CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
1... BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN… 2
2... NGƯỜI KHÁCH MUỐN GÌ? – Lm FX. Vũ Phan Long.. 4
3... ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT – Chú giải của Noel Quesson.. 8
4... NHƯ MỘT LỜI ĐÁP LẠI – Chú giải của Fiches Dominicales. 12
5... ƯU TIÊN LẮNG NGHE LỜI CHÚA (*) – Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 15
6... PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 20
7... MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT – Lm Giuse Đinh Tất Quý.. 22
8... RƯỚC CHÚA VÀO NHÀ – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái. 28
9... MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT – Lm Giuse Đinh lập Liễm… 33
10.… CHỌN PHẦN TỐT NHẤT – Lm Giuse Nguyễn Hữu An.. 41
11... LẮNG NGHE VÀ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA LÀ NGƯỜI KHÔN NGOAN – Jos. Vinc. Ngọc Biển. 44
12.… PHẦN TỐT NHẤT – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ.. 47
13.… ĐÓN TIẾP CHÚA – Logos năm C.. 50
14. CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
BÀI ĐỌC I: St 18, 1-10a
“Đối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai”.
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mắt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông: Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua, con xin lấy ít nước để các Đấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Đấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Đấng đã ghé vào nhà con”. Các Đấng ấy nói: “Như ông đã ngỏ, xin cứ làm”. Abraham liền vào lều, và bảo Sara rằng: “Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng”. Còn ông, ông chạy đến đoàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Đấng. Chính ông đứng hầu các Đấng dưới bóng cây. Ăn xong, các Đấng hỏi Abraham rằng: “Sara bạn ông đâu?” Ông trả lời: “Kìa, bạn con ở trong lều”. Một Đấng nói tiếp: “Độ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Đáp: Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa? (c. 1a)
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.
BÀI ĐỌC II: Cl 1, 24-28
“Mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Đức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh theo sự an bài của Thiên Chúa, Đấng đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Đức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Đức Giêsu Kitô.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 4, 4b
All. All. – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – All.
PHÚC ÂM: Lc 10, 38-42
“Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”. Nhưng Chúa đáp: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
“Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.
– Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.
– ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).
– Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.
Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
- Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.
- Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.
- Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.
Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào.
Vẫn luôn luôn là chính lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.
Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.
Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang không nới trú ẩn… và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện… để sử dụng thời gian… và thời gian của tình bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!
Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. “Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!”
Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria
Đó là hai chị em. Họ có một em trai là Ladarô.
Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria “cứ ngồi bên chân Chúa” (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).
Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.
Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.
Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.
Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi bên chân Chúa… cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.
Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao.” Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.
Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ “ngày đầu tiên trong tuần” để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó: “Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”(Ga 12,7-8).
Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”
Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu “phục vụ” những người khác… “Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,34).
Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.
Chúa đáp
Chúng ta không thể không nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng “Đức Chúa” ba lần. “Đức Chúa” chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc khải”. Đấng sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải được chúng ta tiếp nhận “trong đức tin”. Vả lại, toàn bộ câu chuyện trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:
Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!
Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải “phục vụ”, phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng và “giao động” quá nhiều. Đây là một đề tài được Người ưa thích. Người đã nói rằng “những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để “lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời” trong lúc chờ đợi Con Người lại đến” (Lc 21,34). Đức Giêsu nói: “Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!”
Đức Giêsu không lên án Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực… nhưng vì sự căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.
Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để “sống” thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.
Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi
Vậy “chuyện cần thiết duy nhất” ấy là gì?
Đó là làm điều Maria đã làm “Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những dịp khác. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.
Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Đức Giêsu” thì ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã “’lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).
Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với “Lời của Thiên Chúa” (Lc 5,1-8-11-21-11,28).
Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là “phần tốt nhất” hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
TRÊN ĐƯỜNG LÊN GIÊRUSALEM, ĐỨC GIÊSU DỪNG CHÂN TẠI NHÀ CỦA MÁCTA VÀ MARIA.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Dừng chân trên đường lên Giêrusalem
“Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”, Đức Giêsu vào một làng kia. Người được “một phụ nữ tên là Mácta” mời vào nhà, Người thực thi điều đã dạy các môn đệ: “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (Tin Mừng Chúa nhật XIV).
Trình thuật về câu chuyện này tiếp liền với Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, mà ta vừa đọc trong Chúa nhật trước, tạo nên một kết cấu hai mặt, một bộ tranh gồm hai bức. Như vậy nếu có ai nêu bản văn Tin Mừng này như lý lẽ làm chứng rằng đời chiêm niệm cao trọng hơn đời hoạt động, thì mạch văn mà Luca sử đụng sẽ thuyết phục họ từ bỏ ý định đó. Nếu sự việc hôm nay soi tỏ giới răn yêu mến Thiên Chúa, thì tấm gương của người Samaria nhân hậu cũng soi tỏ tuyệt vời giới răn thương người thân cận. Nó tỏ cho thấy, người môn đệ lắng nghe Lời Chúa sẽ đi đến những kết luận thực hành nào.
- Hai hình thức đón tiếp của Đức Giêsu bổ túc lẫn nhau.
Chân dung hai chị em Mácta và Maria mà Luca phác họa nêu bật hai thái độ, hai cách đón tiếp Đức Giêsu trái ngược nhau.
– Mácta có mặt khắp nơi trong trình thuật vắn vỏi này. Trước hết, cô có mặt bằng sáng kiến của mình, Mácta mời Chúa vào nhà mình. Rồi cô có mặt bằng sự tất bật lo việc phục vụ. Và sau cùng, cô có mặt bằng vẻ bối rối xin Chúa can thiệp.
– Còn về Maria, cô luôn im lặng. “Cô ngồi bên chân Chúa” trong tư thế một đồ đệ thực thụ (Lc 7,38 và 8,35) “cô lắng nghe lời Chúa dạy”.
Cấu trúc văn chương cũng rất gợi ý. Trong khi Maria hướng cái nhìn về Chúa (ngồi dưới chân, nghe lời Chúa) thì Mácta là người mời Chúa nên thực sự cô phải bận tâm đến việc phục vụ. Mácta tất bật lo lắng nhiều chuyện quá, đến độ muốn “lấy đi” phần tốt nhất mà cô em đã chọn.
- Thái độ lăng xăng không được lấn lướt thái độ lắng nghe.
Trước phản ứng tức tối của Mácta: “Em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”, câu trả lời của Đức Giêsu là đỉnh cao của trình thuật này. Ở đây, khi trách Mácta lo lắng và lăng xăng, Đức Giêsu nhắc lại đề tài đã nói nhiều trong Tin Mừng thứ ba: Khi Người mời gọi các nhà truyền giáo không nên lo lắng biện hộ cho mình trước tòa án của kẻ bách hại (11, 12); khi Người khuyên nhủ các môn đệ đừng quá lo về của ăn, áo mặc (12,22-26); khi Người cảnh giác những kẻ theo Người đừng để những “lo lắng về cuộc sống” bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa (8,14).
Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Mácta với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, nhưng dù sao Người cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất: đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.
- Meynet chú giải thêm: Mácta tiếp đón Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ người đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Người, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria, cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sư, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe lời Người. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng: chính cô được Người tiếp đón mới đúng. (Sđd, tr.125).
Chúa nhật vừa qua, khi đọc Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta học biết rằng con đường lên Giêrusalem, theo chân Đức Giêsu, phải đi qua tình yêu thương người thân cận, đó mới là giới luật vượt trội mọi giới luật. Hôm nay, ta học biết thêm rằng con đường này không thể tách rời con đường lắng nghe lời Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC THÊM:
- Lắng nghe lời Chúa: thái độ tất yếu của người môn đệ.
Tiếp nối câu chuyện về người Samaria nhân hậu, câu chuyện về Macta và Maria trong Tin Mừng được trình bày trong bối cảnh của giới luật yêu mến Thiên Chúa, và câu chuyện cho ta thấy người môn đệ đón nhận Lời Chúa sẽ rút ra những kết luận thực tiễn nào.
Đặt thái độ của Mácta và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe lời Chúa, còn Mácta tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Người; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Người, lời của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống của người môn đệ. có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình thái độ không thể thiếu của một môn đệ: là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Người… nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình.
Hết mọi tín hữu đều phải chọn lắng nghe. Trước hết, chính vì có biết lắng nghe lời Chúa một cách sâu sắc các môn đệ mới có thể đổi mới thế giới.
- Maria và người Samaria nhân hậu: hai thái độ cùng minh họa huấn lệnh kép về yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận
Chính trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta thấy thái độ bổ xung cho thái độ của Maria. Một người gặp một nạn nhân bị thương nằm ở vệ đường. Ông săn sóc, đưa về quán trọ và xuất tiền túi để trả mọi chi phí. Người này thực thi giới luật thứ hai là “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình “. Đây là dung mạo đẹp đẽ của người Kitô hữu mà Luca đặt đối diện với một dung mạo đẹp đẽ khác là Maria.
Thay vì đặt thái độ của người hao tốn sức lực để phục vụ anh em đối nghịch với thái độ của người ngồi dưới chân Đức Giêsu để nghe lời Người, hai trình thuật này bảo ra rằng Đức Giêsu phê chuẩn cả hai thái độ. Đúng là cả hai cùng minh họa Lề Luật. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận”. Ta phải phân biệt hai giới luật này như hai lối sống được đề ra. Tuy nhiên, nếu phân biệt là điều cần thì không phải để tách biệt hoặc đối nghịch nhau. Hai giới luật này chỉ là một. Trong cuộc sống cụ thể của người tín hữu, nếu người ấy không nỗ lực nối kết hai giới răn ấy với nhau, thì đời sống của người ấy sẽ ra sao? Cầu nguyện ư, đúng, nhưng là để giúp đỡ và phục vụ. Đào sâu ý nghĩa của việc phục vụ trong lúc cầu nguyện. Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ có chiêm niệm? Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ gồm những tín hữu tự cho là “hoạt động?“ Dĩ nhiên, là tùy theo tính khí và lịch sử của từng người, người này thì cảm thấy thích hợp hơn với đời sống nghiêng về chiêm niệm, người kia thích hợp hơn với đời sống hướng về hoạt động.
Tuy nhiên, dựa trên lời Đức Giêsu khen người Samaria nhân hậu, thì tất cả những ai tận hiến hoặc nghiêng về cầu nguyện, cần phải nhớ rằng phục vụ con người có tầm quan trọng rất lớn. Phần họ, họ cũng phải sống ơn gọi cầu nguyện của mình như là một việc phục vụ con người. Và người ta thấy có những đan viện mở cửa cơ sở, nhà thờ, cộng đoàn của mình để tiếp đón những người hoạt động ngoài xã hội đến bồi dưỡng trong cầu nguyện, tĩnh tâm và trong thinh lặng của chiêm niệm.
Nhưng dựa trên lời Đức Giêsu khen ngợi Maria, những ai sống ơn gọi được coi là hoạt động, phải coi đó như lời mời gọi họ tiên liệu một thời gian xả hơi trong thời biểu của mình, xóa đi trong nhật ký công việc một số trang, để có được một lúc đến ngồi dưới chân Đức Giêsu.
Đối với nhóm người này cũng như với nhóm người kia, việc tiên liệu những giờ phút bổ túc cho nhau như thế, sẽ cho phép họ nhận thức được rằng cuộc sống của họ không đơn thuần phó thác mặc cho sự tự phát của tính tình, nhưng cuộc sống phải được thực hiện như một lời đáp lại tiếng Chúa gọi.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Phung Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật quyền ưu tiên trong việc tiếp đón Chúa và lắng nghe Lời Ngài.
St 18: 1-10
Sách Sáng Thế tường thuật ba vị khách bí nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham. Vị tổ phụ tiếp đãi Các Ngài một cách hậu hĩnh. Để đáp lại, Các Ngài đoan hứa với ông Áp-ra-ham rằng sang năm vào độ này bà Xa-ra, vợ ông, sẽ sinh hạ một quý tử.
Cl 1: 24-28
Thánh Phao-lô nêu lên cho các tín hữu Cô-lô-xê những đau khổ tù đày của ngài mà ngài dâng hiến cho họ để họ giữ trọn niềm tin vẹn toàn của mình. Bởi vì ơn cứu độ được thực hiện qua gian nan thử thách và được thành toàn chỉ trong và qua Chúa Ki-tô.
Lc 10: 38-42
Tin Mừng tường thuật tấm lòng hiếu khách mà hai chị em, cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, tiếp đón Chúa Giê-su. Việc đón tiếp phải ưu tiên dành cho việc lắng nghe Lời Chúa. Đó là chuyện cần thiết bậc nhất.
BÀI ĐỌC I (St 18: 1-10)
Chuyện tích nổi tiếng này thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, thời vua Sa-lô-mon). Theo chứng liệu này, Thiên Chúa, luôn luôn được gọi dưới danh xưng “Đức Chúa (Gia-vê), rất thân cận với con người, nói chuyện với con người, hành xử như một con người. Các chuyện tích về vườn địa đàng, sự thử thách và sa ngã có cùng một tác giả.
Ngay từ dòng đầu tiên giới thiệu các chương 18 và 19 sách Sáng Thế, tác giả báo trước cho chúng ta rằng chính Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham: “Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê”; ấy vậy, trong câu chuyện, ông Áp-ra-ham lại đón tiếp không chỉ một mà đến ba vị khách. Xa hơn, tác giả xác định rằng hai trong ba vị khách này là hai sứ thần (19: 1). Vài Giáo Phụ đã giải thích ba vị khách này tiên trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Quả thật, sự ngần ngại của bản văn giữa số ít và số nhiều gây bối rối cho độc giả. Truyền thống Ki-tô giáo sau này sẽ theo cùng một giải thích này, bằng chứng rõ ràng nhất là tượng thánh của tu sĩ Nga, André Roublev, được thực hiện ở Moscou vào năm 1425, bức tượng thánh này rất phong phú về biểu tượng.
1.Cụm sồi Mam-rê:
Ông Áp-ra-ham đã dựng lều của mình tại cụm sồi Mam-rê, cách thành Khép-rôn khoảng ba cây số về hướng bắc đất Pa-lét-tin. Cụm sồi Man-rê là nơi dân bản địa Ca-na-an cúng tế thần linh của mình, đến lượt mình, ông Áp-ra-ham xem cụm sồi này là thánh địa của mình khi dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa tại đó (St 13: 18). Vì thế, đây là nơi thuận tiện cho cuộc Thần Hiển. Ngài hiện ra với ông trong khi ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều, vào lúc trời nóng nực nhất trong ngày.
2.Những nghi thức bày tỏ lòng hiếu khách:
Khi ba vị khách vừa xuất hiện, tổ phụ Áp-ra-ham, mặc dầu cao tuổi, chạy ra đón họ. Ông ngỏ lời với họ lúc thì số ít lúc thì số nhiều; nhưng dường như ông phân biệt trong ba vị đó một nhân vật chính và phủ phục trước vị khách này. Đây không là cử chỉ thờ lạy, nhưng bày tỏ lòng tôn kính theo tập tục Đông Phương.
Sau đó, ông bày tỏ lòng hiếu khách theo các nghi thức cổ truyền: nước để làm mát chân và tẩy bụi đường; một bữa ăn được chuẩn bị… Truyền thống Á-rập đã duy trì tập tục này, theo đó người ta đàm luận với nhau trong bữa ăn và tặng quà cho nhau.
“Ông Áp-ra-ham lật đật vào lều tìm bà Xa-ra”. Lúc đó bà Xa-ra hoặc ở trong một lều riêng hay ở trong cùng một lều có bức màn ngăn cách, nơi ở của người phụ nữ. Bữa ăn đã được chuẩn bị xong; các món ăn được dọn ra trước các vị khách. Theo phong tục tỏ lòng kính trọng khách thời đó, ông Áp-ra-ham không ngồi đồng bàn với khách, nhưng đứng hầu bên cạnh để đáp ứng nhu cầu của khách.
3.Quà tặng của ba vị khách:
Đây là đoạn văn Cựu Ước duy nhất ở đó Đức Chúa chấp nhận dùng bữa ăn mà con người dọn ra. Chuyện kể thật sống động và ý nhị, có thể được sánh ví với nhiều chuyện tích khuyến thiện nêu bật tấm lòng hiếu khách. Nhưng câu chuyện này có một dáng vẻ đặc biệt. Ở Đông Phương, xưa và nay, người khách không bao giờ hỏi thăm vợ của gia chủ. Đó là điều cấm kỵ, bất lịch sự và không phải phép. Nhưng những nhân vật mà ông Áp-ra-ham đón tiếp không là những vị khách bình thường: họ chẳng những biết tên vợ của vị tổ phụ mà còn biết cả cảnh ngộ son sẻ của vợ ông. Chân tính mầu nhiệm của ba vị khách bắt đầu được vén mở. Để tri ân tấm lòng chân thành và hậu hĩnh đón tiếp của gia chủ, họ tặng cho gia chủ một món quà đẹp nhất, quá mức mong đợi: “Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”.
Ở đây cũng vậy, chúng ta có ấn tượng là mình đang sống trong một câu chuyện thần tiên, ở đó một vị thần linh loan báo cho vua hay hoàng hậu việc chào đời của một hoàng tử hay cô công chúa. Tuy nhiên, phải vượt qua những điểm tương đồng của thể loại văn chương này. Trong những bản văn được biên soạn chín thế kỷ sau khi những biến cố đã xảy ra, chúng ta phải tính đến truyền thống chính truyền, tùy theo mức độ chúng lưu truyền đến chúng ta, đến nghệ thuật kể chuyện và ý định thần học của tác giả linh hứng. Ý định thần học này mới là điểm cốt lõi của chuyện tích này. Vì thế, không được tách riêng chương 18 và chương 19 ra khỏi mạch văn của sách Sáng Thế; hai chương này hình thành nên toàn bộ câu chuyện. Đức Chúa đã thân hành ngự xuống trần gian không chỉ để nói chuyện với ông Áp-ra-ham và lập lại lời hứa ban con trai trước đó với ông một cách chính xác hơn, nhưng còn để trừng phạt những thành phố tội lỗi: thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra. Trước khi tấn thảm kịch này xảy ra, kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham đã trở nên sâu xa – đây là điểm nhắm của bản văn này -; kinh nghiệm này sắp giúp cho vị tổ phụ có đủ bạo dạn để can thiệp vào công việc của Thiên Chúa, mà chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 24-28)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê, đây là một trong những bức thư được viết khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa năm 60-62. Cung giọng thật thống thiết.
Với nhiều cảm xúc, thánh Phao-lô ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê về niềm tin của họ có nguy cơ bị biến chất trước mối đe dọa của những giáo thuyết sai lạc. Những đau khổ tù đày cùng với tất cả mọi hoạt động truyền giáo đầy gian nan thử thách của thánh nhân được định vị vào trong cùng cung bậc với cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô.
1.Những đau khổ sinh nhiều ơn ích:
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân, cho đủ mức. Như thế là vì lợi ích cho thân thể Người, là Hội Thánh”. Thánh Phao-lô không muốn nói rằng những đau khổ sinh ơn cứu độ của Đức Ki-tô còn thiếu sót. Hy tế của Đức Ki-tô đã là hoàn hảo và hoàn toàn hữu hiệu. Đức Giê-su đã chịu đau khổ để khai sinh Nước Trời; nhưng vương quốc này phải được xây dựng và tăng trưởng không ngừng. Được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, thánh nhân mang một nỗi ưu tư đặc biệt đến công việc này. Sứ vụ tông đồ đòi hỏi những nỗi nặng nhọc vất vả. Thánh nhân biết rõ điều này hơn ai hết.
- “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em”:
Đây là câu chủ đạo tóm gọn lời loan báo Tin Mừng: mặc khải về một sự hiện diện, sự hiện diện của Đức Ki-tô Phục Sinh, ở nơi Ngài Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách hữu hình. Thánh Phao-lô nhắc lại những khía cạnh cốt yếu giáo huấn của thánh nhân bằng ba động từ: “Chính Người là Đấng chúng tôi ‘loan báo’, khi ‘khuyên bảo’ mọi người và dạy dỗ mọi người, với tất cả sự khôn ngoan Thiên Chúa ban, để giúp mỗi người ‘nên hoàn thiện’ trong Đức Ki-tô, trước mặt Thiên Chúa”. Những lời cùng này nhắm đến những giáo lý sai lạc mà những nhà giảng thuyết mạo danh ở Cô-lô-xê đề xướng: vài người đòi hỏi phải nên hoàn thiện bằng việc tuân giữ luật Mô-sê, còn những người khác thì nhấn mạnh hành động cứu độ đến từ các thiên thần. Thánh Phao-lô cải chính: sự hoàn thiện và ơn cứu độ chỉ được gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô. Chỉ mình Ngài mới có thể “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
3.Hiệp thông các thánh:
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có một bức phác họa về thần học “Nhiệm Thể của Đức Ki-tô”, mà thánh Phao-lô sẽ khai triển trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô (cả hai bức thư được viết cùng một thời kỳ). Có một mối liên đới mật thiết giữa các chi thể và Đầu là Đức Ki-tô. Thần học về sự đau khổ được ghi khắc ở nơi sự liên đới này, sẽ được gọi “sự hiệp thông của các thánh”. Từ đó, niềm vui nội tại có thể được liên kết với sự đau khổ.
TIN MỪNG (Lc 10: 38-42)
Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa Giê-su bằng hai cách thế khác nhau. Câu chuyện này là một trong những hạt ngọc của Tin Mừng Lu-ca.
1.Bối cảnh:
Thánh Gioan cho chúng ta biết cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai người chị của anh La-da-rô. Thánh Gioan còn mô tả hai cách tiếp đón Chúa Giê-su của hai chị em tương tự như thánh Lu-ca: trong bữa ăn thiết đãi Đức Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa Giê-su, lấy dầu thơm quý giá mà xức chân Ngài (Ga 12: 2-3). Thánh Gioan còn cho chúng ta thêm thông tin về gia đình ba chị em này: sau những lần thi hành sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hay ghé thăm gia đình này, họ là những người bạn thân của Ngài ở làng Bê-ta-ni-a cách thành đô Giê-ru-sa-lem không xa: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11: 5, 33; 12: 1-3).
Thánh Lu-ca không ghi rõ địa danh nơi câu chuyện này xảy ra. Về phương diện địa lý, câu chuyện này không thể xảy ra vào lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su được vì làng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 3 cây số. Nhưng ý định của tác giả thì rõ ràng, nhằm đưa ra một giáo huấn bổ túc cho dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”. Ở dụ ngôn này, Chúa Giê-su mở rộng huấn lệnh “yêu người” khi đảo ngược câu hỏi của kinh sư, không phải “ai là người thân cận của tôi”, mà “tôi phải là người thân cận của bất kỳ ai cần đến sự cứu giúp của tôi”. Tại nhà cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, Chúa Giê-su muốn cho hiểu rằng “mến Chúa” phải đặt ưu tiên hàng đầu trong tất cả mối bận lòng của con người.
2.Hai cách đón tiếp với trọn một tấm lòng:
Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy nói tới cha mẹ của họ, nếu có họ phải là gia chủ ra chào hỏi khách. Vì thế, chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh của gia đình này, cha mẹ đã qua đời sớm, ba chị em đùm bọc nhau. Với tư cách là chị cả, cô Mác-ta quán xuyến mọi việc trong gia đình; vì thế trong việc đón tiếp Chúa Giê-su, cô bận rộn lo toan đủ mọi thứ hầu bày tỏ tấm lòng quý mến của cô đối với Chúa Giê-su, Ngài không chỉ là khách mời mà còn là một người bạn quý của gia đình.
Từ lúc Chúa Giê-su bước vào nhà, cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”. Thái độ như vậy xem ra không phù hợp với phong tục tập quán vào thời đó cho lắm, vì phụ nữ không được phép dự phần vào giáo huấn của các kinh sư. Chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi gặp thấy nét bút này của thánh Lu-ca, thánh ký rất quan tâm đến sự hiện diện của các người phụ nữ trong vòng thân cận với Chúa Giê-su trong công cuộc truyền giáo của Ngài bằng cách góp công góp của vào sứ vụ của Ngài (Lc 8: 1-3).
Cô Mác-ta tất bật lo việc phục vụ Chúa một bữa ăn, còn cô Ma-ri-a thì ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Ngài. Vì thế, cô Mác-ta nóng ruột thưa với Chúa bằng giọng hờn trách: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em con giúp một tay”. Cô tin rằng Chúa cũng đồng ý với cô; ấy vậy, Chúa Giê-su chẳng những trách khéo cô mà còn bênh vực cô Ma-ri-a nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
3.Phục vụ và lắng nghe:
Với lối chủ giải ẩn dụ đặc thù của mình, các Giáo Phụ đã đọc thấy nơi công việc phục vụ của cô Mác-ta và nơi việc lắng nghe lời Ngài của cô Ma-ri-a hai cách thế hiện diện không thể thiếu của Giáo Hội trong cuộc sống tại thế: đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Trong hai công việc đó, việc“Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài” phải là ưu tiên, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa khơi nguồn và định hướng cho mọi công việc phục vụ của Giáo Hội. Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca thường ghi nhận rằng ngay từ sáng sớm Chúa Giê-su một mình đi vào nơi thanh vắng để trò chuyện với Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày mới bận rộn với sứ vụ của mình.
Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng đã không bao giờ coi thường công việc phục vụ. Khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 24-27).
Điều Ngài quở trách cô Mác-ta không phải vì cô lo lắng phục vụ Ngài cho thật chu đáo và nồng hậu, nhưng vì cô để hết cả tâm trí vào việc phục vụ đến mức xao lãng một hình thức tiếp đón khác: ngồi hầu chuyện với khách mời của mình, đó mới là điều quan trọng bậc nhất trong trường hợp này, bởi vì lời mà cô Ma-ri-a lắng nghe chính là Lời Thiên Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa quan trọng đến mức mà chỉ một lúc sau đó chỉ một mình thánh Lu-ca ghi lại câu chuyện về một người phụ nữ trong đám đông ca ngợi công sinh thành của mẹ Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su trả lời cho người phụ nữ này và cho cả đám đông nữa: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Phải đặt ưu tiên cho một chuyện cần thiết bậc nhất: lắng nghe Lời Chúa. Có lắng nghe Lời Chúa mới biết Chúa muốn chúng ta làm gì trong giây phút hiện tại và dấn thân phục vụ Ngài ở nơi anh chị em mà chúng ta găp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.
Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?
3- Khi phục vụ, bạn có thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi (Lc 10,42)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cho chúng ta một câu chuyện có liên quan đến một gia đình rất quen thuộc với Chúa Giêsu.
Cha đố chúng con đó là gia đình nào và ở đâu?
– Gia đình của ba chị em Matta, Maria và Lagiarô!
– Rất đúng! Chúng con rất giỏi.
– Gia đình này ở đâu vậy chúng con?
– Ở Bêtania gần thành Giêrusalem.
– Lại giỏi nữa.
– Câu chuyện hôm nay có mấy nhân vật chúng con?
– Có ba.
– Những ai nào? Kể ra cho cha nghe.
– Chúa Giêsu – Matta và Maria.
– Đúng rồi. Bây giờ chúng ta bắt đầu vào câu chuyện.
- Hôm đó, Chúa Giêsu và có lẽ có cả các môn đệ của Chúa ghé vào một gia đình mà mỗi khi có dịp đi Giêrusalem, Chúa thường làm thế. Đây là gia đình không hiểu vì lý do gì mà Chúa rất thương. Chúng ta có thể nhận ra tình thương của Chúa đặc biệt qua biến cố anh Lagiarô chết. Đọc lại Tin Mừng chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó. Chính ở đây Chúa đã làm một phép lạ lớn lao chưa từng có. Đó là cho Lagiarô đã chết. Người ta đã chôn Lagiarô được 4 ngày rồi vậy mà Chúa đã cho anh ta được sống lại trước sự kinh hoàng và ngỡ ngàng của mọi người.
Đó là gia đình Bêtania.
Bởi thế việc Chúa ghé thăm gia đình này hôm nay có lẽ cũng là việc bình thường.
Thế nhưng sự việc có tính cách hơi khác thường một chút đó là hôm nay Chúa làm cho mọi người phải thắc mắc và suy nghĩ vì Chúa công khai khen Maria và một cách nào đó Chúa muốn nói với mọi người ý nghĩ của Chúa qua cách hai chị em đón tiếp Chúa.
Chúng con thấy, khi Chúa đến nhà, cô Matta là chị cả trong gia đình đã phải tất bật vất vả như thế nào để làm những việc cần thiết trong việc tiếp đón, phục vụ Chúa. Chúa đâu có phải là một vị khách tầm thường hoặc là những con người như biết bao người khác trong xa hội đâu. Chúa là vị khách đặc biệt, quá đặc biệt là đàng khác, cho nên việc tiếp đón Chúa cũng phải đặc biệt hơn những trường hợp khác trong cuộc sống. Chính vì vậy mà chị Matta đã dốc hết sức lực của mình ra để lo cho công việc đón tiếp và phục vụ này thật xứng đáng. Đâu có phải ai cũng được cái diễm phúc Chúa đến thăm một cách thân tình như thế. Đây là một vinh dự lớn cho giaa đình nên nếu cô Matta có bỏ hết công sức ra mà làm thì cũng thật là bình thường.
Đang khi, cha nhấn mạnh đang khi cô chị vất vả bận rộn như thế thì cô em có vẻ như chẳng thấy có gì đáng quan tâm. Cô thản nhiên thảnh thơi đến bên chân Chúa và chăm chú ngồi ở đó để lắng nghe những lời Chúa dạy. Cô Maria tỏ ra như không hề biết đến những việc mà chị cô đang làm. Mặc kệ! Chị muốn làm gì thì làm cô không cần biết. Điều mà cô thích thú bây giờ là việc Chúa đến thăm gia đình. Một việc hiếm hoi lắm mới có được. Chúa đến thăm nhà. Một cơ hội ngàn vàng đâu phải lúc nào cũng có, cho nên phải tận dụng hết thời gian khi Chúa viếng thăm để gặp và nghe Chúa dạy bảo. Việc này đâu phải dễ có và đâu phải ai củng có được như cô lúc này. Bởi vậy cô như cô không muốn đến bất cứ một việc nào khác ngoài việc ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Chúa.
Matta chẳng làm sao mà hiểu được thái độ cô em gái của mình. Chị cũng không hiểu được Ðức Giêsu như thế nào. Hình như Chúa cũng chẳng quan tâm đến việc chị đang làm mà chỉ biết hứng thú trong việc dạy dỗ Maria.
Cuối cùng thì những gì phải tới đã tới. Matta mạnh dạn đến với Chúa và không ngần ngại nói lên tiếng nói của mình. Chị muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. “Em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”
Một câu nói vừa mang tính van xin nhưng đồng thời cũng mang vẻ trách móc. Làm sao mà Chúa vô cảm đến thế.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay”.
Một đề nghị hết sức nhân bản và cũng rất hợp với lẽ thường tình. Ai đâu chỉ có hai người trong gia đình. Ở đây chúng ta không thấy nói tới Lagiarô. Chúng ta không biết tại sao hay Luca cố ý làm như thế để làm nổi bật lên bài học Chúa muốn dạy trong Tin Mừng hôm nay. Ai đâu trong gia đình chỉ có hai chị em mà một người vất vả, còn một người thì hầu như vô xảm đối với việc rất quan trọng là đón tiếp Chúa.
Đến đây thì chúng ta mới thấy câu chuyện đã rẽ sang một hướng mới: Ý kiến của Chúa Giêsu.
Sau khi nghe lời đề nghị của Matta, Chúa Giêsu đã lên tiếng. Chúa lên tiếng thật vắn gọn nhưng ai cũng có thể hiểu được ý Chúa muốn nói gì. Rõ ràng là Chúa không “chê” thái độ của Matta nhưng xem ra Chúa thích thái độ của Maria hơn:“Matta! Matta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.Câu trả lời của Chúa dường như muốn bảo cho Matta biết rằng, Chúa đến trần gian này đâu phải chỉ như một Con Người mà Ngài còn là một Thiên Chúa-Làm-Người cho nên con người phải biết đối xử với Chúa cho tương xứng. Maria đã nhìn thấy điều đó cho nên thái độ của Maria hoàn toàn khác thái độ của Matta.
Tới đây thì cha có thể kể cho chúng con câu chuyện này:
Người ta kể lại rằng Charles Lamb là một văn sĩ người Anh rất nổi tiếng về tài hài hước một cách nhẹ nhàng. Ông cũng là một người có một lòng quí mến và nhiệt tình hiếm có đối với gia đình và bạn bè. Ông thường tụ tập các bạn bè lại để trao đổi về vấn đề văn chương. Một lần kia trong một buổi họp, có một người bạn của ông đặt vấn đề: “Nếu chúng ta được trực tiếp nói truyện tay đôi với các văn sĩ nổi tiếng trên thế giới mà nay đã qua đời thì không biết chúng ta sẽ có phải có thái độ như thế nào đây?”
Rồi một người đưa ra một thí dụ: “Thí dụ như Dante (Người viết cuốn Hài kịch thánh về Thiên đàng – Địa ngục, luyện ngục…) bước vào phòng này thì chúng ta sẽ phản ứng ra sao?
Người khác hỏi: Nếu Shakespeare, một văn sĩ người Anh rất nổi tiếng, cùng tham dự với chúng ta đêm nay thì sao?
Ông Lamb nói thật lớn: “Tôi sẽ hân hoan đưa cả hai tay vui mừng đón tiếp tất cả những vị đó.Thật là một vinh dự vô cùng lớn lao không biết diễn tả sao cho hết.”
Câu truyện đang có vẻ vui như thế thì có một người khác lên tiếng đặt vấn đề: “Giả sử như Chúa Kitô bước vào phòng này?”
Nét mặt của Ông Lamb bỗng trở nên nghiêm nghị khác thường. Im lặng một chút rồi ông trả lời: “Dĩ nhiên là tất cả chúng ta phải quì xuống!”
Chúng con yêu quí.
Chẳng cần phải nói thêm nữa, chúng ta cũng thấy được Maria đã chọn được phần tốt nhất là phần như thế nào. Maria đã không đón tiếp Chúa như một con người mà Maria đã nhận ra Chúa Giêsu là Chúa cuộc đời của mình nên Maria đã chọn cho mình một vị trí thật xứng hợp: ngồi bên chân Chúa để được dạy bảo. Đó là thái độ mà Chúa thích nhất và sự chọn lựa này đem đến cho Maria thật nhiều niềm vui và thật nhiều hạnh phúc là điều không ai lấy được.
Ngấm ngầm, Martha không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria.
Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần phải làm hơn.
Ðức Giêsu không ghét Martha, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng.
Ngài muốn giải phóng Martha khỏi nỗi bồn chồn quá mức.
Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi cái lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị tới hai lần: “Martha! Martha! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.”
Khi làm như thế rõ ràng chúng ta thấy Chúa muốn con người phải thanh lọc lòng mình cho khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.
Chỉ có một chuyện cần mà thôi. Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.
Câu chuyện nhỏ nhưng ý nghĩa của nó thật lớn.
Anh chị em thân mến.
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng chỉ gồm có 4 câu. Đây là một trong những đoạn Tin Mừng hơi khó cắt nghĩa. Tuy nhiên nếu chúng ta đặt đoạn Tin Mừng này vào trong mối tương quan với bài Tin Mừng Chúa nhật tuần vừa qua thì chúng ta lại thấy ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay rất rõ. Có thể nói bài Tin Mừng hôm nay bổ túc cho bài Tin Mừng Chúa nhật tuần vừa qua.
Chắc anh chị em còn nhớ: Trong bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua, qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu dạy cho chúng biết thế nào là một cuộc sống có tình có nghĩa giữa người với người.
Cách thức dạy dỗ của Chúa rất cụ thể. Câu truyện Chúa Giêsu đưa ra đã có một sức hấp dẫn lạ thường. Đồng thời với câu kết luận như một mệnh lệnh lên đường hết sức rõ ràng: “Hãy đi và làm như thế” nhiều người đã vội có cảm nghĩ rằng: thi hành được như vậy thì kể như đã là sống đạo trọn vẹn rồi.
Thực ra thì không phải là như vậy. Sống được như thế thì đã là tốt lắm. Tốt nhưng chưa đủ. Bởi vì sống như vậy thì cũng mới chỉ sống được một trong hai vế của một giới luật mà Chúa Giêsu cho là căn bản và quan trọng nhất trong toàn bộ Kinh Thánh Cựu cũng như Tân Ước. Sống có tình có nghĩa như trong bài Tin Mừng tuần qua mới là sống mối tương quan giữa người với người mà chúng ta có thể tạm gọi là mối tương quan hàng ngang. Còn một mối tương quan khác cũng quan trọng không kém. Đó là mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Chúng ta tạm gọi là mối tương quan hàng dọc.
Chúng ta hãy đọc lại giới luật ấy. “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi và người hãy yêu người thân cận như chính mình ngươi” (Lc 10,27). Rõ ràng là lần trước Chúa mới dạy cho chúng ta biết cách để sống vế thứ hai: Yêu mến người thân cận như chính mình.
Hôm nay Chúa chỉ cho chúng ta biết cách để sống vế thứ nhất: Yêu mến Thiên Chúa.
- Chẳng cần phải nói nhiều: Đọc bài Tin Mừng hôm nay anh chị em cũng thấy xem ra Chúa có vẻ bằng lòng với thái độ của Maria hơn của Matta.
- Thái độ của Matta trong bài Tin Mừng hôm nay rất giống với thái độ của người Samaria trong bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Cung cách có khác nhau nhưng nội dung cũng chỉ là một. Đó là phục vụ.
Dưới con mắt của Matta thì Chúa chỉ là một con người. Có thể là một người đặc biệt, một vị khách rất quí chính vì thế mà chị đã đem hết khả năng ra để phục vụ, không những cho Chúa mà còn cho cả những người có liên hệ với Chúa nữa. Công việc phục vụ như thế quả thực là vất vả. Giá Chúa tưởng thưởng cho chị một vài lời khen thì chắc là chị vui lắm. Thế nhưng Chúa lại không làm như thế. Tại sao vậy?
- Chúng ta nhìn vào thái độ của Maria chúng ta sẽ thấy câu trả lời?
Giữa lúc Matta vất vả cực nhọc phải làm đủ mọi thứ để đón đoàn khách quí thì Maria lại tỏ ra là rất lãnh đạm thờ ơ với những việc có tính cách bên ngoài đó.
Giữa lúc Matta bôn chôn lo lắng làm mãi mà không hết việc thì Maria lại bình thản ngồi ở bên chân Chúa mà nghe lời của Người.
Nếu phải đánh giá và phê phán về thái độ của hai người thì có lẽ chúng ta sẽ nghiêng về việc bênh vực Matta hơn.
- Thế nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như vậy. Rõ ràng là Ngài có thái độ của một bậc làm thầy. Chúa quan sát và Chúa đánh giá. Chúa không kết án nhưng Chúa cho biết đâu là thái độ làm Chúa vui.
a- Thái độ của Matta chứng tỏ bà mới chỉ có được một quan niệm tốt về Chúa. Nếu phải so sánh với thái độ của Maria thì chúng ta thấy thái độ của Maria cao hơn nhiều.
Chúng ta hãy nghe Matta nói:
“Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm đến sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi một tay!”.
Một câu nói:
– Vừa có tính cách kể công: “Tôi hầu hạ một mình”
– Vừa có tính cách trách móc: “mà thầy không quan tâm đến sao'”
– Và vừa có tính cách áp đặt ý muốn của mình trên ý muốn của Chúa. Lời nói tuy có nhẹ nhưng nội dung quả đúng là như thế: “Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi một tay”
Hoàn toàn như một con người với một con người.
b- Trái lại Maria thì khác hẳn. Điều mà Maria cần ở nơi Chúa là những Lời dạy bảo của Người. Chính vì thế mà Maria đã biết chọn cho mình một vị trí thật khiêm hạ. Vị trí của một người học trò, một người tôi tớ. Chúa Giêsu cũng ngồi nhưng ngồi trong tư thế của một bậc làm thầy. Còn Maria ngồi và Luca ghi rất rõ: ngồi dưới chân của Chúa.
Nếu được phép nhìn toàn cảnh cuộc đối thoại giữa ba người theo ngôn ngữ của hình ảnh thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn: Chúa Giêsu ngồi. Maria cũng ngồi nhưng ở bên chân của Chúa. Còn Matta thì đứng. Với tư thế này thì chúng ta thấy vị trí ba cái đầu: một của Chúa, một của Matta và một của Maria ở một độ cao khác nhau. Đầu của Matta ở độ cao nhất. Sau đó mới đến vị trí đầu của Chúa và cuối cùng mới đến Maria.
Từ vị trí đó chúng ta sẽ dễ hiểu lý do tại sao mà Matta lại dám kể công, trách móc và muốn áp đặt ý muốn mình trên ý muốn của Chúa. Còn Maria thì trái lại, lại mở thật rộng cõi lòng để đón nhận mọi lời Chúa dạy bảo.
Mối tương quan giữa Chúa và Maria đẹp hơn. Maria đã biết chọn Chúa làm Chúa cuộc đời của mình. Bà đã dành cho Chúa một vị trí thật xứng đáng.
c- Bây giờ chúng ta nghe sự phán quyết của Chúa. Chúa không trách nhưng Chúa dạy. Chúa muốn cho mọi người phải có một quan niệm đẹp và đúng về Ngài. Ngài đến không phải vì miếng ăn. Ngài đến để dạy cho người ta biết con đường đi đến Nước Trời. Có lần Ngài đã công khai tuyên bố điều đó. Và chính vì thế mà Ngài mới đến trong thế gian: “Trước tiên hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”.
Maria đã làm đúng ý của Chúa. Chúa bảo Maria đã chọn phần tốt nhất.
- Đi xa hơn một chút chúng ta còn có thể coi thái độ của Maria như là thái độ mẫu mực của Tình yêu đối với Thiên Chúa. Bằng những việc làm cụ thể của mình, Maria đã cho chúng ta thấy thế nào là lòng yêu đích thực đối với Người.
Con người phải yêu mến Thiên Chúa, yêu hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Nhưng yêu bằng cách nào? Rõ ràng là con người không thể thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa theo cùng một cung cách với cách biểu lộ tình yêu giữa người với người.
Người Samaria đã biểu lộ tình yêu giữa người với người một cách thật tốt đẹp bằng những hy sinh thật đáng nể phục.
Matta đã thể hiện tình yêu đối với Chúa và các môn đệ của Ngài qua việc phục vụ thật chu đáo.
Những thái độ như thế quả là rất đáng khen. Chính Chúa cũng khuyên người ta làm như thế. Thế nhưng đó mới chỉ là những việc giữa người với người.
Thiên Chúa đòi chúng ta phải yêu Người ở một mức độ cao hơn.
Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy rất rõ điều đó:
“Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời thầy cha của thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14,23) –
“Tôi bảo thật các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì sẽ có sự sống đời đời” (Ga 5,24)
“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy (Ga 14,21)
Maria đã chọn phần tốt nhất vì Maria đã chọn thánh ý của Chúa và thi hành thánh ý đó. Việc làm của Maria đẹp lòng Chúa. Nó vừa nói lên ý thức của Maria đối với Chúa và đồng thời nó cũng nói lên vị trí của Chúa trong cuộc đời của mình.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria rước Chúa Giêsu vào nhà mình. Matta thì ân cần lo việc phục vụ, còn Maria thì ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta có dịp làm điều mà Maria đã làm, là ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được thân thiết với Chúa ngày một hơn.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta quá lo lắng những việc trần gian mà ít quan tâm đến việc Chúa.
– Chúng ta dành thời giờ cho Chúa mỗi ngày quá ít.
– Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc ở bên Chúa và lắng nghe tiếng Chúa.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(St 18,1-15)
Câu chuyện này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham : Ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng bức thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Abraham vội vàng mời 3 người vào lều mình, lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. 3 người này chính là sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại lòng hiếu khách của Abraham, Thiên Chúa đã cho bà Sara vợ ông có được đứa con trai đầu lòng mặc dù cả hai ông bà đều đã già quá tuổi sinh con.
- Đáp ca(Tv 14)
Tv này thuộc loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi “Ai được Thiên Chúa tiếp đón vào cư ngụ trong nhà Ngài ?” Tác giả trả lời : đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính.
- Tin Mừng(Lc 10,38-42)
Câu chuyện có 3 vai : vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau :
– Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v.v.
– Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”
Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói : “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.
- Bài đọc II(Cl 1,24-28) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô tỏ ý sung sướng vì được chịu khổ trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Sở dĩ những đau khổ ấy trở thành niềm vui vì Phaolô ý thức rằng nhớ đó mà ông bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu Kitô.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chọn phần tốt nhất
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi :
– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?
Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ :
– Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn :
– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm ?
Chàng sinh viên liền hỏi :
– Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời :
– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi !
Chúa phán : “Macta, Macta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,41-42). Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói : “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.
Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của Mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa : tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.
Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa :“Không có Ta, chúng con không làm gì được”.
Các triết gia phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là : “Cầu nguyện và hoạt động”, Macta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thuý :“Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.
Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Mácta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý : “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10,40-41). Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình.
Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình !
* 2. Chọn phần ưu tiên
Có thể xếp những việc chúng ta phải làm hằng ngày thành hai loại : việc cấp bách (urgent) và việc thiết yếu (essential). Những việc cấp bách thì rất nhiều, những việc thiết yếu thì rất ít.
Cũng như Matta, chúng ta thường dành ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu thì chúng ta hoãn lại. Khi nào làm xong hết những việc cấp bách, ta mới nghĩ đến việc thiết yếu. Nhưng khi đó thì đã quá muộn, chúng ta làm việc thiết yếu đó một cách hấp tấp và hời hợt.
Đức Hồng Y Joseph Bernardin, Tổng giám mục giáo phận Chicago, khi hay tin mình bị ung thư đến giai đoạn cuối, đã nói : “Bây giờ tôi mới nhận thức ra rằng chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ của cuộc sống để làm những việc phụ thuộc không mấy ý nghĩa”.
Việc thiết yếu nhất mà người ta thường hoãn lại không làm là gì ? Thưa đó là việc mà Maria đã làm, đó là ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Chúa”. Chính Chúa Giêsu đã đánh giá đó là việc thiết yếu duy nhất và là việc tốt nhất phải làm (FM)
* 3. Một cách cầu nguyện
Đối với nhiều người, cầu nguyện là nói để xin.
Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói. Cách cầu nguyện tốt nhất là ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như Maria vậy.
Có người nghĩ rằng làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên cứ ngồi im bên chân Chúa là mất giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm. Có lẽ đúng. Nhưng nếu làm việc mà không cầu nguyện thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình chứ không phải vì Chúa và cho Chúa ; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình chứ không phải của Chúa. Kết quả là sau khi ngưng việc, ta cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình rất hời hợt nông cạn.
Thoreau nói : “Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu”.
Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói : “Có người có thể chữa khỏi những rối loạn tâm thần chỉ cần bằng cách tự ban cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ”. Đối với sức khoẻ tâm thần mà đã là như thế, huống chi đối với sức khoẻ siêu nhiên.
- Chuyện minh họa
a/ Một bà lão đến một Linh mục xin tham vấn :
– Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng tôi chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa gì cả.
– Thế Bà có cho Chúa cơ hội để nói với Bà lời nào không ?
– À… không. Tôi cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao ?
– Không. Bây giờ tôi khuyên bà mỗi ngày bỏ ra 15 phút chỉ ngồi im trước mặt Chúa thôi.
Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, Bà trở lại khoe :
– Thật tuyệt diệu : Khi tôi nói với Chúa thì tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi tôi ngồi yên trước mặt Ngài thì tôi thấy như mình được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy tôi.
b/ Khi linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ :
– Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không ?
Gia trưởng trả lời :
– Thưa cha, chúng con không có thời giờ.
– Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không ?
– Ồ, con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.
– Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không ?
– Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
– Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Các con có sao lãng việc cầu nguyện không ?
– Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này là gì ?
– Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn ban của Chúa qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.
c/ Một ngư dân đưa một thanh niên lên thuyền của ông. Một bên mái chèo có viết chữ cầu nguyện và bên kia viết chữlàm việc. Anh thanh niên nói vẻ khinh miệt : “Này chú, chú lỗi thời quá. Ai muốn cầu nguyện làm gì, nếu như họ làm việc ?”
Bác ngư phủ không nói gì, nhưng buông lỏng mái chèo có viết chữ cầu nguyện và chèo mái kia. Ông chèo và chèo mãi, nhưng chiếc thuyền chỉ quay tròn mà không tiến đi được.
Anh thanh niên hiểu ra rằng bên cạnh mái chèo làm việc, chúng ta cũng cần phải có mái chèo cầu nguyện.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Lời Chúa hôm nay đặt cho mỗi người chúng ta một câu hỏi : Chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào trong cuộc sống thường ngày ? Với ước mong được đón tiếp Chúa thật xứng đáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình này / luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau.
- Hiện nay có biết bao người không chốn nương thân / sống cảnh màn trời chiếu đất / không ai ngó ngàng gì đến họ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang sống không nhà không cửa / tìm được một chỗ ở xứng hợp với nhân phẩm của mình.
- Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường dẫn lối cho người Kitô hữu trong cuộc lữ hành trần thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Lời Chúa soi sáng các Kitô hữu / để mọi việc họ làm đều phù hợp với chân lý và tình thương của Chúa.
- Hằng ngày trước mắt chúng ta / có biết bao người nghèo là hiện thân của Đức Kitô bị bỏ rơi / bị hất hủi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết quảng đại nâng đỡ những người bất hạnh trong xã hội.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, xin cho lòng chúng con trở nên thửa đất phì nhiêu, hầu đón nhận hạt giống lời Chúa và làm cho sinh hoa kết quả dồi dào. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
- DẪN NHẬP.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng tính hiếu khách vì hiếu khách là một đức tính tốt, và người hiếu khách là người có tinh thần bác ái. Sách Sáng thế cho biết ông Abraham là một người hiếu khách, ông đã mời ba người khách lạ vào lều và hầu hạ họ như tôi tớ. Đáp lại tấm thịnh tình của ông, ba vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho ông biết là ông sẽ có con trai trong tuổi già (Bài đọc 1). Martha và Maria cũng là người hiếu khách, hai chị em đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà và đã phục vụ Ngài một cách tận tình, tuy mỗi người có một cách phục vụ khác nhau (Tin mừng).
Trong cách tương giao, câu chuyện giữa chủ và khách là một cuộc đối thoại chứ không phải là độc thoại. Theo tâm lý chung, ai cũng thích nói, muốn bộc lộ hết tâm tư cho người kia, nhưng người sành tâm lý và được người ta ưa chuộng là người biết lắng nghe, tạo cơ hội cho người kia bộc bạch hết tâm tình của mình. Trong cuộc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Martha chỉ bận rộn cho bữa ăn mà bỏ quên Ngài, còn Maria thì biết tạo cơ hội cho Ngài thổ lộ tâm tình và được hiểu biết những chân lý mà Ngài muốn mạc khải cho. Trong hai cách phục vụ thì Chúa thích lối phục vụ của Maria hơn, đó là biết lắng nghe :”Maria đã chọn phần tốt nhất”.
Trong cuộc sống Kitô hữu, nhất là trong cuộc sống tông đồ, sinh hoạt để làm sáng danh Chúa là một điều tốt, nhưngnhững sinh hoạt ấy chỉ đem lại lợi ích nếu nó được đan dệt bằng sự cầu nguyện, bằng suy niệm và bằng sự thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đừng đặt câu hỏi : Chúa có nói với chúng ta không, mà phải hỏi ngược lại : chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để nghe Ngài hay không ?
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : St 18,1-10a.
Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng hiếu khách của ông Abraham. Câu chuyện ấy như sau : Trong một bữa trưa nóng bức, Abraham đang ở trong lều thấy có ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Ông vội vàng mời ba người khách lạ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu : lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, lấy con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại lòng hiếu khác và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông : Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà đều già quá tuổi sinh con.
+ Bài đọc 2 : Cl 1,24-28.
Mầu nhiệm được giữ kín nơi Thiên Chúa, nay được vén mở : đó là bản thân Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Là những người được hưởng nhờ mầu nhiệm này, chúng ta cũng phải chia sẻ cho người khác biết.
Thánh Phaolô đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cũng muốn chia sẻ cho người khác khi Ngài thi hành sứ mạng tông đồ. Vì thế, ngài vui sướng vì được chịu đau khổ, biến những đau khổ ấy thành niềm vui. Sở dĩ có được tinh thần ấy vì ngài ý thức rằng nhờ đó mà ngài được bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
+ Bài Tin mừng : Lc 10,38-42.
Khi Đức Giêsu đến viếng thăm Martha và Maria, ta thấy mỗi người có một cung cách tiếp khách : Martha thì cho, còn Maria thì nhận . Martha thì bận rộn lo đủ mọi chuyện để dâng cho Đức Giêsu một bữa cơm ngon miệng. Cô bận rộn đến nỗi phải xin Ngài bảo em giúp mình một tay. Còn Maria thì không làm gì cả, cô chỉ cung kính lắng nghe những lời Ngài dạy.
Câu chuyện này dạy cho chúng ta một bài học : điều Thiên Chúa muốn, không phải là chúng ta làm cho Ngài điều này điều nọ mà là để Ngài giáo huấn chúng ta , để chúng ta được biến đổi nhờ những lời giáo huấn ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi : biết lắng nghe Lời Chúa.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lắng nghe Lời Chúa.
Truyện mở đầu : Vị vua đến thăm.
Ngày xưa có một vị vua muốn tìm cách giúp cho dân nước ấm no và hạnh phúc. Vua dự tính đi thăm viếng dân làng và hỏi ý kiến họ về tình hình đất nước. Nhà vua gửi sứ giả đến trước gặp hai gia đình ngài muốn thăm viếng để hỏi họ về những niềm hy vọng và ước mơ cho quê hương xứ sở.
Ngày đầu tiên vua đến với gia đình thứ nhất. Vì muốn làm cho vua vui lòng bằng một bữa tiệc với những đồ ăn ngon quí giá chưa từng có, nên khi vua đến nơi, gia đình chủ nhà vẫn còn đang bận rộn vất vả dọn tiệc linh đình. Nhà vua và các quan cận thần phải ngồi ở sân trước nhà để chờ đợi họ sửa soạn bữa ăn. Bữa ăn rất ngon, nhưng khi dọn lên thì mọi người trong gia đình đã quá mỏi mệt, không còn thì giờ và hứng thú để nói chuyện với vua về những điều vua muốn biết. Vua ra về và không mấy hài lòng.
Ngày hôm sau, vua đến thăm nhà thứ hai. Cả nhà ra đón tiếp vua một cách niềm nở. Mặc dù họ chỉ chuẩn bị một bữa ăn rất đơn sơ đạm bạc, nhưng buổi tối hôm đó mọi người trong gia đình đều ngồi quây quần bên vua, chia sẻ cởi mở những uớc mơ và niềm hy vọng của gia đình và dân làng. Họ rất phấn khởi khi vua cho họ biết những dự tính muốn thực hiện cho đất nước. Mặc dù không ăn uống thịnh soạn như tối hôm trước, nhưng khi ra về vua rất hài lòng với buổi gặp gỡ đúng như ý ngài muốn.
Bài Tin mừng hôm nay (Lc 10, 38-42) cũng mang một nội dung như vậy : chị em Martha và Maria tiếp đón Đức Giêsu vào nhà mình, mỗi người có một cung cách tiếp đón. Vậy Đức Giêsu thích cách tiếp đón nào ? Của Martha hay của Maria ?
- CÂU CHUYỆN NGƯỜI TIẾP ĐÃI KHÁCH.
- Ông Abraham tiếp đón khách.
Bài sách Sáng thế ghi lại việc ông Abraham tiếp đãi sứ giả của Thiên Chúa một cách nồng hậu. Abraham đang ngồi hóng mát trước cửa lều trong buổi trưa nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông vội chạy ra mời họ quá bộ vào nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa chân, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt con bê béo làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông hầu hạ khách như mình là tôi tớ. Đáp lại lòng hiếu khách của ông, sứ giả nói với ông :”Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”.
- Martha và Maria đón tiếp Đức Giêsu.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu ghé vào nhà chị em Martha , Maria và Lazarô ở làng Bêtania, cách Giêrusalem ba cây số. Martha đón rước Đức Giêsu vào nhà. Cô là chủ nhà và chưa có gia đình vì cô đón tiếp khách. Nếu có chồng thì chồng sẽ tiếp đón khách. Cách đón tiếp của Martha đã chứng tỏ rằng gia đình này đã từng quen biết Ngài và đã có nhiều lần Ngài đến nhà như người quen biết thân mật (Ga 11,1-14).
Hai chị em có hai tính tình khác nhau : Martha là một người hoạt động, còn Maria là một người trầm lặng. Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Còn cô Martha thì lăng xăng lo lắng đón tiếp Chúa, một vị khách quí mà cô muốn bầy tỏ hết lòng kính trọng. Martha cảm thấy khó chịu vì cô em không giúp mình một tay, sợ trễ giờ, đến nỗi phải xin Chúa can thiệp, với một giọng trách móc:”Xin Thầy bảo em con giúp con với”.
Không biết câu trả lời của Đức Giês có làm cho Martha buồn không :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi : Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”(Lc 10,42).
- CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ VÀ LẮNG NGHE.
Như vậy, Martha và Maria xuất hiện ở đây như hai hai môn đệ nhiệt thành đón tiếp Đức Giêsu Thầy mình, nhưng Maria chỉ lắng nghe Lời Thầy, còn Martha lo dành riêng cho Thầy một sự đón tiếp nồng hậu.
- Một Martha năng động.
Martha là con người rất yêu mến Đức Giêsu, biết quan tâm tới sức khỏe của Ngài. Trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng để tiếp tục đi rao giảng Tin mừng. Sự lo lắng cho sức khỏe của người khác là nét tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều, Martha mới lo lắng và lăng xăng như thế. Trong khi đó Ngài lại trách yêu Martha :”Martha, Martha, con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá”(Lc 10,42). Nói như vậy, phải chăng là Ngài phê bình Martha chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống ?
Căn cứ vào sự kiện Martha hối thúc nói với Maria giúp cô, một học giả Rachel Conrad Wehberg giải thích với một nét nhân từ hơn : Người ta phải suy luận rằng đây là công việc trong bếp hai người đã quen làm. Maria vẫn thường phụ giúp Martha. Nếu họ đã phân chia công tác: Martha nấu ăn, Maria tiếp khách, thì chẳng có vấn đề gì, vì mỗi người đều chấp nhận và kính trọng nhau. Nhưng ở đây, theo thói quen, cả hai chị em cùng làm công việc nấu nướng. Nếu cả hai cùng làm, sẽ mau có bữa ăn hơn, và cả hai chị em đều có cơ hội ngồi tâm sự với Chúa lâu giờ hơn. Do đó, Martha than phiền không phải vì bà chỉ bận tâm đến việc ăn uống, cũng không phải vì ghen tương, nhưng vì trái tim bà hối thúc muốn được cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ở bên Chúa với Maria. Đó là lý do Martha đã than phiền (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa lòng đời, năm C, tr 255-256).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đang trong lúc bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho cuộc tử nạn, Ngài muốn có người biết chia sẻ tâm tình hơn để làm vơi nỗi lòng mình, còn việc ăn uống lúc này thì chỉ là phụ thuộc, không cần thiết mấy. Maria đã đáp ứng đúng tâm trạng của Đức Giêsu.
Truyện : Thèm lòng chứ không thèm thịt.
Một người cha có thói quen, sau giờ làm việc, đi dạo chung với cô con gái. Ông cảm thấy rất hạnh phúc được chuyện trò với con. Thình lình, cô gái bắt đầu cáo lỗi vì không thể đi dạo hằng ngày với cha được. Người cha cảm thấy đau khổ nhưng không nói ra. Sau cùng vào ngày sinh nhật của ông, cô con gái mang đến tặng cha một cái áo len mà cô mới đan. Người cha đã nhận thấy rằng cô con gái đã đan áo len trong lúc ông đi dạo một mình. Ông nói với con :”Martha. Martha, Ba rất quí chiếc áo này. Nhưng Ba thích con đi dạo với Ba hơn. Một cái áo len Ba có thể mua ở bất cứ tiệm bán quần áo nào. Nhưng con gái cưng của Ba, Ba không thể mua được. Con làm ơn đừng bao giờ bỏ rơi Ba nữa nhé”.
- Một Maria trầm lặng.
Cả hai chị em đều có đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thầy và ước ao được làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Martha đã làm quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria thì trực giác hơn được điều Chúa muốn, nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Cô biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, cô phải để ý đến ý muốn của vị khách trước, phải lắng nghe người khác nói. Trong việc tiếp đãi Thầy, cô đã làm được việc lớn hơn chị cô.
Bà Carnegie viết rất nhiều sách học làm người nổi tiếng. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, bà viết :”Cách làm cho khách vui lòng nhấùt là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”.
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln chia sẻ.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung là Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu, Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại : “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân thiết biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
- Một sự cần thiết mà thôi.
Đức Giêsu trả lời cho Martha :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã gây nên nhiều tranh luận và tùy cách hiểu mà dịch ra khác nhau.
Một cách theo như nghĩa trong truyện thì cô Martha lo lắng cho nhiều làm chi, một món ăn là đủ rồi.
Một cách khác theo như bản Phổ thông lấy theo nghĩa thiêng liêng. Đối nghịch với những bận rộn đón tiếp của cô Martha, chỉ có một sự cần thiết là lắng nghe Lời Chúa.
Ở đây thực ra không có ý so sánh những của đời này với của duy nhất trên trời, mà là lấy làm hơn thái độ của Maria chăm chú nghe Chúa, cô Martha chia trí lo lắng quá nhiều sự. Vì thế, Đức Giêsu đã tuyên bố Maria đã chọn phần nhất là nghe Lời Chúa.
III. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÔNG ĐỒ BIẾT LẮNG NGHE.
- Lạc giáo hoạt động(Hérésie de l’action).
Ngày nay, trong Giáo hội, có phong trào tư tưởng cho rằng Giáo hội phải lăn xả vào công việc xã hội nhiều hơn, phải đi đến với người nghèo trước đã. Đạo có chiều dọc và chiều ngang. Hàng dọc hướng về Thiên Chúa, hàng ngang hướng về anh em. Tư tưởng dấn thân trước tiên cho kẻ khác được cổ võ mạnh. Môn Thần học Giải phóng muốn đặt lại căn bản Đức tin : Mến Chúa yêu người, nhưng cứu người trước đã. Từ ngữ “giải phóng” được đem thay thế từ ngữ “cứu rỗi” của Thần học, vì “nó minh bạch và sáng sủa hơn”(Seguido – Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm C, tr 99).
- Hoạt động và lắng nghe.
Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Martha với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, Nhưng dù sao Ngài cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất : đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.
- Meynetchú giải thêm :”Martha đón tiếp Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ Ngài đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Ngài, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sự, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe Lời Chúa. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng : chính cô được Ngài tiếp đón mới đúng (Fiches dominicales, năm C, tr 253-154).
Ngày nay, người đàn bà danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại : chân phước Têrêsa Calcutta. Bà đã hiểu và truyền lại cho con cái thiêng liêng của Bà tinh thần bài Tin mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc kẻ nghèo hoặc đi vào trong các “nhà chết”.
Trong khi tiếp xúc với Chúa chúng ta phải biết trao đổi như người ta nói :”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là phải biết nói và biết nghe, biết cho và biết nhận. Nhiều khi chúng ta rất hào phóng chỉ biết cho Chúa mà không biết nhận. Trong lúc Chúa muốn cho chúng ta tạo điều kiện để Chúa có cơ hội ban cho chúng ta nhiều ơn, để chúng ta tiếp nhận, nhưng tiếc thay, Ngài không có cơ hội.
Câu chuyện trong Tin mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria thì có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.
- Quân bình trong hoạt động và lắng nghe
Đặt thái độ của Martha và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe Lời Chúa, còn Martha tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Ngài; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Ngài, lời của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống của người môn đệ, có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình một thái độ không thể thiếu của một môn đệ : là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Ngài… Nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình (Fiches dominicales).
Các triết gia Tây phương có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Đông phương trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là :”Cầu nguyện và hoạt động”. Martha phải đi đôi vơiù Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.
- Graefnói một câu rất thâm thúy :”Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.
Một nhà tâm lý trị liệu và nhà văn Mỹ, ông Thomas Moore nói :“Không còn nghi ngờ việc một số người có thể tiết kiệm chi phí và tránh cho mình sự phiền toái về tâm lý trị liệu chỉ vì họ đã dành mỗi ngày ít phút để nguyện ngắm. Hành động đơn giản này cung cấp cho họ điều họ thiếu trong cuộc sống – một thời gian bất động chủ yếu là để nuôi dưỡng linh hồn”.
Truyện : Bác học Ampère cầu nguyện
Frédéric Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quìø cầu nguyện cách sốt sắng ở dẫy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi :
– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?
Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ :
– Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn :
– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.
Chàng sinh viên liền hỏi :
– Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh vên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời :
– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.
- Sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Đời sống Kitô hữu phải được đan dệt bằng hoạt động và cầu nguyện. Các tu sĩ sống đời chiêm niệm không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải làm việc; còn các tu sĩ sống đời hoạt động cũng phải cầu nguyện chứ không phải chỉ có hoạt động. Cha Don Marmion nói :”Sự cầu nguyện hỗ trợ cho công việc tông đồ là linh hồn của mọi sứ vụ truyền giáo”.
Người Kitô hữu sống ở trần gian, nhiều lúc phải tất bật với những công việc, nhưng không thể thiếu được sự cầu nguyện. Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, nhưng đọc kinh chỉ là một trong những hình thức cầu nguyện. Cốt yếu của sự cầu nguyện là kết hợp với Chúa. Nhiều khi chúng ta không đọc kinh, chỉ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa cũng là một cách cầu nguyện rất hay. Thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nếu chúng ta dành một số thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, thì không phải là thời gian lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, nhiều người cho là phần việc của Maria có vẻ dễ dàng vì chỉ có ngồi đó, còn phần việc của Martha thì khó khăn hơn. Nhưng nếu suy cho kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú trọng hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh lợi ích rất lớn lao.
Truyện : Dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin Ngài một lời khuyên khi ngài được truyền chức thánh là một bà cụ. Bà nói :
– Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt bốn mươi năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Ngài hỏi :
– Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không ?
Bà nói :
– Ồ không ! Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao ?
Ngài nói :
– Không. Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này : con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa.
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì ? Không lâu sau, bà trở lại và nói :
– Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác, khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh ặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Ngươiø.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 514-515)
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần xác tín rằng:”Câu hỏi thường đặt ra không phải Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không”.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc của Giáo phận như mở Đại Chủng viện, các Dòng tu, các khoá huấn luyện… Ai sẽ là người kế nhiệm để lo những công việc mục vụ quan trọng này?. Ở trong tù, ngài lo lắng và ưu tư từ ngày này qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: “Tất cả những gì tôi đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo”. Và từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận định: “Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không phong thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy?” (ĐHV 147).
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách.
Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.
Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: “Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Matta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: “Matta, Matta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất “. Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa.
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. “Phần hơn” của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, “chiếm hữu” được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài ”. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Ðiều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: “Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28); “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35). Điều cốt yếu ở đây không phải là ưu tiên về thời gian (làm cái này trước rồi làm cái kia sau) hay số lượng (làm “việc Chúa” nhiều, làm “việc đời” ít)… nhưng ưu tiên về giá trị. Khi làm việc gì, nếu mình tận tình làm việc cho đẹp lòng Chúa, như Chúa muốn, thì mình vẫn đang chọn phần tốt nhất như cô Maria bởi vì mình vẫn đang qui chiếu về Chúa, đang lắng nghe lời Chúa và thi hành thánh ý Chúa về đời mình. Thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.
Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, xin đừng dự lễ kiểu “đạo gốc cây”, “đạo vòng vòng” ở ngoài sân nhà thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.
Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.(Mana)
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
(St 18,1-15; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42)
Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là quan trọng. Điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay thờ ơ của gia chủ; đồng thời nó cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào!
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu ghé thăm gia đình của Martha. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của hai chị em trong gia đình này. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.
- Cần lắm một lựa chọn đúng đắn
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều cần phải “lựa” và “chọn”. Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào tốt để gửi vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn thầy để học; lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới; lựa chọn một cung cách, một lập trường, một lý tưởng để sống… Nhưng có lẽ điều cần thiết nhất vẫn là lựa chọn một chân lý để làm chủ đạo cho cuộc đời.
Như vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt vừa, tốt hơn, hay tốt nhất? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, đắn đo trước khi chọn.
Nếu lựa chọn trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ cần dùng. Thì lựa chọn theo Kinh Thánh chính là lắng nghe tiếng Chúa và thực thi điều mình đã tiếp nhận.
Chọn lựa được coi là “đích đến” và “bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa chọn sai thì sẽ bị tác hại khôn lường.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Martha lựa chọn phục vụ Đức Giêsu qua việc nấu nướng để thiết đãi Ngài một bữa ăn thịnh soạn. Còn Maria thì lựa chọn việc ngồi để lắng nghe Đức Giêsu dạy bảo. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài. Một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Bởi vì Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Martha có thể đã chọn phần tốt hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất.
- Lắng nghe và đón nhận Lời Chúa là người khôn ngoan
Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất, bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.
Tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời Đức Chúa phán với dân của Người như sau: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta” (Is 48,18-19b).
Chính vì điều này mà cô Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Đức Giêsu (x. Lc 10,42) và nghe lời Ngài dạy (x. Lc 10,39). Cô đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, là hiện thân của Nước Hằng Sống. Vì thế, có Đức Giêsu ở cùng là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Ngài nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “… người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 25).
Bởi vì, Đức Giêsu là kho tàng quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương, để Ngài ở đâu, chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài. Cô Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã hội đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc khi nói: “Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
- Sứ điệp Lời Chúa
Giáo Hội được Đức Giêsu thiết lập để lưu truyền Lời Chúa cho con người. Lời đó là Lời Chân Lý, Lời Hằng Sống. Chính Lời Chúa đã nuôi sống Giáo Hội qua mọi thăng trầm của lịch sử. Vì thế, “Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa như chính Thân Thể Ngài”.
Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của Lời Chúa. Điều này đã được Công Đồng Vaticanô II khẳng định: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (x. DV., số 21).
Nhưng, tiếc thay, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh mà không mấy coi trọng Lời Chúa! ngược lại, nhiều gia đình lại coi cuốn Lời Chúa như một vật trang trí hay kính trọng theo kiểu “kính nhi viễn chi”.
Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sinh ra cho Giáo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, và hôm nay, chúng ta được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó.
Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời Giáo Huấn hay Truyền Thống của Giáo Hội cũng như mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được bắt nguồn và suy tư từ Lời Chúa. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Lời Chúa càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động và sâu sắc. Chính thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta giá trị của Lời Chúa khi viết: “Đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời” (x. Thư Chung 1980, số 8).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh, thái độ của Maria, nhất là hãy cảm nghiệm lời chúc phúc của Đức Giêsu dành cho cô, từ đó, rút ra cho mình một thái độ tích cực với Lời Chúa như:
Chăm chỉ đọc, suy gẫm Lời Chúa cách yêu mến; đồng thời biết thinh lặng, nhạy bén để khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành. Đây chính là thái độ của người khôn ngoan khi xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên nền tảng Lời Chúa. Để mưa xa, bão táp, phong ba có dồn dập tư bề, thì nhà ấy vẫn vững vàng.
Ngược lại, nếu chỉ đọc Lời Chúa cách hời hợp, qua lần chiếu lệ, thì Lời Chúa không những không tác sinh trong tâm hồn, mà nhiều khi lại còn bị chúng ta bóp méo và uốn nắn theo thiển ý của chính mình. Từ đó, sinh ra lối sống đạo hình thức, hời hợt bên ngoài hay chỉ là người mang danh và đeo cái mác Công Giáo, chứ thực ra không phải là người mang Đạo trong mình.
Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
(Lc 10, 38-42)
Khung cảnh gia đình
Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.
Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này : người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10,40). Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.
Thái độ cần phải có
Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,41-42). Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa là lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.
Gương của Matta và Maria
Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc.
“Maria đã chọn phần tốt nhất”. Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý ; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe nhưng không được đón nhận (x. Lc 8, 5.12)
Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa : “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con ” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm : Maria được Chúa Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Người là Đấng giầu có, và Người trao ban cho cả Matta và Maria cách quảng đại ; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.
Các Tông Đồ cũng cho rằng : “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đều là việc khôn ngoan : Stêphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể : “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.
Lời Chúa trong cuộc đời
Con người đang đánh mất dần ý thức về sự thánh thiêng, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Ðặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Ðiều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
***
Đức cố hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đã kể một câu chuyện rất ý nghĩa sau đây :
Có một ông già tên Jim cứ 12 giờ 00 trưa mỗi ngày vào nhà thờ rồi khoảng 2 phút sau lại trở ra. Ông từ coi nhà thờ thắc mắc hỏi ông già :
– Hằng ngày ông vào nhà thờ làm gì vậy ?
– Tôi cầu nguyện.
– Không thể được ! Làm sao cầu nguyện trong vòng 2 phút ?
– Tôi cầu nguyện theo cách của tôi.
– Ông nói gì với Chúa ?
– Tôi cầu nguyện : “Giêsu, có Jim đây !” rồi tôi về.
Thời gian trôi qua, ông già Jim già yếu được đưa vào bệnh viện. Khi ông gần chết, vị linh mục tuyên uý vào thăm. Trong câu chuyện, vị linh mục hỏi ông già :
– Có ai vào thăm ông không ?
– Có chứ ! Lúc mới vào bệnh viện, con xin 2 chiếc ghế, một cho khách thường, một cho vị khách quý của con.
– Khách quý là ai ?
– Là Chúa Giêsu. Trước kia con đến thăm Ngài vào ban trưa, nay không đi nổi nữa, cứ 12 giờ 00 trưa Ngài đến thăm con.
– Ngài nói gì với ông ?
– Ngài bảo : “Jim, có Giêsu đây !”
Trước lúc ông già mất, người ta thấy ông đưa tay chỉ chiếc ghế như thể muốn mời ai ngồi. Ông mỉm cười, nhắm mắt ra đi.
(Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, bài : Một Bí Quyết : Cầu Nguyện, biệt giam tại Hà Nội ngày 25/3/1978).
Hình ảnh chiếc ghế trống dành cho Chúa Giêsu, nói lên cách đón tiếp Chúa thật đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa của ông già Jim, nhưng đó lại là cách đón tiếp mà Chúa Giêsu ưa thích : đón tiếp Chúa bằng cách lắng nghe lời Chúa.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình 2 chị em Mattha và Maria. Mattha bận rộn dọn dẹp nhà cửa để đón tiếp Chúa, còn Maria đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Chúa. Chúa Giêsu bảo Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất. Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn xác định rằng : có nhiều cách đón tiếp Chúa, mỗi cách thức đều biểu lộ lòng yêu mến Chúa, nhưng cách đón tiếp của Maria đã thể hiện được điều cần thiết nhất : lắng nghe lời Chúa. Trong Kinh Thánh đã mô tả nhiều cuộc đón tiếp Chúa :
Cách đón tiếp Chúa của ông Abraham (St 18, 1-15)
Bài đọc 1 kể câu chuyện làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham. Ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng bức thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Abraham vội vã mời 3 người vào lều mình, lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. Ba người này chính là sứ giả của Thiên Chúa. Abraham đã đón tiếp Chúa qua việc đón nhận tha nhân.
Cách đón tiếp Chúa của ông Giakêu (Lc 19, 1-9).
Ông Giakêu là người thu thuế giàu có, bị coi là kẻ tội lỗi nhưng Chúa đã đến thăm nhà ông. Ông Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và sự hiện diện của Chúa trong gia đình ông đã biến đổi cuộc đời ông : từ 1 con người tham lam ích kỷ, ông biết chia sẻ của cải cho người nghèo và đền bù những bất công do mình gây ra cho người khác. Ông Giakêu đón tiếp Chúa bằng cách biến đổi đời mình.
Cách đón tiếp Chúa của hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24, 13-35).
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus. Chúa đã đồng hành với 2 ông mà 2 ông không biết Ngài. Chúa giải thích Kinh Thánh cho họ, vào thăm nhà họ rồi qua việc bẻ bánh, mắt họ sáng ra và nhận ra Ngài. Hai môn đệ vội vã lên đường trở về Giêrusalem báo tin cho các môn đệ khác. Hai môn đệ đó đã tiếp nhận Chúa bằng việc lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Cách đón tiếp Chúa của Mattha
Khi được Chúa đến thăm, Mattha đã đón tiếp Chúa bằng việc dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa ăn…Mattha thể hiện lòng yêu mến Chúa qua việc tiếp đãi Chúa thật chu đáo, tận tình. Đến nỗi Mattha đã có ý trách móc Maria vì đã không phụ giúp cô trong việc phục vụ Chúa mà chỉ ngồi bên chân Chúa mà trò chuyện với Ngài. Mattha đón tiếp Chúa bằng tinh thần phục vụ.
Cách đón tiếp Chúa của Maria
Maria đã có cách đón tiếp Chúa tốt nhất vì cô đã thực hiện điều cần thiết phải làm là lắng nghe lời Chúa. Như thế, việc đón tiếp Chúa luôn phải được đặt căn bản trên việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Chúa không loại trừ tinh thần phục vụ của Mattha, nhưng Ngài muốn nhắc bảo những việc phục vụ phải được đặt trên nền tảng lời Chúa và phải xuất phát từ lòng mến Chúa yêu người.
Qua việc đón tiếp Chúa của Abraham, Giakêu, hai môn đệ trên đường Emmaus, đến việc đón tiếp Chúa của hai chị em Mattha và Maria, chúng ta nhận ra một điều quan trọng : tất cả những việc đó phải được đặt nền tảng là lắng nghe và thực thi lời Chúa. Lời Chúa là ánh sáng soi dẫn mọi việc chúng ta làm, mọi điều chúng ta suy nghĩ, mọi nẻo đường chúng ta đi. Điều quan trọng hơn là chúng ta phải biết sống lời Chúa để lời Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Khi đã sống lời Chúa, chúng ta mới có thể loan truyền lời Chúa cho người khác. Cuộc sống của chúng ta phải trở thành những trang sách Tin Mừng cho tha nhân, trong đó chúng ta thể hiện lời Chúa bằng nét mực hy sinh, minh họa lời Chúa bằng việc làm bác ái và tinh thần phục vụ nhiệt thành. Đó chính là việc làm cần thiết của chúng ta trong Năm Thánh Truyền Giáo này.
Tại giáo xứ kia, trong dịp đầu năm, mọi người đi lễ để hái lộc lời Chúa. Có một em học sinh nữ ngoại giáo cũng theo chân bạn bè đi lễ để rút lộc xuân. Cha xứ thấy vậy liền hỏi: “Con lấy lộc lời Chúa về làm gì ?”. Em trả lời : “Con ép vào tập vở để được may mắn trong kỳ thi chuyển cấp sắp tới”.
Mỗi ngày, khi đi dự lễ, chúng ta được ngồi bên chân Chúa để nghe lời Chúa. Lời Chúa không phải chỉ là “lộc may mắn” trong cuộc sống, nhưng lời Chúa chính là nền tảng cho cuộc đời người kitô hữu. Chúng ta hãy biết lắng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa, và loan truyền lời Chúa.
*************
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN – NĂM C
14. CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Bđ 1: St 18, 1-15; Bđ2: Cl 1, 24-28; TM: Lc 10, 38-42
Tiếp theo giáo huấn về giới răn yêu thương, Tin mừng theo thánh sử Luca hôm nay kể lại cho chúng ta một câu chuyện xem ra thật bình thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hôm đó trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Chúa Giêsu ghé lại nhà của chị em Martha, Maria và Lazarô, người đã được Chúa Giêsu làm cho sống lại. Cả nhà của Martha hôm đó thật tưng bừng vì được vinh dự đón vị đại ân nhân và cũng là người bạn thân của cả gia đình. Thế là cũng như những người phụ nữ đảm đang khác, Martha bắt đầu bận rộn với việc bếp núc để có thể tiếp đãi khách quý một cách xứng đáng. Martha hối hả đi chợ, hối hả làm bếp, chuẩn bị chén bát, bàn ăn… Nhiều lần, đi ngang qua phòng khách, Martha đã cố gắng làm hiệu để gọi người em là Maria xuống bếp phụ với mình, nhưng hình như cả Maria và Chúa Giêsu đều không để ý.
Sắp tới giờ cơm, không chịu nổi, Martha đành lên tiếng nói với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với”. Một đề nghị xem ra thật bình thường và hợp lý, và Martha chắc hẳn, Chúa Giêsu sẽ đồng ý và bảo Maria xuống giúp mình, vì đã sắp tới giờ ăn. Thế nhưng, thật bất ngờ, Chúa Giêsu chẳng những không bảo Maria xuống giúp Martha, trái lại, Ngài còn có vẻ như trách Martha: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Vâng, hình ảnh bận rộn, lo lắng của Martha cũng chính là của mỗi người chúng ta. Suốt một ngày sống, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ, thậm chí cả trong giấc ngủ, mỗi người chúng ta cũng đang lo lắng, băn khoăn về nhiều chuyện. Do đó, có thể nói, lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu đối với Martha cũng chính là đang nói với mỗi người chúng ta: “Con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần thôi”. Vâng, chỉ có một sự cần mà thôi. Chúng ta cần gặp gỡ Chúa, để nhờ đó có thể nhận ra Chúa nơi những người đang sống xung quanh chúng ta .
- Cần gặp gỡ Chúa:
Là một con người có xác, có hồn, chắc hẳn không ai trong chúng ta là không có những suy nghĩ, lo lắng, trăn trở cho cuộc sống hiện tại và tương lai của mỗi người và cả gia đình chúng ta. Chúng ta có thật nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn, nhưng nhìn chung các lo lắng của chúng ta thường là để làm sao kiếm cho được thật nhiều tiền, nhiều quyền và nhiều danh vọng, để cuộc sống vật chất của chúng ta thật đầy đủ. Thế nhưng, không biết có bao giờ chúng ta dừng lại một chút để tự đặt câu hỏi: “Tôi kiếm tiền để làm gì? Học hành đạt bằng cấp cao để làm gì không?”. Chính vì ít khi nghĩ tới những câu hỏi này, nên chúng ta giống như cô Martha trong bài Tin mừng, cứ “lo lắng bối rối về thật nhiều chuyện”. Và chính vì những lo lắng thái quá đó đã đẩy cô Martha và cả chúng ta ngày càng mệt mỏi, mất bình an, thậm chí đi đến chỗ ganh tỵ với người khác. Martha đã ganh tỵ với người em là Maria đang ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài.
Đứng trước những bận rộn của Martha, Chúa Giêsu không trách móc, nhưng Ngài nhắc bảo Martha cần đặt lại bậc thang giá trị cho mỗi công việc. Việc Martha lo lắng, chuẩn bị để tiếp đãi khách cũng như những lo lắng của chúng ta cho cuộc sống hàng ngày là một điều cần thiết và hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta không được phép để những lo lắng này chiếm hết tâm trí của chúng ta. Vì đó không phải là mục đích cuối cùng của cuộc sống chúng ta. Cuộc sống của mỗi người chúng ta không dừng lại ở những tiện nghi vật chất nay còn mai mất, nhưng cần hướng tới một mục tiêu xa hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa.
Do đó, điều đầu tiên mà mà mỗi người chúng ta cần, đó là lắng nghe và gặp gỡ Chúa. Đây là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, thật đáng buồn, đây lại là điều chúng ta hay quên nhất. Nhìn lại cuộc sống của mình, hàng ngày chúng ta gặp gỡ với đủ mọi người, suy nghĩ, nghe và nói về đủ thứ chuyện, chỉ trừ những chuyện liên quan đến Thiên Chúa. Chúng ta không hề nghĩ đến chuyện phải làm sao để có thể gặp gỡ Chúa. Cũng chẳng nghĩ đến chuyện phải lắng nghe lời Người. Đáp lại lời yêu cầu của Martha, Chúa Giêsu đã nói với cô: “Chỉ có một sự cần thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Maria đã chọn việc lắng nghe lời Chúa là ưu tiên số một trong cuộc sống của mình. Cô đã “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”. Và đây là chọn lựa khôn ngoan và chắc chắn nhất, bởi lẽ một khi đã gặp được Chúa, có Chúa trong mình, thì lúc đó tâm hồn mình sẽ được bình an. Và quan trọng hơn, không một thế lực nào có thể tước đoạt được sự bình an nội tâm này.
- … để thấy Chúa trong anh em:
Gặp được Chúa, nhận được sự bình an của Ngài, nhờ đó, con mắt của chúng ta được mở ra, trở nên trong sáng hơn, để có thể nhận ra Chúa nơi tha nhân. Tha nhân chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Chúng ta có thể học được bài học này nơi tổ phụ Abraham, vị tổ phụ của chúng ta trong đức tin. Nhờ luôn gắn bó với Chúa, Abraham đã nhận ra được sự hiện diện của Chúa nơi ba người lữ khách đi ngang qua căn lều của ông giữa một buổi trưa hè nóng bức.
Và một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất của việc gặp gỡ Chúa, đó là sự dấn thân phục vụ tha nhân. Đứng trước những người khách lạ giữa nơi hoang mạc, Abraham đã mau mắn tiếp đón họ. Ông đã lấy nước cho họ rửa chân, bắt bê non hảo hạng làm thịt để đãi khách. Còn ông sẵn sàng đứng hầu như một người đầy tớ. Như thế, mặc dù chưa được ánh sáng Tin mừng soi dẫn, Abraham đã coi việc đón rước, tiếp đãi tha nhân như là làm cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25, 31-46).
Còn thánh Phaolô, sau khi đã gặp được Đấng Phục Sinh trên đường Đamát, cũng đã sẵn sàng hiến thân phục vụ mọi người “Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội Thánh theo sự an bài của Thiên Chúa”. Khi nói “được trở thành người phục vụ”, thánh Phaolô muốn chúng ta biết rằng: Đối với ngài, việc phục vụ không còn là một bổn phận, một trách nhiệm bình thường, nhưng là một vinh dự. Sỡ dĩ, thánh nhân cho việc phục vụ tha nhân là một vinh dự, là vì thánh nhân đã nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi tha nhân đang cùng chung sống với mình. Thậm chí, thánh nhân còn “vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em”.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hồi tâm để nhìn lại cuộc sống của mình. Trong cuộc sống của chúng ta có nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn. Thiên Chúa không bảo chúng ta đừng có suy nghĩ, lo lắng, nhưng Ngài mời gọi chúng ta đặt lại bậc thang giá trị. Chúng ta cần dành ưu tiên cho việc lắng nghe lời Chúa, bởi vì “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Và chính nhờ việc lắng nghe và gặp gỡ Chúa như thế, con mắt tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên sáng suốt, nhờ đó, chúng ta sẽ khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi tha nhân và dễ dàng giải quyết được những khó khăn trong cuộc sống, và nhất là tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an, một sự bình an không ai lấy mất được. Amen.