kinh “Lạy Cha” trong khuôn khổ Bài Giảng Trên Núi, thì thánh Luca lại đặt nó trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà ở đó, Đức Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Đức Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Baotixita dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Đức Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện Kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Louis Monloubou nhận xét: “Những hoàn cảnh; trong đó lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các Kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Đức Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh… Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Đức Giêsu đồng ý bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các Kitô-hữu cầu nguyện như Đức Giêsu: “Nhờ người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý (L’évangile de Luc Salvator, trg 194-195).
- Chúng con dám nguyện rằng: “Lạy Cha”
Khác với thánh Matthêu, “kinh lạy Cha“ của thánh Luca ngắn hơn, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Đức Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Jean-Luc Vesco cắt nghĩa: “Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của Người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm. 8, 15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách năng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”. (“Jérusalem et son prophète”, trg 72).
– Hai ước nguyện, cùng có song song trong lời nguyện Do Thái Qaddish.
+ Sự thánh hoá Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong người được mọi người nhận biết?
+ Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của Ngài!
Như thế, H. Cousin nhận xét: “Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (L’evangile de Luc, Centurion, trg 162).
– Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
+ Lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày” để tiếp tục cuộc hành trình. H. Cousin nhận xét: “Trước tiên ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ xuất Hành, và theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”. (Sđd).
+ Lời cầu xin thứ hai nhắm đến “sự tha thứ tội lỗi của chúng con”. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa, không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ không có gì để trả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiện Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
+ Sau cùng, lời xin ơn thứ ba liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Một lời cầu xin mà bản tiếng Pháp dịch là: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ“ có ý nghĩa mơ hồ. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Đức Giêsu đã chẳng được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ đó sao (Luc 4)? Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong 22,32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quỵ cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
- Trong một lời nguyện tin tưởng và kiên trì:
Rồi, Đức Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa.
-Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại năn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến. Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: Đức Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con.
Là người cha tốt lành, Thiên Chúa không thể không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần. Cách nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường nầy là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động” (J.L. Vesco, sđd, trg 75).
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THẦN KHÍ CỦA NGƯỜI – Chú giải của Noel Quesson
***
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy Người cầu nguyện… họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động… và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự thahoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm…
Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”
Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v…).
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển…
Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên… xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha… vô cùng và tuyệt đối là “Cha”… một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau đến…
Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, – 33,17-24 – 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.
Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.
Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng… như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 – 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và… nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ… trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực… sự tha thứ… sự tự do đối diện với cái chết…
Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy… “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là ‘“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.
Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực… Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 – 6,36; Mt 11,19-26,28 – 6,14-18 – 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi… tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do… và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẦU NGUYỆN – Lm. Inhaxiô Hồ Thông
***
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sự kiện Thiên Chúa vui thích lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, sự kiện này được mặc khải cả trong Cựu Ước lần trong Tân Ước.
St 18: 20-32
Sách Sáng Thế thuật lại lời cầu bầu thật cảm động của tổ phụ Áp-ra-ham cho dân thành Xơ-đôm tội lỗi. Thiên Chúa lắng nghe lời khẩn nguyện của người công chính.
Cl 2: 12-14
Đoạn trích Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô đề cập đến thành quả của Phép Rửa là đem lại cho chúng ta ơn tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời, vì bí tích này được tháp nhập vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.
Lc 11: 1-13
Tin Mừng Lu-ca thuật lại giáo huấn của Chúa Giê-su về cầu nguyện: cầu nguyện chính là thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa, vì Người là Cha đầy lòng yêu thương và chúng ta là con cái của Người.
BÀI ĐỌC I (St 18: 20-32)
Chuyện tích Kinh Thánh nổi tiếng này tiếp nối chuyện tích Kinh Thánh tuần trước thuật lại việc ba nhân vật mầu nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham dưới cụm sồi Mam-rê, không xa thành Khép-rôn.
1.Bối cảnh:
Bản văn ở đây nói rõ cho chúng ta biết rằng một trong ba vị khách là chính Đức Chúa. Đức Chúa đã thân hành đến trần gian không chỉ để báo tin vui cho ông Áp-ra-ham biết rằng vào độ này sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ một quý tử cho ông, nhưng còn có một mục đích khác nữa là trừng phạt hai thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra tội lỗi. Tuy nhiên, hai thành nầy ở cách xa cụm sồi Mam-rê, vì thế Đức Chúa sai hai người bạn đồng hành của Ngài đến hai thành đó trong khi Ngài còn đứng nán lại chuyện trò với ông Áp-ra-ham.
Tuy nhiên, Đức Chúa xem ra chưa quyết định dứt khoát: “Ta phải xuống xem thực sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”, vì thế vẫn còn dành chỗ cho lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham là một con người quảng đại, thường hằng quan tâm đến những người khác. Ông đã cảm nghiệm tấm lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa. Ông cũng biết rằng ơn gọi của ông có tầm mức phổ quát: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3). Vì thế, ông thu hết cam đảm cầu bầu cho hai thành ngoại quốc đó.
2.Vai trò cầu bầu của người công chính:
Tiến trình mặc cả của ông Áp-ra-ham với Đức Chúa mang tính chất rất đông phương, nhưng nó dâng hiến một chiều kích tinh thần với một cung giọng đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến niên biểu rất cổ xưa của chuyện tích này (có thể vào thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, vào triều đại vua Sa-lô-mon). Chuyện tích này vang dội lời phản kháng đầu tiên chống lại khái niệm trừng phạt tập thể, khái niệm này dần dần nhường chỗ cho lời khẳng định về trách nhiệm cá nhân vào những thế kỷ sau này: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình” (Đnl 24: 16).
Ngoài ra, lời cầu bầu trên môi miệng của ông Áp-ra-ham khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ. Ông Áp-ra-ham không dám mặc cả với Đức Chúa xuống dưới con số mười người công chính: “Xin Chúa Thượng đừng giận, cho con nói một lần nữa thôi: giả như tìm được mười người thì sao?”. Rồi sẽ đến một ngày, viễn cảnh của ơn cứu độ được dự kiến đạt được nhờ chỉ một người công chính duy nhất, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo: “Hãy rảo quanh đường phố Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cả thành” (Gr 5: 1). Và chẳng bao lâu sau, một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ nhị, sẽ mô tả dung mạo Người Tôi Trung, nhờ nỗi thống khổ của chính bản thân mình “sẽ làm cho muôn người nên công chính” (I s 53: 11). Đức Ki-tô sẽ thực hiện những sấm ngôn này; Ngài sẽ là Người Công Chính thập toàn, vì thế lời cầu bầu của Ngài sẽ là độc nhất vô nhị và khôn sánh.
3.Thiêu hủy thành Xơ-đôm:
Đoạn trích dẫn hôm nay không nói cho chúng ta biết phần tiếp theo, vì không gặp thấy mười người công chính ở thành Xơ-đôm nên thành Xơ-đôm cũng như thành Gô-mô-ra bị thiêu hủy. Chỉ ông Lót và gia đình ông thoát nạn nhờ hai sứ thần của Đức Chúa can thiệp. Tác giả đặt việc ông Lót và gia đình ông được cứu thoát trong mối liên hệ với lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham: “Khi Thiên Chúa phá hủy các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở” (St 19: 29).
BÀI ĐỌC II (Cl 2: 12-14)
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô ngỏ lời với cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang hoang mang trước những đạo lý sai lạc làm lu mờ đi đức tin chính truyền và đặc biệt làm giảm thiểu vai trò cứu độ của Đức Ki-tô. Vì thế, sứ điệp cốt yếu của Thư này nhắm đến tính ưu việt của Đức Ki-tô và phẩm tính trung gian duy nhất của Ngài.
Bấy giờ, thánh Phao-lô khai mở cuộc bút chiến quyết liệt: “Hãy coi chừng chớ để ai gày bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô” (Cl 2: 8). Trong số những đạo lý sai lạc mà Thư nêu lên là phép cắt bì và vai trò trung gian của ơn cứu độ được ban cho các thiên thần. Trong đoạn trích Thư hôm nay, thánh Phao-lô minh chứng sự cao vời khôn ví của Phép Rửa so với phép cắt bì, vì Phép Rửa là phép cắt bì trong tinh thần, nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
1.Phép Rửa, chính là cùng chết và sống lại với Đức Ki-tô:
Vào thời kỳ đầu tiên, Phép Rửa được thực hành qua việc dìm mình vào trong nước. Người chịu phép rửa, cởi bỏ quần áo, bước vào trong bể nước thanh tẩy; sau đó, bước ra khỏi bể nước trong bộ áo quần mới. Đây là nghi thức mai táng theo đó tội nhân cởi bỏ con người xác thịt, tức là con người tội lỗi của mình để được tái sinh trong một đời sống ân sủng và trở thành một tạo vật mới. Cũng có thể nói như vậy, người chịu Phép Rửa được mai táng với Đức Ki-tô và chết cho con người tội lỗi để được sống lại với Ngài, được tinh tuyền, được ban ơn tha thứ mọi tội lỗi nhờ quyền năng của Chúa Cha; cũng với quyền năng này, Chúa Cha đã phục sinh Con của Người từ cõi chết.
Thần học về Phép Rửa này cũng đã được thánh Phao-lô diễn tả như vậy trong Thư gởi tín hữu Rô-ma: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6: 3-8). Tuy nhiên, chúng ta lưu ý đến nhịp điệu mạnh dần nào đó trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê. Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thánh Phao-lô không còn đặt động từ “sống lại” ở thì tương lai như trong Thư gởi tín hữu Rô-ma, nhưng ở thì quá khứ: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Ngài”; thậm chí thánh nhân còn khai triển xa hơn nữa trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô… Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 3: 5-6). Vị thế Đức Ki-tô ngự trị bên cạnh Chúa Cha đó cũng là vị thế của chúng ta rồi cho dù chúng ta hiện nay đang sống trên cõi thế.
2.Đức tin:
Mặt khác, trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân nhấn mạnh sự tất yếu của đức tin, niềm tin vào Thiên Chúa phải là hàng đầu, vì Ngài là căn nguyên của ơn cứu độ: chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, chính Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta và chính Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Quả thật, niềm tin vào Đức Ki-tô phát xuất từ niềm tin vào Chúa Cha này, vì chính nhờ thập giá mà ơn tha thứ và sự sống đến với chúng ta.
Hình ảnh sau cùng thánh Phao-lô dùng thật thấm thía. Nếu Phi-la-tô đã cho đóng một tấm bảng trên đỉnh thập giá để chỉ bản án, thì Thiên Chúa đã đóng đinh vào chính thập giá này “các giới luật”: phép cắt bì, những điều khoản giam hãm chúng ta trong vòng tội lỗi, như những lời thánh Phao-lô ngỏ với các tín hữu Rô-ma (Rm 4: 15; 7: 7-25). Như vậy, Phép Rửa là ơn giải thoát, cuộc tái sinh, sự sống đời đời, được khởi sự rồi ngay cả hiện nay chúng ta đang sống tại thế này, vì Đức Ki-tô đã cho chúng ta được liên đới với vận mệnh Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
TIN MỪNG (Lc 11: 1-13)
Vào lúc Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là “chuyện hằng ngày”. Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là “Cha” như Ngài.
1.Kinh Lạy Cha (11: 2-4)
Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.
“Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện” (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói “Lạy Cha”, còn thánh Mát-thêu thì viết: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?
Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta.
A-Hướng về vinh quang của Thiên Chúa
a- “Xin làm cho danh Cha vinh hiển”:
Theo văn hóa Do thái, “Danh” được áp dụng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi “tên” cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: “Xin danh Cha được vinh hiển” là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12: 28), nghĩa là “xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ”.
Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: “Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta…Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22: 32), hay “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta.
- “Triều đại Cha mau đến”:
Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.
Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia, Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).
Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: “Marana Tha!”, nghĩa là “Lạy Ngài, xin hãy đến” (1Cr 16: 22; Kh 22: 20).
B-Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta:
a- “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”:
Lời khẩn nguyện này của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: “Đừng có ai để dành cho đến sáng” (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi.
Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?
Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: “xin tha tội cho chúng con”, “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất khó mà hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể.
b- “Xin tha tội cho chúng con…”:
Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ” (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
– Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”: Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:“mắc nợ”, nhưng thánh Lu-ca dùng từ “mắc lỗi” để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát.
c- “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”:
Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu , và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1: 13).
- ĐỪNG SỢ QUẤY RẦY THIÊN CHÚA (11: 5-13)
Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”, có nghĩa “Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho”, bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha của chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: “Thánh Thần”. Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về “những của tốt lành” mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra “Thánh Thần”, mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội tiên khởi trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8: 15) và “Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8: 27).
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LẠY CHA CHÚNG CON – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
***
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
- Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
- Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luônđược thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẦU XIN – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
***
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho”. Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần điều gì thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên trì.
Trước hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người khác.
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng con.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I (St 18,20-32)
Vì dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và Abraham đã hạ dần con số những người công chính : từ 50 xuống 45, rồi 40, 30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng : a/ Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi ; b/ Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
- Đáp ca (Tv 137)
Ca tụng Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
- Tin Mừng (Lc 11,1-13)
Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện :
1). Nội dung phải cầu nguyện : Kinh Lạy Cha : Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ “Cha” : kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì :
a/ Đối với Chúa : sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”) ; sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”)
b/ Đối với chính bản thân mình : có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
2). Thái độ khi cầu nguyện : Phải kiên trì
Để minh họa cho thái độ kiên trì, Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về “người bạn quấy rầy”
– “Quấy rầy” vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh : việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện… thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
– Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một “người bạn”. Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
- Bài đọc II (Cl 2,12-14) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội :
– Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô.
– Tha thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước :
– Ông không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
– Ông không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
– Ông đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào “uy tín” của một số người công chính.
Nhưng có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
* 2. Xin, tìm và gõ
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động chỉ biết đợi chờ.
Tuy nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được ; lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
* 3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì ?
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúøng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* 4. Và chúa nói không
– Tôi xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói “không”. Người nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
– Tôi xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không. Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
– Tôi xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
– Tôi xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
– Tôi xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
– Tôi xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
– Tôi xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người nói : À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài. Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1.3.1998)
* 5. Xin điều này được điều khác
Tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao – Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn – Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng – Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống – Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần. (Anon)
- Chuyện minh họa
a/ Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng : “Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi ?”.
– Ồ, ông biết đấy : Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/ Khiêm tốn
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói : “Đó là phần ông cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi dốc túi đưa hết cho ngài.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, cầu nguyện là hơi thở, là sức sống, là linh hồn của đời sống người Kitô hữu. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết cầu nguyện như Chúa đã dạy :
- Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình siêng năng cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết chăm chỉ lắng nghe / và cố gắng thực hiện lời mời gọi tha thiết của Hội thánh / trong đời sống đức tin thường ngày.
- Ngày nay / có một số Kitô hữu / đặc biệt là các Kitô hữu trẻ / cho rằng cầu nguyện không còn cần thiết nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / cầu nguyện cần thiết cho đời sống đức tin / như dầu cần cho đèn.
- Cầu nguyện trong gia đình rất quan trọng cho cuộc sống đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết mọi gia đình Công giáo / biết trung thành đọc kinh tối sáng mỗi ngày.
- Chúa Giêsu dạy ta kinh Lạy Cha để cầu nguyện cùng Chúa Cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / vừa đọc vừa suy niệm / và sống theo tinh thần của lời kinh nguyện tuyệt vời này.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn cảm tạChúa là Đấng đã dựng nên chúng con và gìn giữ chúng con khỏi mọi sự dữ trong cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI – Lm Giuse Đinh lập Liễm
***
- DẪN NHẬP
Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… là chuyện thông thường. Đối với Thiên Chúa. Đấng mà từ xưa dân Do thái đã có liên hệ mật thiết với Ngài – Và khi Đức Kitô giáng thế khởi đầu “dân mới” thì những điều Ngài thực hiện giữa loài người đã trở nên cụ thể và hiển nhiên với biết bao con người. Có một lời kinh đã đáp lại lời thỉnh cầu của các tông đồ.
Theo lời thỉnh cầu của một Tông đồ, Đức Giêsu đãõ dạy các ông một lời kinh tuyệt vời mà ta gọi là kinh Lạy Cha. Đây là một kinh nguyện khuôn mẫu của lời cầu nguyện cùng Cha trên trời. Với lời cầu nguyện này, chắc chắn những ước nguyện của chúng ta sẽ được Cha trên trời chấp nhận :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Lời thỉnh nguyện của ông Abraham dâng lên Thiên Chúa để xin tha thứ cho dân thành Sôđôma và Gômôra đã chứng tỏ điều đó (bài đọc 1).
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay, còn dạy chúng ta phải có thái độ kiên trì trong khi cầu nguyện với dụ ngôn “người bạn bị quấy rầy”. Ngoài ra, Ngài cũng dạy chúng ta phải lấy tình con thảo mà cầu nguyện với Cha trên trời là Người Cha vô cùng nhân ái. Nếu người cha trần thế chẳng tốt lành gì mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, huống chi Cha trên trời lại không đáp ứng cho con cái Ngài những điều tốt lành sao ? Hơn nữa, Ngài còn ban cho con người một điều vô cùng tốt lành nữa, đó là ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
+ Bài dọïc 1 : St 18,20-32.
Thiên Chúa cho ông Abraham biết dân thành Sôđôma và Gômôra phạm tội quá nhiều, Ngài định sai lửa trên trời thiêu rụi thành này. Ông Abraham đứng làm trung gian xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành này vì sự hiện diện của một số người công chính. Ông biết Thiên Chúa rất yêu thương : yêu thương chính ông và yêu thương con người.
Vì thế ông dám “mặc cả”û với Thiên Chúa, từ con số 50 đến con số 10. Mỗi lần mặc cả của ông là mỗi lần tỏ ra rằng Chúa chỉ muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được hai điều quan trọng :
- a) Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.
- b) Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người, nhất là qua trung gian của các thánh.
+ Bài đọc 2 : Cl 2,12-14.
Có những người cứ muốn cho tín hữu Côrintô tuân thủ các lề luật Đạo cũ. Thánh Phaolô nhắc lại cho họ biết rằng phép rửa tội trong Đức Kitô đã làm cho họ phục sinh, làm cho họ khỏi chết vì tội. Như vậy, qua phép Thánh Tẩy một Kitô hữu chết cho các tội lỗi trước đây, và bắt đầu sống một đời sống mới.
Còn Đức Giêsu, bằng cái chết trên thập giá, đã trở thành vị Trung gian duy nhất đưa lại ơn tha thứ của Thiên Chúa cho chúng ta.
+ Bài Tin mừng : Lc 11,1-13.
Abraham đã tin tưởng chuyển cầu cho người tội lỗi vì ông biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng ông không dám đi xa hơn mức. Còn Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, và khuyến khích chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Cha, với niềm tín thác của một trẻ thơ khi có những nhu cầu về tâm linh cũng như trần thế.
Kinh Lạy Cha của Luca trong bài Tin mừng hôm nay khác với kinh Lạy Cha của Matthêu (6,9-13) : điều đó cho chúng ta biết khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng quan trọng là nội dung : trước hết, xin cho Nước Cha trị đến, sau đến những nhu cầu của con người; và xin thì sẽ được nhận lời vì Cha trên trời không nỡ từ chối.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lạy Cha chúng con ở trên trời.
- KINH LẠY CHA CỦA CHÚNG TA.
- Cơ hội đưa đến Kinh Lạy Cha.
Các môn đệ ở gần Đức Giêsu, thấy Ngài cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu giờ, nhất là trước những biến cố trọng đại. Ngài là bậc Thầy của sự cầu nguyện. Các môn đệ đã được chứng kiến tận mắt những lần Ngài cầu nguyện, không những bằng mắt thấy mà còn bằng tai nghe. Vào thời đó, cầu nguyện, theo tiếng Do thái, có nghĩa là “kêu lên”, và như vậy các môn đệ đã nghe tiếng Đức Giêsu cầu nguyện.
Cha George viết :”Các môn đệ phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho một ý tưởng cầu nguyện riêng. Đức Giêsu đã muốn người ta nghe Ngài cầu nguyện, Ngài muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Ngài”(Cahiers-Évangiles”, số 5, tr 43).
Thời Đức Giêsu có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, trong trường hợp ở đây, chúng ta có nhóm Gioan Tẩy giả. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm.
Hôm nay, một môn đệ được ảnh hưởng do việc Đức Giêsu cầu nguyện và vì thấy Gioan Tẩy Giả đã dạy các đệ tử của ông cầu nguyện, nên đã xin Ngài dạy về sự cầu nguyện :”Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
- Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha.
- a) Hoàn cảnh của kinh Lạy Cha.
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, nhưng chúng ta không biết rõ ở nơi nào. Thánh Matthêu đặt kinh Lạy Cha trong bài giảng trên núi. Đây chắc là do sự sắp xếp lại để dạy giáo lý cho Kitô hữu. Thánh Luca nói một cách trống : Ngày kia.
Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha này sau câu chuyện xẩy ra ở Bêtania. Như vậy, ta có thể biết được rằng kinh Lạy Cha này Chúa dạy ở chung quanh Giêrusalem, không xa Bêtania, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem lần thứ nhất.
Kinh Lạy Cha được lưu truyền từ thế kỷ thứ 9 rằng Chúa dạy trên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem theo như những điều kiện kể trên kia có lẽ đúng.
So sánh hai kinh Lạy Cha của Matthêu và Luca, ta thấy kinh Lạy Cha của thánh Matthêu dài hơn kinh Lạy Cha của thánh Luca. Trong thánh Luca không có lời nguyện :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và không có lời xin :”Xin cứu chúng con khỏi sự dữ”. Kinh Lạy Cha của thánh Luca tuy ngắn hơn, nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa không thiếu gì. “Vâng ý Cha” gồm trong lời nguyện “Nước Cha trị đến”, và “Cứu chúng con cho khỏi sự dữ” gồm trong lời cầu :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
- b) Nội dung kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha gồm hai phần với 5 lời xin :
* Phần I : hướng về Chúa với hai lời cầu :
– Xin cho danh Cha cả sáng.
– Nước Cha trị đến.
* Phần II : hướng về lợi ích của chúng ta với 3 lời cầu :
– Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.
– Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
– Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Kinh Lạy Cha là kinh khuôn mẫu Chúa dạy chúng ta hãy dùng mà cầu nguyện. Theo đó, nội dụng sự cầu nguyện có ba phần : Phần thứ nhất là những lời Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời cầu xin đích thực.
- CẦU NGUYỆN VÀ KINH LẠY CHA.
- Cầu nguyện là điều cần thiết.
* Cầu nguyện nơi các tôn giáo.
Mọi tôn giáo đều có sự cầu nguyện, nhưng hình thức thì khác nhau, rất đa dạng. Mỗi tôn giáo đều có hình thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy giả hình như cũng có cho các người theo ông. Chính vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu cũng muốn cho mình phải có một hình thức cầu nguyện riêng của mình nên mới thưa với Ngài :”Xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một công thức kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Luca ghi lại có ngắn hơn của Matthêu nhưng cũng chứa đủ những điều cần biết để cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
* Chúa dạy chúng ta cầu nguyện.
Trong sách Tin mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu đã truyền cho chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện liên, ví dụ :”Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài cũng khuyên bảo chúng ta hãy cầu nguyện và cầu xin cùng Cha trên trời :”Hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho”(Lc 11,10).
Ngày xưa, có người đặt vấn đề với thánh Augustinô:”Nếu Thiên Chúa biết những nhu cầu của chúng ta trước cả khi chúng ta xin, thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện” ? Ngài đã trả lời :”Bởi vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện”. Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn câu trả lời này.
* Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời này, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thứùc : cầu nguyện là đào nhiệm : đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào ?
Ông Blaise Pascal, nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 17 đã nói về vấn đề ấy :”Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ không phải chỉ bằng việc sử dụng trí thông minh của mình mà còn bằng việc sử dụng cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa.
Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy đi nữa, ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia sẻ cho chúng ta.
Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.
- Hiệu lực của việc cầu nguyện.
Trong bài đọc thứ nhất (St 18,20-32) chúng ta nghe một câu chuyện thật hấp dẫn về sự tin tưởng của Abraham vào lòng tốt lành và nhân từ của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không dung tha hình phạt cho hai thành Sôđôma và Gomôra nếu có 50 người công chính trong thành sao ? Thiên Chúa trả lời :”Tha chứ” ! Nếu chỉ có 45 thì sao ? Hay 30 ? hay 10 thì sao ? Thiên Chúa cũng vẫn đồng ý tha thứ. Thật đáng tiếc, vì 10 người vô tội thôi vẫn không thể tìm thấy, mà chỉ có 4 người là ông Lót, vợ ông, và hai người con gái. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Abraham vì ông tin tưởng nơi Ngài mà cứu 4 người khỏi bị tiêu diệt. Nếu chúng ta đặït tất cả sự tin tưởng ở Thiên Chúa, lòng bao dung của Ngài sẽ ban cho chúng ta rộng rãi hơn là điều chúng ta nghĩ tưởng.
Xưa kia thánh Gioan Vianney đã nói :”Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói “Yes”, khi Ngài đã nói “No”.
Và thánh Gioan Chrysostômô đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này :”Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.
- Cầu nguyện và khoa học.
Sự cầu nguyện cũng có ảnh hưởng tới khoa học. Sức mạnh của lời cầu nguyện cũng đang được khoa học hiện đại kiểm nghiệm qua những hiệu quả lạ lùng. Bác sĩ Alexis Carrel (18173-1944), người đoạt giải Nobel về y khoa năm 1912 đã viết trong cuốn sách nhan đề “Man, the Unknown” như sau :
“Cầu nguyện là hình thức mạnh mẽ nhất của nghị lực mà chúng ta có thể phát sinh ra được. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện trên thân thể và tâm trí giống như những tuyến hạch nằm kín đáo trong cơ thể tạo nên sức mạnh đề kháng. Chỉ trong sự cầu nguyện, chúng ta có được sự hiệp nhất thật hoàn hảo và nhịp nhàng giữa thân xác, tâm trí và tinh thần. Nó làm cho thân phận cỏ cây yếu đuối của con người trở thành một sức mạnh không thể lay chuyển được”.
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường.
(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261)
III. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN.
- Phải kiên trì.
Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta : khi cầu nguyện phải biết kiên trì, và để minh hoạ cho thái độ đó, Ngài đưa ra một dụ ngôn về “Người bạn bị quấy rầy”. Nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nì đến độ sỗ sàng, để giúp đỡ, người bạn khác ở xa mới đến.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa, hoặc là vì tình bạn… Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua thái độ kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Có người thắc mắc hỏi :”Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự ngay trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta :”Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ” ? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị cho của Ngài ban cho”.
Tiếp theo lời giải thích của thánh Augustinô, chúng ta có thể lý luận thêm :
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái (Carôlô).
Một hôm thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Nếu một em bé thấy con chó dữ đàng xa, hung hăng nhào tới em thì em bé sẽ làm gì? Chạy trốn ư ? Không thể được vì em chưa đủ sức. Vậy em phải làm sao ? Chỉ còn một cách là em la lên thật to cầøu cứu cha mẹ. Và cha mẹ em sẽ chạy đến để bênh vực em và cứu sống em”.
Em bé đó chính là hình ảnh mỗi người chúng ta với sức riêng yếu đuối không thể tự mình bước tới được một bước trên con đường cứu rỗi. Và con chó đó chính là ba địch thù lợi hại của con người : ma quỉ, thế gian và xác thịt. Phải làm gì đây ? Phải kêu cứu, phải cầu nguyện với Chúa, nếu không, đời ta sẽ gặp nguy khốn.
Phải cầu nguyện, nhưng phải cầu nguyện thế nào để đạt hiệu quả tối ưu ? Ta hãy nghe thánh Phanxicô Salêsiô trả lời tiếp :”Con ruồi đậu trên đoá hoa này liền vội vãø bay sang đoá hoa khác, luôn hay thay đổi, còn con ong mật thì lặng lẽ hoạt động, dừng lâu, hút cạn nhụy hoa rồi đem về tổ làm thành mật ngon ngọt. Không nên có thứ Kitô hữu-ruồi, mà phải là Kitô hữu-ong mật, nghĩa là phải kiên trì cầu nguyện”.
- Cầu nguyện trong tình nghĩa cha con.
Dân Do thái đã gọi Thiên Chúa là “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Osée 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16 ; Khôn ngoan 5,5vv..)
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Ngài dám thưa cùng Thiên Chúa :”Abba, Cha ơi”… từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Ngài ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Ngài là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu”, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Con Một của Ngài” (Quesson).
Cha Jean-Luc Vesco nói thêm :”Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha.Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô:”Lạy Cha” (Ga 4,6; Rm 8,15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”(Jérusalem et son prophète, Cerf, tr 72).
Trong khi cầu nguyện, chúng ta hãy mang lấy tâm tình của Đức Giêsu đối với Cha Ngài, chúng ta hãy lấy tư cách của người con nói chuyện với cha. Cha trên trời luôn luôn là người Cha thương yêu của chúng ta, Ngài thích chúng ta nói chuyện với Ngài trong tư cách của một người con. Ngài sẽ lấy làm vinh dự khi chúng ta kêu Ngài bằng “Abba, Cha ơi”.
Tướng Marc Arthur nói lên tâm sự của ông là một người cha :”Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc kinh nguyện đơn sơ hằng ngày : Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…. Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và trong tinh thần con thảo. Cầu nguyện ! Đó là một từ ngữ của đức tin. Một Kitô hữu mà không cầu nguyện thì còn nghĩa gì nữa .Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng, cầu nguyện cũng là một thử thách.
Ngày nay có người cho việc cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay, hẵy xắn tay áo lên. Cầu nguyện là một ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… Cầu nguyện là một sự tha hoá; hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… hãy gạt bỏ những điều mê tín.
Trái ngược với khẳng định của một số người, bác sĩ Alexis Carrel, trong cuốn sách nhan đề“Man, The Unknown” đã không tiếc lới ca tụng giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Ông nói :”Cầu nguyện là một hành vi sáng suốt của con người”. Theo bác sĩ, cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi cái chức năng “con người thụ tạo” con người của ta với Đấng Sáng Tạo Tối cao, tức là Thiên Chúa.
Truyện : Một đứa bé cầu nguyện.
Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu. Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không” ? Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói :”Cháu hãy để cho Chúa liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm : cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ” (Mỗi ngày một tin vui”.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KINH LẠY CHA – LỜI KINH CỦA CHÚA Lm Giuse Nguyễn Hữu An
***
Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng. Động từ “dám” diễn tả một thái độ kính sợ đối với Chúa. Thái độ này bắt nguồn từ truyền thống lâu dài trong Kinh Thánh, được minh họa tuyệt vời trong cảnh Môsê gặp Thiên Chúa trong bụi gai bốc cháy: “Chớ lại gần. Cởi dép ra, bởi đất ngươi đang đứng là đất Thánh” (Xh 3,5). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người – chúng ta mới dám đến gần Thiên Chúa là Cha, trong niềm tin yêu thảo hiếu: “Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và được đến cùng Cha, đầy lòng tín thác vì đã tin vào Ngài” (Ep 3,12).
Kinh Lạy Cha là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của Chúa, lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha còn là lời kinh của Hội Thánh, trong Phụng vụ, Kinh Lạy Cha luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các Giờ kinh Nhật tụng, trong Thánh lễ và trong các Bí tích gia nhập Kitô giáo.
Thánh Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Matta, Maria. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu”. Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến, Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha. Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm Nhà Thờ Kinh Lạy Cha tại Giêrusalem. Tảng đá Chúa ngồi dạy Kinh Lạy Cha vẫn còn đó. Nhà thờ này do các Soeur Dòng Kín Cát Minh người Pháp coi sóc. Nơi đây có 114 phiến đá ghi Kinh Lạy Cha bằng 114 ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do Đức cố Giám mục Phạm Ngọc Chi đặt từ năm 1959.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa để lại. Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
- Lời thân thưa
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau : Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.
Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa : Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.
Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, luôn tín thác vào Cha, thực thi ý Cha, và sống tình huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau. Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đọc với tâm tình khiêm tốn và biết ơn: khiêm tốn nhận ra sự thật về con người bất xứng của mình, tạ ơn vì biết rằng tất cả đều là ân huệ Thiên Chúa ban.
- Hai lời nguyện ước
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển“ và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha của mình.
Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.
Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.
Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào sự sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo, biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời, chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
- Ba lời cầu xin.
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.
Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để Chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.
Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vượt thắng mọi cám dỗ.
Phân biệt “thử thách” và “cám dỗ”. Thánh Phaolô tự hào vì những thử thách gian truân gặp phải trong đời: “Gian truân tạo kiên nhẫn, kiên nhẫn tạo nhân đức” (Rm 5,3-5). Còn cám dỗ là sự xúi giục điều xấu, đưa đến tội và sự chết, và Thiên Chúa không cám dỗ ai cả: “Bị cám dỗ, đừng ai nói: Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ. Vì Thiên Chúa không thể bị điều dữ cám dỗ Người, và Người cũng không cám dỗ ai. Mỗi người có bị cám dỗ là do đam mê của mình” (Gc 1,13-14).
Phân biệt “bị cám dỗ” và “sa chước cám dỗ”. Bị cám dỗ là chuyện tự nhiên của thân phận con người. Chính Chúa Kitô cũng bị cám dỗ (Mt 4,1-11). Và vì thế, không có tội lỗi gì khi bị cám dỗ. Vấn đề là ở chỗ chiều theo cơn cám dỗ. Ở đây, ta cần được ơn biện phân các thần khí để nhận diện sự ác, xuất hiện với dáng vẻ bên ngoài “tốt đẹp … nhìn thật hấp dẫn” (St 3,6), nhưng bên trong lại ẩn chứa nọc độc tội lỗi và sự chết. Có chiều theo cơn cám dỗ hay không, điều đó tùy thuộc tâm hồn ta: “Kho tàng, của người ở đâu, lòng người ở đó … Không ai có thể làm tôi hai chủ … ” (Mt 6,21-24). Chúng ta cần sự trợ giúp của Thiên Chúa để hướng lòng về điều thiện: “Chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (GI 5,25).Thánh Phaolô quả quyết: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức chịu đựng” (1Cr 10,13). Chính vì thế, cần tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ (x,Mc 13,9; Cl 4,4; 1Pr 5,8-10).
“Nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ“. Sự dữ chính là Satan, kẻ đối nghịch với Thiên Chúa,“kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại” (Kh 12, 9); “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” ( Ga 8,44). Chúa Kitô phục sinh đã chiến thắng “Ðầu mục của thế gian này” (Ga 14, 30). Chúa Kitô trấn an chúng ta: “Ðừng sợ, Thầy đã thắng thế gian“. Và vì thế, trong thánh lễ, chúng ta luôn cầu xin cho cả gia đình nhân loại được giải thoát khỏi Satan và mọi việc làm của nó, chúng ta cũng cầu xin hồng ân quý giá là sự bình an và ân sủng để kiên trì chờ đợi Đức Kitô lại đến, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ cách dứt khoát: “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời“.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
Kinh Lạy Cha, lời kinh Chúa dạy, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta “dám” thân thưa lời cầu nguyện hàng ngày với Cha trên trời. Trong thánh lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, vị chủ tế nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, tuyên xưng rằng:
Chính nhờ Ðức Kitô,
Cùng với Ðức Kitô,
Và trong Ðức Kitô,
Hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
Mọi vinh quang và danh dự,
Ðều thuộc về Cha,
Là Thiên Chúa toàn năng,
Ðến muôn thuở muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ – Jos. Vinc. Ngọc Biển
***
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái…, từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… Đó là các mối liên hệ tự nhiên. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt. Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.
- Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện
Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.
Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài. Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.
Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.
Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến”.
Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.
Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình. Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.
Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”.
Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.
Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.
Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.
Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta. Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.
- Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta
Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả. Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.
Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.
Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.
Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn.
Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.
Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.
Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người. Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái”.
Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.
Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con! Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TIN TƯỞNG VÀO CHÚA VÀ THA THIẾT NGUYỆN CẦU Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tột đỉnh của lòng thương xót Chúa là tha thứ. Tin Mừng (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ. Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ hướng về Thiên Chúa là Cha bằng tình con thảo với trọn niềm tin vì : “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền.”( Ca nhập lễ).
Gương của tổ phụ Abraham
Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa tỏ ý định của Ngài cho Abraham (x. St 18,1), và Abraham nhận ra lòng thương xót Chúa. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Chúa : “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mạc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có, Abraham đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi : Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mươi người xuống còn mười người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, và nhận lời ông cầu xin.
Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Chúa Giêsu cầu nguyện thế nào và dạy các môn đệ ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).
Chuyện là khi các môn đệ chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Chúa Giêsu đáp ứng lời xin và dạy : “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này : ‘Lạy cha…”. Người mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài của tình phụ tử giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.
Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Người đưa chúng ta vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa, khiêm tốn, tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý” ; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống” ; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ” ; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)… Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà Thiên Chúa trung thành hình như vắng mặt.
Thiên Chúa luôn giữ lời hứa, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa? Chúa Giêsu bảo đảm rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời : “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Người lưu ý chúng ta : “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.” (Lc 11,10) Người làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Chúa Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao ? Chính Chúa, là kho tàng quí giá nhất mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện ; Lời cầu nguyện đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải : “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.
Lấy lại những lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang lòng thương xót của Chúa Cha đến với muôn người. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGUYỆN GIÚP CẦU THAY Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa nhật XVII thường niên C, giới thiệu Abraham, con người của cầu nguyện, ông nài xin Thiên Chúa cách kiên trì, ông xin cho đến bao giờ được mới thôi (x. St 18,20-32). Thì bài Tin mừng (Lc 11, 1-13), cho thấy Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha, liền sau đó Người dạy các môn đệ cầu nguyện thể theo lời họ xin (x. Lc 11,5-8), và khuyên họ kiên trì cầu nguyện với niềm xác tín đầy tình con thảo với Cha trên trời : “Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ thì sẽ mở cho.” (x. Lc 11,10)
Abraham được phụng vụ trình bày như là gương sáng về sự nguyện giúp cầu thay, ngay cả khi hành vi của ông có vấn đề. Với lòng hiếu khách, ông đã mời ba vị khách vào trại của ông. Một trong ba vị lặp đi lặp lại với Abraham và Sara lời Thiên Chúa hứa ban cho ông bà có con nối dõi tông đường, điều mà ông bà hằng khao khát (x. St 18, 1.10).
Họ là ba, tuy nhiên, trong khung cảnh của Chúa nhật tuần trước, đúng hơn Abraham nói với họ như thể họ là một: vì thiên thần của Chúa (theo Kinh Thánh là những sứ giả được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ vụ qua tên riêng của họ), có lúc nhiều, có khi lại chỉ là một.
Hôm nay chúng ta tiếp tục sự kiện này khi hai người trong số họ quyết định đi đến Sôđôma trong lúc Abraham đang ở trước mặt người thứ ba, là Thiên Chúa. Các cuộc thương lượng giữa Thiên Chúa với Abraham liên quan đến dân thành Sôđôma, có Lót, cháu trai của ông và gia đình ông. “Khi những người Sôđôma độc ác và tội lỗi chống lại Thiên Chúa.” (St 13,13) Bạo lực của họ “kêu thấu” tới Chúa và Chúa nhìn họ với cái nhìn : tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, vì Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót.
Trong cuộc thương lượng, Abraham đặt mình vào vị trí của người công chính và Thiên Chúa là người đáng trách : “Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?” (St 18, 25). Thiên Chúa vẫn giữ một thái độ mà Abraham cho là bất công. Con người có thể lượng giá theo cái biết phiến diện của mình. Thiên Chúa thì không như thế, Ngài phán xét cách công minh.
Vì thiếu lòng tin nên Abraham đã mặc cả với Chúa đến mười người công chính (St 18,31). Nếu như Thiên Chúa quyết định kết án chín người vô tội, chín người công chính trong số các cư dân thành Sôđôma …. Kinh Thánh do miệng các tiên tri cho chúng ta câu trả lời : không, Thiên Chúa không hành động như vậy. “Rảo khắp các phố phường Giêrusalem mà nhìn cho tỏ, hãy tìm nơi các công trường xem có kiếm được một người, một người mà thôi biết giữ công lý, biết tìm sự thật, để Ta tha tội cho thành, sấm của Đức Chúa.”(Gr 5, 1)
Bấy giờ ở Sôđôma đã có một người công chính là ông Lót. Nhưng sự hiện diện của ông không ngăn cản được án phạt giáng xuống cả thành. Thậm chí nếu cứu vớt cá nhân ông, và cả gia đình ông, thì người công chính này cũng không cứu được toàn dân trong thành. Lý do ông chỉ là khách ngoại kiều. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ, Ngài sẵn sàng tha thứ tội chết cho toàn dân nếu ăn năn hối cải.
Tin tưởng vào Thiên Chúa và tha thiết nguyện cầu. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, nên Người dạy chúng ta. Người đã thực hành điều Người dạy. Vào những thời điểm quan trọng trong đời như : chịu phép rửa (Lc 3,21), biến hình (Lc 9,29), hấp hối trong vườn cây dầu (Lc 22, 41), Chúa thường cầu nguyện. Người không đặt vấn nạn, cũng không phát biểu những công thức cao siêu huyền bí, nhưng Người đã nói cách đơn sơ: “Cha ơi…” và tiếp đó Người dạy kinh Lạy Cha (x. Lc 11,2-4). Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, phải đặt mình vào hoàn cảnh của một người cha phải đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, chúng đang đói, chúng cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối : ” Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi”. Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời !
Chúng ta là những kẻ xấu còn đối xử với nhau như thế, phương chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, chúng ta phải tin tưởng vào Ngài, vì Ngài hằng yêu thương, nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn mạnh khi chúng ta cầu xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).
Thế giới ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót, thứ tha, nhất là để cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Người là Đấng công chính duy nhất giữa muôn người tội lỗi : “Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, thủ tiêu văn khế tội nợ của ta dựa trên lệnh chỉ cáo tội ta, và Người hủy bỏ đi, đóng đinh nó vào thập giá.” (Col 2. 14)
Ơn cứu độ là có thể vì Đức Giêsu Kitô không phải là người xa lạ. Người trở nên nguyên nhân ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Thánh Têrêxa đã mời gọi các chị em của mình như thế này: “Chúng ta cần phải van xin Chúa giải thoát chúng ta mãi mãi khỏi hết mọi hiểm nguy và xin cất đi mọi sự dữ. Và cho dù lòng ước ao của chúng ta còn bất toàn đi nữa, chúng ta cũng hãy kiên trì nhắc đi nhắc lại lời van xin đó. Ðừng lo sẽ xin xỏ quá đáng, xét vì chúng ta đang ngỏ lời với Ðấng Toàn năng mà? (Camino 60).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Người. Abba, lạy Cha, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CẦU NGUYỆN Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
***
Khi nói đến đời sống tôn giáo, người ta không thể không nói đến việc cầu nguyện. Thật vậy, cho dù theo bất cứ một tôn giáo nào, thì việc cầu nguyện luôn là một việc quan trọng nhất trong sinh hoạt tôn giáo của người tín đồ. Nhờ cầu nguyện, người tín đồ có thể thiết lập mối liên hệ của mình với Đấng mà mình tôn thờ.
Đặc biệt với đạo Công Giáo chúng ta, thì việc cầu nguyện còn được nhấn mạnh hơn nữa. Các nhà tu đức coi việc cầu nguyện như là hơi thở của linh hồn, hay nói một cách khác, linh hồn chúng ta, đời sống thiêng liêng của chúng ta chỉ có thể sống và phát triển cách sung mãn nếu chúng được nuôi dưỡng bởi một đời sống cầu nguyện liên lỉ.
Nhưng cho dù việc cầu nguyện cần thiết như thế, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy khó khăn và xa lạ với việc cầu nguyện. Do đó, trong giờ phụng vụ Lời Chúa này, chúng ta cùng lắng nghe lời Chúa dạy chúng ta về cách cầu nguyện.
- Một cuộc đối thoại thân tình:
Trở lại với bài đọc một, lúc ấy sau khi đã dùng bữa với Abraham, người của Thiên Chúa báo cho ông biết tin hai thành phố Sôđôma và Gômôra sắp bị tiêu diệt vì tội lỗi họ quá nặng nề. Lập tức Abraham thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có 50 người công chính trong thành, họ cũng chết chung sao?”. Và thế là bắt đầu một cuộc đối thoại thật thân tình giữa Abraham và người của Thiên Chúa. trong cuộc đối thoại này, vị tổ phụ của chúng ta đã làm một việc xem ra khá “phạm thượng” theo cái nhìn tự nhiên của chúng ta, đó là dám “trả giá” với Thiên Chúa. Ông đã trả giá với Chúa từ con số 50 người giảm xuống 45, 40, 30, 20 và cuối cùng là 10 người công chính để cầu xin Thiên Chúa tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra. Điều đó cho thấy mối tương quan thân thiết, gần gũi, thân tình của Abraham đối với Thiên Chúa. Mối tương quan này thân thiết đến nỗi, nó không còn bị gò bó bởi một công thức cứng nhắc nào, nhưng là phát xuất từ đáy lòng. Ông thành thật thưa với Chúa những điều ông cảm nghĩ, những nỗi băn khoăn, khắc khoải của ông. Và đó chính là lời cầu nguyện mà Thiên Chúa ưa thích nhất. Tới đây, tôi nhớ có một câu chuyện kể rằng:
Vào một buổi chiều đã muộn, có một người nông dân trên đường trở về nhà, bỗng không tìm thấy cuốn sách kinh đâu cả. Tệ hơn, tới giữa rừng, chiếc xe bò của ông lại hư một bánh, chắc chắn là không về kịp nhà trong đêm nay. Ông ta rất buồn vì không có sách kinh để cầu nguyện trước khi trời tối. Vì thế, ông thưa với Chúa: “Chúa ơi, con đã làm một điều thật đáng trách: sáng nay con đi chợ mà không mang theo sách kinh, mà trí nhớ con lại quá kém, tới độ con chẳng nhớ một kinh nào trong sách. Vậy con sẽ làm thế này: con sẽ đọc bản mẫu tự 5 lần rất chậm và Chúa, Chúa thuộc tất cả các kinh, xin Chúa ghép các chữ lại với nhau thành những lời kinh mà con không nhớ được”.
Nghe thế, Chúa mới bảo các thiên thần:
“Trong tất cả các lời kinh mà Ta đã nghe hôm nay, chắc chắn đây là lời kinh hay nhất, bởi vì nó phát xuất từ một con tim đơn sơ và chân thành”. (Lời kinh – Mẫu tự, Chuyện hay Đông Tây, tập 1, trang 95).
Vâng, lời cầu nguyện đẹp nhất là lời cầu nguyện phát xuất từ tận đáy lòng, như lời của con trẻ nói với mẹ, hay lời tâm sự của hai người đang yêu nhau. Lời cầu nguyện hay nhất chính là lời thưa với trọn vẹn lòng tin tưởng, cậy trông. Và đây không phải là một sự cậy trông hão huyền, nhưng là lòng cậy trông dựa vào chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng “đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta… Người đã huỷ bỏ văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá”.
Tuy nhiên, có điều quan trọng mà chúng ta cũng cần lưu ý, đó là khi cầu xin cho hai thành phố Sôđôma và Gômara, Abraham chỉ thưa với Chúa: “Nếu có 40 người công chính thì Chúa sẽ làm gì?” hay “Nếu ở đây tìm được 30 người công chính thì sao?”. Abraham đã không bảo Chúa phải làm thế này, hay thế khác. Ông chỉ trình bày lên Chúa một nỗi niềm, một ưu tư của ông, còn quyết định thì ông vẫn để cho Thiên Chúa. Và chính điều đó làm nên nét đẹp trong lời cầu nguyện của ông.
- Tinh thần liên đới với tha nhân:
Kế đến, lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu nguyện vượt ra khỏi chính bản thân mình, để hướng tới sự liên đới với tha nhân. Thông thường, khi cầu nguyện, tôi và quý OBACE vẫn thường có thói quen xin Chúa cho bản thân mình, hay gia đình chúng ta được điều này, điều nọ. Chúng ta rất ít khi nghĩ đến việc cầu nguyện cho người khác.
Thế nhưng, khi nghe tin thành Sôđôma và Gômôra sắp bị tiêu diệt, thì cho dù chẳng liên hệ gì đến mình, nhưng Abraham vẫn lên tiếng cầu xin sự tha thứ cho họ. Điều đó cho thấy việc cầu nguyện không chỉ là cho mình, nhưng còn là lúc mỗi người chúng ta thể hiện tình liên đới với tha nhân, những người đang sống chung quanh chúng ta, bởi lẽ không ai trong chúng ta có thể sống một mình, mỗi người chúng ta luôn “sống vì, sống với và sống cho” người khác. Chính vì thế, trong lời cầu nguyện mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay, Ngài luôn nhắc các ông là “Xin Cha cho chúng con… và tha nợ chúng con”. Đức Giêsu đã không nói “Xin Cha cho con… hay tha nợ con”, nhưng là “chúng con”, nghĩa là trong lời cầu nguyện của mình, chúng ta không được phép chỉ nghĩ đến mình mà còn phải nghĩ đến anh em. Thậm chí, Thiên Chúa còn muốn chúng ta phải cầu nguyện cho cả những người thù địch, những người mà chúng ta không thích, những người đã từng xúc phạm đến chúng ta (x. Mt 6, 44).
Như thế, mỗi khi chúng ta cầu nguyện, không chỉ là lúc chúng ta thiết lập mối tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn là lúc chúng ta tái lập mối tương quan với anh chị em và sống trọn vẹn giới răn “yêu người như mình ta vậy”.
Kết
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, có lẽ mỗi người chúng ta cần xem lại cách chúng ta cầu nguyện. Lời cầu nguyện của chúng ta không phải chỉ là một mớ những nghi thức phụng vụ, hoặc là một chuỗi những kinh hạt lê thê với những công thức cứng nhắc, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta phải là những lời thốt ra tận đáy lòng của mình. Chúng ta hãy nói cho Chúa biết những yếu đuối, những thiếu sót, giới hạn và cả những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta hãy thành tâm trình bày với Chúa mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Và không chỉ là một lời cầu nguyện cho bản thân, và gia đình của mình, mỗi người chúng ta hãy mở lòng mình ra để rồi thêm vào lời cầu nguyện của chúng ta một lời cầu nguyện cho tha nhân, kể cả những người mà chúng ta không thích, những người đang xúc phạm đến chúng ta.
Mặt khác, chúng ta cũng không thể chỉ giới hạn lời cầu nguyện của chúng ta nơi nhà thờ, hoặc trong những giờ đọc kinh sáng tối, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta cần được trải dài trong suốt cuộc sống của mình. Chúng ta hãy dâng lên Chúa cả cuộc sống của chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10, 31). Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường để tìm đứa con trai nhỏ.
Ngôi trường nhiều tầng đã đổ sập, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông ta hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông ta không nghe cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào vừa nghĩ : “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, nếu nó còn sống trong đống gạch này thì sao ?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào xới, 24 rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua… ông chợt nghe một tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu nhỏ từ xa vọng lại : “Ba ơi”. Nước mắt ông trào ra và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng học của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa trẻ khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói : “Con đã bảo với các bạn của con rồi : ba tôi đã nói dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.
Tiếng kêu “Ba ơi” của đứa bé nghe như âm vang lời Kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày : “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Kinh Lạy Cha, lời kinh đẹp nhất
Khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Chúa đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha là lời kinh đẹp nhất vì đó là lời kinh xuất phát từ chính trái tim Chúa Giêsu, một trái tim luôn hướng về Chúa Cha với tiếng gọi thân thương và tha thiết : “Abba ! Cha ơi!”.
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào. Ngài tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện sau mỗi lần đi rao giảng Tin Mừng. Ngài cầu nguyện trước khi tuyển chọn 12 Tông đồ. Ngài cầu nguyện trước khi chữa các bệnh nhân, trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài cầu nguyện trước khi từ giã các Tông đồ để đi vào cuộc tử nạn. Ngài cầu nguyện với giọt mồ hôi máu đổ ra trong Vườn Cây Dầu. Ngài cầu nguyện ngay cả khi hấp hối với thân xác trần truồng trên thập giá “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng có điều lạ là Chúa Giêsu không cầu nguyện cho mình mà cầu nguyện cho người khác : cầu nguyện cho các môn đệ, cầu nguyện cho người lành và kẻ dữ, cầu nguyện cho cả những kẻ đã hành hạ và giết chết mình.
Chúa Giêsu là lời kinh tuyệt hảo về Chúa Cha nhân từ
Cuộc đời và con người Chúa Giêsu chính là Kinh Lạy Cha dành cho mọi người. Ngài đã thể hiện từng lời kinh tuyệt diệu trong đời sống. Cả cuộc đời Chúa đã phản ánh dung mạo của “Cha trên trời” tốt lành cho mọi người, làm cho danh Cha cả sáng.
Chúa Giêsu là hiện thân của “Nước Cha trị đến”. Nơi Ngài tỏa sáng mầu nhiệm “Nước Trời” và chính Ngài là “Nước Thiên Chúa” đã đến giữa nhân loại.
Chúa Giêsu cũng làm cho ý định cứu rỗi của Chúa Cha được hiện thực nơi trần gian. Và Ngài luôn thể hiện “Ý Cha” trong suốt cuộc đời tại thế.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho dân Do thái Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời ban xuống. Trong mầu nhiệm Thánh Thể, Chúa Giêsu đã trở nên “lương thực hàng ngày” cho nhân loại. Ngài trở thành tấm Bánh thơm ngon cho một thế giới đang đói khát tình thương.
Chúa Giêsu trở thành lời “tha nợ” của Chúa Cha đầy lòng xót thương cho những người tội lỗi. Chúa Giêsu đã gánh lấy “món nợ tội lỗi” của cả nhân loại để đem ơn tha tội đến cho loài người.
Sống Kinh Lạy Cha
Nhà bác học đại tài Ampère với những nghiên cứu về điện tử học về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh nhân loại. Thế nhưng ông không cho đó là vĩ đại, ông nói : “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.
Quả thật, cầu nguyện là hơi thở của người tín hữu. Cầu nguyện là đôi cánh nâng tâm hồn chúng ta lên với Chúa. Vì thế, cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha giúp chúng ta gặp gỡ Cha trên trời và nhận ra chúng ta là anh chị em với nhau, biết yêu thương và “tha nợ” cho nhau.
Cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha là sống tâm tình của Chúa Giêsu, là cùng chung nhịp đập con tim với Chúa Giêsu, là cùng chung hơi thở với Ngài. Vì thế, sống Kinh Lạy Cha là chúng ta cùng với Chúa Giêsu bẻ tấm bánh lương thực hằng ngày cho anh em, cùng với Chúa Giêsu lên đường loan báo Tin Mừng cho Nước Cha trị đến.
Người Cha Tốt Lành
Chúa dạy :“Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở cho”. Nhưng dường như có những lúc chúng ta cầu xin những điều tốt đẹp mà Chúa không nhận lời. Tại sao thế ?
Thiên Chúa luôn luôn là Người Cha Tốt Lành. Nếu con cái xin chúng ta chiếc bánh, lẽ nào chúng ta cho nó hòn đá ? Vậy, Thiên Chúa còn là Người Cha Tốt Lành hơn chúng ta nhiều. Người sẽ cho chúng ta những điều tốt nhất theo lòng nhân hậu của một Người Cha. Nếu Người không ban điều chúng ta cầu xin, vì có thể đó là điều không ích lợi cho ta. Cũng có thể Người sẽ ban cho chúng ta một điều tốt hơn vào lúc khác. Vì thế, chúng ta hãy biết kiên nhẫn khi cầu nguyện. Chúa bắt chúng ta đứng chờ đợi trong khi gõ vào cánh cửa tình thương của Người vì Người muốn rèn luyện niềm tin của chúng ta.
Kinh Lạy Cha là bậc thang đưa ta lên tới Thiên Chúa, nhưng cũng còn là nhịp cầu dẫn ta đến với anh chị em. Qua Kinh Lạy Cha, chúng ta gặp gỡ tha nhân với tấm lòng nhân hậu và sự tha thứ. Thiên Chúa không thể tuôn đổ ân huệ vào một tâm hồn đầy ứ hận thù ghen ghét. Người cũng không thể ban ơn cho những đôi tay nắm chặt với những tham lam ích kỷ. Thiên Chúa thích ban ơn cho những tấm lòng quảng đại và đôi tay biết cho đi. Qua Kinh Lạy Cha, chúng ta còn cầu nguyện cho những anh chị em đang sống xa lìa tình thương của Chúa.
Ông Abraham (trong bài đọc I trích sách Sáng Thế) đã cầu khẩn tình thương Thiên Chúa tha thứ cho thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi. Đó là gương mẫu cho chúng ta, để chúng ta cũng biết cầu nguyện cho mọi người, nhất là những người đang quay lưng lại với Thiên Chúa. Cầu nguyện là món quà quý giá chúng ta có thể trao tặng cho những anh chị em đang rời bỏ tình thương của Chúa.
Có một cậu bé đang chơi nơi đống cát trước sân nhà. Khi đào một đường hầm trong đống cát, cậu bé đụng phải một tảng đá lớn. Cậu bé tìm cách đẩy hòn đá ra khỏi đống cát, cố hết sức nhưng vẫn vô ích. Hòn đá không nhúc nhích. Cậu bé đành ngồi khóc. Ông bố ngồi trong nhà theo dõi mọi chuyện, đi ra nói với con : “Tại sao con không dùng hết cách để di chuyển hòn đá ?”. Cậu bé trả lời : “Con đã dùng hết cách rồi nhưng không được !” Ông bố nhẹ nhàng đáp : “Còn một cách nữa mà con không dùng tới : con chưa nhờ bố giúp !”. Nói rồi ông bố nhấc hòn đá lên mang đi nơi khác.
“Tảng đá cuộc đời” đang đè nặng lên chúng ta ? Đang cản lối chúng ta ? Chúng ta đang cố gắng vượt qua. Nhưng những khi đuối sức, chúng ta hãy nhớ rằng : chúng ta còn có một Người Cha Tốt Lành trên trời sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Người sẽ ban cho chúng ta những điều tốt nhất của tấm lòng một Người Cha.